Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)

Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tây Vực Ký »» Dẫn Nhập »»

Tây Vực Ký
»» Dẫn Nhập

(Lượt xem: 7.742)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Tây Vực Ký - Dẫn Nhập

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Đại Đường Tây Vực Ký (大唐西域記) là một tác phẩm rất xứng đáng được xem là “thiên cổ kỳ thư”. Ra đời từ năm 646, đã qua gần 14 thế kỷ, nhưng đến nay tác phẩm vẫn tiếp tục được độc giả đánh giá cao, thậm chí có thể hơn cả khi mới ra đời. Trong thực tế, khi tác phẩm này được chuyển dịch và đến với các học giả phương Tây, nhiều giá trị khác nhau của tác phẩm đã được nghiên cứu tìm hiểu ngày càng sâu rộng hơn, đóng góp lớn lao vào những hiểu biết của chúng ta hiện nay về nhiều lãnh vực vào thời đại tác giả như văn học, địa lý, lịch sử, khảo cổ, Phật học...

Về văn học, đây có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi thời Thịnh Đường, với nét nổi bật là hết sức gần gũi với thi ca. Rất nhiều đoạn văn trong tác phẩm cô đọng, súc tích, câu văn gãy gọn mà ý tứ hàm súc sâu xa, nhiều hình ảnh, giàu nhạc điệu. Đặc biệt, chỉ riêng hai bài tựa của tác phẩm, do hai nhân vật nổi tiếng đương thời chấp bút, đã có thể xem như hai thiên đoản văn tiêu biểu của lối văn biền ngẫu giàu điển tích, đòi hỏi người đọc phải có một tri thức khá sâu rộng mới có thể nhận hiểu hết được. Và khi đi sâu vào tác phẩm thì bút pháp điêu luyện của ngài Huyền Trang càng mang đến cho độc giả nhiều sự thú vị hơn với rất nhiều đoạn văn miêu tả sinh động, súc tích và đặc biệt luôn có rất nhiều thông tin, dữ kiện liên quan xoay quanh vấn đề đang được đề cập.

Về mặt địa dư, đây là một trong những tài liệu sớm nhất, đầy đủ nhất về các nước vùng Tây Vực[1] và hầu như toàn cõi Ấn Độ, từ miền Bắc Ấn xuống đến tận các điểm gần vùng cực nam và luôn cả đảo quốc Tích Lan (Sri Lanka), đề cập đến vị trí địa lý, cương vực, đời sống, tập tục của cư dân, kể cả vị trí của núi non, sông suối... Ngày nay, đa phần các quốc gia miêu tả trong sách đều không còn tồn tại nữa, kể cả các nước thuộc “năm vùng Ấn Độ” như ghi chép trong sách thì ngày nay cũng không còn sự phân vùng như cũ. Chính vì vậy mà những thông tin được lưu giữ trong tác phẩm này càng trở nên quý giá bởi tính chất xác thực, được tác giả ghi chép qua chính những điều thấy nghe trong thực tế đương thời, có thể giúp tái hiện những khu vực phân quyền hành chánh trong quá khứ.

Điểm đặc biệt là độ chính xác trong những chi tiết mô tả của tác phẩm, trong nhiều trường hợp có thể giúp các nhà nghiên cứu hiện nay hình dung cụ thể về sự phân vùng địa lý hay dân cư vào thời đại ấy. Ngoài ra, có nhiều chỗ còn ghi chép cả những chi tiết, dữ kiện từ thời đại trước đó truyền lại mà tại thời điểm ghi chép ngài Huyền Trang vẫn còn nghe thấy hay đọc được. Điều này giúp cho thông tin trong tác phẩm càng phong phú hơn.

Hơn thế nữa, những dữ kiện được mô tả và ghi chép trong tác phẩm, trong thực tế đã có nhiều đóng góp đáng kể cho ngành sử học. Về điểm này, để có một nhận định khách quan hơn, có thể trích dẫn ở đây lời nhà xuất bản Munshi Ram Manohar Lal khi bản dịch Anh ngữ của tác phẩm này lần đầu tiên được xuất bản ở Ấn Độ vào năm 1961. Đoạn trích sau đây ghi nhận rất cụ thể về vai trò của ngài Huyền Trang đối với giới sử học Ấn Độ:

Yuan Chwang or Hiuen Tsiang, the famous Chinese traveller, commands such a high seat of eminence that he is styled as “one of the three mirrors that reflect In-dian Buddhism” in the country of his birth. To us in India too, he is no ordinary mirror, for had it not been for the records which he so diligently maintained of his visit to India during A.D. 629 to 645, a good part of our past, of our history, that too of one of the golden periods of this land, would have been lost in the limbo of oblivion. To Yuan Chwang goes the gratitude of all Indians as well as Indian histo-rians.

“Ngài Huyền Trang, nhà lữ hành nổi tiếng người Trung Quốc, giữ một vị trí cao quý nổi bật đến mức tại quê nhà ngài đã được xem như ‘một trong ba hình tượng mẫu mực’[2] đã mang Phật giáo Ấn Độ đến Trung Hoa. Và đối với người Ấn Độ chúng tôi cũng vậy, ngài không chỉ là một hình tượng mẫu mực thông thường, vì nếu như không có những ghi chép mà ngài đã dày công thực hiện trong chuyến đi Ấn Độ từ năm 629 đến năm 645, thì một giai đoạn lịch sử của đất nước chúng tôi có lẽ đã chìm trong quên lãng. Đó là một giai đoạn tốt đẹp trong quá khứ, trong lịch sử của chúng tôi, cũng là một trong những thời kỳ hoàng kim của vùng đất này. Tất cả người dân cũng như các nhà sử học Ấn Độ bày tỏ lòng biết ơn đối với ngài.”[3]

Về mặt khảo cổ học, có thể nói tác phẩm này là một “bản đồ kho báu” đối với các nhà khảo cổ. Trong thực tế, nhiều công trình khai quật đã thành công nhờ định vị di tích dựa theo những ghi chép chính xác trong tác phẩm này. Trong sách The ancient geography of India, Alexander Cunningham đã kể ra trong số 12 địa điểm khai quật thành công của ông có 6 địa điểm là liên quan đến các thánh tích Phật giáo và đã tìm ra được nhờ sử dụng thông tin trong Tây vực ký qua bản dịch tiếng Pháp của Julien.[4] Trong khi nhiều thánh tích nổi tiếng một thời của Phật giáo nay đã bị vùi lấp bởi thời gian, thì những ghi chép trong sách này rất thiết yếu trong việc giúp các nhà khảo cổ có được một phương hướng chính xác trong sự tìm kiếm.

Riêng đối với người Phật tử thì ngoài những giá trị như trên, tác phẩm này còn mang dấu ấn của một bậc đại sư đã góp phần rất lớn trong việc bảo tồn và lưu truyền Giáo pháp. Rất nhiều Kinh điển ngài Huyền Trang mang về và chuyển dịch, ngày nay đã không còn Phạn bản. Điều đó có nghĩa là, những Kinh điển ấy hẳn đã phải vĩnh viễn mất đi nếu không có những nỗ lực của ngài giúp đưa vào Hán tạng.

Ngoài ra, có rất nhiều đoạn văn nói về các vị luận sư, hoặc kể lại những mẩu chuyện liên quan đến các thánh tích mà ngài chiêm bái, tất cả đều mang lại cho ta những thông tin mà hiện nay không tìm được ở nguồn nào khác.

Với tất cả những giá trị nêu trên và còn nhiều hơn thế nữa, việc chuyển dịch tác phẩm sang Việt ngữ là điều hết sức cần thiết, vì sẽ tạo cơ hội cho những ai không đọc được nguyên tác có thể tiếp cận với những giá trị quý báu này.

Trong thực tế, từ đầu năm 2004[5] chúng ta đã có một bản Việt dịch đầy đủ của sách này do Hòa thượng Thích Như Điển chủ trì thực hiện. Tuy nhiên, do thời gian thực hiện khá gấp rút và nhiều lý do khác nên bản dịch này không thực sự chuyển dịch được chính xác nguyên bản. Trong phần này chúng tôi sẽ gọi đây là bản dịch A.

Trong khi đó, cũng vào khoảng năm 2004, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đề xuất việc chuyển dịch tác phẩm này và người đứng ra thực hiện là Tiến sĩ Lê Sơn. Theo lời giới thiệu của Hòa thượng Thích Phước Sơn thì Tiến sĩ Lê Sơn đã thực hiện công trình phiên dịch này trong gần 2 năm, hoàn tất vào cuối năm 2006. Sách được Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành vào năm 2007, lấy tên là Đại Đường Tây Vực Ký (Bút Ký Đường Tăng), lưu hành rộng rãi tại Việt Nam. Chúng tôi sẽ gọi đây là bản dịch B.

Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm được trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh hiện đang lưu hành một bản dịch của sách này, được đưa vào Bộ Sử Truyện, ở Tập 190, từ trang 325 đến trang 602. Tạng kinh này không thấy ghi tên dịch giả nên chúng ta không thể biết được người dịch. Tuy nhiên, bản dịch này có quá nhiều chỗ sai lệch, không chuyển tải được chính xác nội dung nguyên tác nên chúng tôi đã loại bỏ không đưa vào tham khảo.

Như vậy, lẽ ra chúng tôi không cần thiết phải mất thời gian thực hiện một công việc đã được người khác thực hiện hoàn tất, nhất là khi công việc ấy không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, thật không may là bản dịch B cũng vấp phải hàng loạt sai sót, tạo ra một hình ảnh sai lệch và méo mó về nguyên tác cũng như vi phạm nhiều nguyên tắc học thuật làm mất hẳn đi độ tin cậy của bản dịch. Và như vậy, mặc dù đã có một số bản Việt dịch được lưu hành nhưng chúng ta vẫn chưa tiếp cận được trọn vẹn những giá trị thực sự của nguyên tác.

Do thực tế như trên và cũng nhờ duyên lành đưa đẩy, chúng tôi đã có cơ hội thưa chuyện cùng Hòa thượng Thích Như Điển về trường hợp bản dịch A, rồi cùng nhau đi đến quyết định thực hiện bản dịch này, nhằm thay thế hoàn toàn bản dịch A đang lưu hành, với mong muốn duy nhất là chuyển tải được đến độc giả một cách trung thực và chính xác những giá trị cốt lõi trong nguyên tác.

Con đường học thuật là một sự tiếp nối giữa từng thế hệ trôi qua, giữa kẻ đi sau với người đi trước. Do vậy, chúng tôi luôn tâm niệm rằng khi đã học hỏi được từ người đi trước thì tự thân mình nên có những đóng góp nhất định để lại cho thế hệ đi sau. Và trên tinh thần đó, khi thực hiện bản dịch này chúng tôi đã nghiêm túc tham khảo nhiều công trình của người đi trước để học hỏi ở tất cả những điểm có thể được. Có thể tạm kể ra một số bản Anh ngữ sau đây:

- Buddhist Records Of The Western World (2 volumes), Samuel Beal, Trubner & Co, 1884, London, England. Trước đó, vào năm 1857, Stanislas Aignan Julien (1797-1873) đã có bản dịch tiếng Pháp nhan đề Mémoires sur les con-trées occidentales. Theo Giáo sư Thomas Watters, bản tiếng Pháp của Julien có nhiều sai lầm và bản dịch Anh ngữ năm 1884 của Samuel Beal trong thực tế không hoàn toàn dịch từ Hán ngữ, mà có ít nhất một phần sử dụng bản tiếng Pháp của Julien. Lý do đơn giản là vì Samuel Beal đã lặp lại chính xác những sai lầm mà Julien mắc phải trong bản tiếng Pháp. Chúng tôi sẽ gọi đây là bản dịch C.

- On Yuan Chwang’s Travels in India (2 volumes), Thomas Watters, Royal Asiatic Society, London, 1904-1905. Đây không phải một bản dịch, mà đúng hơn là một công trình khảo cứu. Tác giả không chuyển dịch toàn bộ tác phẩm mà chỉ tóm lược nội dung từng đoạn có chọn lọc và so sánh với những tác phẩm khác, chẳng hạn như Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện[6] cũng như một số công trình của các tác giả khác, nhằm nêu ra những vấn đề mà theo ông đã có nhiều người nhầm lẫn. Trong đó ông dành khá nhiều đoạn để chỉ ra những sai lầm trong bản dịch Pháp ngữ của Julien. Phương pháp so sánh của ông trong nhiều trường hợp đã giúp làm rõ hơn một số đoạn văn tối nghĩa. Do vậy, chúng tôi đã tham khảo nhiều vấn đề từ công trình này trong khi chuyển dịch. Công trình này được Giáo sư T. W. Rhys DavidsS. W. Bushell, đều là những học giả nổi tiếng tham gia hiệu đính. Thomas Watters qua đời năm 1901 khi sách vẫn còn là bản thảo và sau đó mới lần lượt xuất bản thành 2 tập trong 2 năm 1904 và 1905.

- The Great Tang Dynasty Record of the Western Regions, Lý Vinh Hy dịch,[7] BDK America, Inc., 1996. Sách được xuất bản gần như chỉ một năm trước khi dịch giả qua đời. Bản dịch này theo rất sát nguyên bản Hán văn của Đại Chánh Tạng, đến mức ghi rõ cả số trang kinh ở từng đoạn văn dịch. Chúng tôi gọi đây là bản dịch D.

Ngoài 3 tài liệu Anh ngữ kể trên, chúng tôi cũng tham khảo thêm một số tài liệu bằng Hoa ngữ khác.

- Đại Đường Tây Vực Ký hiệu chú (大唐西域記校注), Quý Tiện Lâm (季羨林) và đồng sự, Trung Hoa Thư Cục, Bắc Kinh, 1985. Sách này ghi lại nguyên bản và thực hiện hai phần việc chính. Thứ nhất là khảo đính văn bản thông qua việc so sánh nhiều dị bản nhằm xác định từ ngữ hợp lý nhất. Thứ hai là chú giải những từ ngữ, thuật ngữ khó hiểu.

- Đại Đường Tây Vực Ký kim dịch (大唐西域記今譯), Quý Tiện Lâm (季羨林) và đồng sự,[8] Thiểm Tây Nhân Dân Xuất Bản Xã, 1985. Bản dịch này chuyển từ bản Hán văn cổ sang Hoa ngữ hiện đại. Với ưu thế đã khảo đính văn bản và thực hiện từ khá sớm (xuất bản năm 1985), bản dịch này có độ tin cậy khá cao và đặc biệt hữu ích ở những nơi có sự đáng ngờ trong văn bản chính. Chúng tôi sẽ gọi đây là bản dịch E.

- Tân dịch Đại Đường Tây Vực Ký (新譯大唐西域記), Trần Phi (陳飛), Tam Dân Thư Cục, Đài Bắc, 1998. Sách này chuyển dịch từ bản Hán văn cổ sang Hoa ngữ hiện đại, đồng thời cũng thực hiện một số chú thích từ ngữ. Có khá nhiều câu, đoạn gần tương đồng với bản dịch E. Nếu dựa theo năm xuất bản mà chúng tôi hiện có thì bản dịch E đã ra đời trước khá lâu nên có khả năng dịch giả bản này đã tham khảo nhiều từ đó. Chúng tôi sẽ gọi đây là bản dịch F.

- Đại Đường Tây Vực Ký đạo độc (大唐西域記導讀), Nhuế Truyền Minh (芮傳明), Ba Thục Thư Xã, Tứ Xuyên, 1989. Sách này gồm ba phần chính. Phần thứ nhất giới thiệu về ngài Huyền Trang và bối cảnh ra đời của Đại Đường Tây Vực Ký,[9] phần thứ hai giới thiệu nội dung sách và giải thích các vấn đề về địa lý,[10] phần thứ ba tuyển dịch và chú giải một số phần trong sách.[11] Trong thực tế, bản dịch B đã sử dụng các thông tin giải thích của Nhuế Truyền Minh và gọi ông là “nhà chú giải”.

Vì bản dịch này sẽ thay thế hoàn toàn cho bản dịch A nên không nhắc đến, riêng các bản dịch B, C, D, E và F sẽ được chúng tôi so sánh đối chiếu ở những nơi cần thiết.

Và như vậy, điểm qua các công trình trên, chúng ta đã có 6 bản dịch và 2 sách khảo cứu, với thời gian thực hiện trải dài từ khoảng năm 1857 đến nay. Nói rõ như thế để thấy mối quan tâm của các học giả từ Đông sang Tây đối với tác phẩm này là rất lớn và họ đã thực sự dành nhiều công sức cho việc nghiên cứu, tìm hiểu, chuyển dịch tác phẩm. Mặt khác, chúng ta cũng có thể thấy rằng việc nghiên cứu và chuyển dịch Tây Vực Ký không hề đơn giản hay dễ dàng, ngay cả với những người đồng hương sử dụng cùng một ngôn ngữ với tác giả. Trong thực tế, việc thực hiện những bản “đạo độc”, “tân dịch”, “kim dịch” cho thấy rằng số người Trung quốc hiện nay có khả năng đọc được các bản văn Hán cổ hẳn là không nhiều, và đối với những bản văn như Tây Vực Ký lại càng không dễ đọc hiểu.

Về nguyên bản chuyển dịch, chúng tôi chọn bản in trong Đại Chánh tạng[12] làm bản gốc và tham khảo thêm bản khắc gỗ của Càn Long tạng và Vĩnh Lạc Bắc tạng. Việc đối chiếu tham khảo này là cần thiết, vì trong một số trường hợp bản Đại Chánh Tạng vẫn có sai sót. Khi phát hiện những sai sót này, chúng tôi đều có chú thích nêu rõ để độc giả có thể kiểm chứng lại. Một bảng khảo đính sẽ được kèm theo ở cuối phần dẫn nhập này để nêu rõ những chỗ sai lệch và đề xuất chỉnh sửa của chúng tôi, nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc nghiên cứu tác phẩm sau này.

Ngoài các văn bản được đưa vào Kinh tạng như vừa kể, Đại Đường Tây vực ký còn có khá nhiều các bản in độc lập, riêng biệt. Nhưng sở dĩ chúng tôi không sử dụng các bản in riêng mà chọn bản in trong Kinh tạng vì tính bảo lưu tốt hơn của các mộc bản dùng khắc in Kinh tạng, nhờ đó có thể giúp văn bản được giữ nguyên vẹn hơn, ít sai lệch so với bản in ban đầu. Trong thực tế, các cổ bản độc lập của tác phẩm này hầu như đều đã mất. Ba bản in xưa nhất còn giữ được là bản Đôn Hoàng (敦煌), bản Phúc Châu (福州) thời Bắc Tống (960-1126) và bản Triệu Thành (趙城) vào đời Kim (1115-1234), nhưng chỉ là một phần của tác phẩm mà thôi, không bản nào còn nguyên vẹn. Năm 1981, Trung Hoa Thư Cục (中華書局) đã cho xuất bản Đại Đường Tây vực ký cổ bản tam chủng (大唐西域記古本三種) gồm tất cả những đoạn văn còn giữ được trong 3 cổ bản này nhưng vẫn không trọn đủ nội dung tác phẩm. Trong khi đó, bản in độc lập xưa nhất của tác phẩm này còn giữ được nguyên vẹn là vào đời nhà Minh (1368-1644), muộn hơn rất nhiều so với sự ra đời của các bản in Đại tạng kinh. Điều này chứng minh khả năng bảo lưu tốt hơn của các văn bản được thu thập vào Đại tạng kinh qua các triều đại.

Riêng những bản in gần đây hơn như của Thượng Hải Nhân Dân Xuất Bản Xã (上海人民出版社) vào năm 1977, đương nhiên không thể dựa vào để khảo đính các cổ bản.

Trong thực tế, suốt quá trình chuyển dịch chúng tôi đã không gặp khó khăn nhiều khi khảo đính văn bản, ngoại trừ một số ít sai lệch trong bản in Đại Chánh tạng như đã nêu, nhưng có thể giải quyết khá dễ dàng qua việc đối chiếu với các bản Càn Long tạng và Vĩnh Lạc Bắc tạng.

Về tên sách, hai chữ Đại Đường (大唐) thật ra chỉ mang tính nghi thức mà không thực sự liên quan gì đến ý nghĩa tác phẩm, cũng tương tự như nhiều tác phẩm khác ra đời vào thời đại này. Do vậy, chúng tôi chỉ gọi tên bản Việt dịch này là Tây Vực Ký.

Về chữ (記) trong tên sách, tưởng cũng cần nói thêm đôi điều. Ký ở đây có nghĩa là ghi chép. Tây vực ký là tập sách ghi chép về vùng Tây Vực, theo cách gọi của người Trung Hoa thời đó, cũng tương tự như sách Ấn Độ ký được ngài Huyền Trang nhắc đến, là tập sách ghi chép về Ấn Độ. Vì thế, không nên hiểu đây là một quyển bút ký hay hồi ký.

Sở dĩ chúng tôi xác định ý nghĩa như trên là vì khi chuyển dịch, chúng tôi thấy rõ ngài Huyền Trang đã tuân thủ rất nghiêm ngặt một bút pháp hoàn toàn khách quan, chỉ “tả như thật” và “thuật như nghe biết” mà không để bất kỳ một cảm xúc hay nhận thức chủ quan nào chi phối. Trong suốt tập sách này, trên một hành trình kéo dài qua nhiều năm trường, có biết bao cảm xúc buồn vui hoặc lo sợ khi đối mặt với hiểm nguy, nhưng chúng ta không thấy có một dòng nào trong sách được dùng để mô tả cảm xúc. Ngay cả khi đặt chân đến các thánh tích như nơi đức Phật đản sinh, thành đạo hoặc nhập Niết-bàn, với tâm tình của một người con Phật giàu niềm tin, ngay cả chúng ta ngày nay cũng khó kiềm được nhiều cảm xúc mạnh mẽ, nhưng ngòi bút của ngài Huyền Trang vẫn chỉ kiên trì “tả” và “thuật”, không hề nói đến những cảm xúc của riêng mình. Đó là chưa nói đến việc rất nhiều thánh tích, qua ngòi bút miêu tả của ngài, chúng ta như thấy rõ sự tiêu điều, hoang phế vào thời điểm đó. Theo lẽ tự nhiên, một người có đức tin Tam bảo thuần thành như ngài, khi trực tiếp chiêm bái và nhìn thấy những thánh tích trong tình trạng như vậy, hẳn là không thể chỉ thản nhiên miêu tả và nhắc lại chuyện xưa mà bản thân lại không có ít nhiều những cảm xúc, rung động. Thế nhưng trong sách vẫn không thấy ghi lại những cảm xúc cá nhân như vậy. Đây là đặc trưng tiêu biểu của loại sách biên khảo, khảo cứu, bởi nó được biên soạn có mục đích phục vụ khoa học chứ không phải để biểu đạt cảm xúc. Do vậy, không nên xem đây là một quyển hồi ký hay bút ký, những thể loại mà cảm xúc của người viết luôn giữ vai trò chính yếu. Khi nhận thức đúng về thể loại, độc giả sẽ có thể tiếp nhận tập sách một cách dễ dàng hơn.

Về tác giả và quá trình hình thành sách này, có một vài vấn đề đến nay vẫn chưa được làm rõ. Trước hết, bản in trong Đại Chánh Tạng ở đầu mỗi quyển đều ghi: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch - Đại Tổng Trì Tự Sa-môn Biện Cơ soạn (三藏法師玄奘奉 詔譯 - 大總持寺沙門辯機撰).[13] Và cả hai bản khắc trong Càn Long Tạng, Vĩnh Lạc Bắc Tạng cũng ghi tương tự. Hiện vẫn còn khá nhiều ý kiến bất đồng về phần “xác định tác quyền” này.

Thứ nhất, theo nội dung sách cũng như những gì chúng ta được biết về việc hình thành sách này, thì ngài Huyền Trang phải là tác giả. Không thấy nói đến nguyên tác Phạn văn, vậy tại sao gọi là dịch? Thứ hai, một người có văn tài trác tuyệt, sở học uyên bác như ngài Huyền Trang, tại sao phải cần đến người khác giúp ghi chép lại những điều muốn nói mà không tự mình chấp bút? Liệu việc cho rằng Biện Cơ biên soạn sách này có hợp lý không?

Về vấn đề thứ nhất, trong một số văn bản hiện nay còn tìm được, chúng ta vẫn thấy ghi sách này là của “Huyền Trang soạn” chứ không phải dịch, chẳng hạn như:

1. Ngay trong sách Tây vực ký này, Lời tựa của Kính Bá nói về sự ra đời của sách: “Đích thân ngài [Huyền Trang] đã đi qua 110 nước, lại nghe biết thêm về 28 nước... ... nay đã viết rõ ràng trên lụa trắng, đặt tên là Đại Đường Tây vực ký, trọn bộ 12 quyển.”[14]

2. Tương tự, Lời tựa của Vu Chí Ninh cũng nói: “...quan sát được nhiều tục lệ khác biệt nơi phương xa... ...[nay gồm hết những điều như thế] để soạn sách Đại Đường Tây vực ký, chép ra thành 12 quyển.”[15]

3. Biểu tấu của ngài Huyền Trang thỉnh hoàng đế viết tựa cho kinh tạng nói: “... đã soạn xong một bộ Tây vực truyện,[16] tổng cộng 12 quyển, trân trọng nhờ xá nhân là Lý Kính Nhất cung kính dâng lên.”

4. Trong bài Tiến Tây vực ký biểu (進西域記表), chính ngài Huyền Trang nói rõ đã tự mình biên soạn, sắp xếp sách này: “Những điều được nghe, những chỗ đi qua, gồm 138 nước... ...đều được Huyền Trang ghi lại chi ly tường tận. Trong đó những lời trùng lặp, những chỗ rườm rà được cắt bỏ, sắp xếp lại thành sách Đại Đường Tây vực ký gồm 12 quyển.”[17]

5. Pháp sư truyện, quyển 6, kể rõ việc khi Pháp sư Huyền Trang hội kiến với Đường Thái Tông, nhà vua đích thân đề nghị Pháp sư nên soạn sách Tây vực ký: “Nước Phật xa xôi diệu vợi, thánh tích giáo pháp nhiệm mầu, sử sách trước đây không thể ghi chép tường tận.Nay Pháp sư đã tận mắt chứng kiến, nên soạn một bộ truyện ký để trình bày những điều chưa từng được nghe.”[18] Sau đó lại nói việc soạn sách hoàn thành: “Ngày trước gặp hoàng đế ở cung Lạc Dương, có lệnh cho Pháp sư soạn sách Tây vực ký, nay đã hoàn thành.”[19]

6. Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, quyển 82 ghi: “Đại Đường Tây vực ký... Tam tạng Pháp sư Huyền Trang vâng chiếu soạn.”[20]

7. Sách Cựu Đường thư, quyển 141 viết về ngài Huyền Trang ghi rằng: “Ở Tây vực 17 năm, đi qua hơn trăm nước, đều học được ngôn ngữ các nước ấy, thu thập hết những phong tục, sông núi, đất đai... soạn sách Tây vực ký gồm 12 quyển.”[21]

8. Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục, quyển 23 ghi: “Đại Đường Tây vực ký, 12 quyển, Đại Đường Tam tạng Huyền Trang soạn...”[22]

9. Đại Đường Nội điển lục, quyển 5 ghi: “Đại Đường Tây Vực truyện, 1 bộ, 12 quyển”. Về tác giả, sách này liệt kê tất cả 67 bản dịch kinh luận của ngài Huyền Trang, trong đó có cả Tây vực truyện, và ghi chung một dòng bên dưới: “Sa-môn Thích Huyền Trang, chùa Đại Từ Ân ở kinh đô vâng chiếu dịch.”[23]

Các nguồn tư liệu trên đều trực tiếp liên quan đến sách này, như 2 bài tựa sách và 2 biểu tấu do chính ngài Huyền Trang viết, đều soạn vào đời Đường, tức là do những người sống cùng thời với ngài Huyền Trang viết. Riêng Cựu Đường thư là một bộ sử, tuy được biên soạn về sau (vào khoảng năm 945) nhưng là dựa trên sử liệu từ đời nhà Đường. Do vậy, những ghi chép trên đây đều có thể tin được.

Trong các nội dung được trích dẫn trên, chúng ta có thể thấy rõ 3 điểm chính:

1. Trừ ra Nội điển lục nói chung việc “Huyền Trang phụng chiếu dịch” cho tất cả các tác phẩm, còn ngoài ra không có chỗ nào nói Huyền Trang dịch sách này.

2. Không có thông tin nào liên quan đến Biện Cơ hoặc bất cứ người nào khác tham gia việc biên soạn sách.

3. Huyền Trang được hoàng đế đích thân yêu cầu soạn sách, và cũng thực sự đã tự mình biên soạn, chọn lọc, sắp xếp... mà không nhắc đến ai khác.

Việc Nội điển lục ghi thông tin chung “Huyền Trang phụng chiếu dịch” đối với cả 67 bộ kinh, luận, sách được liệt kê trước đó mà không tách riêng Tây vực ký, rất có thể là nguyên nhân khiến các bản mục lục ra đời sau này đã nhầm lẫn dựa vào đó và cho rằng ngài Huyền Trang “phụng chiếu dịch” sách Tây vực ký, trong khi đúng ra phải hiểu rằng thông tin ấy chỉ áp dụng cho 66 bộ kinh luận liệt kê trước đó. Nhà nghiên cứu Chu Liên Khoan cho rằng, rất có thể trong lần đầu tiên khắc in kinh tạng, tức là bộ Khai Bảo tạng (開寶大藏經) vào đời Bắc Tống (971), những người thực hiện đã cố định sự nhầm lẫn này vào các bản khắc gỗ.[24] Từ đó, việc các bộ Đại tạng kinh thực hiện về sau tiếp tục nhầm lẫn cũng là điều dễ hiểu.

Từ những thông tin trên, chúng ta có thể kết luận rằng ngài Huyền Trang không dịch sách Tây vực ký, và thông tin sai lầm này có thể bắt nguồn từ cách ghi chép không phân biệt rõ ràng của Nội điển lục.

Về vấn đề thứ hai, liệu Biện Cơ có tham gia soạn sách này hay không? Thông tin “Biện Cơ soạn” hiện có thể tìm thấy trong một số tư liệu. Chúng ta sẽ tìm hiểu về độ khả tín của các tư liệu ấy.

1. Thứ nhất, trong sách này, phần Ký tán cuối sách được cho là do Biện Cơ viết, có ghi: “Nay giao cho kẻ tầm thường soạn sách địa chí này... ...Cung kính nhận tập ghi chép này, thay đổi sắp xếp câu văn...”[25]

2. Khai Nguyên Thích giáo lục ghi: “Đại Đường Tây vực ký, 12 quyển (xem Nội điển lục, niên hiệu Trinh Quán thứ 20 [Huyền Trang] phụng chiếu soạn tại chùa Hoằng Phúc, viện Phiên kinh, sa-môn Biện Cơ vâng chỉ sắp xếp biên tập, đến tháng bảy, mùa thu hoàn tất.)[26]

3. Trinh Nguyên tân định Thích giáo mục lục ghi giống như câu trên của Khai Nguyên Thích giáo lục, chỉ khác là: “Biện Cơ vâng chỉ sắp xếp chọn lọc.”[27]

4. Tục Cao tăng truyện ghi: “Lại soạn ra sách Tây vực truyện, sa-môn Biện Cơ tự thân tiếp nhận sự việc theo thời gian, kết nối sắp xếp trước sau.”[28]

Trong 4 nguồn tư liệu trên, Khai Nguyên Thích giáo lục được soạn thành vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên thứ 18 (730), trong khi Trinh Nguyên tân định Thích giáo mục lục được soạn muộn hơn, vào khoảng niên hiệu Trinh Nguyên thứ 15 (799). Do vậy, có phần chắc là bản mục lục thứ hai này đã dẫn lại từ bản có trước. Và cả 2 bản mục lục này đều chỉ đến Nội điển lục, được soạn thành vào khoảng niên hiệu Lân Đức nguyên niên (664). Tuy nhiên, trong Nội điển lục, phần nói đến Tây vực ký ở quyển 5 như đã dẫn ở trước, hoàn toàn không có nội dung giống như ở đây, chỉ có câu “Huyền Trang... vâng chiếu dịch” được dùng chung cho tất cả 67 bộ kinh luận do Huyền Trang dịch và gộp chung cả Tây vực ký. Như vậy, chứng tỏ 2 tư liệu này đã lấy thêm thông tin về Biện Cơ từ nơi khác, không phải trong Nội điển lục.

Tục Cao tăng truyện ghi rất cụ thể về vai trò của Biện Cơ: “tự thân tiếp nhận sự việc theo thời gian, kết nối sắp xếp trước sau”. Nếu đúng vậy, cũng có thể nói là Biện Cơ biên soạn. Nhưng người soạn Cao tăng truyện là Đạo Tuyên, cũng chính là người đã soạn Nội điển lục. Nghi vấn ở đây là, nếu Đạo Tuyên biết rõ việc Biện Cơ biên soạn sách Tây vực ký, tại sao không ghi chép thông tin này trong Nội điển lục? Do vậy, không chắc là Đạo Tuyên đã đưa thông tin về Biện Cơ vào sách Tục Cao tăng truyện.

Điều này hoàn toàn có thể hiểu được khi xét đến tình trạng văn bản của Tục Cao tăng truyện. Vào lúc Đạo Tuyên biên soạn, sách chỉ dừng lại ở các sự việc đến năm 665, vì ngài qua đời năm 667, chỉ hai năm sau đó. Trong Lời tựa do chính Đạo Tuyên viết nói rằng sách ghi chép chính truyện là 340 người, phụ truyện là 160 người,[29] nhưng thực tế ghi chép trong sách thì chính truyện là 414 người, phụ truyện là 201 người. Sự khác biệt này chỉ có thể giải thích là sau khi lưu hành, sách đã tiếp tục được người đời sau ghi chép bổ sung vào nội dung ban đầu. Vì Đạo Tuyên đã qua đời nên người bổ sung phải là người khác, nhưng chúng ta không biết là ai. Từ thực tế này, có thể suy luận rằng người bổ sung Tục Cao tăng truyện cũng chính là người đã bổ sung thông tin “sa-môn Biện Cơ tự thân tiếp nhận sự việc theo thời gian, kết nối sắp xếp trước sau” vốn trước đó không có. Vì Tục Cao tăng truyện ghi thông tin này nhưng không cho biết căn cứ vào đâu, nên đây cũng chưa phải là thông tin đáng tin cậy.

Cuối cùng, chỉ còn lại bài Ký tán có vẻ như chính là nguồn gốc của mọi thông tin. Vì nếu tin chắc rằng Ký tán do Biện Cơ viết ra và khẳng định Biện Cơ “vâng chỉ biên soạn Tây vực ký” thì việc người đời sau sử dụng thông tin này để bổ sung cho những nơi bị cho là thiếu sót cũng là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên, nếu thực sự Biện Cơ là người viết ra bài Ký tán này thì vẫn có 2 nghi vấn cần nêu ra. Thứ nhất, với các nguồn tư liệu đáng tin cậy, chúng ta đã xác định được việc ngài Huyền Trang biên soạn Tây vực ký, vậy nếu Biện Cơ cũng vâng chỉ biên soạn thì công việc thực sự của ông là gì? Lẽ nào là biên soạn lại một quyển sách đã biên soạn? Cho nên cách nói “Biện Cơ vâng chỉ biên soạn” rõ ràng là không hợp lý. Nếu Biện Cơ có tham gia vào việc hoàn thành sách này thì chỉ có thể là người trau chuốt, gọt dũa văn chương, như theo những cách nói là “xuyết thủ” hoặc “xuyết tập” thì hợp lý hơn. Hơn nữa, chính trong Ký tán tuy có nói việc “soạn tập ký này” nhưng rồi sau đó cũng nói cụ thể hơn là “thay đổi sắp xếp câu văn”, dường như cũng phù hợp với trong Tục Cao tăng truyện nói “kết nối sắp xếp trước sau”. Và tất nhiên như vậy không phải là biên soạn.

Nghi vấn thứ hai là, trong biểu tấu thỉnh hoàng đế viết tựa kinh điển, ngài Huyền Trang đề cập đến việc hoàn tất sách Tây vực ký và dâng lên Đường Thái Tông. Hơn nữa, lại có riêng một biểu tấu về việc này là Tiến Tây vực ký biểu được ghi chép trong Tự Sa-môn Huyền Trang thướng biểu ký đã dẫn ở trước. Trong bài Ký tán lại nói “gác bút hoàn thành, toàn văn chép trên lụa trắng, trình lên hoàng đế xem qua”.[30] Như vậy, lẽ nào cùng một quyển sách này mà có 2 người dâng lên hoàng đế?

Về nghi vấn thứ nhất, chúng tôi tìm thấy trong tờ biểu dâng sách Tây vực ký lên hoàng đế của ngài Huyền Trang có một đoạn văn ngắn, có khả năng là đầu mối giải thích vấn đề. Trong biểu tấu này viết:

“... đến như những điều Huyền Trang ghi chép thật có phần tường tận; những văn từ rườm rà, lời hoa mỹ hiếm lạ phần nhiều đều cắt bỏ, biên tập lại thành sách Đại Đường Tây vực ký, gồm mười hai quyển, đã chép kỹ thành bản riêng. Huyền Trang vốn tư chất ngu độn, dốt nát trong việc biên khảo sự thật, mong được [bệ hạ] ban cho người có văn tài tô điểm thêm lời phụ, cắt bỏ chỗ rườm rà, chọn lấy phần đúng thật.”[31]

Như vậy, qua đoạn văn này chúng ta xác định được 2 thông tin quan trọng. Thứ nhất, ngài Huyền Trang đã thực sự hoàn tất việc biên soạn sách, trong đó có chọn lọc, cắt bỏ những chỗ rườm rà... và biên tập hoàn chỉnh thành bộ sách gồm 12 quyển. Bản thảo sách này được dâng lên Đường Thái Tông kèm theo với biểu tấu. Thứ hai, ngài Huyền Trang tự nhận mình không giỏi trong thể loại biên khảo này, nên xin nhà vua cho người có năng lực xem lại, thêm bớt để hoàn thiện.

Từ những thông tin này, kết hợp với những nghi vấn đã nêu ra, chúng ta có thể tạm suy luận về diễn tiến của sự việc. Đó là sau khi nhận bản thảo được Huyền Trang dâng lên, Đường Thái Tông có thể đã theo yêu cầu trong biểu tấu để chọn người có văn tài làm việc trau chuốt, hoàn thiện sách, và người được chọn là Biện Cơ. Như vậy, Biện Cơ đã làm việc với một bản thảo hoàn chỉnh, nên Ký tán nói “cung kính nhận tập ghi chép này”. Sau đó công việc của Biện Cơ là “thay đổi sắp xếp câu văn” để tập sách được hoàn thiện hơn. Tất nhiên, Biện Cơ hẳn đã nhận được yêu cầu “cắt bỏ chỗ rườm rà” như biểu tấu của Huyền Trang đã nói, cho nên trong Ký tán có lời tự nhận rằng “trí tuệ nông cạn, năng lực hạn hẹp, nhiều chỗ thiếu sót, hoặc có những câu văn thừa chưa được cắt bỏ”.[32]

Và nếu như vậy thì nghi vấn thứ hai cũng được giải quyết, vì sau khi Biện Cơ hoàn tất việc chỉnh sửa, biên tập, ông cũng tự mình dâng bản sách này lên hoàng đế như Ký tán nói: “Toàn văn chép trên lụa trắng, trình lên hoàng đế xem qua.”

Đến đây, chúng ta có thể đưa ra nhận xét tổng quát về các vấn đề đã nêu. Thứ nhất, nếu hiểu theo cách là chuyển dịch từ một ngôn ngữ khác thì rõ ràng là Huyền Trang không dịch Tây vực ký. Thứ hai, Huyền Trang đã tự mình tổng hợp dữ liệu để biên soạn Tây vực ký và dâng bản thảo lên nhà vua. Thứ ba, Biện Cơ không biên soạn sách này, nếu có tham gia thì cũng chỉ là người biên tập, chỉnh sửa hoàn thiện, nhưng điều này vẫn chưa chắc chắn.

Như vậy, vì sao trong Tục Cao tăng truyện xuất hiện thông tin rằng “Biện Cơ tự thân tiếp nhận sự việc theo thời gian, kết nối sắp xếp trước sau”? Có nhiều khả năng người bổ sung thông tin này vào Tục Cao tăng truyện đã dựa theo nội dung Ký tán với sự suy diễn, từ câu “giao cho kẻ tầm thường soạn sách địa chí này” mà cho rằng Biện Cơ là người biên soạn sách, và do đó ông phải “tự thân tiếp nhận sự việc” để làm căn cứ biên soạn. Tất nhiên cách suy diễn như vậy hoàn toàn không đúng.

Việc bài Ký tán đồng thời nêu ra 2 thông tin mâu thuẫn nhau là “biên soạn” và “sắp xếp câu văn” có thể dẫn đến nghi vấn: Liệu bài này có phải do Biện Cơ viết ra hay không? Ngoài ra, việc suy đoán trình tự như trên đúng là đã cho chúng ta một sự giải thích khá hợp lý về việc Biện Cơ vâng chỉ đọc lại và “sắp xếp câu văn”, nhưng chính thông tin trong bài Ký tán dường như lại bác bỏ suy đoán này. Ký tán nói “tháng 7, mùa thu năm Trinh Quán thứ 20, gác bút hoàn thành”,[33] nhưng tờ biểu dâng sách (Tiến Tây vực ký biểu) vừa dẫn trên cũng được ghi cùng thời gian đó. Ngày tháng ở đầu biểu tấu ghi: “Ngày 13 tháng 7 năm Trinh Quán thứ 20, Sa-môn Huyền Trang dâng.”[34] Như vậy, thời điểm Huyền Trang dâng biểu gần như trùng với thời gian nói trong Ký tán (hoặc chênh lệch không nhiều). Do đó, giả thuyết rằng sau đó Biện Cơ mới được giao tiến hành việc biên tập là không hợp lý.

Qua so sánh phân tích văn bản, chúng tôi cũng nhận thấy có rất nhiều khả năng bài Ký tán này không phải do Biện Cơ viết ra, mà do một người nào đó về sau đã viết và thêm vào sách.

Trước hết là cấu trúc lắp ghép khiên cưỡng của toàn bài văn. Xem xét kỹ cấu trúc của phần Ký tán này, chúng ta thấy nó được lắp ghép một cách thiếu mạch lạc bởi ít nhất 3 phần khác nhau. Phần thứ nhất có nội dung xưng tán đức Phật và giáo pháp, ca ngợi triều đình nhà Đường, xưng tụng ngài Huyền Trang và kể về chuyến đi của ngài, cho đến liệt kê những thành quả mang về... Phần thứ hai dẫn lời một vị “tiên sinh học thức” không tên tuổi, nói về quan điểm dịch thuật Phạn Hán nhưng lại dẫn lời Lão Tử, Hàn Phi Tử và kể chuyện Khổng Tử san định kinh Xuân Thu... Phần thứ ba bắt đầu từ nội dung tự giới thiệu của Biện Cơ, có vẻ như không liên quan gì đến phần thứ hai. Sau đó Biện Cơ trình bày việc vâng chỉ “sắp xếp câu văn” trong sách này, nêu một số chi tiết về nội dung sách và cuối cùng nói việc sách được hoàn thành dâng lên đức vua.

Trong cấu trúc 3 phần như nói trên, phần thứ hai không có bất cứ mối liên kết hợp lý nào với 2 phần trước nó và sau nó. Và nếu như cắt bỏ phần thứ hai này, thì phần thứ nhất và phần thứ hai cũng không có sự liên kết mạch lạc. Hơn thế nữa, trong mỗi phần đều có những điểm bất ổn khó hiểu. Trong phần thứ nhất, mạch văn được trình bày liên tục cho đến lúc ngài Huyền Trang quay về và mang theo xá-lợi Phật, tượng Phật cùng kinh luận. Nhưng sau khi hoàn tất việc liệt kê đầy đủ những gì được mang về thì đoạn văn tiếp theo bỗng quay lại nói về việc “ngài nhanh chóng quay về”, rồi tiếp tục mô tả đoạn đường đi về. Trình tự bất hợp lý, đảo ngược về thời gian khiến chúng ta rất khó tin rằng đây là một bài văn được viết ra liền mạch.

Trong phần thứ hai, ngoài việc được đưa vào ngay sau phần thứ nhất một cách đột ngột, khiên cưỡng qua việc giới thiệu “Có vị tiên sinh học thức”, thì toàn bộ nội dung phần này cũng có vẻ như hoàn toàn khác biệt. Phần này nêu lên một quan điểm dịch thuật Phạn Hán, nhưng lại dẫn những lời của Lão Tử và Hàn Phi Tử nói về phát ngôn nói chung hơn là về quan điểm dịch thuật. Sau đó dẫn việc Khổng Tử san định kinh Xuân Thu, học trò rất giỏi như Tử Du, Tử Hạ cũng “không thêm bớt được chữ nào” và so sánh việc này với việc dịch thuật của ngài Huyền Trang. Nhưng dịch trường của ngài Huyền Trang có rất nhiều người làm công việc trợ giúp để “thêm bớt” hoàn thiện bản dịch, trong đó Biện Cơ cũng là một trong số những người được giao việc nhuận sắc. Cho nên sự so sánh này là khập khiễng và cũng không thể dùng để phê phán cách dịch thuật của ngài Cưu-ma-la-thập, với sự trợ giúp của các đệ tử như Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ trong việc hoàn thiện bản dịch. Nếu toàn bài Ký tán này là do Biện Cơ viết, thì quả thật không thể nào hiểu được lý do vì sao ông lại đưa đoạn văn về “vị tiên sinh học thức” này vào đây. Điều này quả thật rất đáng ngờ.

Về văn phong và ý tứ, bài Ký tán này gợi ra khá nhiều nghi vấn.Trước hết, có những câu văn khiến ta không thể không ngờ vực, chẳng hạn như câu này: “Toại sử tam thừa áo nghĩa uất ư thiên tải chi hạ; thập lực di linh bí ư vạn lý chi ngoại.”[35]

So sánh với câu của Kính Bá viết trong Lời tựa: “Toại sử thụy biểu hằng tinh, uất huyền diệu ư thiên tải; mộng chương bội nhật, thần quang ư vạn lý.”[36]

Rất dễ dàng nhận ra những cách dùng lặp lại như “Toại sử... uất ư thiên tải..., bí ư vạn lý...” để diễn đạt cùng một ý tưởng tương tự, sử dụng cùng một đối pháp trong hai câu văn này. Quả thật rất khó để không nghi ngờ rằng một trong hai văn bản này đã sao chép của nhau. Nhưng Lời tựa của Kính Bá có độ khả tín vì xuất xứ rõ ràng của nó, cho nên nếu có sự sao chép thì chỉ có thể là bài Ký tán đã làm điều đó.

Và đây là một câu khác trong Ký tán: “Mạo viễn cùng hà, thật tư triều hóa; hoài kỳ toản dị, thành lại hoàng linh.[37]

Trong biểu tấu trùng thỉnh hoàng đế viết tựa kinh điển, ngài Huyền Trang viết: “Bằng hoàng linhviễn chinh, thị quốc uy nhi phỏng đạo; cùng hà mạo hiểm, tuy lệ ngu thành, toản dị hoài hoang, thật tư triều hoá.”[38]

Chúng ta thấy ngay câu văn trong Ký tán có những cách dùng tương tự với sự thay đổi nhỏ, như “lại hoàng linh” thay cho “bằng hoàng linh” đều có nghĩa gần như nhau là dựa vào uy linh hoàng đế. Hoặc “hoài kỳ toản dị” thay cho “toản dị hoài hoang”, đều mang nghĩa thu thập, ghi chép những điều kỳ lạ khác thường; “mạo viễn cùng hà” không khác mấy với “cùng hà mạo hiểm”, đều mang nghĩa mạo hiểm đi đường xa. Thậm chí còn có sự lặp lại nguyên vẹn như “thật tư triều hóa” (nhờ nơi sự giáo hóa của triều đình), cùng với sự xáo trộn thứ tự các cụm từ trong một câu văn rất ngắn, rõ ràng là một sự sao chép. Ngay cả khi không có sự cố ý đạo văn thì điều này cũng cho thấy Ký tán đã ra đời về sau và chịu ảnh hưởng nặng nề của các văn bản trước đó, bởi vì nếu bài văn được viết bởi một người giỏi văn chương đương thời như Biện Cơ thì không thể có những sự sao chép, lặp lại quá rõ ràng như vậy.

Về mặt ý tưởng, những trình bày trong Ký tán trùng lặp khá nhiều với những ý đã nói trong các lời tựa cũng như trong nội dung ngài Huyền Trang đã trình bày, từ việc xưng tán Phật và giáo pháp, ca ngợi vua Đường và triều đình... cho đến việc xưng tụng ngài Huyền Trang và đề cập đến nội dung Tây vực ký.

Đặc biệt, có một nguyên tắc quan trọng được nêu ra trong phần Ký tán: “Khi viết chữ hành là nơi ấy đích thân đi đến; khi nêu chữ chí là chỉ được nghe mà ghi chép lại.”[39] Tuy nhiên, khi khảo sát trong thực tế thì không phải lúc nào nguyên tắc này cũng đúng. Lấy ví dụ, khi nói về nước Phược-khái (縛喝), nguyên tác Hán văn chỉ dùng chữ “chí”, không có chữ “hành”,[40] nhưng theo Pháp sư truyện thì ngài Huyền Trang có đi đến đây. Ngược lại, khi nói về nước Mạt-la-củ-trá (秣羅矩吒), nguyên tác có dùng chữ “hành”,[41] nhưng theo Pháp sư truyện lại ghi rõ là ngài Huyền Trang không đi đến đó.[42] Do vậy, có thể xác định là nguyên tắc này không hoàn toàn đúng.

Điều này càng cho thấy rõ sự đáng ngờ của Ký tán, vì nếu Biện Cơ được giao vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện sách và đã làm việc thận trọng với văn bản thì có rất ít khả năng sai lầm như vậy.

Phần tự giới thiệu của Biện Cơ nếu xét kỹ cũng là một sự khác thường. Những người tham gia viết lời tựa như Kính Bá, Vũ Chí Ninh và ngay cả ngài Huyền Trang đều không tự giới thiệu về mình. Nếu xem mục đích của bài văn này là Tán (để tán tụng) hoặc Bạt (cuối sách) thì cả 2 thể loại ấy đều không cần đến sự tự giới thiệu khá chi ly này, từ dòng dõi, học vấn, địa vị cho đến việc được tin cậy giao phó công việc... Đặc biệt, những lời tự giới thiệu này vừa đọc qua thấy có vẻ như hết sức khiêm tốn, tự nhận mình có những phẩm chất thấp kém, nhưng thực ra lại là một cách thức ngấm ngầm khẳng định. Phía sau những phẩm chất kém cỏi mà tác giả nêu ra, điều thực sự độc giả được biết sau khi đọc qua lại là những yếu tố đặc biệt hơn người như dòng dõi thanh cao, đệ tử bậc danh sư, đứng chung hàng với các danh tăng đại đức (chim phượng chim hồng, dù là cuối hàng), được hoàng đế tin cậy giao phó (dù chỉ là kẻ tầm thường)... Ngay cả khi để nêu việc không thể tránh khỏi sơ sót, tác giả lại so sánh công việc của mình với Tư Mã Thiên soạn Sử ký thì thật khó xem là khiêm tốn thực sự. Tuy nhiên, sự khác thường trong đoạn tự giới thiệu này sẽ trở nên bình thường nếu như chủ đích của bài viết là để tạo ra sự khẳng định về việc Biện Cơ biên soạn Tây vực ký. Và nếu suy đoán này đúng thì có thể nói tác giả đã thành công. Nhưng nếu xét từ góc độ một vị tăng sĩ như Biện Cơ, nhất là khi viết bài Tán để tán tụng bậc thầy như ngài Huyền Trang mà lại đồng thời nói về mình như vậy thì quả thật có phần khác thường.

Cuối cùng, và có lẽ là cứ liệu thuyết phục nhất, lại chính là thông tin về thời gian trong bài Ký tán khi so sánh với nội dung biểu tấu của ngài Huyền Trang dâng sách này lên Đường Thái Tông vào ngày 13 tháng 7 niên hiệu Trinh Quán thứ 20. Trong biểu tấu viết:

“Huyền Trang vốn tư chất ngu độn, dốt nát trong việc biên khảo sự thật, mong được [bệ hạ] ban cho người có văn tài tô điểm thêm lời phụ, cắt bỏ chỗ rườm rà, chọn lấy phần đúng thật.”[43]

Nội dung này cho thấy rõ là đến thời điểm hoàn tất bản thảo và dâng lên vua, không có bất cứ sự tham gia biên tập nào của người khác, do đó Huyền Trang mới khiêm tốn tự nhận mình “ngu độn, dốt nát” để xin vua cho người đọc sửa, thêm bớt. Nếu trước đó đã có việc Biện Cơ vâng chỉ biên tập, thì trong biểu tấu không thể có câu này. Cho nên việc giao cho Biện Cơ biên tập, nếu có, chỉ có thể xảy ra sau thời điểm ngài Huyền Trang dâng sách. Thế nhưng, trong Ký tán lại ghi rõ “tháng 7, mùa thu năm Trinh Quán thứ 20, gác bút hoàn thành”. Như vậy, nếu xét đến tất cả những công đoạn như “cung kính nhận tập ghi chép này”, “Thượng thư cấp giấy bút”, “gắng sức đến mỏi mệt”, “thay đổi sắp xếp câu văn”, “toàn văn chép lên lụa trắng”... với một bộ sách quan trọng do đích thân nhà vua giao phó, mà có thể hoàn tất trong cùng tháng 7 năm này thì hoàn toàn bất khả thi.

Cho dù biểu tấu của Huyền Trang đề xuất việc cho người đọc lại, nhưng không có tư liệu nào cho thấy việc Đường Thái Tông chấp thuận và cho người biên tập sách. Trong thực tế có thể nhà vua đã hài lòng với bản thảo của ngài Huyền Trang và cho rằng đề nghị của Huyền Trang chỉ là do quá khiêm tốn.

Khả năng suy đoán ở đây có thể là người viết Ký tán đã sao chép chính ngày tháng hoàn thành tập sách được ghi trong tờ biểu dâng sách, và cho rằng như vậy sẽ tạo ra sự hợp lý vì thời gian hoàn thành sách là chính xác. Nhưng khi đặt 2 văn bản này cạnh nhau thì sự bất hợp lý đã lộ rõ vì không có thời gian cho công việc của Biện Cơ.

Tất cả những điều khác thường và bất hợp lý như trên khiến chúng tôi tin rằng bài Ký tán rất có thể không do Biện Cơ viết ra, mà do một người đời sau đã chế tác và đưa vào cuối sách sau khi tác phẩm đã lưu hành. Tuy không biết được sự ngụy tạo này có dụng ý gì, nhưng tác động thực tế của nó là đã làm phát sinh và củng cố giả thuyết sai lầm rằng Biện Cơ là người biên soạn Tây vực ký.

Nếu không có thêm phát hiện mới nào về các tư liệu đáng tin cậy, chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ biết chắc được động cơ thực sự của người viết Ký tán. Nhưng việc chế tác bài văn này và đưa thêm vào Tây vực ký là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Trong thực tế, cuối quyển 11 của sách này cũng đã có một phần văn bản được thêm vào rất vô lý và chúng tôi đã loại bỏ sau khi phát hiện. Vấn đề của Ký tán phức tạp hơn, vì nhìn thoáng qua nó có vẻ như hợp lý.

Có thể suy đoán về một trong hai khả năng là động cơ của người viết Ký tán. Thứ nhất, trong một thời điểm nào đó về sau, đã có lan truyền giả thuyết về việc Biện Cơ soạn Tây vực ký, và người viết Ký tán muốn củng cố giả thuyết đó. Thứ hai, có thể người viết Ký tán cũng là người đầu tiên làm phát sinh giả thuyết sai lầm này, nhưng sự tinh tế của việc lắp ghép đã khiến cho nó được tin nhận trong một thời gian dài mà chưa thấy ai đặt ra nghi vấn.

Chính vì vậy mà hầu hết các tư liệu ban đầu vào đời Đường như đã dẫn ra đều không nhắc đến tên Biện Cơ. Và vai trò của Biện Cơ được nhắc đến trong các nguồn tư liệu xuất hiện về sau này thì lại cho thấy có vẻ như chủ yếu đã dựa vào nội dung bài Ký tán. Nhưng thông tin trong bài Ký tán có nhiều mâu thuẫn đáng ngờ và bất hợp lý, do vậy rất có thể là không hề có việc Biện Cơ vâng chỉ “sắp xếp câu văn”. Cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa tìm được nguồn tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh điều ngược lại.

Vấn đề sai lệch tiếp theo là cách ghi nhận thời gian của các nghiên cứu trước đây. Hầu hết đều đã áp dụng một phương thức khó hiểu là giữ nguyên ngày tháng trong các tư liệu Hán văn cổ, vốn là dựa theo âm lịch, nhưng lại ghép chung với năm dương lịch. Điều này chỉ có thể chấp nhận trong những trường hợp đề cập chung chung, khái quát về một vấn đề, không đòi hỏi sự chính xác, nhưng trong việc nhận hiểu các vấn đề lịch sử thì hoàn toàn sai lệch. Chẳng hạn, khi đề cập đến Trinh Quán nguyên niên, người ta vẫn thường xem như tương đương với năm 627, nhưng để xác định chính xác thì Trinh Quán nguyên niên là năm Đinh Hợi âm lịch, phải nằm trong khoảng từ ngày 23 tháng 1 năm 627 đến ngày 10 tháng 2 năm 628.[44] Nếu không lưu ý đến khác biệt cụ thể này, sự sai lệch sẽ rất lớn khi xác định các mốc thời gian trong lịch sử.

Trong thực tế, Cunningham trích dẫn Julien khi soạn niên biểu hành trình trong Phụ lục A (Apendix A) của sách The Ancient Geography of India ghi rằng Huyền Trang khởi hành ngày 1 tháng 8 năm 629[45] (nhưng đúng ra phải là 24 tháng 8), còn Dương Đình Phúc tuy vẫn sử dụng cách ghi năm dương lịch nhưng lại giữ nguyên các ngày tháng âm lịch trong tư liệu, vì thế nói Huyền Trang khởi hành ngày 1 tháng 8[46] (nhưng đúng ra phải là 15 tháng 9). Dương Đình Phúc cũng ghi ngày về đến Trường An là 24 tháng 1, trong khi đúng ra phải là 25 tháng 2 năm 645. Điều này không chỉ dẫn đến khác biệt khi nhận hiểu về ngày tháng mà còn dẫn đến khoảng cách rất lớn giữa hai hệ thống lịch pháp. Chẳng hạn như trong suốt quãng thời gian hành trình của ngài Huyền Trang có 5 năm nhuận theo âm lịch, nghĩa là những năm có đến 13 tháng. Đó là các năm Canh Dần (630) nhuận tháng 2, Nhâm Thìn (632) nhuận tháng 6, Ất Mùi (635) nhuận tháng 4, Canh Tý (640) nhuận tháng 9 và Quý Mão (643) nhuận tháng 5. Nếu giữ nguyên ngày tháng theo âm lịch nhưng lại không tính đến sự khác biệt này thì việc ước tính thời gian hành trình sẽ sai lệch. Ngược lại, nếu chuyển đổi tất cả sang ngày tháng dương lịch tương đương thì không phát sinh sai lệch này, vì năm dương lịch không có các tháng nhuận.

Cũng liên quan đến thời gian, cần nói đến một khác biệt lớn giữa các nhà nghiên cứu Tây vực ký hiện nay, đó là thời điểm khởi hành từ Trung Hoa của ngài Huyền Trang. Ngay trong Tây vực ký, Lời tựa của Kính Bá có ghi rõ việc ngài Huyền Trang khởi hành vào niên hiệu Trinh Quán thứ ba (629) và thông tin này cũng được lặp lại ở hầu hết các sách khác khi viết về tiểu sử ngài Huyền Trang hoặc nhắc đến chuyến đi của ngài sang Ấn Độ. Những tư liệu quan trọng như Pháp sư truyện hoặc Tục Cao tăng truyện cũng đều nói rằng ngài Huyền Trang từ Trường An ra đi vào tháng 8, niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba.

Tuy nhiên, trong biểu tấu dâng lên vua Đường Thái Tông để thỉnh cầu viết lời tựa cho việc lưu hành kinh điển đã dịch, ngài Huyền Trang tự nói rõ việc đi thỉnh kinh là vào năm Trinh Quán nguyên niên: “Sa-môn Huyền Trang thưa: Huyền Trang này vào năm đầu niên hiệu Trinh Quán đã đi sang Tây Vực.” Toàn văn tờ biểu này được chép trong Quảng Hoằng Minh Tập.[47]

Trong một biểu tấu khác dâng lên nhà vua khi quay về đến nước Cù-tát-đán-na (Vu-điền), ngài Huyền Trang viết “...trải xem khắp nơi mười bảy năm qua”.[48] Lúc đó là năm Trinh Quán thứ 18 (644), nếu tính từ năm ra đi là 629 thì chỉ có 15 năm, hoặc theo cách tính luôn cả năm đi lẫn năm về thì cũng chỉ có 16 năm, cả 2 cách tính đều không phù hợp. Nhưng nếu tính ngài ra đi năm 627 thì đến năm 644 là đúng 17 năm.

Pháp sư truyện kể việc ngài Huyền Trang ra đi vừa đến Kinh Châu ghi rằng: “Bấy giờ chính sự trong nước hãy còn mới, biên cương chưa mở rộng, nghiêm cấm dân chúng không cho ra khỏi nước.”[49] Đáng chú ý ở đây là, Đường Thái Tông lên ngôi vào tháng 9 năm 626, lấy niên hiệu Trinh Quán nguyên niên là năm 627. Điều này cho thấy, thời điểm ngài Huyền Trang ra đi hẳn phải là năm 627, cho nên nói “chính sự trong nước hãy còn mới”. Nếu khi ấy là năm 629, trải qua 3 năm cầm quyền rồi thì sao có thể gọi là “mới”?

Việc ngài Huyền Trang khởi hành vào Trinh Quán nguyên niên cũng được Cựu Đường thư ghi chép trong phần nói về ngài Huyền Trang: “Vị tăng Huyền Trang, họ Trần... ... đầu niên hiệu Trinh Quán, theo các thương nhân đi sang Tây vực.[50]

Những cứ liệu này làm nảy sinh nghi vấn (và tranh luận) về thời điểm khởi hành sang Ấn Độ của ngài Huyền Trang, có thể không phải năm Trinh Quán thứ ba (629), mà là Trinh Quán nguyên niên (627). Học giả Tiền Đại Hân (錢大昕, 1728-1804) vào đời nhà Thanh có lẽ là người đầu tiên nêu ra nghi vấn này. Tuy nhiên, với quá nhiều các tài liệu ghi chép khác, nên các thông tin như trên dường như chưa đủ thuyết phục.

Vào năm 1921, Lương Khải Siêu (梁启超, 1873-1929) trong Trung Quốc Lịch Sử Nghiên Cứu Pháp (中國歴史研究法) nhắc lại nghi vấn này và dẫn Tân Đường thư để chứng minh rằng năm xuất du của Huyền Trang là Trinh Quán nguyên niên: “Năm Trinh Quán thứ hai, Diệp Hộ chết, trong nước ấy loạn lạc...”[51]

Diệp Hộ tức là Khả-hãn Diệp Hộ, người mà ngài Huyền Trang đã gặp tại Thiên Tuyền. Và như vậy, nếu ngài Huyền Trang khởi hành vào năm thứ ba (629) thì không thể gặp vị Khả-hãn này.

Có giả thuyết cho rằng ngài Huyền Trang đã gặp vị Khả-hãn khác và nhầm lẫn cho rằng đó là Khả-hãn Diệp Hộ. Tuy nhiên, Pháp sư truyện ghi chép chi tiết cho thấy ngài Huyền Trang biết rất rõ về ông. Khi đến Hoạt quốc gặp vị Đát Độ Thiết ở đây, ngài Huyền Trang cho biết ông này là “con trai trưởng của Khả-hãn Diệp Hộ, cũng là em rể vua Cao Xương”.[52] Chi tiết này cho thấy ngài Huyền Trang không chỉ gặp thoáng qua, mà là hiểu biết rất cặn kẽ về thân thế, dòng tộc. Do vậy không thể có sự nhầm lẫn.

Tân Đường thư cũng ghi chép tương tự là sau khi Khả-hãn Diệp Hộ chết, tình hình Đột Quyết trở nên hỗn loạn, các phe phái liên tục đánh nhau, thậm chí vua Đường Thái Tông sai sứ giả sang viếng nhưng không thể đi đến nơi được: “Hoàng đế muốn đưa ngọc và lụa đến thiêu tại tang lễ bên nước ấy, nhưng gặp loạn lạc, không đi đến được.”[53]

Tình hình bất ổn đó còn kéo dài nhiều năm sau, cho nên “tìm trong cả 2 bộ Đường thư, từ năm 629 (Trinh Quán thứ ba) cho đến năm 633 (Trinh Quán thứ bảy) đều không thấy một cuộc đi sứ qua lại nào giữa nhà Đường và Đột Quyết”.[54] Thế nhưng Pháp sư truyện kể việc ngài Huyền Trang gặp Khả-hãn Diệp Hộ lại có đoạn viết: “Lát sau, lại dẫn sứ nhà Hán và sứ nước Cao Xương vào, trình quốc thư và tín vật...”[55] Nếu ngài Huyền Trang ra đi năm 629, đến Thiên Tuyền năm 630, trong tình hình loạn lạc như đã nói thì làm sao có sứ giả nhà Hán đến gặp Khả-hãn?

Như vậy, trong tình hình chiến sự hỗn loạn thì ngài Huyền Trang không thể ra đi vào năm 629. Nhưng thực tế ngài Huyền Trang đã đi và gặp Khả-hãn Diệp Hộ ở Thiên Tuyền, rồi bình yên đi qua các nước thuộc Đột Quyết, điều này cho thấy chuyến đi phải được thực hiện trước khi loạn lạc xảy ra.

Có thể thấy rõ hơn bối cảnh chiến tranh trong giai đoạn này qua truyện Công Tôn Vũ Đạt (公孫武達) được chép trong Cựu Đường thư:

“Công Tôn Vũ Đạt, người huyện Lạc Dương, Ung Châu. Từ nhỏ đã có sức mạnh hơn người, nổi tiếng hào hiệp... ... Đầu niên hiệu Trinh Quán (627), ông giữ chức Kiểm hiệu Hữu giám môn tướng quân, sau thăng chức Thứ sử Túc Châu. Hơn một năm sau, mấy ngàn kỵ binh Đột Quyết cùng hơn 10.000 xe lương thực khí giới xâm nhập Túc Châu, định tiến về phía nam vào đất Thổ cốc hồn. Vũ Đạt dẫn 2.000 quân đụng độ với quân tinh nhuệ của địch, giao chiến ác liệt, quân địch lui dần. Ông cho quân đánh gấp tới, cuối cùng quân địch đại bại, bị dồn đến sông Trương Dịch...”[56]

“Hơn một năm sau” tức là vào năm Trinh Quán thứ hai, phù hợp với Tân Đường thư nói “Năm Trinh Quán thứ hai, Diệp Hộ chết, trong nước ấy loạn lạc...” Khi Khả-hãn Diệp Hộ còn sống, quan hệ với nhà Đường rất tốt, sứ thần thường xuyên qua lại. Sau khi Diệp Hộ chết, nội bộ Đột Quyết tranh giành quyền lực, liên tục đánh nhau và cũng đồng thời thường xuyên quấy phá biên giới phía bắc của nhà Đường. Tình hình này ngày càng căng thẳng, cho đến năm Trinh Quán thứ ba (629), Đường Thái Tông phải cho quân chinh phạt. Chiến sự vào năm này được ghi trong Cựu Đường thư ở truyện về Lý Tĩnh (李靖):

“Năm Trinh Quán thứ ba, [Lý Tĩnh] được phong làm Tổng quản Hành quân đạo Thông Mạc. Khi [tiến quân] đến Vân Trung, gặp quân Đột Quyết của Khả-hãn Hiệt-lợi, hai bên đại chiến ở Bạch Đạo. Quân Đột Quyết thua, lui về đóng trại tại Khích khẩu, sai sứ cầu hòa.”[57]

Cuộc chiến vẫn kéo dài đến tháng 4 năm Trinh Quán thứ tư, khi Khả-hãn Hiệt-lợi bị bắt thì quân Đột Quyết mới được dẹp yên. Từ đó, Đột Quyết thần phục và tôn xưng Đường Thái Tông là Thiên Khả-hãn (天可汗). Cựu Đường thư ghi chép việc này trong quyển 3, Thái Tông bản kỷ, phần hạ:

“Mùa hạ, tháng tư, ngày Đinh Dậu, [Thái Tông] ngự tại Thuận Thiên môn, quân sĩ bắt được Hiệt-lợi giải đến, dâng tin thắng trận. Từ đó, các phiên thuộc phía tây bắc đều tôn xưng [Đường Thái Tông] là “Thiên Khả-hãn”, bấy giờ triều đình ban chiếu thư cùng ngọc ấn sắc phong cho các thủ lĩnh, kiêm dùng cả hai tôn hiệu.”[58]

Những ghi chép cụ thể từ các nguồn tư liệu như trên cho thấy rõ bối cảnh lịch sử hỗn loạn trong giai đoạn từ năm Trinh Quán thứ hai (628) cho đến đầu năm Trinh Quán thứ tư (630). Như vậy, đường đi về biên giới phía bắc không thể có được khung cảnh bình yên trong những năm này. Tuy nhiên, Pháp sư truyện kể việc ngài Huyền Trang đến Lương châu nói rằng:

“Dừng lại hơn một tháng, hàng tăng sĩ và cư sĩ đều thỉnh giảng các kinh Niết-bàn, Nhiếp luận và Bát-nhã, Pháp sư đều vì họ khai giảng. Lương Châu là đô hội của vùng Hà Tây, nằm ở vị trí then chốt nối với các nước Tây Phiên và vùng Thông lĩnh, thương nhân qua lại không lúc nào ngưng dứt.
Vào những ngày khai giảng, người đến nghe rất đông, ai nấy đều cúng dường vật quý báu, cúi đầu đảnh lễ và tán thán...”[59]

Với khung cảnh được mô tả như trên, chúng ta thấy việc buôn bán giao thương vẫn tấp nập qua lại. Đặc biệt, những ngày giảng kinh đều có đông người đến nghe, cúng dường lễ vật... Điều này hoàn toàn không giống với bối cảnh thời loạn. Nếu đặt khung cảnh này vào năm Trinh Quán thứ ba thì thực sự rất đáng ngờ.

Xét tất cả các yếu tố trên thì có phần chắc là ngài Huyền Trang đã ra đi vào Trinh Quán nguyên niên (627) chứ không phải vào năm Trinh Quán thứ ba (629).

Như vậy tại sao hầu hết các tài liệu hiện còn đều ghi là “Trinh Quán tam niên” thay vì “Trinh Quán nguyên niên”? Tất nhiên, các tác giả đương thời như Kính Bá, Huệ Lập, Ngạn Tông, Đạo Tuyên... hẳn không thể nào nhầm lẫn như vậy. Việc ngài Huyền Trang đi Ấn Độ là sự kiện quan trọng diễn ra ngay trong cuộc đời họ và khi chấp bút kể lại thì vẫn chưa quá lâu nên không thể có sự sai lầm. Tuy nhiên, có thể giả định rằng sự sai lệch này đã diễn ra rất lâu về sau qua sự sao chép, khắc in lại tác phẩm. Đối với các bản chép tay, sự khác biệt giữa chữ nguyên (元) và chữ tam (三) không lớn lắm và rất dễ nhầm lẫn nếu bản gốc bị nhòe hoặc sờn rách... Sai lệch đầu tiên có thể đã xảy ra với một vài bản sao chép nào đó và lâu ngày được nhân rộng thành nhiều bản. Khi sự nhầm lẫn về sau vô tình được cho là đúng, thì ngược lại chính những bản in đúng sẽ bị cho là sai, và quá trình “hiệu đính ngược” có thể đã diễn ra trong nhiều thế kỷ, khiến cho các bản sai lệch dần trở thành tuyệt đại đa số, cho dù hiếm hoi vẫn còn những tài liệu chép đúng như trong Quảng Hoằng Minh Tập và Cựu Đường thư.

Dù sao thì đây cũng chỉ là giả thuyết nhằm giải thích một thực tế sai lệch mà chúng ta đã chứng minh được. Sự sai lệch này cần thiết phải được điều chỉnh để người đọc có thể hiểu đúng về Tây vực ký mà không nảy sinh sự hoài nghi khi so sánh với các sự kiện đương thời trong lịch sử. Bởi vì ngài Huyền Trang là một nhân vật lịch sử, việc ngài đi Ấn Độ thỉnh kinh là một sự kiện lịch sử, do đó nhất thiết phải được đặt trong bối cảnh lịch sử xác thật. Qua các tư liệu đã dẫn trên, việc xác định thời điểm khởi hành của ngài vào niên hiệu Trinh Quán thứ ba sẽ không phù hợp, trong khi thời điểm khởi hành vào niên hiệu Trinh quán nguyên niên khi loạn lạc chưa xảy ra là hoàn toàn hợp lý.

Ngoài các vấn đề đã nêu, bản in Đại Đường Tây vực ký hiện còn lưu giữ hai bài tựa đầu sách. Sai lệch tiếp theo mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là về tác giả của bài tựa thứ hai. Khác với bài tựa thứ nhất chỉ xuất hiện trong một số bản in, bài tựa thứ hai được in ở tất cả các phiên bản khác nhau của Đại Đường Tây vực ký.

Hiện bản in trong Đại Chánh Tạng ghi: “尚書左僕射燕國公張說製 - Thượng Thư Tả Bộc Xạ Yên Quốc Công Trương Thuyết chế”. Tuy nhiên, hai bản in trong Càn Long Tạng và Vĩnh Lạc Bắc Tạng chỉ ghi danh hiệu, không có tên Trương Thuyết: “尚書左僕射燕國公製 - Thượng Thư Tả Bộc Xạ Yên Quốc Công chế”.

Trương Thuyết sinh năm 667 và mất năm 731. Theo nội dung, chúng ta biết là bài tựa này được viết trong thời gian trị vì của Đường Cao Tông, tức trong khoảng 649-683, vì trong bài gọi ông vua này là “kim thượng”: 今上昔在春闈裁述聖記凡五百七十九言。 - Kim thượng tích tại xuân vi, tài “Thuật Thánh Ký”, phàm ngũ bách thất thập cửu ngôn.” (Đức vua hiện nay, xưa kia khi còn là thái tử có soạn bài Thuật Thánh Ký gồm 579 chữ.)

Như vậy, tuy không thể xác định chắc chắn bài tựa được viết vào năm nào, nhưng phải là lúc Đường Cao Tông còn đang tại vị, cho nên muộn nhất cũng chỉ có thể là vào năm 683, vì Đường Cao Tông mất vào cuối năm này.

Nhưng vào năm 683 thì Trương Thuyết chỉ mới 16 tuổi, chắc chắn không có khả năng viết ra bài tựa với lời lẽ như thế này. Hơn nữa, vào lúc đó thì ông chưa phải là Yên Quốc Công, vì con đường quan lộ của ông vốn gập ghềnh, nhiều lần bị giáng tội, và phải đến đời Đường Huyền Tông (712-716) mới được phong Yên Quốc Công.

Truy tìm trong lịch sử thời nhà Đường, chúng ta thấy có một người khác mang tước hiệu này là Vu Chí Ninh (于志寧), có đủ điều kiện hợp lý để viết ra bài tựa này. Ông sinh năm 588, mất năm 665, được phong Yên Quốc Công vào năm 650, tức một năm sau khi Đường Cao Tông lên ngôi. Tiếp theo, năm 651 ông nhậm chức Thượng Thư Tả Bộc Xạ (尚書左僕射), hoàn toàn đúng với dòng chức vị ghi trên.

Vu Chí Ninh là một học giả uyên bác nổi tiếng đương thời, rất có khả năng là tác giả của bài tựa này. Và như vậy, chúng ta biết thêm một điều là bài tựa chắc chắn phải được viết trong khoảng từ năm 651 đến năm 665 là năm ông qua đời. Sự nhầm lẫn rất rõ ràng này của bản Đại Chánh Tạng[60] bắt nguồn từ việc hai người cùng mang danh hiệu Thượng Thư Tả Bộc Xạ Yên Quốc Công, nhưng những người biên tập đã sơ ý không thấy được sự bất hợp lý về niên đại.[61]

Và vì không có người nào khác mang tước hiệu Yên Quốc Công trong giai đoạn lịch sử này, nên chúng ta có thể kết luận chắc chắn Vu Chí Ninh chính là tác giả của bài tựa thứ hai viết cho sách này.

Sự truy cứu như vậy cũng cho chúng ta thấy ra một điểm nữa là bài tựa này không được viết ra cùng lúc khi sách được hình thành vào năm 646 (niên hiệu Trinh Quán thứ 20). Lý do là thứ nhất là vì để ký tên với danh hiệu Thượng Thư Tả Bộc Xạ Yên Quốc Công, Vu Chí Ninh phải viết bài tựa này sớm nhất cũng là vào năm 651, sau khi ông được phong Thượng Thư Tả Bộc Xạ. Lý do thứ hai là vì Vu Chí Ninh gọi Đường Cao Tông là “đức vua hiện nay”, cho nên bài tựa được viết sớm nhất cũng phải vào năm 649 là năm Đường Cao Tông lên ngôi. Kết hợp hai lý do này thì biết rằng bài tựa đã được viết ra cho một lần in nào đó trong khoảng năm 651 đến năm 683 (là năm mất của Đường Cao Tông), không thể có trong bản in đầu tiên của năm 646.

Ngoài hai bài tựa có trong nguyên bản vừa được đề cập trên đây, bản dịch A trước đây có chọn đưa thêm vào bài tựa của vua Đường Thái Tông viết cho việc in ấn Đại Tạng Kinh, được gọi là “Tam Tạng Thánh Giáo Tự” (三藏聖教序), trích từ Quảng Hoằng Minh tập (廣弘明集), quyển 22 (Đại Chánh Tạng, Tập 52, kinh số 2103, trang 258). Nội dung này rất thích hợp để đưa vào sách, nhưng rất tiếc là bản dịch trước đây có nhiều sai sót và không rõ nghĩa, chẳng hạn như cụm từ “tứ bát chi tướng” (四八之相) đã bị dịch thành “bốn tám tướng”, trong khi ý muốn nói của nguyên tác là “ba mươi hai tướng” (4 x 8 = 32), để chỉ 32 tướng tốt của đức Phật. Ngoài ra còn có khá nhiều sai sót khác nên chúng tôi đã phải chuyển dịch lại toàn bộ bài này.

Tiếp theo, trong nội dung quyển thứ nhất chúng tôi xét thấy phần mở đầu thật ra có vẻ như được viết cho nguyên bộ sách, không phải chỉ dành cho quyển này, có nêu rõ nguyên do duyên khởi cũng như ý nghĩa chính khi hình thành tập sách. Do vậy, chúng tôi đã tách phần này ra khỏi quyển thứ nhất và đưa lên trước đó thành một lời tựa của sách, do chính ngài Huyền Trang viết. Cả 3 lời tựa của sách sẽ được phân biệt qua tên tác giả mà không ghi là thứ nhất, thứ hai, thứ ba.

Ngoài ra, văn bản trong Đại Chánh tạng cũng vấp phải một vài vấn đề về nội dung cần xem lại.

Thứ nhất là phần thêm vào ở cuối quyển 11 (thuộc Tập 51, kinh số 2087), bắt đầu từ dòng 17 trang 938, tờ c cho đến dòng 22 trang 939, tờ a. Toàn bộ nội dung này lặp lại một số chi tiết về nước Tăng-già-la (Tích Lan) đã nói ở trước đó và kể chuyện viên thái giám Trịnh Hòa được hoàng đế Minh Thành Tổ phái sang Tích Lan vào năm 1405 (niên hiệu Vĩnh Lạc năm thứ 3). Chỉ cần xét yếu tố thời gian đã thấy ngay đây là phần được thêm vào, không có trong nguyên bản của Tây Vực Ký. Ngoài ra, nội dung phần thêm vào cũng hoàn toàn không thích hợp, vì không có liên quan gì đến nội dung tác phẩm. Do vậy, chúng tôi đã quyết định cắt bỏ phần này nhằm khôi phục diện mạo ban đầu của tác phẩm. Cũng cần lưu ý thêm là cả hai bản Càn Long Tạng và Vĩnh Lạc Bắc Tạng đều không có phần thêm vào này.

Thứ hai là về đoạn gần cuối quyển 12, từ chữ cuối cùng của dòng 15 trang 945, tờ c đến hết dòng 22 cùng trang. Nội dung này hoàn toàn tách biệt với nội dung trước đó, vì mang ý nghĩa kết luận cho toàn bộ sách. Tuy nhiên, bản in Đại Chánh tạng cũng như cả hai bản Càn Long tạng và Vĩnh Lạc Bắc tạng đều ghi chép liên tục với phần văn trước mà không ngắt đoạn, cụ thể như sau:

復此東北行千餘里,至納縛波故國,即樓蘭地也。 推表山川,考採境壤,詳國俗 之 剛 柔,繫水土之 風氣,動 靜無常,取捨不同,事 難窮驗,非可仰說。

Phục thử đông bắc hành thiên dư lí chí Nạp-phược-ba cố quốc, tức Lâu-lan địa dã. Suy biểu sơn xuyên, khảo thái cảnh nhưỡng, tường quốc tục chi cương nhu, hệ thuỷ độ chi phong khí, động tĩnh vô thường, thủ xả bất đồng, sự nan cùng nghiệm, phi khả ngưỡng thuyết.

Điều này đã dẫn đến nhầm lẫn như trong bản dịch C (dịch sang Anh ngữ) như sau:

From this going north-east a thousand li or so, we come to the old country of Navapa (Na-fo-po), which is the same as Leu-Ian. We need not speak of the mountains and valleys and soil of this neighbouring country. The habits of the peo-ple are wild and unpolished, their manners not uniform; their preferences and dis-likes are not always the same. There are some things difficult to verify to the ut-most, and it is not always easy to recollect all that has occurred.

Phần được chúng tôi in nghiêng là thuộc về đoạn văn kết luận, hoàn toàn tách biệt, nhưng do không được chia tách trong nguyên bản nên đã khiến dịch giả nhầm lẫn không phân biệt được và xem như một đoạn mô tả về nước cổ Nạp-phược-ba, nhưng điều này là hoàn toàn không hợp lý vì những thông tin nói về nguyên tập sách đã bị hiểu thành thông tin về riêng một nước này. Đoạn văn này đã được chúng tôi tách hẳn ra và dịch sang tiếng Việt như sau:

Từ nơi đây tiếp tục đi về hướng đông bắc, khoảng 600 km thì đến nước cổ Nạp-phược-ba, tức là đất cũ của người Lâu-lan.

LỜI KẾT

[Sách này trình bày về các nước vùng Tây Vực,] nêu hình thể núi sông, khảo sát ghi chép ranh giới đất đai từng vùng, mô tả tánh khí cương nhu [của người dân] mỗi nước, cũng ghi nhận liên quan đến phong tục, khí hậu. Do sự việc biến động không ngừng nên những chi tiết lấy bỏ [khi biên soạn] không giống nhau. Hơn nữa, những việc [nêu ra] đều khó lòng khảo nghiệm đến cùng, nhưng cũng không thể tùy tiện theo chủ quan mà nói.... ...

Như trên, chúng tôi đã căn cứ vào nội dung để tách đoạn văn này (và phần tiếp theo đó) ra thành một phần độc lập (Lời Kết), là lời ngài Huyền Trang kết luận về việc biên soạn sách.

Ngoài ra, trong lần cập nhật này, chúng tôi cũng bổ sung vào đầu sách biểu tấu của ngài Huyền Trang thỉnh cầu vua Đường Thái Tông viết bài tựa cho kinh điển[62] cùng với sắc chỉ hồi đáp của nhà vua,[63] theo sau đó là bài tựa của vua Đường Thái Tông viết cho việc in ấn Đại Tạng Kinh, được gọi là Tam Tạng Thánh Giáo Tự.[64] Cả 3 văn bản này đều hữu ích trong việc làm rõ tầm quan trọng của việc thỉnh kinh và vai trò chuyển dịch kinh điển của ngài Huyền Trang, cũng như cho thấy mối quan hệ tốt đẹp giữa ngài Huyền Trang với triều đình nhà Đường, vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng trong suốt tiến trình chuyển dịch kinh điển.

Đó là một số những thay đổi, bổ sung, điều chỉnh của chúng tôi trong quá trình chuyển dịch, nhằm giúp cho cấu trúc của tập sách được hợp lý và dễ tiếp nhận hơn.

Ngoài ra, trong quá trình chuyển dịch, chúng tôi đã cố gắng trung thành với nguyên tác và thực hiện nhiều chú thích để giúp độc giả dễ dàng hơn trong việc nhận hiểu. Chúng tôi cũng áp dụng một số quy ước sau đây:

- Về cách viết từ ngữ phiên âm: chúng tôi trình bày thống nhất theo cách sử dụng gạch nối để thể hiện từ phiên âm. Ví dụ như “nước Bạt-lộc-ca”, vì phiên âm từ chữ Baluka, nhưng “thành Vương Xá” vì đây không phải từ phiên âm. Hoặc như “vua A-du-ca”, vì phiên âm từ chữ Aśoka, nhưng “vua Vô Ưu” vì là tên dịch nghĩa, không phải phiên âm. Tuy nhiên, trong tên gọi Một-đặc-già-la tử thì chữ “tử” không thuộc thành phần phiên âm nên không có gạch nối.

- Về những cách phiên âm khác nhau: chúng ta đều biết là luôn có ít nhất hai cách phiên âm khác nhau đối với mỗi một từ Phạn ngữ, do sự khác biệt giữa các nhà Cựu dịch (trước ngài Huyền Trang) và các vị Tân dịch (từ ngài Huyền Trang trở về sau). Chẳng hạn, Aśoka được phái Cựu dịch phiên âm là A-dục và Tân dịch phiên âm là A-du-ca. Trong nguyên bản, ngài Huyền Trang thường xuyên nêu ra sự khác biệt này và luôn gọi cách phiên âm của các nhà Cựu dịch là “ngoa dã - 訛也”, nghĩa là sai lầm. Tuy nhiên, ngôn ngữ vốn là quy ước, và bất kỳ quy ước nào được đa số trong cộng đồng chấp nhận thì đều không còn là sai nữa. Ngài Huyền Trang cho là sai vì thấy không gần với âm Phạn ngữ mà ngài được nghe biết, nhưng cách phiên âm “sai” đó đã tồn tại và được đa số chấp nhận nên không thể gọi là sai nữa. Chẳng hạn như trong ví dụ vừa nêu trên, tên gọi vua A-dục ngày nay vẫn quen thuộc và được nhận biết bởi đại đa số Phật tử, trong khi cách gọi A-du-ca lại rất ít người biết đến. Xét trong ý nghĩa đó, chúng tôi đã lược đi những chữ “ngoa dã” này trong nguyên bản, và thay vào đó chỉ đưa vào chú thích những cách phiên âm khác biệt để người đọc được biết. Trong hầu hết các trường hợp, chúng tôi đều ghi lại đúng theo cách phiên âm của nguyên tác, như Ổ-ba-hy (thay vì Ưu-ba-ly) hay La-hỗ-la (thay vì La-hầu-la), trừ một số ít ngoại lệ như hai chữ tỳ-kheo vẫn được dùng vì đã quá quen thuộc với người đọc, thay vì phiên âm là bật-sô như cách đọc của ngài Huyền Trang. Hoặc như Ta-bà, thay vì Sách-ha, Tu-di thay vì Tô-mê-lô, bởi những cách phiên âm này đã quá quen thuộc, so với cách phiên âm theo ngài Huyền Trang trong những trường hợp này rất ít người biết.

- Về hình thức, ngài Huyền Trang đã sử dụng xen kẽ hai phần khác biệt nhau về nội dung mà chúng tôi tạm gọi là văn tả và văn thuật. Để độc giả dễ dàng phân biệt theo dõi, chúng tôi đã trình bày với hai hình thức khác biệt nhau. Văn tả là phần miêu tả thực sự những gì ngài Huyền Trang nhìn thấy hoặc nghe biết vào thời điểm đi đến đó, sẽ được trình bày theo định dạng thông thường, trong khi văn thuật là những nội dung thông tin khác có liên quan đến nơi được miêu tả, chẳng hạn như những câu chuyện kể, những truyền thuyết hoặc thậm chí là những nội dung kinh điển... sẽ được trình bày theo dạng cách hẳn lề trái. Ví dụ như sau đây:

... Phía đông bắc của con sông lớn có một ngôi chùa, tăng sĩ rất ít, việc tu học thanh tịnh, cao thượng. Từ chùa này đi về hướng tây, dựa vào bến sông có một ngọn tháp cao hơn 10 mét, phía nam là một dòng sông hẹp, nơi đức Đại Bi Thế Tôn hóa độ các ngư dân.

Lúc Phật còn tại thế, có 500 ngư dân kết thành một nhóm cùng nhau đánh bắt các loài tôm cá. Tại sông này, họ bắt được một con cá lớn có 18 đầu, mỗi đầu có hai mắt, liền muốn giết hại. Lúc đó, đức Như Lai đang ở nước Phệ-xá-ly, dùng thiên nhãn thấy được, khởi tâm đại bi muốn nhân cơ hội này để giáo hóa, khai ngộ... ...

Đoạn văn “tả” tái hiện những gì ngài Huyền Trang nhìn thấy và biết được trong thực tế lúc đó. Tiếp theo, đoạn văn “thuật” kể lại câu chuyện đức Phật hóa độ các ngư dân, liên quan đến vị trí ngọn tháp vừa mô tả. Mặc dù đây là một sự phân biệt rất rõ ràng trong tác phẩm, nhưng trong nguyên tác cũng như tất cả những bản dịch đã có đều không thấy trình bày thể hiện sự phân biệt này.

- Về đơn vị đo lường, trong sách này sử dụng chủ yếu các đơn vị như sau:

- Phân (分) = 0.333 cm

- Thốn (寸) = 10 phân = 3.33 cm

- Xích (尺) = 10 thốn = 33 cm = 0.333 mét

- Bộ (步) = 5 xích = 1.65 mét

- Nhận (仞) = 7 xích[65] = 2.33 mét

- Trượng (丈) = 10 xích = 2 bộ = 3.33 mét

- Lý (里) = 323 mét = 0.323 km (số đo vào đời Đường)

- Khoảnh (頃) = 66.670 m2 = 6,667 hec-ta

Khi chuyển dịch, các bản dịch đã có đều chọn những cách khác nhau. Chẳng hạn, bản dịch B giữ nguyên con số của nguyên bản và dịch thành những tên quen thuộc như dặm, thước, tấc, phân v.v... Nhưng đơn vị dặm trước hết là không quen thuộc với người Việt, một độc giả thông thường khó có thể hình dung được. Nhược điểm thứ hai là một số người đọc dễ dàng nhầm lẫn với đơn vị dặm (mile) của phương Tây, hiện nay rất phổ biến, nhưng dặm (mile) thì dài đến 1.6 km, trong khi dặm (lý) chỉ bằng 0.323 km mà thôi. Đó là chưa nói đến việc độ dài của dặm (lý) ở Trung Hoa còn có giá trị thay đổi qua từng thời đại. Tương tự, dùng “thước” thì cần phân biệt “thước ta” với “thước tây” tức là mét. Dùng “phân” thì rất dễ nhầm lẫn với cen-ti-mét v.v... Ngoài ra có một nhầm lẫn rất lớn ở các bản dịch là hiểu chữ bộ (步) như “bước chân”, trong khi tác giả dùng nó như một đơn vị. Mỗi bộ là 5 xích, tương đương khoảng 1.65 mét, trong khi mỗi bước chân có độ dài không cố định và thường cũng không quá 1 mét.

Bản dịch C và bản dịch D cùng chọn cách rất khó hiểu đối với các đơn vị xích và thốn, đó là giữ nguyên con số trong nguyên bản nhưng lại chuyển dịch sang đơn vị của hệ đo lường phương Tây (foot, inch...). Như vậy, ngọn tháp cao 200 xích được dịch thành “200 feet”, tức là khoảng 61 mét. Trong khi thực tế 200 xích là khoảng 66.6 mét, sai lệch đến 10%.

Do vậy, khi chuyển dịch chúng tôi quyết định chuyển đổi hầu hết các đơn vị cổ này sang đơn vị hiện đại, nhằm giúp người đọc có một sự nhận hiểu trực tiếp dễ dàng hơn. Một ngọn tháp cao 33 mét sẽ được hình dung dễ dàng và chính xác hơn là cao 100 thước, cũng như đoạn đường dài 65 km sẽ được nhận hiểu dễ dàng hơn là 200 dặm. Riêng với các đơn vị ít sử dụng như đấu (斗), thăng (升)... chúng tôi giữ nguyên theo nguyên bản và đặt chú thích.

Nhược điểm của cách chuyển dịch này là cảm giác hơi “tân kỳ” khi đọc một văn bản cổ, vì vào thời đại ngài Huyền Trang thì Trung Hoa chưa dùng đến mét hay kilomet. Tuy nhiên, mục đích của một bản dịch vốn là để truyền đạt chính xác nhất những ý nghĩa có trong nguyên bản, nên chúng tôi tin rằng người đọc cũng sẽ chấp nhận nhược điểm này để đổi lại một sự tiếp nhận dễ dàng và chính xác hơn những mô tả trong văn bản.

- Về quy ước sử dụng ngoặc vuông [ ]: Một trong những đặc tính của các văn bản Hán cổ mà bất cứ ai đã tiếp cận đều biết rõ là tính chất súc tích và quy ước “hiểu ngầm” thường xuyên được áp dụng rộng rãi. Do vậy, nếu chỉ diễn đạt hạn chế với những câu chữ thực sự có trong nguyên bản, rất khó có thể truyền đạt được đầy đủ ý nghĩa. Để giải quyết khó khăn này, chúng tôi sẽ sử dụng dấu ngoặc vuông [ ] để đưa thêm vào những “hàm ý” mà chúng tôi nhận hiểu được trong văn bản, cho dù không được ghi ra rõ ràng. Như vậy, khi gặp những câu chữ nào được đặt trong dấu ngoặc vuông, xin độc giả hiểu rằng đó là sự nhận hiểu của cá nhân chúng tôi đối với phần văn bản đó. Vì điều này mang tính cách suy đoán chủ quan nên có thể đúng hoặc không đúng, và do vậy chúng tôi luôn thể hiện rõ để độc giả nhận biết và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận.

Một ví dụ điển hình là trong toàn bài tựa do Kính Bá viết cho sách này, mặc dù kể chuyện về ngài Huyền Trang và xưng tán ngài, nhưng trong suốt bản văn không có chỗ nào nhắc đến tên Huyền Trang cả, chỉ để người đọc ngầm hiểu. Do đó chúng tôi đã thêm vào các phần như trong đoạn văn sau đây:

十九年正月屆于長安所獲經論六百五十七部有詔譯焉。親踐者一百一十國傳聞者二十八國。

Thập cửu niên chính nguyệt giới vu Trường An, sở hoạch kinh luận lục bá ngũ thập thất bộ, hữu chiếu dịch yên. Thân tiễn giả nhất bá nhất thập quốc, truyền văn giả nhị thập bát quốc...

“Tháng Giêng niên hiệu [Trinh Quán] thứ 19 (645), [ngài] về đến Trường An. Kinh, luận mang về được 657 bộ, liền có chiếu chỉ [thỉnh ngài] phiên dịch. Đích thân ngài [Huyền Trang] đã đi qua 110 nước, lại nghe biết thêm về 28 nước...”

Vì cho rằng người đọc lúc đó đã biết ngay là niên hiệu nào, nên người viết không ghi vào, nhưng nếu chuyển dịch cho người đọc ngày nay mà không thêm hai chữ Trinh Quán vào thì không thể hiểu được. Tương tự, bản văn chỉ nói “thân tiễn” mà không nêu tên người, nhưng người đọc phải ngầm hiểu đó là nói đến ngài Huyền Trang.

- Về cách lập chỉ mục: Cuối sách sẽ có thêm phần chỉ mục (index) để quý độc giả thuận tiện trong việc tra cứu các danh từ, thuật ngữ đã xuất hiện trong sách. Tất cả mục từ sẽ được xếp theo vần alphabet và kèm theo số trang ở tất cả những nơi mục từ ấy xuất hiện.

- Về các chú thích: tất cả các chú thích đều do chúng tôi biên soạn, trừ một số rất ít là thay thế cho thông tin phụ được lược đi từ nguyên bản. Các chú thích sẽ được đặt ở cuối mỗi trang để tiện tham chiếu và đánh số thứ tự theo từng trang. Mỗi từ ngữ đã được chú thích thường sẽ không lặp lại sau đó, trừ phi có ý nghĩa khác biệt cần đề cập. Nếu độc giả gặp một từ ngữ khó hiểu mà không có chú thích, xin tra cứu nơi phần chỉ mục cuối sách để biết được từ ngữ ấy đã chú thích ở trang nào.

- Về các bản đồ họa và phần dẫn nhập: Ở đầu mỗi quyển, chúng tôi đều thực hiện một bản đồ họa thể hiện hành trình các nước đi qua trong quyển đó và một dẫn nhập ngắn, tóm lược và nêu lên những điểm cần lưu ý, nhằm giúp độc giả dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận nội dung. Việc thực hiện các đồ họa được căn cứ vào nhiều yếu tố. Trước hết là bản đồ thực địa như hiện nay, sau đó là các vị trí được nêu trong sách mà ngày nay còn có thể xác định được, và cuối cùng là các mô tả về phương hướng và đường dài trong tác phẩm. Trong thực tế, tất cả những yếu tố này đều mang tính tương đối, chẳng hạn như thực địa ngày nay không giống như vào thời ngài Huyền Trang, tuy rằng các con sông hay ngọn núi có thể không thay đổi hoặc thay đổi rất ít; các vị trí gọi là “còn xác định được” cũng chỉ là tương đối và thậm chí có nhiều địa điểm vẫn chưa được thống nhất ý kiến; và cuối cùng là những phương hướng như đông, đông nam, tây, tây bắc v.v... cũng hết sức tương đối mà không thể là những chỉ dẫn chính xác trên bản đồ, cũng như những khoảng cách ước lượng của ngài Huyền Trang tuy được xem là chính xác, nhưng chỉ là mức độ chính xác của sự ước lượng, hoàn toàn không thể xem là những số đo chính xác trên bản đồ.

Trong thực tế, có một số trường hợp khi các địa điểm được chúng tôi xác định được khá chính xác, khoảng cách đo được có thể chênh lệch rất lớn so với con số được ghi trong sách. Điều này hoàn toàn dễ hiểu nếu chúng ta hình dung sự di chuyển khó khăn của ngài Huyền Trang vào thời đó thì việc ước lượng chính xác quãng đường đi thật không dễ dàng.

Chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật đồ họa máy tính để vẽ theo mô tả trong sách trên nền bản đồ tự chọn do Mapz.com cung cấp miễn phí.[66] Mục đích duy nhất của các đồ họa này là để giúp độc giả hình dung dễ dàng hơn về cuộc hành trình, không phải các bản đồ chính xác. Tổng cộng có 12 đồ họa cho 12 quyển và 3 đồ họa tổng quan toàn bộ chuyến đi. Với một diện tích quá rộng phải trình bày trên khổ giấy nhỏ nên không thể nào xem được các chi tiết, vì vậy chúng tôi đã cố gắng thực hiện với độ phân giải cao để khi xem trên phiên bản điện tử thì độc giả có thể phóng lớn hình ảnh. Sách này sẽ được phát hành với đủ các phiên bản bìa cứng, bìa thường cũng như được in màu hoặc in trắng đen. Bản in màu sẽ giúp quan sát rõ ràng hơn các đồ họa, nhưng bản in trắng đen sẽ có giá thành thấp hơn.

Một yếu tố khác cần lưu ý là thứ tự trình bày các nước trong sách này theo phương thức của một tập sách về địa dư, nghĩa là tùy thuộc vào sự phân vùng thuận tiện nên không hoàn toàn tương đồng với trình tự thời gian mà ngài Huyền Trang đã đi qua. Điều này có thể dễ dàng nhận biết khi so sánh với sự tường thuật trong Đại Từ Ân Tam Tạng Pháp Sư Truyện, vốn kể lại chuyến đi này theo trình tự thời gian. Một số khác biệt lớn sẽ được chúng tôi nêu ra ở phần chú thích, nhưng rất nhiều khác biệt nhỏ có lẽ không cần thiết phải nêu đầy đủ. Ngoài ra, một số nước nằm cùng khu vực sẽ được giới thiệu trước, trong khi thực tế ngài Huyền Trang chỉ đi đến các nước đó trên đường về, và theo thông tin chúng ta đã biết thì có 28 nước ngài chỉ nghe nói mà không hề đi đến. Như vậy, việc thể hiện trên đồ họa chỉ để biểu trưng về mặt địa lý chứ hoàn toàn không có ý nghĩa thời gian trước sau, mặc dù chúng tôi vẫn sẽ trình bày theo thứ tự của từng quyển và theo sự mô tả trong sách.

Cuối cùng, việc chuyển dịch một văn bản quan trọng với lượng thông tin đồ sộ như sách này là điều hoàn toàn không dễ dàng. Bên cạnh những khó khăn về ngôn ngữ, công việc này còn đòi hỏi phải có sự quen thuộc với các khái niệm và thuật ngữ trong Phật giáo. Chẳng hạn, đối với hai chữ “kinh hành” (經行), bản dịch B dịch là “đi tản bộ”, bản dịch C dịch là “walked”, bản dịch D dịch là “walked up and down” thì rõ ràng tất cả đều diễn đạt sai ý nghĩa của nguyên tác. Kinh hành không chỉ là một phần nghi thức được chư tăng thực hiện hằng ngày mà còn là một pháp tu. Chư tăng có thể kinh hành niệm Phật, kinh hành nhiễu Phật hoặc kinh hành quanh trú xứ, nhưng dù trong trường hợp nào thì đó cũng đều không phải là “đi tản bộ”, càng không phải là “đi tới đi lui”, mà là một nỗ lực công phu để điều tâm nhiếp ý. Trong trường hợp này, cách chuyển dịch thích hợp nhất là... giữ nguyên không dịch mà chỉ đặt một chú thích. Để giữ lại ý nghĩa nghiêm trang và được thực hiện như một phần công phu tu tập, hoàn toàn không thể dịch là “đi tản bộ” hay “walked up and down”.

Nhìn thấy những vấp váp của người đi trước cũng có nghĩa là phải chấp nhận những khó khăn thực tế khi chuyển dịch một văn bản như thế này. Do đó chúng tôi tự biết rằng, tuy đã hết sức cố gắng và cẩn trọng trong công việc nhưng vẫn khó tránh khỏi những sai sót ngoài ý muốn. Dù vậy, với những nỗ lực trong phạm vi khả năng và điều kiện hiện tại, cùng với sự mạnh dạn đi vào phân tích, đề xuất những giải pháp cho các vấn đề còn vướng mắc trong các công trình hiện nay, chúng tôi hy vọng việc giới thiệu bản Việt dịch và chú giải lần này kèm theo với những kết quả khảo cứu nghiêm túc có thể giúp làm rõ hơn những giá trị vượt thời gian của Tây vực ký, đồng thời mang đến cho độc giả hiện nay tầm hiểu biết mở rộng hơn về những gì mà tác phẩm cổ xưa này thực sự chuyển tải.

Và cuối cùng, xin được dành những dòng cuối của phần Dẫn nhập này để thắp lên một nén tâm hương tưởng nhớ người cha, người thầy vĩ đại của riêng tôi, nhưng cũng là người đã đóng góp không ít cho nền Phật học nước nhà, Cư sĩ Nguyễn Minh Hiển,[67] người đã thanh thản ra đi ở tuổi 99, khi tôi đang thực hiện công trình này. Với tôi, ông không chỉ là người cha, người thầy vĩ đại, mà còn là người đồng sự thân thiết, người hỗ trợ tuyệt vời nhất trong tất cả những công trình đã qua của tôi. Tác phẩm này là công trình đầu tiên mà tôi không còn cơ hội để chia sẻ ý kiến với ông. Trong niềm thương tiếc vô vàn, tôi muốn dâng lên lời cuối với ông rằng, sau hơn 60 năm cùng chung bước trên đường đời, giờ đây ông có thể yên tâm khi đứa con trai, người học trò này của ông sẽ tiếp tục chặng đường còn lại theo đúng sự dẫn dắt của ông, dù không còn có ông bên cạnh. Nguyện cho mọi sự đóng góp của ông trên con đường học Phật sẽ là hành trang quý báu đưa ông về cảnh giới an lành.

Trân trọng,

Nguyễn Minh Tiến


__________________________ CHÚ THÍCH


[1] Ngày nay là phần lớn lãnh thổ thuộc Tân Cương đến Ba Tư, Tajikistan, Uzbekistan, Pakistan, Ấn Độ và một số nước khác vùng Trung Á.

[2] Ba hình tượng mẫu mực: tác giả muốn nói đến Tam đại dịch kinh gia (三大譯經家), 3 vị đại dịch giả được xem là mẫu mực cho các dịch giả trong việc chuyển dịch kinh điển từ Phạn văn sang Hán văn. Ba vị này là Cưu ma la thập (鳩摩羅什), Chân Đế (真諦) và Huyền Trang (玄奘).

[3] Thomas Watters, On Yuan Chwang’s Travels in India - Publisher’s Note, page i. (Munshi Ram Ma-nohar Lal, Dehli, India, 1961)

[4] Xem chi tiết ở phần Preface, trang xv. Alexander Cunningham, The ancient geography of India, Trübner & Co., 1871. Các địa điểm này nằm ở Sankassa (Kiếp-tỷ-tha), Śrāvastī (Thất-la-phạt-tất-để), Kausambi (Kiêu-thưởng-di), Padmavati (có thể thuộc nước Ma-lạp-bà), Vaiśālī (Phệ-xá-ly), Nālanda (Na-lạn-đà).

[5] Sách được chuyển dịch hoàn tất vào cuối năm 2003 và xuất bản vào đầu năm 2004.

[6] Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大慈恩寺三藏法師傳), Đại Chánh Tạng, T50, 2053. Thomas Wat-ters gọi sách này bằng tên tiếng Anh là Record of the Tripiṭaka Master of the Great Compassion Monastery.

[7] Lý Vinh Hy (李榮熙 - 1916-1997) người Hồ Bắc, Vũ Hán, Trung Quốc, là giáo sư Anh ngữ, học giả, dịch giả và là nhà nghiên cứu Phật học.

[8] Nhóm đồng dịch sách này gồm các ông Quý Tiện Lâm, Trương Quảng Đạt, Lý Tranh, Tạ Phương, Tưởng Trung Tân, Vương Bang Duy, Dương Đình Phúc.

[9] Nguyên bản: 第一部分玄奘的生平和《大唐西域記》的產生 - Đệ nhất bộ phận: Huyền Trang đích sinh bình hòa Đại Đường Tây Vực Ký đích sản sinh.

[10] Nguyên bản: 第二部分 «大唐西域記》的內容介紹和地理解 説 - Đệ nhị bộ phận: Đại Đường Tây Vực Ký đích nội dung giới thiệu hòa địa lý giải thuyết.

[11] Nguyên bản: 第三部分《大唐西域記》选注 - Đệ tam bộ phận: Đại Đường Tây Vực Ký tuyển chú.

[12] Đại Đường Tây Vực Ký (大唐西域記), ĐCT, T51, 2087, tr.867b, d.10 -tr.947b, d.29.

[13] Bản dịch B ghi câu này không đúng: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng đại chiếu dịch - Tổng Trì Tự Sa-môn Biện Cơ soạn.

[14] Xem Lời tựa của Kính Bá ở đầu sách này.

[15] Xem Lời tựa của Vu Chí Ninh ở đầu sách này. Đại Chánh tạng ghi là của Trương Thuyết, nhưng thông tin này không đúng, như chúng tôi nói rõ ở phần sau.

[16] Tờ biểu ghi Tây vực truyện, chỉ đến sách Tây vực ký. Có vẻ như ban đầu sách chưa xác định tên nào. Hán văn: “Tịnh soạn Tây vực truyện nhất bộ tổng nhất thập nhị quyển, cẩn linh xá nhân Lý Kinh Nhất dĩ tương phụng tiến. (并撰西域傳一部總一十二卷。謹令舍人李敬一以將恭進。) ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.15-16.

[17] Tự Sa-môn Huyền Trang thướng biểu ký (寺沙門玄奘上表記), Tiến Tây vực ký biểu (進西域記表): “Sở văn sở lý bách hữu tạp bát quốc... ...chí ư Huyền Trang sở ký, vi vi tường tận, kỳ vu từ vĩ thuyết đa tùng tiễn khí, xuyết vi Đại Đường Tây vực ký nhất thập nhị quyển.” (所聞所履百有卅八國... ... 至於玄奘所記, 微為詳盡。其迂辭瑋說多從剪棄, 綴為大唐西域記一十二卷。) ĐCT, T52, 2119, tr.818b, d.9 - tr.819c, d.10.

[18] Pháp sư truyện: “Đế hựu vị Pháp sư viết: Phật quốc hà viễn, linh tích pháp giáo, tiền sử bất năng ủy tường, sư ký thân đổ nghi tu nhất truyện, dĩ thị vị văn.” (帝又謂法師曰:佛國遐遠,靈跡法教,前史不能委詳,師既親覩,宜修一傳,以示未聞。) ĐCT, T50, 2053, tr.253b, d.9-11.

[19] Pháp sư truyện, quyển 6, Hán văn: “Tiền hựu Lạc Dương phụng kiến nhật, sắc linh Pháp sư tu Tây vực ký, chí thị nhi thành.” (前又洛陽奉見日,勅令法師修《西域記》,至是而成。) ĐCT, T50, 2053, tr.254b, d.4-5.

[20] Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (一切經音義), Huệ Lâm soạn: “Đại Đường Tây vực ký... ...Tam Tạng Sa-môn Huyền Trang phụng sắc soạn.” (大唐西域記... ... 三藏沙門玄奘奉勅撰 ) ĐCT, T54, 2128, tr.836c, d.3-4.

[21] Cựu Đường thư (舊唐書), Liệt truyện (列傳): “Tại Tây vực thập thất niên, kinh bá dư quốc, tất giải kỳ quốc chi ngữ, nhưng thái kỳ sơn xuyên dao tục, độ địa sở hữu, soạn Tây vực ký thập nhị quyển.” (在西域十七年,經百餘國,悉解其國之語,仍採其山川謠俗,土地所有,撰《西域記》十二卷。)

[22] Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋教目錄), Viên Chiếu soạn: “Đại Đường Tây vực ký, thập nhị quyển, Đại Đường Tam Tạng Huyền Trang soạn” (大唐西域記 十二卷 - 大唐三藏玄奘撰). ĐCT, T55, 2157, tr.958c, d.7-8.

[23] Đại Đường Nội điển lục (大唐內典錄), quyển 5, Đạo Tuyên soạn: 大唐西域傳一部十二卷) (Đại Đường Tây Vực truyện, 1 bộ, 12 quyển) ĐCT, T55, 2149, tr.283a, d.23.

[24] Chu Liên Khoan, Đại Đường Tây vực ký sử địa nghiên cứu tùng cảo, trang 293-299, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 1984.

[25] Xem phần Ký tán ở cuối sách. Hán văn: “Viên mệnh dung tài soạn tư phương chí... ... Cung thừa ký chí, luân thứ kỳ văn.”爰命庸才撰斯方志... ... 恭承志記,倫次其文) ĐCT, T51, 2087, tr.947a, 28- tr.947b, d1.

[26] Khai Nguyên Thích giáo lục (開元釋教錄), Trí Thăng soạn vào đời Đường, quyển 8: “Đại Đường Tây vực ký, thập nhị quyển (kiến Nội điển lục, Trinh Quán nhị thập niên phụng sắc ư Hoằng Phúc tự Phiên kinh viện soạn, sa-môn Biện Cơ thừa chỉ xuyết tập, thu thất nguyệt tuyệt bút.” (大唐西域記十二卷(見內典錄貞觀二十年奉勅於弘福寺翻經院撰沙門辯機承旨綴緝秋七月絕筆) ĐCT, T55, 2154, tr.557b, d.11-12.

[27] Trinh Nguyên tân định Thích giáo mục lục (貞元新定釋教目錄), Viên Chiếu soạn vào đời Đường, quyển 11: “Biện Cơ thừa chỉ xuyết thủ” (辯機承旨綴首) ĐCT, T55, 2157, tr.857a, d.22-23.

[28] Tục Cao tăng truyện (續高僧傳), quyển 4: “Hựu xuất Tây vực truyện nhất thập nhị quyển, Sa-môn Biện Cơ thân thụ thời sự liên bì tiền hậu.” (又出西域傳一十二卷沙門辯機親受時事連紕前後。) ĐCT, T50, 2060, tr.455a, d.22-23.

[29] Tục Cao tăng truyện, quyển 1, phần Tựa: “Chính truyện tam bách tứ thập nhân. Phụ kiến nhất bách lục thập nhân.” (正傳三百四十人。附見一百六十人。) ĐCT, T50, 2060, tr.425b, d.23-24)

[30] Xem Ký tán ở cuối sách. Hán văn: “...tuyệt bút sát thanh, văn thành du tố, trần độc thánh giám” (絕筆殺青;文成油素,塵黷聖鑒) ĐCT, T51, 2087, tr.947b, d.20.21.

[31] Tiến Tây vực ký biểu: “...chí ư Huyền Trang sở ký, vi vi tường tận; kỳ vu từ vĩ thuyết đa tùng tiễn khí, xuyết vi Đại Đường Tây vực ký nhất thập nhị quyển, thiện tả như biệt. Huyền Trang bẩm chất ngu lỗ, muội ư tập thật, vọng ban chi hữu bút, sức dĩ tả ngôn, tiệt thử vu từ, thái kỳ thật lục.” (至於玄奘所記。微為詳盡其迂辭瑋說多從剪棄。綴為大唐西域記一十二卷。繕寫如別。玄奘稟質愚魯。昧於緝實。望頒之右筆。飾以左言。截此蕪辭。採其實錄。) ĐCT, T52, 2119, tr.818c, d.4-7.

[32] Xem phần Ký tán ở cuối sách. Hán văn: “thiển trí biển năng, đa sở khuyết lậu, hoặc hữu doanh từ, thượng vô san lạc” (淺智褊能,多所闕漏;或有盈辭,尚無刊落。) ĐCT, T51, 2087, tr.947b, d.3

[33] Xem Ký tán ở cuối sách. Hán văn: “nhị thập niên thu thất nguyệt, tuyệt bút sát thanh” (二十年秋七月,絕筆殺青) ĐCT, T51, 2087, tr.947b, d.20)

[34] Tự Sa-môn Huyền Trang thướng biểu ký (寺沙門玄奘上表記): “Trinh Quán nhập niên thất nguyệt thập tam nhật Sa-môn Huyền Trang thướng” (貞觀廿年七月十三日沙門玄奘上) ĐCT, T52, 2119, tr.818b, d.8)

[35] Hán văn: “遂使三乘奧義,欝於千載之下;十力遺靈,閟於萬里之外。” ĐCT, T51, 2087, tr.946a, d.23-24. (Vậy nên giáo nghĩa sâu xa của Ba thừa khuất lấp đến ngàn năm; đạo thiêng lưu truyền của đấng Thập lực bị ngăn trở xa xôi ngoài vạn dặm.)

[36] Hán văn: “遂使瑞表恒星,欝玄妙於千載;夢彰佩日,祕神光於萬里。” ĐCT, T51, 2087, tr.867b, d.21-22. (Vậy nên điềm lành sao sáng hiện rõ ràng, mà đạo diệu huyền ngăn trở ngàn năm không đến, mộng thấy tượng vàng hào quang tỏa sáng, mà chánh đạo quang minh còn xa xôi vạn dặm.)

[37] Hán văn: “冐遠窮遐,寔資朝化;懷奇纂異,誠賴皇靈。” ĐCT, T51, 2087, tr.947b, d.21-23. (Mạo hiểm đi đến tận những nơi xa xôi cùng tận, quả thật cũng dựa vào sự giáo hóa của triều đình; ghi chép được những sự kỳ lạ khác thường, chính là nương cậy uy linh hoàng đế.)

[38] Quảng hoằng minh tập (廣弘明集), quyển 22, Trùng thỉnh Tam tạng thánh giáo tự khải (重請三藏聖教序啟): “憑皇靈以遠征,恃國威而訪道;窮遐冒險,雖勵愚誠,纂異懷荒,寔資朝化。” ĐCT, T52, 2103, tr.262b, d.14-15. (Nhờ uy linh hoàng đế để đi xa, cậy oai thế của đất nước để tìm đạo; mạo hiểu đến những nơi xa xôi cùng cực, tuy hết sức chân thành nỗ lực, thu thập được những điều kỳ lạ ở miền xa xôi, quả thật nhờ nơi sự giáo hóa của triều đình.)

[39] Hán văn: “Thư hành giả, thân du tiễn dã; cử chí dã, truyền văn ký dã.” (書行者,親遊踐也;舉至者,傳聞記也。)

[40] ĐCT, T51, 2087, tr.872b, d.29.

[41] ĐCT, T51, 2087, tr.931c, d.22.

[42] ĐCT, T50, 2053, tr.242a, d.7.

[43] Tiến Tây vực ký biểu, sách đã dẫn.

[44] Lấy ví dụ như ngày 15 tháng 1 năm 628 vẫn thuộc về Trinh Quán nguyên niên, trong khi ngày 20 tháng 1 năm 627 không thuộc về Trinh Quán nguyên niên.

[45] Alexander Cunningham sách đã dẫn, trang 563.

[46] Dương Đình Phúc sách đã dẫn.

[47] Quảng hoằng minh tập, quyển 22, Thỉnh ngự chế kinh tự biểu (請御制經序表): “Sa-môn Huyền Trang ngôn: Trang dĩ Trinh Quán nguyên niên vãng du Tây Vực.”(沙門玄奘言。奘以貞觀元年往遊西域。) (ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.9-17) Toàn văn tờ biểu này cũng được chúng tôi chuyển dịch và giới thiệu trong lần xuất bản này.

[48] Pháp sư truyện, quyển 5: “... lịch lãm chu du nhất thập thất tải” (歷覽周遊一十七載) ĐCT, T50, 2053, tr.251c, d.26 -27.

[49] Pháp sư truyện, quyển 1: “Thời quốc chính thượng tân, cương trường vị viễn, cấm ước bá tánh bất hứa xuất phiên.” (時國政尚新,疆場未遠,禁約百姓不許出蕃。) ĐCT, T50, 2053, tr.223a, d.6 -7.

[50] Cựu Đường thư (舊唐書), phần Liệt truyện, quyển 141: “Tăng Huyền Trang, tánh Trần thị... ... Trinh Quán sơ, tùy thương nhân vãng du Tây vực.” (僧玄奘,姓陳氏... ...貞觀初,隨商人往游西域。)

[51] Tân Đường thư (新唐書), quyển 217, Liệt truyện (列傳), Hồi Hột phần hạ (回紇 下): “Trinh Quán nhị niên, Diệp Hộ tử, kỳ quốc loạn...”(貞觀二年,葉護死,其國亂...)

[52] Pháp sư truyện, quyển 2: “Chí Hoạt quốc, tức Diệp Hộ Khả-hãn trưởng tử Đát Độ Thiết sở cư chi địa, hựu thị Cao Xương vương muội tế.” (至活國,即葉護可汗長子呾度設所居之地,又是高昌王妹婿。) ĐCT, T50, 2053, tr.228a, d.3-5.

[53] Tân Đường thư (新唐書), quyển 215, Đột Quyết liệt truyện (突厥列傳) phần hạ: “Đế dục tê ngọc bạch phần tế kì quốc, hội loạn, bất quả chí.” (帝欲齎玉帛焚祭其國,會亂,不果至。)

[54] Dương Đình Phúc, Huyền Trang niên phổ, sách đã dẫn, trang 97-98.

[55] Pháp sư truyện, quyển 2: “Tu du, cánh dẫn Hán sứ cập Cao Xương sứ nhân nhập, thông quốc thư cập tín vật...” (須臾,更引漢使及高昌使人入,通國書及信物...) ĐCT, T50, 2053, tr.227b, d.12 -13.

[56] Cựu Đường thư, quyển 57, phần Liệt truyện, truyện Công Tôn Vũ Đạt: “Trinh Quán sơ, kiểm hào Hữu giám môn tướng quân, tầm trừ Túc châu Thứ sử. Tuế dư, Đột Quyết sổ thiên kỵ truy trùng vạn dư nhập xâm Túc châu, dục nam nhập Thổ cốc hồn. Vũ Đạt lĩnh nhị thiên nhân dữ kỳ tinh đoái tương ngộ, lực chiến, lỗ sảo khước, cấp công chi, toại đại hội, tễ chi ư Trương dịch hà.” (公孫武達者雍州櫟陽人也。少有膂力,稱為豪俠... ... 貞觀初 ,檢校右監門將軍,尋除肅州刺史。歲餘,突厥數千騎、輜重萬餘入 侵 肅州,欲南入吐谷渾。武達領二千人與其精銳相遇,力戰,虜稍卻,急攻之,遂大潰,擠之於張掖河。)

[57] Cựu Đường thư, quyển 71, phần Liệt truyện (列傳), truyện Lý Tĩnh: “Trinh Quán tam niên, vi Thông Mạc đạo Hành quân Tổng quản, chí Vân Trung, dữ Đột Quyết Hiệt lợi Khả-hãn binh hội, đại chiến ư Bạch đạo, Đột Quyết bại, đồn doanh ư Thích khẩu, khiển sứ thỉnh hòa.” (貞觀三年,為漠道行軍總管。至雲中,與突厥頡利可汗兵會,大戰於白道。突厥敗,屯營於磧口,遣使請和。)

[58] Cựu Đường thư, quyển 3, Thái Tông bản kỷ, phần hạ (太宗本紀下): “Hạ tứ nguyệt Đinh Dậu, ngự Thuận Thiên môn, quân lại chấp Hiệt-lợi dĩ hiến tiệp. Tự thị tây bắc chư phiên hàm thỉnh thượng tôn hiệu vi Thiên khả hãn. Ư thị giáng tỷ thư sách mệnh kỳ quân trưởng, tắc kiêm xưng chi.” (夏四月丁酉,御順天門,軍吏執頡利以獻捷。自是西北諸蕃咸請上尊號為「天可汗」,於是降璽書冊命其君長,則兼稱之。)

[59] Pháp sư truyện, quyển 1: “Đình nguyệt dư nhật, đạo tục thỉnh khai Niết-bàn, Nhiếp luận cập Bát-nhã kinh, Pháp sư giai vị khai phát. Lương châu vi Hà Tây đô hội, khâm đái Tây Phiên, song hữu chư quốc, thương lữ vãng lai, vô hữu đình tuyệt. Thời khai giảng nhật, thịnh hữu kì nhân, giai thí trân bảo, kê tảng tán thán.” (停月餘日,道俗請開涅槃,攝論及般若經,法師皆為開發。涼州為河西都會,襟帶西蕃,葱右諸國,商侶往來,無有停絕。時開講日,盛有其人,皆施珍寶,稽顙讚歎) ĐCT, T50, 2053, tr.222c, d.26 - 223a, d.1.

[60] Đây là sai lầm nghiêm trọng thứ hai của Đại Chánh Tạng đã được chúng tôi nêu ra. Sai lầm trước đây chúng tôi đã đề cập là dòng tiêu đề kinh Đại Bát Niết Bàn (大般涅槃經) (Đại Chánh Tạng, Tập 12, kinh số 375), viết rằng: 宋代 沙門慧嚴等依泥洹經加之 (Tống đại sa-môn Tuệ Nghiêm đẳng y Nê-hoàn kinh gia chi), đến nay vẫn còn nguyên như vậy. Trong thực tế, đây là một câu văn bị ngắt quãng. Theo thông tin trong Cao tăng truyện (高僧傳 - Đại Chánh Tạng - Tập 50, kinh số 2059, trang 368, tờ a, dòng 22) thì: 嚴迺共慧觀謝靈運等依泥洹本加之品目- [Tuệ] Nghiêm nãi cộng Tuệ Quán, Tạ Linh Vận đẳng y Nê-hoàn bản gia chi phẩm mục. Do mất đi 2 chữ “phẩm mục”, người đọc sẽ hiểu rằng nhóm các vị này đã căn cứ kinh Nê-hoàn để điều chỉnh thêm vào nội dung kinh, nhưng thực ra công việc của họ chỉ là “gia chi phẩm mục - 加之品目”, nghĩa là chỉ điều chỉnh việc phân chia phẩm mục trong kinh mà thôi. Khi chuyển dịch kinh Đại Bát Niết-bàn, chúng tôi đã so sánh kỹ giữa Bắc bản với Nam bản Niết-bàn kinh và thấy quả thật là Nam bản chỉ có sự thay đổi phẩm mục, hoàn toàn không có việc bổ sung nội dung.

[61] Thomas Watters có lẽ là người đầu tiên phát hiện sai lầm này, dù ông chưa nêu vấn đề thật chi tiết và rõ ràng.

[62] Quảng hoằng minh tập (sdd), 請御制經序表 - Thỉnh ngự chế kinh tự biểu (ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.9 - 17).

[63] Quảng hoằng minh tập (sdd), 勅答玄奘法師前表 - Sắc đáp Huyền Trang Pháp sư tiền biểu (ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.18 - 26). Trong sắc chỉ này, nhà vua đã khiêm tốn từ chối. Ngài Huyền Trang lại dâng biểu thỉnh lần sau nữa vua mới ngự bút viết Tam tạng thánh giáo tự. Tuy nhiên, nội dung tờ biểu lần sau đã mất.

[64] Trích từ Quảng Hoằng Minh tập (廣弘明集), quyển 22, Tam tạng Thánh giáo tự (三藏聖教序) (ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.27 - tr.258c, d.16).

[65] Nhận (仞) là đơn vị rất cổ, đời nhà Chu quy định 8 xích bằng một nhận, sang đời nhà Hán quy định 7 xích bằng một nhận. Đời Đường không có quy định mới nên đương nhiên tiếp tục tính như đời Hán.

[66] Các bản đồ trên mapz.com được Kober-Kümmerly Frey Media thực hiện dựa trên dữ liệu từ dự án OpenStreetMap và được cung cấp miễn phí cho cộng đồng. Người dùng cũng có thể trả tiền để mua được các bản đồ với độ phân giải cao.

[67] Cư sĩ Nguyễn Minh Hiển là người hiệu đính Hán văn cho kinh Đại Bát Niết-bàn, kinh Bi Hoa, Quy nguyên trực chỉ và nhiều công trình dịch thuật Hán Việt khác.

    « Xem chương trước       « Sách này có 16 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tích Lan - Đạo Tình Muôn Thuở


Tôi đọc Đại Tạng Kinh


Nguyên lý duyên khởi


Học đạo trong đời

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.115 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...