-[04]-
III. DIỆT THÁNH ÐẾ,
TỨC NIẾT BÀN:
Diệt thánh đế, từ
Sanskrit là Dukkhamrodha ariyasacca, nghĩa là cảnh giới đã
diệt trừ mọi khổ não. Một tên gọi khác là Niết Bàn.
Từ Sanskrit là Nirvana. Từ Pàli là Nibbana, với các nghĩa
dập tắt, thổi tắt. (Thổi tắt, dập tắt ngọn lửa
phiền não).
Kinh Tăng Nhất A Hàm
viết: "nếu có vị đệ tử được chơn chánh giải thoát,
tâm vị ấy vắng lặng (không thể xao động), việc làm, đã
làm, không còn việc gì để laøm nữa; nhiệm vụ cần làm
đã làm, không còn nhiệm vụ gì phải làm nữa. Giống như
tảng đá lớn gió thổi không động, sắc, thanh, hương,
vị mọi cảm xúc đẹp đẽ cho đến mọi chuyện thích thú
hay không thích thú đều không làm cho dao động. Vị ấy, có
nội tâm kiên cố, thường trụ, giải thoát". (Tăng
Nhất A Hàm 3-378-9)
Niết Bàn là mục tiêu
tối hậu của đạo Phật. Nhưng Niết Bàn là gì? Không
thể lấy tư duy và ngôn ngữ bình thường để mô tả
trực tieáp được. Do đó mà sách Phật thường dùng các
từ ngữ phủ định hay phản diện để nói về Niết Bàn
như: Diệt tham, vô vị tịch diệt, vô tử... Niết Bàn đã
là cảnh giới siêu thời gian và không gian, còn chúng ta thì
dùng tư duy và ngôn ngữ thế gian, tất nhiên không thể nào
dùng tư duy và ngôn ngữ đó để trực tiếp miêu tả Niết
Bàn được.
Sau đây, trích một đoạn
văn trong "Tương Ưng bộ Kinh" ghi lại lời Phật
trả lời du sĩ Vaccha.
[Samyutta Nikàya - 1069 -
76, chuyển dịch từ Conze - Buddhist Thought in India, p.77-79]
Vaccha hỏi Phật:
"Hi hữu Tôn giả,
Ðức Thích Ca vĩ đại. Biển sanh tử kia, mênh mang không
bờ, muốn vượt khỏi biển đó, phải dựa vào pháp môn
của Phật. Con nay mong cầu, Bậc Nhất Thiết Trí, chỉ bày
cho con, con đường giải thoát, để con hành trì và y chỉ,
cầu vượt biển sanh tử".
Phật trả lời:
"Luôn luôn giữ chánh niệm, quan sát rõ ràng, (thấy)
bất cứ lúc nào, các pháp đều là không, nếu có quyết tâm,
dựa vào (quan điểm) các pháp đều là không, thì có thể vượt
qua biển lớn sanh tử. Ðoạn trừ mọi dục lạc, không nói
như câm, ngày đêm sáu thời, yên lặng nội quán, phát tâm
dũng mãnh, đoạn trừ tham dục, công phu như vậy, tất yếu
sẽ thoát khỏi sanh tử."
Vaccha hỏi:
"Nếu có bậc Thánh,
đã đoạn trừ dục vọng, không thích dục lạc, tâm không
còn ỷ lại, đã xả bỏ hết, đối với trần và cảnh, đã
dược giải thoát, làm bậc tôn quý trong thế gian; bậc Thánh
như vậy, còn thoái chuyển nữa hay không? Bậc ấy thường
trú ở cảnh giới Thánh, còn có thể mất cảnh giới Thánh
đó hay không? ...
Bậc Thánh như vậy, trú ở cảnh giới Thánh,
mắt mẻ giải thoát trải qua nhiều năm tháng, không có
thối thất. Bậc Thánh như vậy, có thần thức hay không?
(chúng con) biết cảnh giới đó được hay không? "
Phật trả lời:
"Như ngọn lửa
kia, được gió thổi tắt, không còn thấy đâu nữa, bậc
Thánh đắc đạo, thân tâm giải thoát, lặng lẽ vô vi, cũng
không thể thấy được".
Vaccha hỏi:
"Bậc Thánh đắc
đạo, tịnh lặng vô vi, là không ư? Là diệt ư? Hay là thường
trú, không khổ, không tịch? Hy hữu Tôn giả, hãy chỉ bày
cho con, cởi mở sự bế tắc, đoạn trừ mê lầm cho con. Pháp
đó phải chăng là cảnh giới của chư Phật tự thân
chứng nghiệm... "
Phật trả lời:
"Các bậc Thánh
ngộ đạo, vô vi tịch chỉ, khó mà nghĩ bàn, đó là cảnh
siêu việt ý thức. Không có pháp nào thuộc về danh từ ngôn
thuyết. Sau khi đã xả bỏ tất cả các pháp, thì cũng đoạn
trừ ngôn ngữ, và mọi hành tướng của tâm, xa lìa mọi
cảnh giới hý luận và phân biệt"
Trong đoạn văn trên, có
thể nói, cái gì có thể nói được về Niết Bàn thì
Phật đã nói đầy đủ rồi. Dưới dây, chỉ nêu lên vài
điểm chủ yếu:
1/ Niết Bàn không
phải là hư vô, mà là một sụ tồn tại tích cục, siêu
việt mọi nghĩ bàn: Về sự tồn tại của
Niết Bàn, Phật đã nhiều lần khẳng dịnh Phật nói:
"Này các Tỷ Kheo, có pháp vô vi, bất sanh bất biến;
nếu như không có pháp vô vi bất sanh bất biến này, thời
các pháp có sanh có biến đổi và nhơn duyên sanh không thể
nào giải thoát được".
Ðó là những lời
khẳng định tích cực và chánh diện đối với Niết Bàn.
Trong các kinh điển Phật giáo khác, Niết Bàn thường được
gọi là bất tử (amrta). Bất tử không phải là một khái
niệm trừu tượng, mà là một sự thực sống động. Cũng
không phải là một ý niệm chủ quan mà là một sự thực
tồn tại khách quan. Trong kinh Phật, Ma Vương (Mara - Ba
tuần) biểu trưng cho sự chết. Còn Niết Bàn là không
chết, là bất tử, là sự chiến thắng và chinh phục cái
chết. Trong các sách sanskrit, amrta còn có nghĩa là thuốc tiên,
với nghĩa Niết Bàn là thuốc tiên, đem lại sự bất tử
cho người nào có được thuốc tiên ấy. Niết Bàn là sự
tồn tại vĩnh hằng. Người tu đạo, sau khi chứng ngộ
Niết Bàn, trong sanh lý eủa họ, cũng có một sự thay đổi
nhứt định. Trong kinh Phật bổn dưyên (Mahavastu), ghi lại
sự kiện tôn giả Xá Lợi Phất, sau khi ngộ đạo, gặp tôn
giả Mụe Kiền Liên trên đưòng đi. Tôn giả Mục Kiền Liên
thấy ngài Xá Lợi Phất dung mạo khác thường, bèn hỏi:
"Này tôn giả Xá
Lợi Phất! Người bạn của tôi! Dung mạo ông thanh tịnh,
thần thái ông trang nghiêm, an ổn, khiến mọi người đều
tôn kính. Này tôn giả Xá Lợi Phất! Phải chăng tôn giả
đã uống được nước cam lồ bất tử (amrta), đã tìm được
con đường lớn dẫn tới sự bất tử? Dung mạo tôn giả
giống như là bậc đắc dạo, nó trong sáng như hoa sen nở,
thần thái của tôn giả an tường và trang trọng. Tôn giả
tìm dược ở đâu đạo bất tử khiến cho thần thái của
tôn giả trong sáng như thế này?"
Ngài Xá Lợi Phất
trả lời: "Này tôn giả Mục Kiền Liên, đúng vậy, tôi
đã có được nước cam lồ bất tử, đã tìm ra đường
lớn dẫn tới bất tử. (Mahavastu, 3,68 "Buddhist thought in
India" )
2/ Bất tử:
Vì là một thuộc tính quan trọng của Niết bàn, cho nên có
đến 15 hình dung từ, có ý nghĩa tương tợ, cũng dùng cho
Niết Bàn như:
(1) Vĩnh hằng.
(2) Kiên cố.
(3) Bất biến.
(4) Vô hoại (A-cyuta)
(5) Không biên giới (vô tế-an-anta)
(6) Vô chỉ (aty-antam)
(7) Vô sanh.
(8) Vô diệt .
(9) Vô khởi.
(10) Bát dị hoại diệt, không dễ bị hoại diệt.
(11) Phi sanh pháp, Apalokina-a-bhutam- không phaûi là pháp có
sanh.
(12) Vô hành - không có tác nghiệp,
(13) Vô bịnh - không bịnh,
(14) Vô lão - không già.
(15) Vô tử (a-maranam) không chết.
3/ Niết Bàn là an toàn
và không có điều ác
Niết Bàn là cảnh
giới an toàn và không có điều ác. Có thể kể những hình
dung từ có ý tứ an toàn như:
(1) An toàn (A secure)
(2) Nơi trở về để tránh khổ (A refugee) - quy cứu.
(3) Nơi ẩn náu (A shelter) tị sở.
(4) Nơi tránh nạn (A. asylum) tỵ nạn xứ,
(5) Hòn đảo (A. island)
Các hình dung từ khác có ý từ bỏ điều ác gồm có:
(1) Ðoạn diệt khổ (khổ chi chỉ diệt),
(2) Dập tắt khổ (khổ chi chỉ tức),
(3) Không thể gây thương hại,
(4) Không có tai họa (an-itikam)
(5) An thích, an toàn thích thú (sukha)
(6) Cát tường - tốt lành (sivan)
(7) Vô ưu
(8) Tịch an (santi), yên lặng, vắng lặng.
(9) Thanh tịnh, trong sạch,
(10) Vô nhiễm (asankihttha) không bị nhơ bẩn,
(11) Vô nhiễu - không có phiền.nhiễu.
4/ Niết Bàn là cảnh
giới siêu việt
Sau đây là một số
từ ngữ, nói lên tính siêu việt của Niết Bàn, phủ định
mọi thuộc tính thế gian này của Niết Bàn, đồng thời
khẳng định Niết Bàn là chơn lý tối hậu, là mục đích
tối cao:
(1) Giải thoát
(2) Xuất ly,
(3) Vứt bỏ (khí xả)
(4) Không chấp thủ (vô thủ)
(5) Không rơi vào ba hữu
(6) Siêu thế,
(7) Siêu tuyệt,
(8) An tức (an nghỉ)
(9) Duy nhứt,
(10) Thế gian tận,
(11) Tham diệt.
(12) Phiền não diệt,
(13) Vô lậu,
(14) Vô vi,
(15) Phi sở tác, không phải do làm ra,
(16) Không thể thấy - bất khả kiến,
(17) Kinh lạ (ascaryam)
(18) Kỳ diệu (adbhutam)
(19) Vi tế, nhỏ nhiệm,
(20) Bất khả thuyết ,
(21) Bất khả lường,
(22) Không có gì sánh bằng (vô khả luân tỉ)
(23) Chân đế,
(24) Chân như Bhutta-tathata.
(25) Thắng nghĩa Paramarttha.
(26) Tối thượng,
(27) Chí thiện (seyyo)
(28) Vô thưọng (an-uttaram)
(29) Duy nhứt viên mãn ekamttha (cái hoàn thiện duy nhứt).
(30) Giải thoát tối hậu (apa-vagga).
5/ 66 từ ngữ định
nghĩa Niết Bàn theo cuốn "Bàn về Bốn Ðế"
Sau đây chúng tôi
liệt kê có 66 tên gọi khác của Niết Bàn kèm theo giải thích
gọn:
(1) Vô vi: Vì
Niết Bàn là không sanh, không diệt, không phải là nhơn
duyên sanh. Mọi pháp "bị làm ra", không thể so
với Niết Bàn được.
Nguyên văn: Niết Bàn là vô sanh, không lớn lên, không
diệt, không do nhơn duyên làm ra, trái ngược với hữu vi,
cho nên gọi là vô vi.
(2) Vô hạ: Niết Bàn siêu việt ba giới, không có gì
so sánh với Niết Bàn được, cho nên gọi là Vô hạ.
Nguyên văn: Cao vượt ba giới? xa lìa mọi thấp hèn, không
có gì so sánh được cho nên gọi là vô hạ.
(3) Vô lưu: Niết Bàn vĩnh viễn xa lìa mọi dòng sanh
tử, không còn thuộc phạm vi sanh tử luân hồi, nên gọi
là Vô lưu.
Nguyên văn: Vĩnh viễn xa lìa mọi dòng chảy, các dòng
(sanh tử) không còn sinh ra nữa, không phải là nơi có
vết tích dòng chảy, cho nên gọi là Vô lưu
(4) Chân đế: Niết Bàn không phải là hư vọng, không
phải là điên đảo, sai lầm, cũng không trái ngược chơn
lý, cho nên gọi là Chơn đế.
Nguyên văn: Không hư vọng, không điên dảo, không tương
vi, cho nên gọi là chân đế.
(5) Bỉ ngạn: Bờ bên kia. Niết Bàn là cảnh giới
không còn nghi hoặc và sợ hãi nữa, siêu việt 3 hữu [*],
xa lìa mọi công dụng, vượt qua biển lớn sanh tử, vì
vậy gọi là bỉ ngạn.
Nguyên văn: Không bị rắn độc của ba giới làm cho sợ hãi,
vượt qua ba hữu, bỏ mọi công dụng, vượt biển sanh
tử, cho nên gọi là bỉ ngạn.
[*] Tam hữu: có hai
nghĩa,
A. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
B. Sanh hữu, tử hữu, trung hữu, sanh hữu là sự tồn
tại của sự sống, tử hữu là sự tồn tại của sự
chết, trung hữu là sự tồn tại giữa thời điểm
chết và thời điểm tái sinh.
(6) Thính tế:
(nghe được cái nhỏ nhiệm) Niết Bàn là cảnh giới
chỉ có thể đạt tới với trí tuệ cao nhứt, vì vậy
mà gọi là thính tế, tức là nắm bắt được cảnh
giới của diệu lý, cực kỳ thâm sâu.
Nguyên văn: là chỗ hiểu biết của trí tuệ cao tột,
cho nên gọi là thính tế.
(7) Khó thấy: (Nan kiến) Niết Bàn không khác gì
hoa ưu đàm, rất khó gặp.
Nguyên văn: Như hoa Ưu đàm, thế gian khó gặp vì vậy
gọi Nan kiến.
(8) Vô hoại: Nguyên văn: không già, không bị phá
hoại do đó gọi là vô hoại.
(9) Hàng tại vô tranh: Không tranh giành (với ai) thường
hằng như vậy:
Nguyên văn: Vốn là không giao động, cho nên gọi là
hằng tại vô tranh.
(10) Vô thất: không mất. Niết Bàn không phải vì
đối trị và đoạn trừ các phiền não, mà bản thân
bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất.
Nguyên văn: Ðối trị, đoạn trừ các pháp, mà thể không
bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất.
(11) Vô thí (dụ) Niết Bàn vượt tất cả những gì
chúng ta thấy được trên thế gian này, không có cái gì
ngang bằng với nó được, không thể dùng ví dụ dể hình
dung ra Niết Bàn, cho nên gọi là vô thí (dụ).
Nguyên văn: Niết Bàn vượt quá cảnh giới của mắt
thấy, không có cái gì ngang bằng được, cho nên gọi là
vô thí (dụ).
(12) Không có hý luận: Niết Bàn không có các
kiến giải sai lầm, nảy sinh từ tham ái, cũng không có
kiêu mạn và chấp thủ, vì vậy gọi là không hý luận.
Nguyên văn: không có các kiến giải nảy sinh từ tham ái,
không có kiêu mạn và chấp thủ, cho nên gọi là không có
hý luận.
(13) Tịch tịnh: vắng lặng.
Nguyên văn: lửa si hoặc bị dập tắt, cho nên gọi là
tịch tịnh vắng lặng.
(14) Cam lộ: Niết Bàn là cảnh giới bất tử mà
chư thiên không thể chi phối được, cho nên gọi là cam
lộ.
Nguyên văn: Vượt qua cõi chết và thiên giới, cho nên
gọi là cam lộ.
(15) Cực diệu:
Nguyên văn: rất là đẹp đẽ vắng lặng, đáng thích thú,
cho nên gọi cực diệu.
(16) Chỉ: là ngưng chỉ.
Nguyên văn: vắng lặng, khoâng khổ cho nên gọi là ngưng
chỉ.
(17) An: Nguyên văn: Pháp thiện chân thực cho nên
gọi là An.
(18) Ái tận: hết ái dục. Không còn bị sự thèm
khát thiêu cháy, cho nên gọi là ái tận.
(19) Hy hữu: Niết Bàn khiến cho nhiều người
phải kinh ngạc ngợi
khen, cho nên gọi là hy hữu.
Nguyên văn: Làm cho người khác kinh lạ, cho nên gọi là
hy hữu.
(20) Chưa từng được như vậy: Vị tằng đắc.
Trên con đường sanh tử, không thể đạt tới Niết Bàn,
vì vậy nói chưa tưøng được như vậy.
Nguyên văn: trong sanh tử, chưa từng được công đức
ấy, cho nên gọi là vị tằng đắc.
(21) Vô uổng: Người (được Niết Bàn), không còn
bị hại, cho nên gọi là vô uổng.
(22) Vô tai: Không còn tai nạn, trong thì không
thiếu gì, ngoài thì không bị ác chướng, cho nên gọi là
vô tai.
(23) Niết Bàn: Sau khi chứng Niết Bàn, từ nay về
sau không còn bị nỗi thống khổ của sanh tử nữa, được
sự an lạc cứu kính, đó là ý nghĩa chơn chính của
Niết Bàn.
Nguyên văn: không còn phải tái sinh và chịu khổ nữa,
được an lạc cứu kính, cho nên gọi là Niết Bàn.
(24) Nan tư: nghĩa là khó suy nghĩ tới. Niết Bàn không
thể nói là có, không thể nói là không, khó suy nghĩ
tới đươïc, cho nên gọi là nan tư.
Nguyên văn: khác với tướng có, không cho nên gọi là
nan tư.
(25) Bất sanh: Ðã có sanh thì có tử, già, lo
buồn... Niết Bàn siêu việt mọi khuyết điểm liên quan
đến sinh tử, và đem lại niềm vui kỳ diệu của giải
thoát, cho nên gọi là bất sanh.
Nguyên văn: lìa khuyết điểm của tái sinh và hưởng
niềm vui tương ứng cho nên gọi là bất sinh.
(26) Không dấu tích: Các loại ma như phiền não ma,
tử ma, ngũ ấm ma, tự tại thiên ma, bốn loại ma này đều
không quấy nhiễu được cảnh giới Niết Bàn, cho nên
gọi là Vô tích, Niết Bàn không có dấu vết để cho các
loại ma có thể theo dõi được.
Nguyên văn: Tứ ma bất chí, cố thuyết vô tích.
Nghĩa: bốn loại ma không đến được cho nên gọi là vô
tích.
(27) Phi tác: Bản thân Niết Bàn không thể do nhơn
duyên nào làm ra được cho nên gọi là phi tác.
Nguyên văn: không do nhơn nào tạo ra, cho nên gọi là phi
tác.
(28) Vô ưu: Không còn lo phiền, người chứng được
Niết Bàn, không còn bị lo phiền, cho nên gọi là Vô ưu.
Nguyên văn: Không còn bị khổ, nên gọi là Vô ưu.
(29) Trú: Người chứng Niết Bàn an trú ở cảnh
giới Niết Bàn không còn thoái chuyển.
Nguyên văn: Người chứng Niết Bàn, vĩnh viễn không còn
thối lui, cảnh giới chứng ngộ là kiên cố, vững
chắc.
(30)Vô đẳng: Không có pháp nào có thể so sánh
được với Niết Bàn.
Nguyên văn: vô pháp năng tợ, cố thuyết vô đẳng (không
có pháp nào có thể giống như Niết Bàn).
(31) Vô cầu: Người chứng Niết Bàn không còn ham
muốn cầu mong gì nữa. Nguyên văn: Vĩnh ly thủ dục,
cố thuyết vô cầu.
Nghĩa là: Vĩnh viễn xa lìa mọi ham muốn về chấp thuû,
cho nên gọi là vô cầu.
(32) Vô biên: Cảnh giới Niết Bàn siêu việt thời
gian, không biến động, không còn có trước và sau.
Nguyên văn: Vô tiền hậu tế, cố thuyết vô biên.
Nghĩa là: Không còn có trước và sau, cho nên gọi là vô
biên.
(33) Vi tế: Không thể dùng tri thức thế tục để
tìm hiểu Niết Bàn.
Nguyên văn: Nan khả thông đạt cố thuyết vi tế.
Nghĩa là: khó chứng đạt tới cho nên gọi là vi tế.
(34) Vô tổn: Không tổn hại.
Nguyên văn: Vô hữu bức cố thuyết vô tổn.
Nghĩa là: không còn bị bức bách cho nên gọi là vô
tổn.
(35) Ly dục: xa lìa dục vọng.
Nguyên văn: Không còn bị ô nhiễm bởi mê hoặc, cho nên
gọi ly dục.
(36) Tịnh: trong sạch.
Nguyên văn: Vô chư quá thất, cố thuyết danh tịnh.
Nghĩa là: không còn có lỗi lầm khuyết điểm, cho nên
gọi là tịnh.
(37) Giải thoát: Nguyên văn: kết phước giai đoạn,
cố danh giải thoát.
Nghĩa là: mọi ràng buộc đều đoạn trừ, cho nên gọi
là giải thoát.
(38) Phi trú: cảnh giới Niết Bàn không còn nương
tựa vào một pháp nào hết.
Nguyên văn: Ly y chỉ cố thuyết phi trú.
(39) Phi đối: Niết Bàn là cảnh giới chơn thực
duy nhứt, thoát khỏi vòng đối đãi. Nguyên văn: Vô
hữu nhị pháp, cố thuyết phi đối.
(40) Ðẳng: Niết Bàn ngang bằng với cái tuyệt đối
vô thượng.
Nguyên văn: Vô đẳng đẳng cố thuyết vi đẳng.
Nghĩa là: vì là ngang bằng với cái vô đẳng cho nên
gọi là đẳng.
(41) Vô hại: Niết Bàn siêu việt mọi cảm quan và
tri giác.
Nguyên văn: Chư nhập một xứ, cố thuyết vô hại.
Nghĩa là: vì các cảm quan (chư nhập) không còn nữa cho
nên gọi là vô hại.
(42) Thậm thâm: rất sâu sắc.
Nguyên văn: Ngoại nhân bất đắc, cố danh thậm thâm, người
ở bên ngoài không thể có được, cho nên gọi rất sâu
sắc.
(43) Nan giải: khó lý giải.
Nguyên văn: tách khỏi chánh giáo của Phật thì khó
hiểu biết được cho nên gọi là nan giải.
(44) Năng độ: Nguyên văn: nhờ quán công đức
(của Niết Bàn) mà khiến cho có thể vượt qua sanh tử,
cho nên gọi là năng độ.
(45) Vô thượng: Nguyên văn: là vô thưọng pháp không
có gì ở trên nữa cho nên gọi là vô thượng.
Nghĩa câu này không được rõ. Có thể có nghĩa: Niết Bàn
đứng đầu hết thảy các pháp thù thắng, cho nên gọi
là vô thượng.
(46) Thắng: Nguyên văn: tìm trong biển pháp, nắm
bắt được cái chân thực nhứt, là sở đắc của thưọng
nhân cho nên gọi là vô thắng.
(47) Thánh quả: Nguyên văn: nhờ tu vạn hạnh mới
có được, là cái tối thượng vô giá cho nên gọi là
thánh quả.
(48) Vô úy: không sợ hãi.
Nguyên văn: lìa các nhân làm cho sợ hãi cho nên gọi là
vô úy.
(49) Bất xá: Nguyên văn: sự yêu chuộng đối với
quả thánh kiên cố, cho nên gọi là bất xả.
(50) Biến mãn: khắp cả.
Nguyên văn: Phàm Thánh đều vốn có (khả năng đạt
Niết Bàn) như nhau.
(51) Vô lượng: Nguyên văn . Công đức của Niết Bàn
không thể tán thán hết được.
(52) Vô số: Nguyên văn: không thuộc về sáu cõi,
cho nên gọi là vô số.
(53) Bất phá: Nguyên văn: Thể của Niết Bàn hết
sức kiên cố cho nên gọi là bất phá.
(54) Tôn: Nguyên văn: không có pháp nào tôn quý hơn.
(55) Ứng thán: Xứng đáng được tán thán.
Nguyên văn: Trong sạch hết sức, xứng đáng nhứt được
ca ngợi.
(56) Xá: nơi ở.
Nguyên văn: là nơi ở của các bậc Thánh.
(57) Quy y: Nguvên văn: có thể cứu mọi khổ nạn,
cho nên gọi là quy y.
(58) Vô tranh: Nguyên văn: gọi là vô tranh vì mọi
đấu tranh mâu thuẫn đều ngưng chỉ.
(59)Vô cấu: không cấu bẩn.
Nguyên văn: xa lìa tham, sân, si cho nên gọi là vô cấu.
(60) Vô giả: Nguyên văn: vốn có, không bị làm ra
cho nên gọi là vô giả.
(61) Ðăng: đèn.
Nguyên văn: trừ bóng tối vô minh, cho nên gọi là đèn.
(62) Lạc: Các cảm thọ đều vắng lặng, cho nên
gọi là lạc
(63) Vô đọa: không đọa.
Nguyên văn: không đọa vào các cảnh sắc...
(64) Châu: hòn đảo.
Nguyên văn: bốn dòng chảy (sinh, lão, bịnh, tử) không
nhận chìm được.
(65) Bất động: Không thể chứng đạt Niết Bàn
với tâm tán loạn được.
Nguyên văn: tán tâm bất chứng, cố thuyết bất động.
(66) Vô sở hữu: không có gì riêng tây.
Qua 66 tên gọi khác
nhau của Niết Bàn, chúng ta thấy rõ, ngay trong kinh sách
Phật giáo Nguyên thủy, Niết Bàn không phải là cảnh giới
hư vô, mà là một cảnh giới thực tại, bao hàm vô lượng
công đức. Ðến kinh sách Phật giáo Ðại thừa, tính tích
cực của Niết Bàn càng được bộc lộ rõ hơn nữa. (66
thuộc tính Niết Bàn rút trong Ðại Chính 1647- P. 390, 391
"Tứ Ðế Luận").
6/ Niết Bàn của Ðại
Thừa:
Ðối với Ðại thừa,
Niết Bàn chính là Chân Như, là Thực tướng, là Pháp thân.
Luận khởi tín viết: "Thể bổn giác của Chân Như toàn
hiện tức là Niết Bàn. Thể bổn giác đó chính là trí
tuệ sáng suốt. Theo Ðại Thừa, thể bổn giác đó chính là
trí tuệ Bát nhã, hay trí tuệ Ba La Mật. Thể bổn giác đó
có hai tướng:
1. là trí tịnh tướng,
là tướng trí tuệ thanh tịnh.
2. là bất tư nghì nghiệp tướng, tưùc là thể bổn giác
đó hàm chứa vô vàn công đức không thể bàn xiết,
phục vụ cho sự nghiệp độ sanh của chư Phật Bồ Tát.
Kinh Luận Ðại Thừa
thường nói tới bốn loại Niết Bàn là: (trích dịch Thành
Duy Thức Luận):
a. Bổn lai tự tánh
thanh tịnh Niết Bàn:
Tức lý chơn như của
tất cả mọi pháp tướng, tuy về khách quan có bị nhiễm
ô, nhưng tự tánh của nó vẫn thanh tịnh, có đầy đủ vô
lượng công đức, vi diệu, không sanh không diệt, trong
suốt như hư không, là sỡ hữu bình đẳng và vốn có của
tất cả mọi loài hữu tình, cùng với tất cả các pháp không
phải một, không phải khác, xa lìa mọi tướng, mọi phân
biệt, mọi tư duy, mọi ngôn ngữ, chỉ có bậc Thánh chơn
chính mơùi chứng được từ nội tâm, tự tánh nó vốn
vắng lặng cho nên gọi là Niết Bàn.
b. Hữu dư y Niết Bàn:
Là Chân Như đã thoát
lìa phiền não, nhưng sở y còn có đôi chút khổ vi tế, tuy
là mọi chuớng ngại đã đoạn tận cho nên gọi là Niết Bàn.
c. Vô dư y Niết Bàn:
Tức là Chân Như đã
thoát lìa mọi nỗi khổ sanh tử, không còn phiền não nữa,
mọi dư y cũng không còn, mọi khổ đau đều chấm dứt, cho
nên gọi là Niết Bàn.
d. Vô trụ xứ Niết Bàn:
Tức là Chân Như đã
thoát khỏi sở tri chướng, có đầy đủ lòng đại bi và
trí tuệ lớn, phát huy tác dụng hóa độ chúng sanh với
số lượng không kể xiết tuy phát huy tác dụng như vậy nhưng
vẫn vắng lặng, cho nên gọi là Niết Bàn.
Trong bốn loại Niết Bàn
nói trên, thì Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo bộ phái
đã từng nói đến Hữu dư y Niết Bàn và Vô dư y Niết Bàn
rồi. Nhưng tự tính Niết Bàn và Vô trụ xứ Niết Bàn thì
chưa nói tới.
Một trong những điểm
mới của các bộ kinh Bát Nhã, xuất hiện trong thời kỳ hưng
khởi của Phật giáo Ðại Thừa là tất cả mọi chúng sinh
đều có Phật tính, là cái mầm giác ngộ sẵn có trong
tất cả mọi chúng sanh, là cái khả năng thành Phật của
tất cả mọi loài hữu tình. Phật tính đó chính là Bổn
lai tự tính Niết Bàn được nói tới trong Thành Duy Thức
Luận, cũng chính là trí tuệ Bát Nhã vậy.
Nhân vật tiêu biểu
của Ðại Thừa giáo là Bồ tát mà nhân cách phi thường
được thể hiện trong lời nguyện của Bồ tát Ðịa Tạng
"Ðịa ngục bất không, thệ bất thành Phật...". Ý
nói, nếu trong địa ngục còn có chúng sanh, thì thề không
thành Phật. Hạnh Bồ tát là hạnh lợi tha triệt để. Vị
Bồ tát cho rằng, còn một chúng sanh chưa được giải thoát
thì bản thân mình cũng chưa được thực sự giải thoát, còn
một chúng sanh còn đau khổ, chưa được an lạc thì bản thân
mình cũng đau khổ chưa được thực sự an lạc. Vì có trí
tuệ Bát Nhã cho nên vị Bồ Tát không trụ ở sinh tử, vì
có lòng đại bi cho nên vị Bồ tát cũng không trụ ở
Niết Bàn, vì vậy mà gọi là Vô trụ xứ Niết Bàn.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06 |