Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm »» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 52 »»

Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm
»» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 52

Donate

(Lượt xem: 4.725)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 52

Font chữ:



SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Xin mời quý vị mở bản kinh ra, trang 28, dòng thứ hai từ dưới lên.

[Đều có khả năng thị hiện đủ loại hào quang, giúp chúng sinh trừ hết khổ não nóng nảy.]

Câu này chính là xưng tán đức hạnh của các vị Chủ hỏa thần. Trong chữ đức có hai ý nghĩa. Một là có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Cả nước và lửa đều có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Ý nghĩa thứ hai là gây tổn hại cho chúng sinh. Theo ý nghĩa được dùng trong Kinh văn thì chỉ hoàn toàn nói đến làm lợi ích cho chúng sinh, không nói đến việc gây tổn hại cho chúng sinh. Đó là ý nghĩa biểu trưng của câu này.

[đều có khả năng thị hiện] - Chúng ta xem qua cụm từ này thì cho rằng các vị Chủ hỏa thần bất quá chỉ thuộc hàng Pháp thân Đại sĩ, nhưng thực tế mà nói thì các ngài đều là chư Phật Như Lai vì lòng đại từ thương xót chúng sinh nên quay trở lại thị hiện trong sinh tử.

[đủ loại hào quang] - Chính là đủ các pháp môn trí tuệ, đủ các môn phương tiện quyền xảo, mới có khả năng làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Tất cả chúng sinh bao gồm nhiều chủng loại hết sức phức tạp đa dạng, tâm niệm đều là vô lượng vô biên, nên nghiệp tạo tác từ thân và miệng của chúng sinh cũng là vô lượng vô biên. Nếu như không có đủ các môn trí tuệ, chẳng những không thể cứu giúp hỗ trợ chúng sinh bỏ ác làm thiện, mà rất có thể còn khiến cho chúng sinh tạo thêm nhiều nghiệp xấu ác, thành ra sai trái. Đây là một sự so sánh hết sức thích hợp với ý nghĩa nước và lửa gây tổn hại cho chúng sinh. Ý nghĩa muốn nói ở đây hết sức nhiệm mầu tinh tế, chúng ta phải lưu tâm suy xét thật kỹ mới thể hội được, từ đó mới vận dụng được vào trong sự giao tiếp ứng xử thường ngày.

Tôi thường giảng rằng, trong việc giao tiếp ứng xử với người khác với mọi sự việc, sự vật, cần phải có trí tuệ chân thật thì mới có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu không được như vậy thì chính là gây tổn hại cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh vì mê mờ không biết mà tạo tác vô số những tội nghiệp, nhất là về phương diện liên quan đến Phật pháp.

Về phương diện liên quan đến Phật pháp, rất thường thấy những kẻ trộm lấy tài vật của Tam bảo, thật là tội lỗi hết sức nặng nề. Kinh Địa Tạng đã giảng về điều này hết sức rõ ràng, hết sức minh bạch. Chư Phật, Bồ Tát dạy chúng ta rằng, nếu quý vị phá giới phải đọa vào địa ngục A-tỳ, dù là Phật Bồ Tát cũng không có năng lực đến đó cứu giúp quý vị. Nếu quý vị trộm cắp tài vật của Tam bảo, chư Phật Bồ Tát cũng không có năng lực cứu giúp quý vị. Có thể nói, trộm cắp tài vật của Tam bảo là một tội rất dễ phạm vào. Gần đây, cư sĩ Lý Bỉnh Nam từng dạy chúng ta rằng, hiện nay có rất nhiều người không rõ lý nhân quả, nên đối với tài vật trong các nơi chùa chiền miếu mạo vẫn thường lợi dụng đủ mọi cơ hội để thâu tóm về làm của mình. Như Lý cư sĩ quả là có thể thị hiện đủ các môn trí tuệ, có thể hiểu thấu và nêu ra sự sai trái của những người như thế, trong khi kẻ phàm phu như chúng ta thì tâm ý thô thiển không thể nhìn rõ được.

Trong sự trộm cắp tài vật của Tam bảo, bao gồm cả hai phương diện là xâm phạm và làm tổn hại. Như vậy quả là hết sức dễ phạm vào, do mê mờ không hay không biết mà phạm vào. Thế cho nên việc nghiêm trì giới luật thực sự không dễ dàng chút nào. Muốn nghiêm giữ giới luật một cách chân chánh, một cách trọn vẹn, làm sao có thể nói là dễ dàng được? Phải hết sức thấu rõ lẽ đạo, hết sức tin sâu nhân quả, thì sau đó mới có thể làm được.

Chúng ta hãy lấy một ví dụ nhỏ để nói về việc này. Trong quá khứ khi lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam còn sống, ông ấy phục vụ trong cơ quan, nghĩa là nhân viên công vụ. Trong cơ quan để phục vụ cho công việc có dùng đến rất nhiều giấy viết thư và phong bì. Những giấy và phong bì ấy được cấp ra vì mục đích công, nhưng có nhiều khi lại đưa cho người khác dùng để viết thư riêng, hoặc giả có khi tự mình có thư cần gửi đi chỗ nọ chỗ kia cũng dùng phong bì ấy để gửi, những việc như vậy là hết sức bình thường. Vậy chúng ta xem đó có phải là trộm cắp tài vật của Tam bảo không? Đúng vậy, đó chính là trộm tài vật của Tam bảo. Bởi vì mỗi lần Lý cư sĩ đến nhận lãnh giấy và phong bì, đương nhiên là với tư cách một người tín đồ Phật giáo, nên không được lãnh quá nhiều, nhất định không được lãng phí, mỗi một sự lãng phí đều là có tội. Thế là Lý cư sĩ mỗi lần đến lãnh giấy và bì thư xong đều nhất định báo cáo cặn kẽ lên vị trưởng quan cấp trên của mình, rằng tôi hôm nay nhận lãnh giấy và bì thư, có một tờ tôi cần dùng để viết thư riêngv.v... Vị trưởng quan bảo ông thật phiền toái nhiều lời. Mỗi lần đến lãnh xong là một lần báo cáo cặn kẽ như thế nên bảo ông quá nhiều lời. Cư sĩ đáp, tôi không thể không nhiều lời. Nếu ông không nhận cho việc này thì xem như tôi đã phạm giới trộm cắp. Đó cũng là cơ quan bình thường của thế tục, nên tội xâm phạm, tổn hại tài sản cũng chỉ là nhỏ nhặt, nhẹ thôi, không phải tài vật của thường trụ Tam bảo để phải xem là tội nặng. Ngày nay liệu có người nào được rõ ràng minh bạch theo đạo lý được như thế chăng? Cho nên đối với tài vật của Thường trụ mà không xót không tiếc, cứ xét nơi tự thân chúng ta mà nói, trước hết là phải hao tổn phước đức, phước đức ngày sau của quý vị nhất định phải tổn mất. Nếu nhìn sâu xa hơn thì tương lai nhất định phải đọa vào ác đạo, nếu quý vị còn tiếp tục tái phạm, quý vị nhất định phải chịu tội báo như thế. Trong Kinh điển chư Phật và Bồ Tát đã vì tâm đại từ bi mà khổ nhọc giảng dạy cho chúng ta. Chúng ta xem qua rồi, đọc cả rồi, nhưng đều bỏ ngoài tai, chẳng đưa vào tâm ý. Tài vật của Thường trụ là do mười phương tín thí cúng dường, là do bốn chúng thí xả mà có, vì nhận được quá dễ dàng cho nên rất khó khởi tâm xót tiếc giữ gìn.

Trong thời cận đại này, tôi cũng đã từng kể với quý vị rồi, trước đây tôi có một vị lão sư là tiên sinh Chu Bang Đạo. Vị này lớn tuổi mới học Phật, tại Đài Loan, vào lúc ấy giữ chức Chánh vụ thứ trưởng của Bộ Khảo soát, tương đương với Đệ nhất Phó Bộ trưởng. Vì công vụ nên ông được cấp xe hơi, có tài xế riêng, ở nhà cũng được trang bị điện thoại. Con trai, con dâu và cháu nội đều theo đến cùng sống với ông. Nhưng bản thân ông luôn tự xét, nếu quả thật không phải việc công thì nhất định không đi xe công. Dù được nhà nước cấp xe hơi, ông không đi xe hơi ấy mà đi xe buýt. Những vị đồng tu nào từ Đài Loan đến đều biết rõ việc này, ông ấy thường di chuyển bằng các phương tiện công cộng, chỉ khi nào thực sự đi vì việc công thì mới ngồi xe công. Điện thoại cũng vậy, nếu không phải việc công thì ông nhất định không dùng điện thoại công. Bằng hữu có thể giúp ông, nhưng ông tuyệt nhiên không dùng phương tiện công để giúp bằng hữu. Vì sao vậy? Vì như vậy là lãng phí tài lực của quốc gia. Một nhân viên công vụ như thế, chúng ta tìm khắp thế giới này e cũng không có được một người thứ hai. Ông sinh hoạt hết sức tiết kiệm. Thu nhập còn dùng để giúp đỡ nuôi sống một người bạn thân trong cảnh khốn cùng, ông tự nguyện nhận lãnh việc này trong suốt cả đời mình.

Sáng hôm nay có hai vị đồng tu từ Liên xã ở Đài Trung đến thăm tôi, có kể chuyện người con rể của Chu Tiên sinh vào ngày tuần giáp năm của tiên sinh bỗng mộng thấy lão tiên sinh bảo ông ấy rằng, tiên sinh hiện nay đã sinh về thế giới Cực Lạc, nhìn thấy chúng sinh ở cõi Ta-bà này khổ não không nói hết, nên khuyên ông ta hãy lo niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ. Người con rể của Chu Tiên sinh thực ra vẫn chưa quy y, đối với Phật giáo hãy còn xa lạ lắm. Kể từ sau giấc mộng đó ông ta mới chịu tham gia vào lễ truy điệu, thành tâm thành ý noi theo đại chúng niệm Phật, hiện tại đã dần dần thâm nhập Phật pháp.

Chúng ta ngày nay nhìn thấy những người chân chánh thấu rõ lý nhân quả ngày càng ít hơn, lại thường nhìn thấy cả những người xuất gia cũng tạo nhiều tội nghiệp, quả thật không nhẫn tâm bàn đến, nói đến, quả báo ắt là mỗi người đều phải tự gánh lấy mà thôi.

Trước đây tôi ở Đài Bắc vẫn thường khuyên răn mọi người. Hiện nay đại chúng rất thường phạm phải tội này, đó là dùng điện thoại của nhà chùa để trò chuyện tán gẫu. Mỗi lần tán gẫu như vậy hàng nửa giờ đồng hồ, một giờ đồng hồ, có khi hơn thế nữa, chẳng phải đa phần đều là những chuyện vô bổ đó sao? Nếu là điện thoại đường dài ra nước ngoài thì lại càng đáng sợ. Những việc như thế đều là trộm cắp của thường trụ, đều là xâm tổn đến tài vật của thường trụ Tam bảo. Cho nên tôi thường khuyên mọi người nên tận dụng khả năng dùng máy fax. Máy fax so với điện thoại rẻ hơn nhiều. Nếu quý vị có nhiều việc để trao đổi thì có thể viết ra đến 5 trang, 6 trang, thời gian chuyển fax đi bất quá cũng chỉ vài ba phút, mà tính ra phí chuyển fax với phí điện thoại tính theo thời gian đều như nhau. Dùng điện thoại để trình bày thì có khi không nói được rõ ràng sẽ khiến cho người nghe hiểu lầm, còn dùng máy fax thì chữ nghĩa rõ ràng, không thể sinh ra hiểu lầm được. Cho nên phải tận dụng mọi khả năng sử dụng máy fax mà không nên dùng điện thoại. Quý vị nếu có thể nghĩ đến thường trụ Tam bảo mà tiết kiệm được một phần nào, đó là quý vị đã tu phúc rồi. Nếu quý vị lãng phí đi một phần nào, đó là quý vị đang tạo tội.

Những điều tương tự như vậy còn nhiều lắm không thể nêu ra hết được. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải biết tự đề cao cảnh giác, rõ biết cách tu phúc, rõ biết cách tích phúc, rõ biết cách tích lũy công đức. Trong kinh từng dạy rằng: “Mỗi người tự mình tu thì mỗi người tự mình nhận được không sai chạy.”

Trước nêu ra một vế là: [thị hiện đủ loại hào quang], đó chính là thị hiện đủ mọi phương tiện thiện xảo, đến vế sau thì nói lên mục đích: [giúp cho chúng sinh trừ hết khổ não nóng nảy]. Khổ não nóng nảy cũng chính là phiền não. Trong tâm phiền não thì toàn thân đều phát nhiệt nóng nảy. Một câu ấy giảng rõ về nghiệp khổ mê mờ. Trí tuệ sáng suốt có thể dứt sự mê mờ. Mê mờ ấy là ngu si mê mờ, nên trí tuệ có thể dứt trừ sự mê mờ ấy, phương tiện thì có thể dứt trừ tham lam sân hận, như thế là có đủ cả hai sự lợi ích.

Chúng ta trong sự sinh hoạt thường ngày, mỗi mỗi sự việc nhỏ nhặt đều phải hết sức cảnh giác cao độ. Việc học Phật không chỉ là đối với người xuất gia, mà người tại gia cũng đều phải thấu rõ về sự tu phúc, tích phúc. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên từng nói với tôi về việc chi tiêu trong sinh hoạt thường ngày. Ông ấy chi dùng mỗi tháng bao nhiêu? Nếu đem so với một học sinh tiểu học thì số tiền chi tiêu ấy vẫn còn ít hơn, mỗi tháng chỉ vừa chẵn 12 đồng thôi. Những người xuất gia chúng ta mà nếu tiêu dùng nhiều hơn ông ấy thì không đáng gọi là người xuất gia. Ngày trước khi tôi còn ở Đài Trung, trong thời gian theo lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam học Phật, Lý lão sư quy định cho tôi mỗi một tháng, bao gồm cả tiền ăn, chi tiêu sinh hoạt không được vượt quá 150 đồng. Đó là nói theo tiền của Đài Loan. Vào thời điểm đó thì tiền Đài Loan so với tiền Singapore đại khái cứ 12 đồng đổi được một đồng. Ở Singapore tiêu một đồng thì bằng ở Đài Loan là 12 đồng. Lão sư quy định cho tôi hạn chế không được chi tiêu quá 150 đồng tiền Đài Loan. Ông ấy nói, nếu tôi chi tiêu vượt quá số 150 đồng ấy thì không phải là người xuất gia. Cho nên tôi phải giữ việc chi tiêu sinh hoạt mỗi ngày hết sức chừng mực, nhất định không dám lãng phí chút nào. Bản thân chúng ta trong quá khứ nếu không tu phúc, không có phúc báo, trong đời này lại không rõ biết việc tích phúc, tu phúc, thì thử hỏi phúc đức sẽ do đâu mà có được?

Hiện tại mọi người nhìn thấy tôi đây có được đôi chút phước báu, được học Phật rồi lại có thể hiểu rõ được đạo lý để tu tập theo đó. Tôi thường trong sinh hoạt hằng ngày luôn hết sức tiết kiệm, nhất định không bao giờ lãng phí chút nào. Tôi giảng kinh cũng được thời gian khá lâu, người biết đến tôi cũng khá nhiều, nên đương nhiên nhận được tiền cúng dường cũng nhiều. Tôi đều đem số tiền cúng dường nhận được đó dùng vào việc ấn tống kinh sách. Hồi tôi còn trẻ, tiền cúng dường nhận được đại khái dùng vào ba việc. Trong mười phần thì dùng đến chín phần cho việc ấn tống kinh sách. Ngoài ra còn lại thì chia ra một phần dùng vào việc phóng sinh, một phần dùng vào việc bố thí y phục, thuốc men. Nói chung chỉ làm ba việc như thế mà thôi. Cho nên ấn tống được rất nhiều kinh sách, cùng với mọi người kết được nhân duyên rất rộng khắp, pháp duyên thù thắng cũng là từ đó mà có được.

Tôi nói hồi còn trẻ, ấy là đại khái cũng vào khoảng hai, ba mươi năm trước đây. Trước hết khi ấy tôi ấn tống kinh Hoa Nghiêm. Vào thời điểm đó, mỗi một bản in ấn hoàn chỉnh tốn kém khoảng 24 đồng tiền Đài Loan. Bản kinh mà tôi in ấn là tiểu bản, tức là bản khổ nhỏ, đóng bìa mềm, mỗi bộ kinh gồm 12 quyển, mỗi quyển 2 đồng tiền Đài Loan. Bình thường lúc tôi sử dụng đến tiền bạc, cứ phải tiêu ra đến 2 đồng thì luôn có suy nghĩ rằng, ví như 2 đồng này có thể tiết kiệm lại được thì có thể in nhiều thêm một quyển kinh. Nghĩ như thế thì làm sao dám lãng phí?

Tôi luôn hy vọng là Pháp bảo của đạo Phật có thể được lưu thông phổ biến rộng khắp. Hiện tại, ngoài hình thức in ấn ra, chúng ta còn có các dạng file ghi âm, băng cassette, đĩa CD, hết sức đa dạng, đủ mọi hình thức, lưu hành khắp đó đây, mà gần đây nhất là mạng lưới Internet phổ biến khắp toàn cầu, đều có thể được dùng vào việc hoằng pháp lợi sinh.

Nếu có thể kiểm soát, ước thúc được sinh hoạt của bản thân cho thật chừng mực, ổn định, lâu ngày dần thành thói quen, thì sẽ thấy cuộc sống của mình trở nên hết sức thanh thản khỏe khoắn.

Chúng ta nay nhìn thấy người khác được hưởng phúc đức, còn mình thì gieo trồng phúc đức. Chúng ta không nên xem việc hưởng phước là quan trọng, chủ yếu nên lo việc tạo phúc. Vậy thì phước báo đến bao giờ mới được hưởng? Các bậc cổ đức xưa kia đều dạy chúng ta rằng, không phải đợi đến kiếp sau mới được hưởng, mà ngay trong một đời này lúc lâm chung được hưởng, đó mới là phước báo chân thật. Khi lâm chung được hưởng phước báo gì? Đó là thân không bệnh khổ, tự biết trước thời điểm ra đi, an nhiên tự tại vãng sinh. Khi lâm chung được hưởng những điều như vậy, không bị bệnh tật làm hại, đó thật là phước báo chân chánh. Người như vậy chính là người có phước đức, ví như suốt một đời này chưa từng được tiếp xúc qua với Phật pháp, chỉ cần khi lâm chung được có phước báu như thế, nhờ phước báu như thế nên tất nhiên thần trí sẽ được sáng suốt, không có bệnh khổ, nếu như lúc ấy gặp được bậc thiện tri thức khuyên niệm Phật cầu vãng sinh, người ấy chỉ cần một niệm cho đến mười niệm, ắt sẽ được vãng sinh. Đó chính là theo đại nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám đại nguyện của đức Phật A-di-đà mà nói, quyết định là người ấy sẽ được vãng sinh, chỉ cần người ấy chịu niệm Phật, chịu phát nguyện vãng sinh, thì chắc chắn sẽ được vãng sinh.

Sở dĩ một người có thể được vãng sinh về thế giới Cực Lạc hay không, đều là do tâm niệm sau cùng của người ấy khi lâm chung. Có người cả một đời niệm Phật, đến phút lâm chung sau cùng lại khởi niệm tham luyến các duyên thế tục, nên hóa ra không được vãng sinh. Những người như thế lại nhiều lắm. Hoặc giả đến phút lâm chung chịu bệnh khổ, hôn mê bất tỉnh, người khác đến giúp đỡ trợ niệm, người ấy chỉ nghe mà không thấy, nên cũng không thể được vãng sinh. Lại có một hạng người mang nghiệp chướng hết sức nặng nề, nên dù suốt một đời niệm Phật, mà đến lúc lâm chung nghe niệm Phật lại bực dọc, khó chịu, không muốn nghe, rồi gạt bỏ đi không chịu tiếp nhận. Người như thế đương nhiên là không thể vãng sinh.

Nói chung những người đã không được vãng sinh thì chắc chắn phải tùy theo nghiệp lực mà lưu chuyển, điều đó chúng ta cần phải hiểu rõ. Đó cũng là vì lẽ đạo không sáng rõ, phương pháp không tỏ tường. Cơ duyên được cứu độ trong một đời thật không dễ nắm giữ, nhất định phải thật sáng rõ tỏ tường, phải hết sức rõ ràng minh bạch. Đoạn nói về Chủ hỏa thần chính là giới thiệu với chúng ta cảnh giới sáng rõ như thế. Bây giờ xem tiếp đoạn dưới đây về Chủ phong thần.

[Lại có vô số các vị Chủ phong thần]

Câu này là nói về số lượng, phân loại. Nói đến phong tức là gió, thì tất cả quý vị đều đã biết, có thể làm lợi ích cho người, cũng có thể gây tổn hại cho người. Được cơn gió ôn hòa nhẹ thổi, chúng ta đều thấy thật hết sức sảng khoái dễ chịu. Ví như lại là những cơn bão nhiệt đới, lốc xoáy hay vòi rồng kéo đến, thì chúng ta nhất định phải chịu rất nhiều sự tổn hại. Cho nên các loại nước, lửa, gió đều có thể làm lợi ích cho chúng sinh, mà cũng đều có thể gây tổn hại cho chúng sinh.

Vậy cảnh giới này là biểu trưng cho những gì? Đó là biểu trưng cho những sự vận động, nhân vì gió chính là sự vận động, không chuyển động, vận động thì không gọi là gió. Trong Phật pháp dạy chúng ta về những nền tảng cơ bản nhất của vật chất, ngày nay thì gọi là nguyên tử, điện tử hay các hạt cơ bản, hết thảy vật chất đều là do những thứ cơ bản nhất hợp lại theo cách này cách khác mà thành, cho nên mới gọi chúng là căn bản của vật chất. Đức Phật gọi những yếu tố căn bản đó là tứ đại, nhưng thật ra nếu giảng rõ thì tứ đại là bốn trạng thái hiện tượng khác nhau của những yếu tố căn bản đó. Trong tứ đại có phong đại, phong đại chính là trạng thái chuyển động, không phải là trạng thái yên tĩnh. Do đó mà biết, dùng chữ phong là có ý nghĩa biểu thị hết thảy các hoạt động. Trong xã hội của chúng ta ngày nay, nói đến các hình thức vận động, thì đều thuộc về ý nghĩa biểu trưng này.

Chủ phong thần nên được hiểu trong thực tế xã hội hiện nay của chúng ta, tức là các bậc nhân tài có chuyên môn chủ trì các hoạt động khác nhau, những người như vậy đều nên xem như là Chủ phong thần. Còn như trong Phật pháp mà nói, chư Phật Bồ Tát ứng hóa trong thế gian, giáo hóa làm cho phong tục tập quán được thay đổi tốt đẹp hơn, âm thầm tạo ra những sự chuyển biến thay đổi như thế, đều có thể xem là các vị Chủ phong thần, đại loại đều là như thế. Khi hiểu rõ được lẽ này thì ngay cả những nghệ nhân biểu diễn cũng đều có thể xem là thuộc loại này. Phạm vi bao hàm của cách phân loại này thật hết sức rộng lớn, thậm chí có thể bao hàm cả những vận động trong phạm vi chính trị, chỉ cần thuộc về sự vận động thì đều có thể bao quát hết vào trong sự phân loại này. Cho nên phạm vi bao hàm hết sức đa dạng, phong phú, đủ các loại. Chúng ta đã xem qua phương pháp biểu trưng của câu trên.

[như là Vô Ngại Quang Minh Chủ phong thần]

Nói chung, đã là gió thì đều hàm ý nghĩa “vô ngại”, bởi nếu thật có chướng ngại thì không thể hoạt động, nhất định phải không có chướng ngại thì luồng gió mới có thể vận động. Từ trong đức hiệu này lại còn có hai chữ “quang minh”, liên tưởng ngược lại cùng với hai chữ vô ngại ở trước, trong đó ắt hàm ý như Phật thường giảng về phương tiện thiện xảo. Phạm vi ứng dụng của phương tiện thiện xảo cũng là rất rộng. Đó chính là ý tứ biểu trưng của “vô ngại quang minh”. Giờ đến vị thứ hai là:

[Phổ Hiện Dũng Nghiệp Chủ Phong Thần]

Nghiệp, tức là tạo tác; dũng, tức là dũng mãnh, mạnh mẽ có khả năng thị hiện phổ biến khắp nơi. Ý nghĩa như thế rõ ràng là muốn nói cho chúng ta biết rằng, vị Chủ phong thần này có khả năng tùy loại hóa thân; tùy loại hóa thân, đó chính là “phổ hiện dũng nghiệp”. Các vị quán sát thấy biết được chúng sinh nào nên dùng thân gì để có thể hóa độ, thì liền hóa hiện thân ấy. Trong đó không hề có sự chướng ngại, không hề có sự sợ sệt. Lại như cần phải thuyết giảng giáo pháp nào, các vị liền giảng thuyết pháp ấy. Đó là biểu thị cho ý nghĩa tùy loại hóa thân, tùy căn cơ thuyết pháp. Ý nghĩa đó hết sức sâu xa, hết sức rộng khắp, chúng ta cần phải lưu tâm suy ngẫm thật kỹ mới thể hội được, làm thế nào để ngay trong sự sinh hoạt thường ngày của chúng ta, có thể khiến cho mỗi mỗi sinh hoạt đều tương ưng với giáo pháp, tương ưng với sự không chướng ngại, với sự phổ hiện rộng khắp. Bây giờ đến vị thứ ba:

[Phiêu Kích Vân Tràng Chủ phong thần]

Chúng ta có thể thấy ngay trong đức hiệu này, hết thảy đều là các tướng động. Phiêu nghĩa là thổi, tức là động; kích nghĩa là đánh, cũng tức là động. Vân nghĩa là mây, lại cũng là tướng động; tràng nghĩa là lá cờ treo trên cao, biểu ý cao quý, sáng rõ, là vô cùng sáng tỏ. Đặc biệt nhất là ý nghĩa biểu trưng của chữ “vân”. Chữ này hàm ý “chẳng phải có chẳng phải không”, hàm ý “không và có chẳng phải hai, lý và sự cũng chẳng phải hai”. Trong chữ “phiêu” thì hàm ý rộng, nên biểu trưng cho nguyện; chữ “kích” thì biểu trưng cho hạnh. Thực tế giảng rộng hai chữ này thì có hàm ý “đại nguyện đại hạnh”, chỉ có hạnh nguyện mới có thể làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh, mới có thể thành tựu Phật pháp vô thượng. Bây giờ đến vị thứ tư:

[Tịnh Quang Trang Nghiêm Chủ phong thần]

Những chữ “tịnh quang”, “trang nghiêm”, trước đây chúng ta đều đã từng xem qua, chỉ có điều là sự phân biệt các vị này không tương đồng. Ở đây giảng ý nghĩa “tịnh quang trang nghiêm” của vị Chủ phong thần, danh hiệu tuy tương đồng nhưng ý nghĩa so với trước đây không đồng. Đó là điểm chúng ta cần phải đặc biệt chú ý. Bởi vì trong tất cả các hoạt động, nhất định đều phải có sự tương ưng phù hợp với trí tuệ, phải có sự tương ưng với tâm thanh tịnh, thì những hoạt động như thế đối với xã hội mới có lợi, đối với chúng sinh mới có ích.

Ví như làm một điều gì mà hoàn toàn không có trí tuệ, tâm không thanh tịnh, hoặc chỉ vì lợi ích riêng tư của cá nhân mình, hoặc vì lợi ích cho một nhóm nhỏ của mình, lừa dối mê hoặc quần chúng, gây ra sự phá hoại xã hội, thì tội lỗi thật là vô lượng vô biên. Những kẻ như thế đối với tướng “tịnh quang” này là hoàn toàn trái ngược.

Do đó có thể biết rằng, Phật pháp nhìn một cách tổng quát, đem hết những điều ghi trong Kinh điển mà phân tích quan sát thật kỹ, thì tổng kết lại hoàn toàn không có gì lìa khỏi yếu tố trí tuệ. Cho nên có thể nói pháp Phật chính là phương pháp hết sức trí tuệ, mà sự hưởng thụ theo Phật pháp là hưởng thụ hết sức trí tuệ, sự sinh hoạt theo Phật pháp là sinh hoạt hết sức trí tuệ; mỗi câu mỗi chữ trong Phật pháp đều không rời khỏi trí tuệ; mỗi câu mỗi chữ đều không rời khỏi sự thanh tịnh. Như thế là trang nghiêm.

Hai chữ “trang nghiêm”, nói một cách đơn giản thì là sự tốt đẹp. Thông thường chúng ta hay mang các khái niệm “chân thiện mỹ tuệ” ra để giải thích. Nhưng theo trong pháp thế gian mà nói, thì chân thiện mỹ tuệ đó quả thật chỉ là hữu danh vô thực, chỉ duy nhất trong Phật pháp thì mới có ý nghĩa thực sự. Nếu quý vị không rõ biết Phật pháp, không biết tu tập theo Phật pháp, thì bốn chữ “chân thiện mỹ tuệ” đó, bất quá cũng chỉ là hướng về những chuyện đã qua mà nói thôi, quyết định chẳng phải sự thật. Chỉ sau khi học rõ pháp Phật thì mới có thể sáng tỏ mọi việc, mới có thể vận dụng sự thanh tịnh, quang minh mà trang nghiêm tự tánh, trang nghiêm tự thân, trang nghiêm cho môi trường sinh hoạt, hoàn cảnh chung quanh, sau đó mới có thể mở rộng ra mà trang nghiêm cả hư không pháp giới. Tiếp theo là vị thứ năm:

[Lực Năng Kiệt Thuỷ Chủ phong thần]

Kiệt thủy có nghĩa là thổi cho nước khô kiệt đi. Thông thường nước ở đây được hiểu là nước biển, có thể thổi cho nước trong biển lớn khô kiệt đi. Nói về sự vận động có thể sản sinh ra sức mạnh, lực lượng cực kỳ lớn lao, tưởng cũng không cần phải nói thêm nhiều. Trong quá khứ, chúng ta có thể xem qua lịch sử mà biết; trong hiện tại, chúng ta có thể quan sát giữa thế gian này có rất nhiều nơi như vậy. Tự bản thân ta chỉ cần quan sát cho thật kỹ thì có thể nhìn thấy trong xã hội vẫn có những người tài ba đảm lược như thế. Người như thế nào gọi là tài ba đảm lược? Đó là khi những hoạt động của người ấy có thể tạo nên chuyển biến thay đổi cho xã hội, có thể ảnh hưởng đến rất nhiều chúng sinh, như vậy có thể gọi là tài ba đảm lược. Người ấy có thể có được sức mạnh, lực lượng lớn lao như nói trên, có thể làm chấn động, khơi dậy được lòng người một cách rộng khắp, đông đảo, ý muốn nói là như vậy. Như đức Phật Thich-ca Mâu-ni khai sáng nền giáo dục Phật giáo, có khi nào lại không có sự vận động như thế? Đó chính là một sự vận động hết sức lớn lao mà đức Phật trong suốt một đời đã dốc toàn tâm toàn lực tạo ra, khơi dậy. Sau khi Phật nhập diệt, các đệ tử của ngài lại đời đời truyền nối, kế tục, cũng không ngừng sự vận động ấy. Sự thúc đẩy vận động như vậy là hoàn toàn chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người trong toàn xã hội.

Trong kinh nói “Sức mạnh có thể làm cạn nước”, đó là nước gì? Ý nghĩa của nước như thế trong Phật pháp chính là biểu trưng cho tâm tham ái. Quả thật chỉ duy nhất Phật pháp mới có thể giúp cho chúng sinh được giác ngộ; sau khi giác ngộ rồi mới có thể đoạn trừ tham, sân, si. Năng lực của vị này có thể đoạn dứt được tham, thì sân với si cũng theo đó có thể tự nhiên được dứt trừ. Chúng ta đọc thật nhiều lần đoạn kinh văn này. Đoạn kinh văn này rốt lại chính là giảng về tham sân si. Nước chính là biểu thị cho tham, lửa biểu thị sân hận, gió biểu thị ngu si. Gió tức là không giữ theo quy củ, loạn động. Ngu si cũng là loạn động. Khi giảng về nước, trong kinh đề cập đến ba loại: Chủ hà thần, Chủ hải thần, Chủ thủy thần. Quý vị thấy đó, tham là hết sức ác hại, được giảng đến ba loại. Sân hận là Chủ hỏa thần, chỉ có một loại. Ngu si là Chủ phong thần, cũng chỉ một loại. Duy chỉ có nước tham là giảng ra đến ba loại, điều này thật hết sức hợp lý.

Cương lĩnh chung trong việc tu tập Bồ Tát Đại thừa chỉ có một việc là bố thí. Cả sáu ba-la-mật nói chung cũng đều là bố thí. Trong bố thí gồm có tài thí, pháp thí và vô úy thí. Trì giới và nhẫn nhục là thuộc về vô úy thí. Tinh tấn, thiền định, Bát-nhã là thuộc về Pháp thí. Cho nên tất cả đều quy về một pháp sau cùng là Bố thí ba-la-mật. Pháp bố thí dùng đối trị những gì? Đối trị sự keo kiệt tham lam. Ví như đem tất cả phiền não, ác nghiệp quy kết về một điểm cuối cùng thì đó chỉ còn là một chữ tham mà thôi. Quý vị do đâu mà nổi sân hận? Là vì tham mà không được cho nên sân. Quả như tham cầu mà được thì quý vị sẽ sinh tâm mừng vui chứ không phải sân hận.

Quý vị có sân có tham, thảy đều là do ngu si, không hiểu đúng về thật tướng của các pháp, do đó mới tạo tác các nghiệp xấu ác. Ví như tham có thể đoạn trừ được, thì sân với si cũng đều theo nhau mà bị dứt trừ. Đó là điều mà chúng ta cần phải hiểu cho sáng tỏ, sau đó mới có thể có sự dụng công chân chính, mới biết chỗ để khởi đầu tu tập, mới có sự cân nhắc trong lòng xem bằng cách nào có thể đối trị được tâm tham của mình. Chẳng những đối với các pháp thế tục không khởi tâm tham, mà đối với pháp Phật cũng không khởi tâm tham. Nếu quý vị có thể nhận biết rõ được điều đó, thì công phu của quý vị sẽ tự nhiên thành tựu.

Nói về tu hành thì tu là sửa cho ngay, cho chính đáng; hành tức là hành vi, hành động. Tu sửa cho chính đáng những hành vi sai lầm của bản thân mình. Trong số những hành vi sai lầm thì đứng đầu chính là tham lam. Câu này giảng về Chủ phong thần, đó chính là khởi tâm động niệm. Mỗi lúc khởi tâm động niệm cần phải nhận biết tâm tham mà đoạn trừ, liên tục diệt trừ cho đến hết mới thôi, đó chính là “Lực Năng Kiệt Thủy Chủ phong thần”, xét theo ý nghĩa của danh hiệu này là hoàn toàn tương ưng.

Cần phải thấu hiểu được sự nghiêm trọng của phiền não tham lam. Nếu còn tham luyến ngũ dục lục trần của thế gian, thì quý vị không thể nào thoát ra khỏi sáu đường luân hồi. Tham cầu Phật pháp cũng không thoát ra khỏi sáu đường luân hồi. Vì sao vậy? Vì Phật pháp dạy chúng ta dứt trừ tâm tham, dứt trừ phiền não, chứ không dạy chúng ta chuyển đổi đối tượng của lòng tham, quý vị phải xét lại bỏ đi sự sai lầm đó. Đạo Phật không dạy chúng ta hoán chuyển lòng tham từ đối tượng này sang đối tượng khác, mà phải nhận biết tâm tham để dứt trừ. Điều này trong kinh luận Đại thừa thường nói đến rất nhiều, giảng giải hết sức chi ly tường tận.

Chúng ta mỗi một niệm đều phải hết sức chú tâm vào công phu tu tập, bất luận là chúng ta đang tu học theo pháp môn nào, nói chung thì phải biết cách thâm nhập theo đúng lời dạy của cổ nhân, phải rõ biết được cách thức tu tập như thế nào. Sở dĩ đức Thích-ca Mâu-ni Phật, các bậc Tổ sư, Đại đức qua nhiều đời đều có thị hiện cho chúng ta thấy, như trước đây dã giảng về thị hiện chủng chủng quang minh, để cho chúng ta đều thấy được. Thấy được những gì? Đó là cho chúng ta thấy được sự không tham, không sân, không si. Đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, thảy thảy đều có thể nhất thời buông xả, đó chính là “lực năng kiệt thủy”. Sau khi buông xả rồi, mỗi mỗi các pháp đều có thể khởi sinh, khởi sinh đó là vì lợi ích của chúng sinh, nhất định không phải vì lợi ích của riêng mình. Quý vị nếu còn có một niệm mong cầu lợi ích cho tự thân, đó là quý vị vẫn còn tâm tham. Mỗi mỗi niệm tưởng đều chỉ nghĩ đến việc giúp đỡ hỗ trợ chúng sinh, giúp chúng sinh đạt được giác ngộ, giúp chúng sinh quay đầu bỏ tà về chánh, đó đều là phương tiện thiện xảo. Cho nên, trước hết phải có khả năng buông xả, thì sau đó mới có thể nói đến chuyện khởi sinh. Nếu còn có một mảy may nào không buông xả được, đều sẽ tạo thành nghiệp chướng nghiêm trọng cho chính bản thân mình. Người tu hành chân chính phải luôn luôn ghi nhớ, trong kinh Kim Cang đức Phật đã dạy rằng: “Pháp còn phải buông xả, huống chi những gì không phải pháp.” Ngoài việc làm lợi ích chân chính cho chúng sinh, liệu chúng ta còn có việc gì nữa? Không có việc gì khác cả. Ngoài việc làm lợi ích chân chính cho chúng sinh, liệu chúng ta còn gì khác nên giảng thuyết? Không còn gì khác cả. Phật với Phật cũng không nói thêm được gì khác. Do đó mà biết rằng, chúng ta muốn học được cái học chân chính của hàng Bồ Tát, thì phải sao cho được đôi phần tương tự. Nếu không phải những chuyện làm lợi ích cho chúng sinh, tuyệt nhiên không khởi niệm; không phải những chuyện làm lợi ích cho chúng sinh, tuyệt nhiên không bàn luận giải thuyết một lời nào; không phải vì lợi ích cho chúng sinh, tuyệt nhiên cũng không cần phải làm bất cứ sự việc gì. Như vậy thì thân tâm của quý vị mới có thể chân chính đạt đến sự thanh tịnh tự tại, vô ngại quang minh ở ngay hiện tiền.

Như vậy là thế nào? Quý vị nói vì tự ngã, thật không có cái tự ngã đó, làm gì có tự ngã? Ngã và ngã sở đều không thể nắm bắt, thì công phu tu tập của chúng ta mới có sự kết quả. Cho nên nói là vô sự, vô sự là chuyên tâm niệm Phật, là xong việc. Còn có việc là phàm phu, thật vô sự là Phật, Bồ Tát. Ý nghĩa đạo lý đó chúng ta cần phải sáng tỏ, cần phải hiểu thật rõ ràng. Chân chính thấu hiểu sáng tỏ rõ ràng, đó gọi là khán phá. Bây giờ sang đến vị thứ sáu:

[Đại Thanh Biến Hống Chủ phong thần]

Mỗi khi có gió lớn, chúng ta đều nghe trong gió có âm thanh. Đó gọi là “Đại Thanh Biến Hống”, là trong mọi hoạt động khác nhau, hết thảy đều dốc toàn tâm toàn lực để tuyên dương Phật pháp, chính là ý nghĩa “đại thanh biến hống”. Biến, nghĩa là khắp thảy, không phân biệt chủng loại. Chín pháp giới chúng sinh đều bình đẳng được cứu độ, không phân biệt chủng loại. Giảng giải Phật pháp trong nhân gian cũng không phân biệt chủng tộc, không phân biệt quốc tịch, không phân biệt bối cảnh văn hóa, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, luôn lấy tâm chân thành, lấy tâm thanh tịnh, lấy tâm đại từ đại bi mà nghĩ đến hết thảy chúng sinh, mang Phật pháp giới thiệu đến cho tất cả mọi người.

Về sự giới thiệu Phật pháp, tôi đã từng giảng nói rất nhiều rồi, là phải tùy cơ thuyết pháp, phải biết được về nguyên lý. Ngày nay chúng ta hoằng dương Phật pháp, vì lý do gì mà không thể hóa độ hết thảy mọi người? Đều là vì không thấu rõ được nguyên lý tùy cơ thuyết pháp. Quý vị cần phải biết tùy cơ thuyết pháp. Trong chín pháp giới chúng sinh, không một chúng sinh nào lại không thể cứu độ. Như khi Phật Bồ Tát thị hiện hóa thân, tôi cũng từng nói với quý vị rồi, khi đức Phật còn tại thế, như trong kinh vẫn còn ghi chép rõ, sự khéo léo của đức Phật là như thế nào? Ví như có nhiều người tìm đến gặp Phật, thì đối với mỗi người đều không thuyết dạy giống nhau. Vì sao mỗi người đều có sự nhìn thấy khác nhau? Vì để cho mỗi người nhìn thấy rồi đều sinh tâm hoan hỷ, đều thấy phù hợp với chính mình. Cho nên thuở xưa khi đức Phật thị hiện tại thế gian, tuy chỉ một thân Phật nhưng có sự biến hóa rất đa dạng, người da trắng thấy Phật là da trắng, người da đen thấy Phật là da đen, họ đều thấy Phật giống như mình, đó chính là thân tướng nhiệm mầu vi diệu. Chúng ta đối với sự thay đổi hình tướng như vậy thì không có cách nào, không thể biến đổi, không thể tùy theo suy nghĩ của chúng sinh mà tùy biến. Sở dĩ hết thảy chúng sinh được gặp Phật đều thấy là thân thiết, gần gũi với mình là vì vậy. Đó chính là tùy loại hóa thân đạt đến mức cực điểm vậy. Chúng ta từ nơi sự việc như thế mà thể hội được điều gọi là tùy cơ thuyết pháp. Nếu nói chuyện với tín đồ Cơ đốc giáo, thì giảng kinh Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm như Thánh kinh, không phân biệt, người nghe liền sinh tâm hoan hỷ. Nếu nói với người theo đạo Hồi, thì giới thiệu Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh giống như kinh Koran của họ, làm sao họ có thể không học hỏi, tìm hiểu? Người không học thì cũng muốn đến xem qua một chút, xem qua để thấy ta nói có giống với họ hay không. Đạo Phật giảng thuyết uyển chuyển như thế là chân chính, vì sao vậy? Vì Phật hoàn toàn không có một pháp cố định nào để thuyết. Hết thảy các pháp mà Phật thuyết, đều không ngoài mục đích phá trừ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng sinh. Chỗ mong cầu của tất cả chúng sinh đều là phước báo, đều là thiên đường, mong cầu được phước báo, mong cầu được sống lâu. Đối với những điều đó, Phật pháp hết thảy đều có những phương pháp để chỉ dạy cho họ đạt được, đều là chân thật không giả dối chút nào. Chỗ mong cầu của quý vị đều có thể được giúp đỡ hỗ trợ để đạt đến, đó gọi là tùy loại hóa thân, tùy cơ thuyết pháp. Như vậy mới có thể chân chính giảng đến ý nghĩa “đại thanh biến hống”, nghĩa là rộng độ hết thảy chúng sinh đủ mọi giống loài khác nhau trong khắp cùng hư không pháp giới. Bây giờ đến vị thứ bảy:

[Thụ Diểu Thùy Kế Chủ phong thần]

Danh hiệu này có hàm nghĩa không được rõ lắm. “Thụ diểu” nghĩa là hình dung thân cây nhọn. Quý vị thử suy xét thật kỹ xem hình ảnh này biểu thị cho ý nghĩa gì? Trước đây tôi nhiều lần giảng kinh vẫn thường nói với quý vị rằng kinh điển của Phật là linh hoạt sinh động, hoàn toàn không phải khô khan cứng nhắc. Cho nên tôi thường đặc biệt nhấn mạnh, giảng kinh nhất thiết phải giảng sao cho phù hợp với hiện đại, phù hợp với đất nước địa phương nơi giảng, thì người nghe mới có thể được lợi ích chân chính. Tuy nhiên, chúng ta giảng pháp dù theo hiện đại, dù hợp với quần chúng bản địa, cũng tuyệt đối không được trái với ý nghĩa trong kinh giáo, không được giảng sai lệch đi. Nếu quả thật thuyết giảng trái với giáo nghĩa, thì đó là ma thuyết, không phải Phật thuyết, nên nhất định không được giảng trái với Kinh điển.

Tôi từng khuyên các vị pháp sư, đại đức, thiện tri thức, vô luận là người tại gia hay xuất gia, nếu đã phát tâm giảng giải kinh điển, thì cần phải nắm hiểu rõ ràng một nguyên tắc, phải hiểu cho thấu đáo nghĩa lý trong kinh, phải sáng rõ được những nguyên lý, nguyên tắc. Quý vị chủ yếu phải nắm chắc được những điều đó thì mới bắt đầu giảng, còn phương pháp giảng kinh như thế nào thì không hề nhất định. Chúng ta có thể dựa vào các chú giải kinh văn mà quan sát, mà nghiên cứu, đặt thêm các chú giải hiện đại. Chú giải kinh Phật từ xa xưa nhất là vào thời Hán. Rồi mỗi một triều đại đều có rất nhiều người mang kinh luận ra chú giải. Quý vị nên dùng phương pháp quan sát như thế nào? Tốt nhất là nên chọn lấy một bộ kinh. Tại Trung Quốc, được đại chúng hoan nghênh nhiều nhất, được tụng đọc nhiều nhất là kinh Kim Cang và phẩm Phổ môn trong kinh Pháp Hoa, có thể lấy hai bộ kinh này làm điển hình thí dụ tìm hiểu. Từ xưa đến nay, những chú giải dành cho hai bản kinh này đặc biệt rất nhiều, hết sức phong phú. Quý vị có thể quan sát cho thật kỹ, xem người đời Hán đã giảng pháp như thế nào, vì cách giảng pháp của họ nhất định phải khế hợp với căn cơ của chúng sinh vào thời đại ấy. Sau đó quý vị lại quan sát các chú giải vào đời Đường, xem phương pháp chú giải của họ thế nào, xem họ noi theo các chú giải của người đi trước thế nào và có những chỗ nào không tương đồng, quý vị cần phải lưu ý. Người sống vào đời Đường, tất nhiên hình thái ý thức, phương thức sinh hoạt so với người đời Hán không giống nhau, do đó mà sự giảng giải giáo pháp cũng không giống nhau. Lại quan sát đến cách giảng pháp vào đời Tống, rồi đời Minh, đời Thanh, quý vị cứ quan sát cho thật kỹ như thế, thì tự nhiên sau đó có thể bừng ngộ ra được, có thể biết được là mình nên giảng pháp như thế nào.

Giống như khi đem so với một cây cổ thụ, thì Kinh điển là phần nào? Chính là phần gốc rễ của cây. Rễ thì nằm sâu dưới đất, gốc tức là phần thân chính, nên gọi là gốc. Kinh điển là gốc rễ căn bản, phần giảng giải là cành lá. Cành lá không thể dứt lìa khỏi gốc rễ. Chúng ta thử quan sát một cây cổ thụ ngàn năm tuổi, có cành nhánh nào từ trước tồn tại đến nay chăng? Có, vẫn có những cành nhánh nhiều năm tuổi từ trước còn lại. Rồi trên những cành nhánh nhiều tuổi đó, lại phát sinh những cành nhánh mới. Mỗi năm đều có cành mới, mỗi năm đều sinh ra thêm lá mới, mỗi năm đều nở những hoa mới, nhưng căn bản gốc rễ vẫn còn nguyên đó. Cành nhánh có những phần thật nhiều năm tuổi, nhưng hoa với lá thì nhất định phải là mới sinh ra, mỗi năm đều khác biệt, rụng cũ thay mới. Quý vị phải thông suốt đạo lý này mới có thể giảng kinh. Khi quý vị giảng kinh là phải khế cơ, khế lý, không được mang kinh ra giảng giải sai lệch. Nếu như quý vị lìa khỏi căn bản gốc rễ, đó gọi là ma thuyết; lìa xa nguyên lý, nguyên tắc giảng kinh thì là ma thuyết, không phải là Phật thuyết. Tuy không lìa khỏi căn bản, nhưng nếu không thấu rõ lý “bỏ cũ thay mới” thì đó lại chỉ là ngôn ngữ sáo rỗng vô nghĩa. Vì sao vậy? Vì không khế hợp căn cơ. Vì thế nên có những vị đại đức học cao hiểu rộng ra giảng kinh, nhưng chỉ biết mang những chú giải của người xưa ra giảng, hoàn toàn dựa theo các chú giải đó mà giảng, gọi là y gốc nói ngọn, như thế thì hoàn toàn không có xa lìa căn bản gốc rễ kinh văn, chỉ có điều không thể khế hợp căn cơ.

Quý vị cần phải biết kết hợp các chú giải của người đời Đường với những giảng giải của người đời nay. Như vậy là ý nghĩa gì? Thử nói xem, nếu người đời nay lại giảng cho người đời Đường có được chăng? Không được, giảng không thông. Tư tưởng của người đời nay so với người đời Đường làm sao có thể giống nhau? Sinh hoạt của người đời nay so với thời ấy đã không tương đồng, thì những chú giải của người thời ấy, người đời nay không thể tiếp nhận được. Tuy là không lìa khỏi căn bản, nhưng đó là những cành lá của quá khứ, không phải những cành lá mới sinh ra của năm nay, vì thế mà không dùng được. Những cành non, cành ngọn đều là mang lá mới sinh ra của năm nay, mang những hoa mới sinh ra của năm nay, những thứ ấy nhất định không hề lìa khỏi căn bản. Chẳng những là chúng không lìa khỏi căn bản, mà những cành gần với chúng cũng không lìa khỏi căn bản. Cần phải thấu rõ được đạo lý này thì mới có thể giảng kinh một cách linh hoạt sống động, không phải là những ngôn ngữ chết. Vậy những chú giải của các bậc đại đức xưa có nên tham khảo hay không? Rất nên, việc tham khảo có thể khai phát cho quý vị, giúp đỡ quý vị khai mở trí tuệ. Nhưng tuy đọc chú giải của cổ nhân, phải thấu hiểu theo trạng huống của thời đại. Khi hiểu được những hình thái ý thức của thời đại ấy, những kiến giải tư tưởng của các vị ngày xưa đó, quý vị cũng sẽ hiểu được những phương pháp thuyết pháp đối trị của vị pháp sư ấy. Cũng giống như khi biết được phương thuốc trị bệnh, ta cũng có thể biết được căn bệnh của người uống thuốc, đồng một lẽ như vậy. Cho nên đối với kinh điển nhất định phải học và vận dụng một cách linh hoạt sống động, thì mới có được lợi ích chân thật. Đức hiệu của vị Bồ Tát này chính là biểu trưng cho ý nghĩa đó. Dưới đây xem tiếp đến vị thứ tám:

[Sở Hành Vô Ngại Chủ phong thần]

Đặc biệt đối với bộ kinh này, Đại sư Thanh Lương từng giảng rõ với chúng ta rằng, do cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn của kinh Hoa Nghiêm, thời xưa có rất nhiều người gọi kinh này là Đại Bất Tư Nghị Kinh. Đại sư Thanh Lương giảng rằng, “không thể nghĩ bàn” đó phải dùng Tứ chủng vô ngại để giải thích. Lý vô ngại, là vì bộ kinh này thuyết giảng giáo lý viên dung đạt đến mức cùng cực. Không chỉ là không có chướng ngại trong Phật pháp. Chúng ta đều biết Phật pháp có Đại thừa, Tiểu thừa, có Hiển giáo, Mật giáo, có Tông môn, có Giáo môn, nhưng vận dụng tất cả các tông phái ấy vào kinh Hoa Nghiêm thì đều viên dung hết thảy, không có chướng ngại, không có xung đột, đúng thật là đại viên mãn. Lại khi giảng về sự cũng không hề có chướng ngại. Sự tức là sự tướng, sự tướng tức là từ nơi lý tánh mà biến hiện ra. Lý đã vô ngại, thì sự lẽ nào lại có chướng ngại? Sự là chỉ cho muôn việc muôn pháp, mười pháp giới đều y chính trang nghiêm xác thật, hoàn toàn không có sự phương ngại. Lại quan sát kỹ một lần nữa, lý sự vô ngại, lý sự giao hòa thông suốt, trong lý có sự, trong sự có lý, đó thật là không có chướng ngại. Phàm phu chúng ta khởi sinh bệnh chấp chính là ở chỗ này, là vì sao? Vì đối với lý và sự có khởi sinh chướng ngại, trong khi kỳ thật hoàn toàn không có. Không chỉ là lý với sự giao hòa thông suốt không có chướng ngại, mà sự với sự cũng là vô ngại. Đó chính là chỗ bất khả tư nghị đạt đến mức cùng cực, sự với sự đúng thật không hề có chướng ngại.

Đại sư Thanh Lương nói về Tứ chủng vô ngại, nhưng đối với phàm phu chúng ta thì bốn điều ấy mỗi mỗi đều có chướng ngại. Do đâu mà có chướng ngại? Đức Thế Tôn trong kinh này đã chỉ rõ cho chúng ta biết được điều đó. Chính là do vọng tưởng, chấp trước. Nói đến vọng tưởng, chấp trước, thì trong đó còn có cả sự phân biệt, nhưng không phải là bỏ sót, chỉ là giản lược để nói thôi. Từ nơi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mới sản sinh vô số những chướng ngại. Lìa được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, xin nói rõ cùng quý vị, chẳng những là lý sự được vô ngại, sự sự được vô ngại, mà đó còn chính là pháp giới nhất chân. Bồ Tát quyền giáo chứng đắc được cảnh giới lý sự vô ngại, nhưng đối với các vị thì sự sự còn có chướng ngại, chưa thể đạt đến sự sự vô ngại. Tôi thường giảng về Mười pháp giới, trong đó có Tứ thánh pháp giới là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật pháp giới, trong đó có thể chứng đắc được lý sự vô ngại nhưng chưa đạt đến sự sự vô ngại. Khi siêu việt lên trên mười pháp giới, lúc đó là nhập vào Nhất chân pháp giới. Nhất chân pháp giới tức là đã đạt được sự sự vô ngại. Cho nên Bồ Tát Viên giáo ở bậc Sơ trụ đã có thể thị hiện sắc tướng phổ biến khắp cùng hư không pháp giới, cũng có thể hiện thân. Như thế là thuộc về sự sự vô ngại, tùy loại hiện thân, có thể hóa hiện vô lượng vô biên thân. Phật và Bồ Tát trong Thập pháp giới không đạt được đến cảnh giới này, nhưng Bồ Tát ở địa vị Sơ trụ trong Nhất chân pháp giới đã có thể đạt đến. Đó chính là giảng đến chỗ “sở hành vô ngại”.

Đối với điều đó hiện nay chúng ta phải tu học theo như thế nào? Kỳ thật cũng không khó để nắm hiểu thấu suốt được nguyên lý, nguyên tắc đó. Nếu như quý vị có thể xa lìa hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì chỗ sở hành của quý vị sẽ được vô ngại. Chúng ta ngày nay vì sao mà nơi nơi chốn chốn đều gặp chướng ngại? Nhất định không phải là việc để oán trời trách người. Nếu quý vị oán trời trách người, đó là sai lầm. Vì sao vậy? Vì ngay nơi đó đã trở thành trong lý có chướng ngại, trong sự có chướng ngại. Trong lý thật ra không hề có chướng ngại, trong sự cũng thật ra không hề có chướng ngại, cho nên quý vị nhất định phải tĩnh tâm quay về quán chiếu tự tâm mình. Những chướng ngại như vậy phát sinh từ đâu? Nhất định là phát sinh từ sự phân biệt chấp trước của tự thân mình. Nếu sự phân biệt chấp trước của bản thân ta đã buông bỏ, làm gì còn có chướng ngại nào? Cần phải thấu rõ được đạo lý ấy, thì tự mình mới hiểu ra được phải nỗ lực tu hành bắt đầu từ đâu. Chúng ta tu hành, không phải vì người khác mà tu hành. Nếu vì người khác mà tu hành, Phật Bồ Tát đều không thể thành tựu. Phật Thích-ca, Phật A-di-đà đều không thể thành tựu. Tu hành chính là tu sửa tự thân mình, tự thân mình được giải thoát, tự thân mình được khế nhập vào cảnh giới. Cho nên bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ở trong bất kỳ cảnh duyên nào. Cảnh tức là hoàn cảnh vật chất, duyên tức là hoàn cảnh nhân sự; ở trong bất kỳ cảnh duyên nào, tất nhiên là phải có thuận, có nghịch; dù ở trong cảnh giới thuận hay nghịch, chúng ta đều có thể không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, đó là tự mình đã được thành tựu. Ví như vẫn còn có phân biệt, vẫn còn có chấp trước, thì tự mình đã rơi vào sai lệch. Quý vị có thể tĩnh tâm quay về quán chiếu tự tâm mình như thế, có thể quan sát ngay từ nơi ấy, vận dụng công phu, tạo ra được một sự chuyển biến, đó là quý vị đã thể nhập được vào pháp giới không chướng ngại.

Cổ nhân thường nói, thành tựu sự nghiệp đã khó, ứng xử với người còn khó hơn. Chúng ta vì sao giao tiếp ứng xử với người khác không được tốt đẹp? Nhất định phải tự mình kiểm điểm lấy mình, không được chê trách người khác. Chúng ta thường thấy chư Phật Bồ Tát khi vì chúng ta mà biểu hiện, chư vị tổ sư vì chúng ta mà thị hiện, các vị vĩnh viễn luôn duy trì được tâm địa thanh tịnh bình đẳng giác. Ở trong cảnh duyên nếu như quả thật có điều không thanh tịnh, các vị sẽ lặng lẽ tránh xa, rời khỏi, tuyệt nhiên không tham dự vào. Điều này chính là để có thể vĩnh viễn bảo trì được sự thanh tịnh bình đẳng giác. Cho nên khi các vị ở trong cảnh duyên, dù là thuận cũng không sinh tâm hoan hỷ, dù là nghịch cũng không sinh tâm áo não buồn phiền, vĩnh viễn duy trì được sự thanh tịnh, biết cách tiến lùi. Tiến hay lùi cũng đều là Phật pháp. Tiến hay thối đều nhất định phải tương ưng với giáo nghĩa căn bản, tương ưng với giới định tuệ, tương ưng với sáu ba-la-mật. Chúng ta hoàn toàn không thấy được đến chỗ ấy. Chư Phật Bồ Tát thấy người có sự tranh luận thị phi, tuyệt đối không lắng nghe. Các vị dạy ta phải biết nhẫn nhục nhún nhường. Nhẫn nhịn nhún nhường là nói theo phàm phu, còn đối với bậc pháp thân đại sĩ thì hoàn toàn không khởi lên tâm niệm phải nhẫn nhịn nhún nhường. Các vị chỉ hành xử một cách hoàn toàn tự nhiên, tự tại, tiến hay lùi cũng đều như như, đó thực sự là “sở hành vô ngại”. Đó là chỗ mà chúng ta cần phải học tập theo.

Bậc cổ đức cao quý nhất ở Trung Quốc, người biết quay về tự quán xét bản tâm, biết tự kiểm mình, trải qua nhiều thời đại vẫn luôn được tôn sùng, chính là vua Thuấn. Chúng ta xem trong lịch sử vẫn còn thấy được, vua Thuấn từ thuở thiếu thời đã phải trải qua nhiều hoàn cảnh khắc nghiệt, nhưng ngài chưa bao giờ chê trách lỗi lầm, khuyết điểm của người khác, mà ngày ngày luôn tự phản tỉnh, tự sửa đổi lỗi lầm, đổi mới chính mình. Thế nên cuối cùng đã cảm hóa được tất cả những người trong gia đình ngài, một người mẹ kế, con trai của người mẹ kế đó, tức anh em cùng cha khác mẹ với ngài, đều được cảm hóa thành người tốt. Không chỉ cảm hóa được tất cả người trong nhà, ngài cũng cảm hóa được cả những người trong xóm làng quanh mình. Về sau vua Nghiêu mới biết được tất cả mọi việc, hết sức khâm phục, biết rằng không phải người tầm thường có khả năng làm được như thế, mà phải là bậc đại thánh nhân. Vì thế vua Nghiêu cho triệu kiến ngài, mang cả hai người con gái gả cho ngài, lại nhường cả ngôi vua.

Nhất định phải nỗ lực tự phản tỉnh, tự nhận biết chính mình, không oán trời trách người, những gì sai trái lỗi lầm nhất định là ở nơi chính mình. Vì sao vậy? Vì hoàn cảnh bên ngoài vốn là “lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”, làm sao có thể khởi sinh vấn đề? Khi khởi sinh vấn đề, nhất định là phải do nơi tự thân ta, đó chính là một đạo lý lớn lao trong Phật pháp. Nếu quý vị hiểu rõ ràng được đạo lý ấy, thì quý vị mới biết được phải khởi sự tu hành từ nơi đâu.

Tu hành cần phải từ chỗ khởi tâm động niệm của chính mình mà khởi sự tu tập. Tâm niệm phải hoàn toàn chân chính, không được có một chút xấu ác tà vạy nào. Nếu còn có mảy may xấu ác tà vạy trong tâm niệm, thì ví như quý vị có được thành tựu trong sự tu tập, quý vị cũng không thể duy trì. Sự thành tựu của quý vị không thể duy trì được lâu, rốt cùng nhất định rồi sẽ thất bại. Nếu quý vị có thể thực sự giữ tâm chân thành, thanh tịnh, thì cho dù có thất bại, sau đó cũng sẽ thành tựu. Sự thất bại của quý vị chỉ là tạm thời, kết quả cuối cùng chắc chắn rồi sẽ thành tựu. Như vậy là đã giảng rõ ý nghĩa “sở hành vô ngại”. Bây giờ đến vị thứ chín:

[Chủng Chủng Cung Điện Chủ phong thần]

Ý nghĩa biểu trưng của “cung điện” thì mọi người đều đã biết, ở đây nhấn mạnh vào hai chữ “chủng chủng”. “Cung điện” ta có thể hiểu theo một cách đơn giản là từ bi, nếu dùng ngôn ngữ hiện đại thì là sự thương yêu bảo vệ, sự quan tâm nhớ nghĩ đến, sự giúp đỡ hỗ trợ... đó là những ý nghĩa biểu trưng của cụm từ “cung điện”. “Chủng chủng” biểu trưng ý nghĩa không đơn thuần, tức là vô số các phương tiện thiện xảo, thành tựu cho bản thân và người khác, những hàm ý như vậy đều có trong hai chữ “chủng chủng”. Không chỉ là Phật đối với hết thảy chúng sinh, mà tất cả chúng sinh cũng có đủ loại căn cơ tánh chất không giống nhau, nếu theo cách nói hiện nay thì là có đủ mọi bối cảnh không giống nhau, đủ mọi ý thức khác biệt nhau, đủ mọi hình thức sinh hoạt, tập tính không giống nhau, cho đến có đủ mọi tư tưởng, tín ngưỡng khác biệt nhau. Nếu quý vị chỉ sử dụng cùng một hình thức từ bi thì việc hành đạo không thể thông suốt. Sự từ bi nhất thiết phải phân ra thích hợp đủ mọi loại, quan tâm nhớ nghĩ cũng phải phân ra đủ mọi loại, giúp đỡ hỗ trợ cũng phải phân ra đủ mọi loại thích hợp, thì quý vị mới có thể giúp cho tất cả chúng sinh đều được an ổn, tốt lành. Cùng một cách quan tâm nhớ nghĩ, cùng một cách thương yêu giúp đỡ, đối với người này có thể là hiệu quả, nhưng đối với người khác lại không thích hợp, không dùng được. Lấy một ví dụ hết sức hiển nhiên để quý vị có thể thấy rõ, chúng ta đối với một bậc tôn trưởng so với em bé hai, ba tuổi, có thể nào áp dụng cùng một thái độ giống như nhau chăng? Cũng vậy, sự thương yêu bảo vệ, sự quan tâm nhớ nghĩ, sự giúp đỡ hỗ trợ, cũng đều không thể cùng một cách giống nhau. Đối với một em bé ta có thể xoa đầu an ủi, đối với bậc tôn trưởng thì không thể được, quý vị không thể dùng cách xoa đầu để bày tỏ sự quan tâm. Đó là ý nghĩa của hai chữ “chủng chủng”, nghĩa là đủ mọi cách khác biệt nhau. Quý vị phải hiểu rõ được hết thảy chúng sinh là phức tạp, đa dạng như thế nào. Nếu quý vị không sử dụng được đủ mọi phương tiện thiện xảo, quý vị chỉ áp dụng mỗi một thái độ duy nhất đối với mọi hoàn cảnh, sự việc, thì đó là hoàn toàn không có trí tuệ. Đó là chỉ nêu lên một ví dụ nhỏ để quý vị thấy được vấn đề. Quý vị có thể từ một ví dụ đó mà phải suy rộng ra để thấy rằng thực tế luôn hết sức đa dạng, phức tạp, làm sao có thể cho như vậy đã là đầy đủ. Việc ứng xử với người quả thật không hề đơn giản.

Quay lại xem xét chính mình, xét tự tâm mình là việc rất phức tạp. Quá trình thành tựu trưởng thành của mỗi người chúng ta đều không giống nhau. Mỗi chúng ta đều đã từng trải qua các quá trình từ nhi đồng đến thiếu niên, thanh niên, tráng niên. Trong mỗi một quá trình đó, trong sinh hoạt hoặc trong công việc, chúng ta thường gặp rất nhiều những gút mắt, khó khăn, khổ nạn, gặp rất nhiều những biến chuyển đổi thay của con người, cho nên chúng ta tự mình quan tâm suy nghĩ về mình, tự mình chiếu cố lấy mình, cũng không thể dùng những phương pháp cách thức giống nhau, hết thảy đều thường xuyên thay đổi, chuyển biến, làm gì có một cách thức, phương pháp duy nhất không thay đổi? Những kiến thức, hiểu biết như vậy phải học ở đâu? Phải đọc nhiều sách vở, phải rèn luyện từng trải, ngay trong sinh hoạt thường ngày phải thường cọ xát rèn luyện. Quý vị có thể học hỏi khắp đó đây như vậy, quý vị mới có thể thành thục. Nhưng theo trong Phật pháp mà nói, như vậy cũng chưa phải là rốt ráo viên mãn, chỉ là đưa ra giải thích một điểm khó hiểu để so sánh vậy thôi, bởi thật ra thì lời Phật dạy vô cùng hàm súc, nói chung đều không thể nêu ra rõ ràng tất cả, bởi có nhiều hàm ý nằm ngoài ngôn ngữ. Chẳng hạn như Phật dạy về danh hiệu của các vị thần, nếu chúng ta không lưu tâm quán xét, phân tích thật kỹ, làm sao có thể nhận hiểu được, làm sao thấu rõ được ý nghĩa trong đó? Nếu quý vị không quan sát, phân tích rõ các tên gọi, như Trương Tam, Lý Tứ v.v... mỗi mỗi trong đó đều thấu rõ, thì làm sao có thể hiểu được những hàm ý, ý nghĩa trong mỗi tên gọi đó? Đó là một cách thức trong Phật giáo giúp chúng ta học tập, một phương pháp học hỏi của Phật giáo, một phương pháp truyền dạy giáo pháp, dạy chúng ta rằng mọi nơi mọi lúc đều phải lưu tâm quán sát suy ngẫm kỹ, như vậy mới có thể khai mở được trí tuệ. Chúng ta đều là phàm phu, thường đem tâm ý thô thiển xem qua loa mọi việc, Phật dùng phương pháp như vậy để giúp chúng ta tu sửa, chuyển biến, thay đổi khuyết điểm ấy, phải lưu tâm suy ngẫm kỹ mới có thể thấy ra được trong mỗi một danh hiệu đều hàm chứa vô số ý nghĩa, mỗi một danh hiệu đều là chỗ mà chúng ta hiện nay phải học hỏi. Chúng ta phải học hỏi từ đâu? Đều là từ nơi những danh hiệu ấy mà học vậy. Tiếp theo đây là vị cuối cùng.

[Đại Quang Phổ Chiếu Chủ phong thần]

Danh hiệu “Đại Quang Phổ Chiếu” trước đây chúng ta đã gặp rồi, chỉ có điều là không giống như ở đây, nghĩa là trong hết thảy mọi sự vận động, mọi sự hoạt động.

Chúng ta xem lại sự trình bày toàn bộ mười đức hiệu tôn quý của các vị Bồ Tát, danh hiệu trước tiên là “Vô Ngại Quang Minh”, dùng vô ngại quang minh để mở đầu; rồi cuối cùng là “Đại Quang Phổ Chiếu” để kết lại tất cả. Trong sự tổng kết đó cũng không lìa khỏi trí tuệ, không lìa khỏi sự bình đẳng. “Phổ chiếu”, hay soi sáng khắp nơi tức là tâm bình đẳng; tâm bình đẳng tức là tâm an định, cần phải thường được duy trì. Chúng ta đã được đọc trong kinh Vô Lượng Thọ rằng, các vị Bồ Tát ở thế giới Cực Lạc đều có năng lực tùy thời khế nhập vào Tam-muội Hoa Nghiêm, đạt thiền định thâm sâu, cho nên mới có khả năng soi chiếu khắp nơi. Tự tánh của các vị chính là quang minh Bát-nhã, là Căn bản trí, là Hậu đắc trí, nên mới khởi sinh được tác dụng như thế. Công năng như thế đối với tự thân là hoàn toàn tự tại không trói buộc, đối với chúng sinh là hoàn toàn tùy duyên. Tùy duyên mà không có chướng ngại, chính là chỗ mà chúng ta phải học tập theo.

Vì sao chúng ta cần phải chú trọng đến định, cho đến trí tuệ? Trí tuệ không cần phải mong cầu. Ngay nơi một niệm khởi sinh mong cầu trí tuệ đã chính là sự chướng ngại cho trí tuệ. Điều khẩn yếu nhất là chúng ta phải tu tập tâm thanh tịnh. Chúng ta hôm nay chủ yếu phải cầu đạt đến nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn chính là Tam-muội Hoa Nghiêm; nhất tâm bất loạn chính là thiền định cực kỳ thâm sâu. Trạng thái nhất tâm bất loạn đó khởi sinh tác dụng thì chính là “đại quang phổ chiếu”.

Chẳng những khi bước vào Niệm Phật đường thì hết thảy thân tâm, ngoại cảnh thế giới đều phải nhất thiết buông xả, hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nói chung cũng đều phải buông xả hết, mà mỗi khi quý vị có thể dành thời gian niệm Phật được một giờ nào thì nhất thiết phải tĩnh tâm chuyên niệm suốt một giờ, phải tu tập trong suốt một giờ ấy, mới thật là chân tu.

Quý vị cần phải rõ biết, tôi nói như thế là chân tu, có nghĩa là trong lúc ấy nhất định không được để cho có mảy may tạp niệm xen vào, mới gọi là chân tu. Khi gián đoạn, dứt hết mọi quan hệ, quý vị phải thực sự tận dụng được điều đó, hoàn toàn không có một mảy may vọng niệm xen lẫn, không có pha tạp phân biệt chấp trước. Mỗi khi vào Niệm Phật đường phải học được cách tùy duyên tự tại, thì công phu của chúng ta mới thành tựu, mới đắc lực, tự nhiên đạt được Tam-muội Niệm Phật. Ví như Tam-muội Niệm Phật ở mức độ hết sức sâu xa chưa thể đạt được thì cũng đạt được ở mức độ ban sơ. Tôi đã có lần giảng nói về việc niệm Phật “công phu thành khối”. Công phu thành khối là mức độ cạn nhất của Tam-muội Niệm Phật, cũng không quá khó để đạt được. Nếu quý vị đã đạt đến chỗ ấy rồi thì sau đó sẽ tùy duyên thể nhận được thân tâm đều nhẹ nhàng, khoái lạc. Không thể nào càng niệm Phật càng khổ sở. Nếu càng niệm Phật càng khổ sở hơn, đó là công phu niệm Phật không có hiệu quả, không đắc lực; càng niệm càng thêm vui thú sảng khoái, đó là công phu đắc lực. Càng niệm tinh thần càng thấy sáng suốt tốt hơn, đó cũng là dấu hiệu công phu niệm Phật được kết quả. Nếu càng niệm mà càng không thể khởi sắc tinh thần, càng niệm lại càng rơi vào hôn ám, ngủ gật hay mê ngủ nhiều, thì đó không phải là thể nhập vào cảnh giới. Như vậy chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ rằng vọng tưởng, tạp niệm của quý vị vẫn còn rất nhiều. Nếu quý vị rơi vào hôn trầm, trạo cử, đó là hai loại chướng ngại, gây chướng ngại cho sự niệm Phật của quý vị, nên đó là nghiệp chướng, là vào Niệm Phật đường thấy nghiệp chướng ngay trước mắt. Thế nào gọi là nghiệp chướng? Như thế đó gọi là nghiệp chướng. Chỉ có điều nghiệp chướng như thế cũng không nên sợ sệt, nhất định cần phải mạnh mẽ phá trừ, không phải là không thể phá trừ; phải biết rằng những chướng ngại như vậy nhất định là có thể mạnh mẽ phá trừ. Đối với người mới học thì những chướng ngại như thế nhất định phải có, vậy quý vị có gì phải sợ? Mỗi một người tu tập niệm Phật đều phải vượt qua cửa ải đó. Chúng ta cần phải mạnh mẽ phá trừ cho được cửa ải đó, sau khi phá trừ rồi, thì mới có thể được an nhiên tự tại. Câu cuối cùng sau đây là tổng kết lại vấn đề.

[Các vị như vậy đều làm bậc thượng thủ, số lượng nhiều không thể tính đếm]

Câu này quá rõ ý không cần giảng nói nhiều. Chúng ta sẽ xem qua một câu cuối cùng:

[Phải tinh tấn chuyên cần trừ diệt tâm ngã mạn.]

Đại sư Thanh Lương trong một đoạn chú giải có dạy rằng, “phong” tức là động. Chúng ta đem ý nghĩa đó xét trong mọi hoạt động, vận động hiện nay của chính mình, mới thấy là phạm vi đề cập hết sức rộng khắp. Đại sư dạy chúng ta rằng, câu trên cũng hàm ý tương thông với ý nghĩa “phương tiện vô trụ”, nên mới có ý nghĩa trừ diệt tâm ngã mạn. Với câu kinh này, nếu chúng ta liên tưởng đến câu kinh rất nổi tiếng trong kinh Kim Cang: “Nên từ nơi không có chỗ trụ mà sinh tâm”, thì sẽ thấy có sự tương quan qua lại hết sức mật thiết. Tâm ngã mạn là phiền não lớn nhất. Trong các phiền não căn bản, tiếp sau tham sân si chính là mạn. Mạn từ đâu khởi sinh? Chính từ si mê mà khởi sinh, nên chỉ cần có trí tuệ thì nhất định không thể khởi sinh tâm ngã mạn. Câu “phải tinh cần trừ diệt tâm ngã mạn” dạy chúng ta nhất định phải loại trừ, phải dứt sạch tâm cống cao ngã mạn.

Nho gia đối với vấn đề này cũng hết sức xem trọng, chỉ có điều rốt lại thì giải pháp của họ cũng chỉ là trong phạm vi Tam giới, không hề có ý niệm siêu việt ra ngoài Tam giới. Vì thế nên Nho gia không dạy diệt trừ ngã mạn, mà chỉ nói đến sự khuất phục, kiềm chế thôi. Trong sách Lễ ký có dạy: “Tính nết kiêu ngạo không được nuôi lớn.” Đối với Phật pháp thì không chỉ là không nuôi lớn sự ngạo mạn, mà cần phải phá trừ, diệt hết. Vì sao? Vì chỉ cần còn có một ý niệm kiêu mạn, phân biệt người khác không được như ta, ta so với người khác mạnh mẽ hơn, thì quý vị không thể nào thoát ra khỏi sáu đường luân hồi, cho nên vấn đề thật hết sức nghiêm trọng.

Điều kiện cơ bản để xuất ly ra khỏi sáu đường luân hồi là trừ sạch phiền não kiến hoặc, tư hoặc. Vị A-la-hán Tiểu thừa do đâu thoát khỏi sáu đường luân hồi? Vì phiền não kiến hoặc, tư hoặc đều đã dứt hết. Do đó có thể biết rằng, sáu đường luân hồi do đâu khởi sinh? Đều từ nơi phiền não kiến hoặc tư hoặc biến hiện khởi sinh. Phiền não kiến hoặc tư hoặc là thể năng biến, mà sáu đường luân hồi là đối tượng sở biến. Nếu chúng ta thấu hiểu rõ ràng được đạo lý ấy, thì chỉ cần dứt trừ hết phiền não kiến hoặc tư hoặc, sáu đường luân hồi tự nhiên không còn nữa, làm gì còn có việc xuất hay không xuất? Tự nhiên mất đi không còn nữa. Đức Phật đã vì chúng ta giảng dạy đạo lý ấy, giảng giải hết sức rõ ràng, hết sức minh bạch, chúng ta phải lưu tâm suy ngẫm thật kỹ, quán sát thật kỹ, sau khi nhận hiểu rõ ràng rồi, hiểu chắc chắn rồi, nhất định phải y theo lời dạy mà thực hành. Trong sinh hoạt hằng ngày, sinh hoạt là hoạt động; trong công việc hằng ngày, công việc là hoạt động, “phong” là biểu thị cho trạng thái động, làm sao có thể không động? Khởi tâm động niệm, thảy đều là động. Nói năng tạo tác, cũng đều là động. Trong hết thảy mọi hoạt động như thế, phải dứt trừ hết tham, sân, si, mạn. Đó chính là ý nghĩa biểu trưng của danh hiệu “Chủ phong thần”. Có bao nhiêu hoạt động đều phải tương ưng với trí tuệ, tương ưng với từ bi, tương ưng với thiện xảo phương tiện, như vậy mới là thích hợp, mới là chính xác. Hôm nay chúng ta giảng đến đây thôi.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 6 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.12.148.180 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (228 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...