1. Như vậy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc Sākya (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Ðại Lâm (Mahāvana), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
[253] 1. THUS HAVE I HEARD.564 Once the Lord was staying among the Sakyans in the Great Forest at Kapilavatthu, with a large company of some five hundred monks, all Arahants. And devas from ten world-systems565 frequently came there to visit the Lord and his order of monks.
2. Lúc bấy giờ, bốn vị Tịnh Cư thiên (Suddhāvāsa) suy nghĩ như sau: "Thế Tôn nay trú tại bộ lạc Sākya, thành Kapilavatthu, ở Ðại Lâm, cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Vậy chúng ta hãy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong mỗi chúng ta sẽ đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn".
2. And it occurred to four devas of the Pure Abodes:566 ‘The Blessed Lord is staying at Kapilavatthu, with a large company of some five hundred monks, all Arahants. What if we were to approach him, and each recite a verse?’
3. Rồi chư Thiên ấy, nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co cánh tay duỗi ra, biến mất từ Tịnh Cư thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn. Chư Thiên ấy đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:
3. Then those devas, as swiftly as a strong man might stretch his flexed arm, or flex it again, [254] vanished from the Pure Abodes and appeared before the Lord. Then they saluted him and stood to one side, and one of them recited this verse:
Ðại hội tại Ðại Lâm
Chư Thiên đồng tụ tập.
Chúng con đến Pháp hội
Ðảnh lễ chúng Bất Thắng.
‘Great the assembly in the forest here, the devas have met
And we are here to see the unconquered brotherhood.’
Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Another said:
Tại đây chúng Tỷ-kheo
Thiền định, tâm chánh trực.
Như chủ xe nắm cương,
Bậc trí hộ các căn.
‘The monks with concentrated minds are straight:
They guard their senses as the driver does his reins.’
Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Another said:
Như khóa gãy, chốt tháo,
Cửa trụ bị đào lên.
Sống thanh tịnh, có mắt
Như voi khéo điều phục.
‘Bars and barriers broken, the threshold-stone of lust torn up,
Unstained the spotless seers go, like well-trained elephants.’ [255]
Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
And another said:
Những ai quy y Phật,
Sẽ không đọa ác thú,
Sau khi bỏ thân người,
Sẽ sanh làm chư Thiên.
‘Who takes refuge in the Buddha, no downward path will go:
Having left the body he’ll join the deva hosts.’
4. Rồi Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:
4. Then the Lord said to his monks:
- Này các Tỷ-kheo, phần lớn chư Thiên mười phương thế giới tụ họp để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời quá khứ đã là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời vị lai sẽ là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này cũng sẽ được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ tuyên bố danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ cáo tri danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng danh tánh của chư Thiên. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
‘Monks, it has often happened that the devas from ten world-systems have come to see the Tathāgata and his order of monks. So it has been with the supreme Buddhas of the past, and so it will be with those of the future, as it is with me now. I will detail for you the names of the groups of devas, announce them and teach them to you. Pay close attention, and I will speak.’
- Xin vâng, bạch Thế Tôn! - Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn.
‘Yes, Lord’, said the monks,
5. Thế Tôn giảng như sau:
and the Lord said:
Bài kệ Ta sẽ giảng
Chư Thiên trú Thiên giới,
Những vị trú hang núi,
Tâm tịnh, an thiền định.
5. ‘I’ll tell you them in verse: to which realm each belongs.
But those who dwell composed and resolute
Như sư tử, tuy nằm
Làm hoảng sợ quần sanh,
Tâm tư thuần tịnh bạch,
Trong sáng, không cấu uế.
Like lions in mountain-caves, have overcome
Hair-raising fear and dread, their minds
White and pure, unstained and calm.’567 [256]
In Kapilavatthu’s wood the Lord perceived
Biết hơn năm trăm vị,
Họp tại Ca-tỳ-la
Bậc Ðạo Sư thuyết giảng
Chúng đệ tử thích nghe:
Five hundred of his Arahants and more,
Lovers of his word. To them he said:
"Các Tỷ-kheo, hãy xem
Chư Thiên chúng đến gần".
Nghe lời dạy đức Phật
Ðại chúng nhiệt tình xem.
‘Monks, observe the deva-host approach!’
And the monks strove eagerly to see.
6. Và hiện ra trước chúng
Thấy rõ hàng phi nhân
Kẻ thấy trăm thiên thần,
Ngàn thần, và hơn nữa.
6. With superhuman vision thus arising,
Some saw a hundred gods, a thousand some.
Kẻ thấy bảy mươi ngàn
Toàn các bậc phi nhân.
Kẻ thấy vô lượng vị,
Cùng khắp mọi phương hướng.
While some saw seventy thousand, others saw
Gods innumerable, all around.
Với pháp nhãn thấy rõ
Và phân biệt tất cả
Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
Chúng đệ tử thích nghe:
And He-Who-Knows-with-Insight was aware
Of all that they could see and understand.
And to the lovers of his word the Lord,
"Các Tỷ-kheo hãy xem,
Chư Thiên chúng đến gần".
Ta sẽ theo thứ lớp
Thuyết kệ cho người nghe.
Turning said: ‘The deva-hosts approach.
Look and seek to know them, monks, in turn,
As I declare their names to you in verse!’568
7. Bảy ngàn loại Dạ-xoa
Trú tại Ca-tỳ-la,
Có thần lực hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
7. ‘Seven thousand yakkhas of Kapila’s realm,
Well-endowed with power and mighty skills,
Fair to see, with splendid train have come
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Sáu ngàn từ Tuyết Sơn
Dạ-xoa đủ sắc mặt
Rejoicing to this wood to see such monks.
And six thousand yakkhas from Himālaya,
Of varied hue, and well-endowed with powers,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo
Fair to see, with splendid train have come
Rejoicing to this wood to see such monks.
Ba ngàn từ Sāta,
Dạ-xoa đủ sắc mặt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
From Sāta’s Mount three thousand yakkhas more
Of varied hue...
The sum is sixteen thousand yakkhas all,
Of varied hue... [257]
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Như vậy mười sáu ngàn
Dạ-xoa đủ sắc mặt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
8. Năm trăm từ Vessāmitta
Dạ-xoa đủ sắc mặt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
8. Of Vessāmitta’s host five hundred more
Of varied hue...
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Kumbhīra, Vương Xá,
Trú tại Vepulla,
Kumbhira too from Rājagaha comes
(Whose dwelling-place is on Vepulla’s slopes):
Hơn trăm ngàn Dạ-xoa,
Hầu hạ vây xung quanh.
Kumbhīra, Vương Xá
Cũng đến họp rừng này.
A hundred thousand yakkhas follow him.
9. Vua Dhataraṭṭha (Trì Quốc Thiên vương)
Trị vì tại phương Ðông,
Chúa tể Càn-thát-bà
Bậc đại vương danh tiếng.
9. King Dhatarattha,569 ruler of the East,
The gandhabbas’ Lord, a mighty king,
Vị này có nhiều con,
Ðại lực, tên Indra
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Has come with retinue. Many sons
Are his, who all bear Indra’s name,
All well-endowed with mighty skills...
Quốc vương Virūḷhaka (Tăng Trưởng Thiên vương).
Trị vì tại phương Nam,
Chúa tể Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)
Bậc đại vương danh tiếng,
Vị này có nhiều con,
Ðại lực, tên Indra
Có thần lực, hào quang.
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
King Virūḷha, ruler of the South,
The Kumbaṇḍhas’ lord, a mighty king...
Vua Virūpakkha, (Quảng Mục Thiên vương)
Trị vì tại phương Tây,
Chúa tể loài Nāga
Bậc đại vương danh tiếng.
Vị này có nhiều con
Ðại lực, tên Indra,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Virūpakkha, ruler of the West,
Lord of nāgas and a mighty king...
Quốc vương Kuvera, (Ða Văn Thiên vương)
Trị vì tại phương Bắc,
Chúa tể, loài Dạ-xoa,
Bậc đại vương, danh tiếng.
Vị này có nhiều con,
Ðại lực, tên Indra,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
King Kuvera, ruler of the North,
Lord of yakkhas and a mighty king... [258]
Trì Quốc vương, phương Ðông
Tăng Trưởng vương, phương Nam
Quảng Mục vương, phương Tây,
Ða Văn vương, phương Bắc,
From the East King Dhatarattha shone,
From South Virūḷhaka, and from the West
Virūpakkha, Kuvera from the North:
Bốn bậc đại vương này,
Khắp cả bốn phương trời,
Cùng đứng, chói hào quang,
Khắp rừng Ca-tỳ-la.
Thus ranged in Kapilavatthu’s wood
The Four Great Kings in all their splendour stood.’
10. Cũng đến các bộ hạ,
Giả dối và xảo quyệt,
Māyā, Kuṭeṇḍu, Veṭaṇḍu, Viṭuṭa,
Viṭuca, Candana, Kāmaseṭṭha,
Kinnughaṇḍu,
Nighaṇḍu chín vị đến.
10. With them came their vassals versed in guile,
Skilled deceivers all: Kutendu first,
Then Vetendu, Vitu and Vitucca,
Candana and Kāmaseṭṭha next,
Kinnughandu and Nighaṇḍu, these,
Panāda, Opamañña, Mātali,
(người đánh xe chư Thiên).
Càn-thát-bà Cittasena;
Vua Naḷa, Janesabha
Pañcasikha, Timbarū,
Suriyavaccasā cũng đến.
Panāda, Opamañña, Mātali
(Who was the devas’ charioteer), Nala,
Cittasena of the gandhabbas,
Rājā, Janesabha, Pañcasikha,
Timbarū with Suriyavaccasā
Như vậy cả vua chúa,
Cùng với Càn-thát-bà,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!
His daughter — these, and more, rejoicing came
To that wood to see the Buddha’s monks.
11. Từ Nāgasā, Vesāli, Tacchakā,
Các Nāga cũng đến.
Kambala, Assatarā, Pāyāgā,
Cũng đến với quyến thuộc.
Các Nāga có danh tiếng,
Dhataraṭṭhā và Yāmunā cũng đến.
Erāvaṇa, Long vương,
Cũng đến tại ngôi rừng.
11. From Nabhasa, Vesāli, Tacchaka
Came Nāgas, Kambalas, Assataras,
Payāgas with their kin. From Yamunā
Dhatarattha came with splendid host,
Erāvana too, the mighty nāga chief570
To the forest meeting-place has come.
Những thiên điểu nhị sanh,
Với cặp mắt thanh tịnh,
Mãnh liệt chống Long vương,
Nay bay đến ngôi rừng.
Tên chúng là Citrā,
Và tên Supaṇṇā.
And the twice-born,571 winged and clear of sight,
Fierce garuda birds (the nāgas’ foes) have come [259]
Flying here — Citra and Supaṇṇā.
Long vương không sợ hãi,
Nhờ ơn Phật an toàn
Với những lời nhẹ nhàng,
Chúng tự khuyên bảo nhau,
Nāga, Supaṇṇā (Kim Sí điểu)
Ðều đến quy y Phật.
But here the nāga kings are safe: the Lord
Has imposed a truce. With gentle speech
They and the nāgas share the Buddha’s peace.
12. Asura ở biển,
Bị sét Kim Cang thủ,
Anh của Vāsava,
Có thần lực danh xưng.
Kāḷakañjakā, dị hình (Tu-la)
Dānaveghasā, Vepacitti
Cùng với Sucitti,
Với Pahārāda, ác quỷ Namucī.
Cùng con của Bali,
Ðặt tên Veroca.
12. Asuras too, whom Indra’s hand572 once struck,
Ocean-dwellers now, in magic skilled,
Vāsava’s replendent brothers came,
The Kālakañjas, terrible to see,
Dānaveghasas, Vepacitti,
Sucitti and Pahārādha too,
Fell Namuci, and Bali’s hundred sons
(Who all were called Veroca) with a band
Huy động toàn quân lực,
Dâng cho vị thủ lãnh.
Rāhu nói: "Mong thay
Pháp hội được an toàn.
Phó hội chúng Tỷ-kheo
Ðều đến tại rừng này".
Of warriors who joined their master Rāhu,
Who had come to wish their meeting well.
13. Thần nước, đất, lửa, gió,
Cũng đến Varuṇa,
Với thủy tộc, Soma,
Cả Yasa cũng đến.
Chư Thiên Từ Bi sanh
Có danh xưng cũng đến
13. Gods of water, earth, and fire, and wind,
The Varunas and their retainers. Soma
And Yasa too. Devas born of love
And compassion, with a splendid train,
Mười vị thiên tộc này
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
These ten, with tenfold varied hosts,
Endowed with mighty powers, and fair to see,
Rejoicing came to see the Buddha’s monks.
14. Veṇhu, Sahalī,
Asamā, Yamā,
Chư Thiên thuộc Nguyệt tộc,
Vị thủ lãnh cũng đến.
Chư Thiên thuộc Nhật tộc
Vân thần tên Manda,
Quần tinh vị thủ lãnh
Vāsava, Vasū
Thần Sakka cũng đến.
14. Veṇhu573 too with his Sahalis came,
The Asamas, the Yama twins, and those
Devas who attend on moon and sun,
Constellation-gods, sprites of clouds, [260]
Sakka the Vasus’ lord, ancient giver,574
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng.
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
These ten, with tenfold varied hosts...
15. Sahabhū cũng đến,
Với đầu lửa đỏ rực,
Ariṭṭhakū, Rojā,
Như bông hoa Ummā
Varuṇā, Sahadhammā,
Accutā, Anejakā
Suleyyā, Rucirā,
Vāsavanesi cũng đến.
15. The Sahabhus, radiant, bright, came next,
Fiery-crested. The Aritthakas,
The Rojas, cornflower-blue, with Varuṇā
And Sahadhamma, Accuta, Anejaka,
Sūleyya, Rucira, the Vasavanesis,
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
These ten, with tenfold varied hosts...
16. Samānā, Mahāsamānā,
Mānusā, Mānusuttamā,
Khiḍḍāpadosika, Manopadosikā
Harayo, Lohitāvāsī,
Pāragā, Mahāpāragā
Có danh xưng cũng đến.
16. The Samanas and Mahā-Samānas both,
Beings manlike and more than manlike came,
The ‘Pleasure-corrupted’ and ‘Mind-corrupted’ gods,575
Green devas, and the red ones too,
Paragas, Mahā-Pāragas with train,
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
These ten, with tenfold varied hosts...
17. Sukkā, Karumhā,
Aruṇa, Veghanasā
Odātagayhā,
Vicakkhaṇā cũng đến,
Sadāmattā, Hāragajā,
Missakā có danh xưng cũng đến.
Pajjunna thần sét,
Làm mưa khắp mọi phương.
17. Sukkas, Karumhas, Arunas, Veghanasas,
Follow in the Odatagayhas’ wake.
Vicakkhanas, Sadamattas, Haragajas,
Those gods called ‘Mixed in Splendour’, and Pajunna
The Thunderer, who also causes rain,
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
These ten, with tenfold varied hosts... [261]
18. Khemiyā, Tusitā, Yāmā,
Danh xưng Kaṭṭhakā, Lambītakā,
Thủ lãnh các Lāma,
Jotināmā, Āsava,
Tha Hóa Tự Tại thiên,
Hóa Lạc thiên cũng đến.
18. The Khemiyas, the Tusitas and Yamas,
The Katthakas with train, Lambitakas,
The Lama chiefs, and the gods of flame
(The Asavas), those who delight in shapes
They’ve made, and those who seize on others’ work,576
Mười vị thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
These ten, with tenfold varied hosts...
19. Sáu mươi Thiên chúng này,
Với diện mạo dị biệt,
Theo danh tộc chúng đến,
Cũng nhiều vị khác nữa.
19. These sixty deva-hosts, of varied kinds,
All came arranged in order of their groups,
And others too, in due array. They said:
Nói rằng: "Sanh đã tận,
Then cài không còn nữa.
Bộc lưu đã vượt qua,
Ðã thành bậc Vô Lậu.
Chúng con thấy vị ấy,
Như voi vượt bộc lưu,
Như trăng thoát mây tối".
‘He who’s transcended birth, he for whom
No obstacle remains, who’s crossed the flood,
Him, cankerless, we’ll see, the Mighty One,
Traversing free without transgression, as
It were the moon that passes through the clouds.’
20. Subrahmā, Paramatta,
Con các vị thần lực,
Sanaṅkumāra Tissa,
Ðến hội tại ngôi rừng.
20. Subrahma next, and with him Paramatta,
Sanankumara, Tissa, who were sons
Of the Mighty One, these also came.
Ðại Phạm thiên, chúa tể,
Ngự trị ngàn Phạm giới,
Thác sanh có hào quang,
Dị hình có danh xưng,
Mahā-Brahmā, who ruled a thousand worlds,
In the Brahmā-world supreme, arisen there,
Shining bright, and terrible to see,
Mười đấng Tự Tại đến,
Ngự trị mỗi mỗi cõi,
Giữa vị này Hārita,
Cũng đến với đồ chúng.
With all his train. Ten lords of his who each
Rule a Brahmā-world, and in their midst
Harita, who ruled a hundred thousand.
21. Tất cả đều cùng đến,
Với Indra, Phạm thiên,
Ma quân cũng tiến đến,
Xem Hắc quỷ ngu si.
21. And when all these had come in vast array,
With Indra and the hosts of Brahma too,
Then too came Mara’s hosts, and now observe
That Black One’s folly.577 [262] For he said:
"Hãy đến và bắt trói,
Những ai bị tham triền,
Hãy bao vây bốn phía,
Chớ để ai thoát ly!"
‘Come on, seize and bind them all! With lust
We’ll catch them all! Surround them all about,
Let none escape, whoever he may be!’
Như vậy Ðại Tướng quân,
Truyền lệnh đoàn Hắc quỷ,
Với bàn tay vỗ đất,
Tiếng dội vang khiếp đảm.
Thus the war-lord urged his murky troops.
With his palm he struck the ground, and made
A horrid din, as when a storm-cloud bursts
Như trong cơn giông tố,
Sấm chớp và mưa rào,
Nó liền thối quân lui,
Phẫn nộ nhưng bất lực.
With thunder, lightning and with heavy rain —
And then — shrank back, enraged, but powerless!
22. Với pháp nhãn thấy rõ,
Và phân biệt tất cả,
Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
Chúng đệ tử thích nghe:
22. And He-Who-Knows-by-Insight saw all this
And grasped its meaning. To his monks he said:
"Ma quân đã tiến đến;
Tỷ-kheo hãy biết chúng".
Nghe lời dạy đức Phật,
Ðại chúng tâm nhiệt tình.
‘The hosts of Mara come, monks — pay good heed!’
They heard the Buddha’s words, and stayed alert.
Kẻ thù đã bỏ đi,
Xa vô tham, vô úy.
Tất cả đều chiến thắng,
Vô úy và vô xưng!
Ðệ tử những vị này,
Danh xưng, tâm hoan hỷ.
And Mara’s hosts drew back from those on whom
Neither lust nor fear could gain a hold.
‘Victorious, transcending fear, they’ve won:
His followers rejoice with all the world!′578