Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 93. Kinh Assalāyana - 93. To Assalāyana »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 93. Kinh Assalāyana - 93. To Assalāyana

Donate

Assalāyana sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

93. Kinh Assalāyana

93. To Assalāyana

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
[147] 1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
Lúc bấy giờ khoảng năm trăm Bà-la-môn từ nhiều quốc độ khác nhau trú tại Sāvatthī vì một vài công việc. Những vị Bà-la-môn ấy suy nghĩ: "Sa-môn Gotama này chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh. Ai có thể cùng với Sa-môn Gotama thảo luận vấn đề này?"
2. Now at that time five hundred brahmins from diverse provinces were staying at Sāvatthī for some business or other. Then those brahmins thought: “This recluse Gotama describes purification for all the four castes.869 Who is there able to dispute with him about this assertion?”
Lúc bấy giờ thanh niên Assalāyana trú ở Sāvatthī, trẻ tuổi, đầu cạo trọc, chỉ có mười sáu tuổi, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
3. Now on that occasion a brahmin student named Assalāyana was staying at Sāvatthī. Young, shaven-headed, sixteen years old, he was a master of the Three Vedas with their vocabularies, liturgy, phonology, and etymology, and the histories as a fifth; skilled in philology and grammar, he was fully versed in natural philosophy and in the marks of a Great Man.
Rồi các Bà-la-môn ấy suy nghĩ: "Thanh niên Assalāyana này trú ở Sāvatthī, trẻ tuổi, đầu cạo trọc, chỉ có mười sáu tuổi, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng. Vị ấy có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này".
Then the brahmins thought: “There is this young brahmin student named Assalāyana staying at Sāvatthī. Young… fully versed in natural philosophy and in the marks of a Great Man. He will be able to dispute with the recluse Gotama about this assertion.”
Rồi những Bà-la-môn ấy đi đến thanh niên Assalāyana, sau khi đến nói với thanh niên Assalāyana:
4. So the brahmins went to the brahmin student Assalāyana and said to him:
-- Tôn giả Assalāyana, Sa-môn Gotama chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh. Tôn giả Assalāyana hãy đến thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.
“Master Assalāyana, this recluse Gotama describes purification for all the four castes. Let Master Assalāyana come and dispute with the recluse Gotama about this assertion.”
Khi nghe nói vậy, thanh niên Assalāyana nói với các Bà-la-môn ấy:
When this was said, the brahmin student Assalāyana replied:
-- Sa-môn Gotama là vị nói đúng pháp. Và những ai nói đúng pháp thật rất khó thảo luận. Tôi không có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.
“Sirs, the recluse Gotama is one who speaks the Dhamma. Now those who speak the Dhamma are difficult to dispute with. I am not able to dispute with the recluse Gotama about this assertion.”
Lần thứ hai các Bà-la-môn nói với thanh niên Assalāyana:
A second time the brahmins said to him:
-- Tôn giả Assalāyana, Sa-môn Gotama này chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh. Tôn giả Assalāyana hãy đến thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này. Tôn giả Assalāyana đã sống đời sống của vị du hành khất sĩ.
“Master Assalāyana, this recluse Gotama describes purification for all the four castes. Let Master Assalāyana come [148] and dispute with the recluse Gotama about this assertion. For the training of a wanderer has been completed by Master Assalāyana.”870
Lần thứ hai, thanh niên Assalāyana nói với các vị Bà-la-môn ấy:
For the second time the brahmin student Assalāyana replied:
-- Sa-môn Gotama là bậc nói đúng pháp. Và những người nói đúng pháp thật rất khó thảo luận. Tôi không có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.
“Sirs, the recluse Gotama is one who speaks the Dhamma. Now those who speak the Dhamma are difficult to dispute with. I am not able to dispute with the recluse Gotama about this assertion.”
Lần thứ ba, những vị Bà-la-môn ấy nói với thanh niên Assalāyana:
A third time the brahmins said to him:
-- Tôn giả Assalāyana, Sa-môn Gotama này chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh. Tôn giả Assalāyana, hãy đến thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này. Tôn giả Assalāyana đã sống đời sống của vị du hành khất sĩ. Tôn giả Assalāyana chớ có bị chiến bại trong một cuộc chiến bại không có binh khí chống cự.
“Master Assalāyana, this recluse Gotama describes purification for all the four castes. Let Master Assalāyana come and dispute with the recluse Gotama about this assertion. For the training of a wanderer has been completed by Master Assalāyana. Let not the Master Assalāyana be defeated without having even fought the battle.”
Khi nghe nói vậy, thanh niên Assalāyana nói với các vị Bà-la-môn ấy:
When this was said, the brahmin student Assalāyana replied:
-- Thật sự tôi không chấp nhận được (lời yêu cầu) chư Tôn giả. Tôn giả Gotama là bậc nói đúng pháp. Và những ai nói đúng pháp thật rất khó thảo luận. Tôi không có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này. Tuy vậy tôi cũng sẽ đi, như lời chư Tôn giả yêu cầu.
“Surely, Sirs, I am not getting through to you when I say: ’The recluse Gotama is one who speaks the Dhamma.’ Now those who speak the Dhamma are difficult to dispute with. I am not able to dispute with the recluse Gotama about this assertion. Still, sirs, at your bidding I will go.”
Rồi thanh niên Assalāyana cùng với đại chúng Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn:
5. Then the brahmin student Assalāyana went with a large number of brahmins to the Blessed One and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and said to the Blessed One:
-- Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau: "Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên". Ở đây, Tôn giả Gotama nói thế nào?
“Master Gotama, the brahmins say thus: ‘Brahmins are the highest caste, those of any other caste are inferior; brahmins are the fairest caste, those of any other caste are dark; only brahmins are purified, not non-brahmins; brahmins alone are the sons of Brahmā, the offspring of Brahmā, born of his mouth, born of Brahmā, created by Brahmā, heirs of Brahmā.’ What does Master Gotama say about that?”
-- Nhưng này Assalāyana, các nữ Bà-la-môn, vợ các Bà-la-môn được thấy là có kinh nguyệt, có mang thai, có sanh con, có cho con bú. Dầu vậy, các vị Bà-la-môn ấy sanh ra từ nữ căn lại nói: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt. Chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên".
“Now, Assalāyana, the brahmin women are seen having their periods, becoming pregnant, giving birth, and giving suck.871 And yet those brahmins, though born from the womb, say thus: ‘Brahmins are the highest caste… brahmins alone are the sons of Brahmā, the offspring of Brahmā, born of his mouth, born of Brahmā, created by Brahmā, heirs of Brahmā.’” [149]
-- Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng các vị Bà-la-môn vẫn tự nghĩ rằng: "Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên".
6. “Although Master Gotama says this, still the brahmins think thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.’”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Ông có nghe chăng? Tại các biên địa quốc độ khác như Yona và Kamboja, chỉ có hai giai cấp: chủ nhân và đầy tớ. Sau khi làm chủ nhân, lại trở thành đầy tớ; sau khi làm đầy tớ, lại trở thành chủ nhân?
“What do you think, Assalāyana? Have you heard that in Yona and Kamboja872 and in other outland countries there are only two castes, masters and slaves, and that masters become slaves and slaves masters?”
-- Thưa vâng, con có nghe. Trong các quốc độ biên địa như Yona, Kamboja, chỉ có hai giai cấp: chủ nhân và đầy tớ. Sau khi làm chủ nhân, lại trở thành đầy tớ, sau khi làm đầy tớ, lại trở thành chủ nhân.
“So I have heard, sir.”
“Then on the strength of what [argument] or with the support of what [authority] do the brahmins in this case say thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā’?”
-- Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của các Bà-la-môn, mà ở đây các vị Bà-la-môn lại nói: "Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên"?
-- Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây vị Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: "Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên".
7. “Although Master Gotama says this, still the brahmins think thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.’”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Chỉ có người Khattiya (Sát-đế-lỵ) sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tâm tham, có tâm sân, có tà kiến: sau khi thân hoại mạng chung mới bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Bà-la-môn không phải như vậy?
“What do you think, Assalāyana?873 Suppose a noble were to kill living beings, take what is not given, misconduct himself in sensual pleasures, speak falsely, speak maliciously, speak harshly, gossip, be covetous, have a mind of ill will, and hold wrong view. On the dissolution of the body, after death, would only he [be likely to] reappear in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell — and not a brahmin?
Và chỉ có người Vessa và người Sudda sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến, sau khi thân hoại mang chung, mới bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Các Bà-la-môn không phải như vậy?
Suppose a merchant… a worker were to kill living beings… and hold wrong view. On the dissolution of the body after death, would only he [be likely to] reappear in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell — and not a brahmin?”
-- Không phải như vậy, Tôn giả Gotama. Người Khattiya cũng vậy, Tôn giả Gotama, nếu sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, cũng bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
“No, Master Gotama. Whether it be a noble, or a brahmin, or a merchant, or a worker — those of all four castes who kill living beings [150]… and hold wrong view, on the dissolution of the body, after death, [are likely to] reappear in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell.”
Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama, Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama, Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama. Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, nếu sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
-- Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của Bà-la-môn, mà các Bà-la-môn lại nói: "Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên"?
“Then on the strength of what [argument] or with the support of what [authority] do the brahmins in this case say thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā’?”
-- Dầu Tôn giả Sa-môn có nói như vậy, nhưng ở đây, các Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: "Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên".
8. “Although Master Gotama says this, still the brahmins think thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.’”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Chỉ có Bà-la-môn từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Khattiya không được vậy, Vessa không được vậy, Sudda không được vậy?
“What do you think, Assalāyana? Suppose a brahmin were to abstain from killing living beings, from taking what is not given, from misconduct in sensual pleasures, from false speech, from malicious speech, from harsh speech, and from gossip, and were to be uncovetous, to have a mind without ill will, and to hold right view. On the dissolution of the body, after death, would only he [be likely to] reappear in a happy destination, even in the heavenly world — and not a noble, or a merchant, or a worker?”
-- Không phải vậy, Tôn giả Gotama. Khattiya cũng vậy, Tôn giả Gotama, nếu từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến, thì sau khi thân hoại mạng chung cũng được sanh vào thiện thú, Thiên giới; cõi đời này.
“No, Master Gotama.
Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama; Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama; Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama. Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, nếu từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến, thì sau khi thân hoại mạng chung, đều được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Whether it be a noble, or a brahmin, or a merchant, or a worker — those of all four castes who abstain from killing living beings… and hold right view, on the dissolution of the body, after death, [are likely to] reappear in a happy destination, even in the heavenly world.”
-- Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của Bà-la-môn, mà các Bà-la-môn lại nói: "Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên"?
“Then on the strength of what [argument] or with the support of what [authority] do the brahmins in this case say thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā’?”
-- Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây, các Bà-la-môn vẫn nghĩ rằng: "Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên".
9. “Although Master Gotama says this, [151] still the brahmins think thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.’”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Chỉ có Bà-la-môn mới có thể trong quốc độ này tu tập từ tâm, không hận, không sân, Khattiya không thể được, Vessa không thể được, Sudda không thể được?
“What do you think, Assalāyana? Is only a brahmin capable of developing a mind of loving-kindness towards this region, without hostility and without ill will, and not a noble, or a merchant, or a worker?”
-- Không phải vậy, Tôn giả Gotama. Khattiya, Tôn giả Gotama, cũng có thể trong quốc độ này tu tập từ tâm, không hận, không sân. Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama; Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama; Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama. Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, đều có thể trong quốc độ này tu tập từ tâm, không hận, không sân.
“No, Master Gotama. Whether it be a noble, or a brahmin, or a merchant, or a worker — those of all four castes are capable of developing a mind of loving-kindness towards this region, without hostility and without ill will.”
-- Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của Bà-la-môn, mà ở đây các Bà-la-môn lại nói như sau: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên"?
“Then on the strength of what [argument] or with the support of what [authority] do the brahmins in this case say thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā’?”
-- Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây các Bà-la-môn vẫn nghĩ rằng: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên".
10. “Although Master Gotama says this, still the brahmins think thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.’”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Chỉ có Bà-la-môn mới có thể, sau khi cầm cào lưng và bột tắm đi đến sông tắm sạch bụi bặm, Khattiya không thể được, Vessa không thể được, Sudda không thể được?
“What do you think, Assalāyana? Is only a brahmin capable of taking a loofah and bath powder, going to the river, and washing off dust and dirt, and not a noble, or a merchant, or a worker?”
-- Không phải vậy, thưa Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama, Khattiya cũng có thể, sau khi cầm cào lưng và bột tắm, đi đến sông tắm sạch bụi bặm. Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama; Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama; Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama. Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, đều có thể, sau khi cầm cào lưng và bột tắm, đi đến sông tắm sạch bụi bặm.
“No, Master Gotama. Whether it be a noble, or a brahmin, or a merchant, or a worker — those of all four castes are capable of taking a loofah and bath powder, going to the river, and washing off dust and dirt.”
-- Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, xác tín gì của các Bà-la-môn, mà ở đây các Bà-la-môn lại nói như sau: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên"?
“Then on the strength of what [argument] or with the support of what [authority] do the brahmins in this case say thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā’?”
-- Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây các Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên".
11. “Although Master Gotama says this, still the brahmins think thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.’”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, nếu có vua Khattiya đã làm lễ quán đảnh, cho hội họp một trăm người thuộc nhiều chủng tánh khác nhau và nói: "Quý vị hãy đến đây, quý vị nào thuộc gia đình Khattiya, thuộc gia đình Bà-la-môn, sanh ra từ hoàng tộc, hãy đem đến phần trên của đồ quay lửa, bằng cây sa-la, hay cây salala, hay cây chiên-đàn, hay cây sen, quay cho lửa và sức nóng hiện ra.
“What do you think, Assalāyana? [152] Suppose a head-anointed noble king were to assemble here a hundred men of different birth and say to them: ‘Come, sirs, let any here who have been born into a noble clan or a brahmin clan or a royal clan take an upper fire-stick of sāla wood, salala wood, sandalwood, or padumaka wood and light a fire and produce heat.
Còn những người thuộc gia đình Chiên-đà-la (hạ tiện), thuộc gia đình săn bắn, thuộc gia đình làm đồ tre, thuộc gia đình làm xe cộ, thuộc gia đình đổ phân, hãy đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa làm bằng gỗ máng chó ăn, hay máng heo ăn, hay máng giặt đồ, hay củi khô từ cây y lan (elanda: cây thu đủ thầu dầu), và quay cho bậc lửa và sức nóng hiện ra".
And also let any who have been born into an outcast clan, a trapper clan, a wicker workers’ clan, a cartwrights’ clan, or a scavengers’ clan take an upper fire-stick made from a dog’s drinking trough, from a pig’s trough, from a dustbin, or from castor-oil wood and light a fire and produce heat.’
Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Có phải chỉ có ngọn lửa được nhen lên và sức nóng được tạo ra từ người thuộc gia đình Khattiya, thuộc gia đình Bà-la-môn sanh từ hoàng tộc, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa, làm bằng cây sa-la, hay cây salala, hay cây chiên-đàn, hay cây sen, chỉ có lửa ấy mới có ngọn, mới có màu sắc, mới có ánh sáng, và chỉ có ngọn lửa ấy mới dùng được vào các công việc do lửa đem lại.
“What do you think, Assalāyana? When a fire is lit and heat is produced by someone in the first group, would that fire have a flame, a colour, and a radiance, and would it be possible to use it for the purposes of fire, while when a fire is lit and heat is produced by someone of the second group, that fire would have no flame, no colour, and no radiance, and it would not be possible to use it for the purposes of fire?”
Còn ngọn lửa được nhen lên và sức nóng được tạo ra từ người thuộc gia đình hạ tiện, thuộc gia đình săn bắn, thuộc gia đình làm đồ tre, thuộc gia đình làm xe cộ, thuộc gia đình làm đổ phân, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa làm bằng gỗ máng chó ăn, hay máng heo ăn, hay máng giặt đồ, hay củi khô từ cây y-lan, lửa ấy không có ngọn, không có màu sắc, không có ánh sáng, và ngọn lửa ấy không có thể dùng được vào các công việc do lửa đem lại?
-- Không phải vậy, thưa Tôn giả Gotama. Ngọn lửa được nhen lên, sức nóng được tạo ra, Tôn giả Gotama, từ người thuộc gia đình Khattiya, thuộc gia đình Bà-la-môn sanh từ hoàng tộc, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa, làm bằng cây sa-la, hay cây salala, hay cây chiên-đàn, hay cây sen, lửa ấy có ngọn, có màu sắc, có ánh sáng, ngọn lửa ấy dùng được vào các công việc do lửa đem lại.
“No, Master Gotama. When a fire is lit and heat is produced by someone in the first group, that fire would have a flame, a colour, and a radiance, and it would be possible to use it for the purposes of fire.
Và ngọn lửa được nhen lên, và sức nóng được tạo ra từ người thuộc gia đình hạ tiện, thuộc gia đình săn bắn, thuộc gia đình làm đồ tre, thuộc gia đình làm xe cộ, thuộc gia đình đổ phân, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa, làm bằng gỗ máng chó ăn, hay máng heo ăn, hay máng giặt đồ, hay củi khô từ cây y-lan, lửa ấy cũng có ngọn, cũng có màu sắc, cũng có ánh sáng, và ngọn lửa ấy có thể dùng được vào công việc do lửa đem lại.
And when a fire is lit and heat is produced by someone of the second group, that fire too would have a flame, a colour, and a radiance, and it would be possible to use it for the purposes of fire.
Thưa Tôn giả Gotama, tất cả loại lửa đều có ngọn, đều có màu sắc, đều có ánh sáng; tất cả loại lửa đều có thể được dùng vào các công việc do lửa đem lại.
For all fire has a flame, [153] a colour, and a radiance, and it is possible to use all fire for the purposes of fire.”
-- Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của các Bà-la-môn mà các Bà-la-môn ở đây lại nói: "Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt. Chỉ có Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen. Chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên"?
“Then on the strength of what [argument] or with the support of what [authority] do the brahmins in this case say thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā’?”
-- Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây các Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: "Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên".
12. “Although Master Gotama says this, still the brahmins think thus: ‘Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.’”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Ở đây một nam tử Khattiya cưới một nữ nhân Bà-la-môn làm vợ. Do hôn phối này, họ sanh được đứa con trai. Ðứa con trai ấy sanh ra từ nam tử Khattiya và nữ nhân Bà-la-môn. Nó giống mẹ nó hay giống cha nó; nó được gọi là Khattiya hay được gọi là Ba La Môn?
“What do you think, Assalāyana? Suppose a noble youth were to cohabit with a brahmin girl, and a son was born from their cohabitation. Should a son born from a noble youth and a brahmin girl be called a noble after the father or a brahmin after the mother?”
-- Thưa Tôn giả Gotama, đứa con trai ấy sanh ra từ nam tử Khattiya và nữ nhân Bà-la-môn; nó giống mẹ nó và cũng giống cha nó, và được gọi là Khattiya và cũng được gọi là Bà-la-môn.
“He could be called both, Master Gotama.”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, một nam tử Bà-la-môn cưới một nữ nhân Khattiya và do hôn phối này, họ sanh được đứa con trai. Người con trai ấy được sanh từ nam tử Bà-la-môn và nữ nhân Khattiya; nó giống mẹ nó, hay giống cha nó; nó được gọi là Khattiya, (hay) cũng được gọi là Bà-la-môn?
13. “What do you think, Assalāyana? Suppose a brahmin youth here were to cohabit with a noble girl, and a son were to be born from their cohabitation. Should the son born from a brahmin youth and a noble girl be called a noble after the mother or a brahmin after the father?”
-- Thưa Tôn giả Gotama, người con trai sanh ra từ nam tử Bà-la-môn và nữ nhân Khattiya; nó giống mẹ nó; và giống cha nó, và nó được gọi là Khattiya, và cũng được gọi là Bà-la-môn.
“He could be called both, Master Gotama.”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có con ngựa cái giao phối với con lừa. Do sự giao phối này, chúng sanh được con la. Con la ấy sanh ra từ con ngựa cái và con lừa; nó giống mẹ nó, hay giống cha nó; nó được gọi là ngựa, hay nó được gọi là lừa?
14. “What do you think, Assalāyana? Suppose a mare were to be mated with a male donkey, and a foal were to be born as the result. Should the foal be called a horse after the mother or a donkey after the father?”
-- Tôn giả Gotama, do sự giao phối khác giống như vậy, nó là con la. Ðó là sự sai khác, thưa Tôn giả Gotama, mà tôi thấy ở đây. Nhưng ở chỗ khác, đối với sự vật khác, tôi không thấy sai biệt gì.
“It is a mule, Master Gotama, since it does not belong to either kind. [154] I see the difference in this last case, but I see no difference in either of the former cases.”
-- Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có hai anh em thanh niên, đồng mẹ khác cha; một người đọc tụng, thông hiểu Thánh điển; một người không đọc tụng, không hiểu Thánh điển. Ở đây, giữa hai vị này, các Bà-la-môn sẽ cúng dường ai trước các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, các đồ ăn đãi khách?
15. “What do you think, Assalāyana? Suppose there were two brahmin students who were brothers, born of the same mother, one studious and acute, and one neither studious nor acute. Which of them would brahmins feed first at a funeral feast, or at a ceremonial milk-rice offering, or at a sacrificial feast, or at a feast for guests?”
-- Thưa Tôn giả Gotama, vị thanh niên nào đọc tụng, thông hiểu Thánh điển, các Bà-la-môn sẽ cúng dường người ấy trước, các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, các đồ ăn đãi khách. Bởi vì, thưa Tôn giả Gotama, cúng dường cho người không đọc tụng, không thông hiểu Thánh điển làm sao có quả lớn được!
“On such occasions, brahmins would feed first the one who was studious and acute, Master Gotama; for how could what is given to one who is neither studious nor acute bring great fruit?”
-- Này Assalāyana, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ở đây, có hai anh em thanh niên (Bà-la-môn) đồng mẹ khác cha; một người đọc tụng thông hiểu Thánh điển, theo ác giới, hành ác pháp; một người không đọc tụng, không thông hiểu Thánh điển, trì giới, hành thiện pháp. Ở đây, các người Bà-la-môn cúng dường cho ai trước các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, hay các đồ ăn đãi khách?
16. “What do you think, Assalāyana? Suppose there were two brahmin students who were brothers, born of the same mother, one studious and acute, but immoral and of bad character, and one neither studious nor acute, but virtuous and of good character. Which of them would brahmins feed first at a funeral feast, or at a ceremonial milk-rice offering, or at a sacrificial feast, or at a feast for guests?”
-- Thưa Tôn giả Gotama, vị thanh niên nào không đọc tụng, không thông hiểu Thánh điển, nhưng trì giới, hành thiện pháp; ở đây, các Bà-la-môn cúng dường cho người ấy trước, các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, hay các đồ ăn đãi khách. Bởi vì, thưa Tôn giả Gotama, cúng dường cho người theo ác giới, hành ác pháp làm sao có quả lớn được!
“On such occasions, brahmins would feed first the one who was neither studious nor acute, but virtuous and of good character, Master Gotama; for how could what is given to one who is immoral and of bad character bring great fruit?”
-- Này Assalāyana, trước hết Ông đi về sanh chủng. Bỏ sanh chủng, Ông đi về Thánh điển. Bỏ Thánh điển, Ông đi về sự thanh tịnh của bốn giai cấp mà Ta đã chủ trương.
17. “First, Assalāyana, you took your stand on birth, and after that you took your stand on scriptural learning, and after that you have come to take your stand on the very ground that purification is for all four castes, as I describe it.”
Nghe nói vậy, thanh niên Assalāyana ngồi im lặng, ủ rũ, co vai, cúi đầu, sửng sờ, mở miệng không ra lời. Rồi Thế Tôn sau khi biết được thanh niên Assalāyana im lặng ủ rũ, co vai, cúi đầu, sửng sờ, mở miệng không ra lời, liền nói với thanh niên Assalāyana:
When this was said, the brahmin student Assalāyana sat silent and dismayed, with shoulders drooping and head down, glum, and without response. Knowing this, the Blessed One said to him:
-- Thuở xưa, này Assalāyana, trong khi bảy ẩn sĩ Bà-la-môn thảo luận trong những am thất bằng lá tại một khu rừng, ác kiến sau đây được khởi lên: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự Phạm thiên". Này Assalāyana, ẩn sĩ Asita Devala được nghe: "Trong khi bảy ẩn sĩ Bà-la-môn thảo luận trong những am thất bằng lá, tại một khu rừng, ác kiến sau đây được khởi lên: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... con cháu thừa tự Phạm thiên"?
18. “Once, Assalāyana, when seven brahmin seers were consulting together in leaf huts in the forest, this pernicious view arose in them: ‘Brahmins are the highest caste… [155]… heirs of Brahmā.’
Ẩn sĩ Asita Devala, sau khi sửa soạn râu tóc, đắp y vải màu đỏ tía, đi dép với nhiều lớp (đường viền) kiên cố, cầm một cây gậy bằng vàng, liền hiện ra trong hành lang am thất của bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn. Rồi này Assalāyana, ẩn sĩ Asita Devala đi qua, đi lại trong hành lang am thất của bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn và nói:
Now the seer Devala the Dark heard this.874 Then he arranged his hair and beard, dressed in ochre-coloured garments, put on stout sandals, and taking a staff made of gold, he appeared in the courtyard of the seven brahmin seers. Then, while walking up and down the courtyard of the seven brahmin seers, the seer Devala the Dark spoke thus:
-- "Nay những Tôn giả ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu? Nay những Tôn giả ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu?"
‘Where have those worthy brahmin seers gone? Where have those worthy brahmin seers gone?’
Rồi này Assalāyana, bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn suy nghĩ như sau: "Kẻ kia là ai đang đi qua lại trong hành lang am thất bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn như một con bò đi vòng tròn, lại nói như sau: "Nay những vị ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu? Nay những vị ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu?" Chúng ta hãy dùng chú thuật trù yếm Ông ta". Rồi này Assalāyana, bảy ẩn sĩ Bà-la-môn dùng chú thuật trù yếm ẩn sĩ Asita Devala: "Hãy trở thành tro tàn hạ liệt".
Then the seven brahmin seers thought: ‘Who is walking up and down in the courtyard of the seven brahmin seers like a village lout speaking thus: “Where have those worthy brahmin seers gone? Where have those worthy brahmin seers gone?” Let us curse him!’ Then the seven brahmin seers cursed the seer Devala the Dark thus: ‘Be ashes, vile one! Be ashes, vile one!’
Nhưng này Assalāyana, bảy ẩn sĩ càng dùng chú thuật trù yếm, ẩn sĩ Asita Devala càng trở thành đẹp đẽ, trở thành dễ nhìn, trở thành khả ái. Rồi này Assalāyana, bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn suy nghĩ như sau: "Thật trống rỗng thay, khổ hạnh của chúng ta! Phạm hạnh của chúng ta không có hiệu quả. Trước kia, khi chúng ta dùng chú thuật trù yếm người nào: "Hãy trở thành tro tàn hạ liệt" Người ấy trở thành tro tàn ngay. Nhưng nay chúng ta càng dùng chú thuật trù yếm người này, người này lại càng trở nên đẹp đẽ, trở thành dễ nhìn, trở thành khả ái".
But the more the seven brahmin seers cursed him, the more comely, beautiful, and handsome the seer Devala the Dark became. Then the seven brahmin seers thought: ‘Our asceticism is in vain, our holy life is fruitless; for formerly when we cursed anyone thus: “Be ashes, vile one! Be ashes, vile one!” he always became ashes; but the more we curse this one, the more comely, beautiful, and handsome he becomes.’
"-- Khổ hạnh, chư Tôn giả, không phải trống rỗng, Phạm hạnh (quý vị) không phải không hiệu quả. Chư Tôn giả, hãy từ bỏ tâm oán hận đối với ta".
“‘Your asceticism is not in vain, sirs, your holy life is not fruitless. But, sirs, put away your hatred towards me.’ [156]
"-- Có tâm oán hận nào đối với Tôn giả, chúng tôi sẽ bỏ. Tôn giả là ai?"
“‘We have put away our hatred towards you, sir. Who are you?’
"-- Chư Tôn giả có nghe nói đến ẩn sĩ Asita Devala không?" "_ Thưa có nghe, Tôn giả".
"-- Chư Tôn giả, vị ấy là ta".
“‘Have you heard of the seer Devala the Dark, sirs?’ — ‘Yes, sir.’ — ‘I am he, sirs.’
Rồi này Assalāyana, bảy ẩn sĩ Bà-la-môn đến đảnh lễ ẩn sĩ Asita Devala. Rồi ẩn sĩ Asita Devala nói với bảy ẩn sĩ Bà-la-môn:
“Then the seven brahmin seers went to the seer Devala the Dark and paid homage to him. Then he said to them:
"-- Chư Tôn giả, tôi có nghe như sau: "Trong khi bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn thảo luận tại am thất bằng lá trong khu rừng, ác tà kiến như sau khởi lên: Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt. Chỉ có Bà-la-môn màu da trắng, giai cấp khác màu da đen. Chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn là con chính thống Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên". "-- Thưa vâng, Tôn giả".
‘Sirs, I heard that while the seven brahmin seers were dwelling in leaf huts in the forest, this pernicious view arose in them: “Brahmins are the highest caste… heirs of Brahmā.”’ — ‘That is so, sir.’
"-- Nhưng chư Tôn giả, chư tôn giả có biết mẹ sanh của họ chỉ giao hợp với các Bà-la-môn, không với phi Bà-la-môn?" "-- Thưa không vậy, Tôn giả".
“‘But, sirs, do you know if the mother who bore you went only with a brahmin and never with a non-brahmin?’ — ‘No, sir.’
"-- Nhưng chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết mẹ sanh của họ, cho đến bảy đời tổ mẫu của họ chỉ giao hợp với các Bà-la-môn, không với phi Bà-la-môn?"
“‘But, sirs, do you know if your mother’s mothers back to the seventh generation went only with brahmins and never with non-brahmins?’ — ‘No, sir.’
"-- Nhưng chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết cha sanh của họ chỉ giao hợp với các nữ Bà-la-môn, không với phi nữ Bà-la-môn?" "-- Thưa không vậy, Tôn giả".
“‘But, sirs, do you know if the father who begot you went only with a brahmin woman and never with a non-brahmin woman?’ — ‘No, sir.’
"-- Nhưng chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết cha sanh của họ, cho đến bảy đời tổ phụ của họ chỉ giao hợp với các nữ Bà-la-môn, không với phi Bà-la-môn?"
"-- Không phải vậy, Tôn giả".
“‘But, sirs, do you know if your father’s fathers back to the seventh generation went only with brahmin women and never with non-brahmin women?’ — ‘No, sir.’
"-- Chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết nhập thai là như thế nào?"
“‘But, sirs, do you know how the descent of an embryo comes about?’
"-- Thưa Tôn giả, chúng con biết nhập thai như thế này. Ở đây, mẹ cha phải giao hợp, người mẹ phải trong thời (có thể thọ sanh), hương ấm (gandhabha) phải hiện hữu, ba sự như vậy có hòa hợp, nhập thai mới thành tựu".
“‘Sir, we know how the descent of an embryo comes about. [157] Here, there is the union of the mother and father, and the mother is in season, and the gandhabba is present. Thus the descent of an embryo comes about through the union of these three things.’875
"-- Chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết hương ấm ấy là Khattiya, hay Bà-la-môn, hay Vessa, hay Sudda?"
“‘Then, sirs, do you know for sure whether that gandhabba is a noble, or a brahmin, or a merchant, or a worker?’
"-- Thưa Tôn giả, chúng tôi không biết hương ấm ấy là Khattiya, hay Bà-la-môn, hay Vessa, hay Sudda".
“‘Sir, we do not know for sure whether that gandhabba is a noble, or a brahmin, or a merchant, or a worker.’
"-- Chư Tôn giả, sự tình là như vậy, chư Tôn giả có biết chư Tôn giả là ai không?"
“‘That being so, sirs, then what are you?’
"-- Thưa Tôn giả, sự tình là như vậy, chúng tôi không có biết chúng tôi là ai".
“‘That being so, sir, we do not know what we are.’
Này Assalāyana, bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn ấy bị ẩn sĩ Asita Devala, chất vấn, cật vấn, nạn vấn về vấn đề sanh chủng (jativada) của họ, không có thể ứng đáp được. Làm sao nay Ông bị ta chất vấn, cật vấn, nạn vấn về vấn đề sanh chủng của Ông lại có thể ứng đáp được, khi Ông cùng một Ðạo sư với họ và không có Punna, người biết sử dụng thìa đổ sữa (làm lễ tế tự).
“Now, Assalāyana, even those seven brahmin seers, on being pressed and questioned and cross-questioned by the seer Devala the Dark on their own assertion about birth, were unable to support it. But how shall you, on being pressed and questioned and cross-questioned by me now on your assertion about birth, be able to support it? You, who rely on the teachers’ doctrines, are not [even fit to be] their spoon-holder Puṇṇa.”876
Khi được nói vậy, thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn:
19. When this was said, the brahmin student Assalāyana said to the Blessed One:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
“Magnificent, Master Gotama! Magnificent, Master Gotama!… (as Sutta 91, §37)…
Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.
From today let Master Gotama remember me as a lay follower who has gone to him for refuge for life.”





_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Thiếu Thất lục môn


Nghệ thuật chết


Nguồn chân lẽ thật


Phù trợ người lâm chung

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.141.198.75 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học