Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Trang chủ »» Danh mục »» »» Giảng giải Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa »» Bài giảng thứ mười một »»
Tháng 12 năm 1983
Hoa Tạng Đồ Thư Quán,
Cảnh Mỹ, [Đài Bắc], Đài Loan
Số lưu trữ: 08-004-0011
Mời quý vị mở [sách Pháp Hoa Kinh Đại Thành, quyển hạ], trang 832.
Lần trước đã giảng đến Tám bộ chúng. Trong các thân [Bồ Tát hóa hiện] thành tám bộ chúng, câu cuối cùng nói đến “người và phi nhân”. Câu này bao gồm hết thảy các chúng sinh khác ngoài tám bộ chúng.
Cõi người trong hiện tại được xem là cõi căn bản của chúng ta. Tám bộ chúng đều mong được thân người, vì được thân người là thuận tiện cho việc tu tập đạo Phật. Chúng ta đã được thân người thì đều cầu mong trong một đời này chứng đắc giải thoát. Trong các loại giải thoát, thù thắng nhất không gì hơn thế giới Tây phương Cực Lạc. Chúng ta có thể thấy điều này trong một đời giáo hóa của Thế Tôn. Đức Phật ra đời, ban đầu ở tại Bồ-đề Đạo tràng vì bốn mươi mốt vị Pháp thân Đại sĩ mở ra thuyết giảng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, rồi cũng quy hướng về Tây phương Tịnh độ. Đây là vấn đề chúng ta cần lưu ý. Hãy xem phần cuối “Thập đại nguyện vương đạo quy Cực Lạc”. Pháp hội cuối cùng chính là hội Pháp Hoa. Trong hội Pháp Hoa cũng hết sức khuyến khích chúng ta cầu vãng sanh.
Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa là một phẩm trọng yếu, nên ngày xưa Đại sư Trí Giả chú giải phẩm này, đưa ra lưu hành riêng. Cũng giống như đối với Thập đại nguyện vương, Đại sư Thanh Lương cũng đưa ra lưu hành riêng biệt.
Đại sư Trí Giả suốt đời hoằng dương kinh Pháp Hoa, kiến lập tông Pháp Hoa, tức là tông Thiên Thai. Ngài giảng dạy y theo kinh Pháp Hoa, về giáo lý đều dựa vào lý luận, phương pháp của kinh Pháp Hoa, nhưng pháp môn ngài tu tập là Tịnh độ. Lúc lâm chung, ngài vãng sanh thế giới Tây phương. Chúng ta xem trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện, đều thấy có truyện tích về ngài. Do đó biết rằng, vãng sanh Tây phương mới là cứu cánh dừng nghỉ của sự tu hành. Nếu không lấy đó làm mục tiêu, muốn thoát ly sáu đường luân hồi thật không dễ dàng. Bồ Tát Quán Thế Âm dạy phương pháp thoát khỏi cõi người, thoát khỏi thế giới Ta-bà, vì chúng sanh nói pháp môn này.
Ngoài ra còn có “phi nhân”, chỉ những loài trước đó chưa bao gồm, dùng chữ này đều thâu nhiếp hết. Như cổ đức nói hữu hình, hữu sắc, như loài tinh linh tốt xấu lẫn lộn, trong kinh tuy không nói nhưng cũng bao gồm trong đó. Người đời gọi là loài linh quỷ, không bao gồm trong tám bộ chúng. Những linh quỷ này tuy cũng có chút thần thông, họ cũng có những nỗi khổ riêng, cũng không muốn mãi đắm chìm trong cảnh giới đó nên luôn muốn thoát ly nhưng không tìm ra phương pháp. Bồ Tát đại từ đại bi, chỉ cần họ nhất tâm xưng niệm thì đều có thể tùy loại hiện thân, ứng cơ thuyết pháp, giúp họ thành tựu, giúp họ đạt được nguyện vọng. Đây là ý nghĩa đoạn này. Đoạn tiếp theo là nói về “thân kim cang”.
“Nếu phải dùng thân thần Chấp kim cang mới có thể hóa độ, liền hiện thân thần Chấp kim cang thuyết pháp.”
“Chấp” là nắm giữ, “kim cang” [tức chày kim cang] là binh khí, một trong những loại binh khí thời xưa, như chày kim cang trên tay Bồ Tát Vi-đà là một loại binh khí. Loại này đặc biệt chỉ đến thần hộ pháp. Trong chú giải có một đoạn công án nhỏ, trong vô số các thần kim cang chỉ nêu ra một ví dụ để nói. Từ câu chuyện nhỏ này, có thể thấy có một hạng chúng sinh phát tâm hộ pháp. Vì sự hoằng truyền Phật pháp, nếu không có người có sức mạnh hộ trì, sẽ gặp chướng ngại. Tuy trên lý mà nói là lý sự vô ngại, sự sự vô ngại, nhưng thực tế có một số người mê hoặc điên đảo không có chánh tín, sự hoằng truyền Phật pháp, đối với danh lợi trước mắt của họ có nhiều trở ngại, nên họ ra sức bài xích. Hiện tượng này trong hiện tại, quá khứ, ở Trung Quốc cũng như nước ngoài, mọi lúc mọi nơi đều có thể thấy. Nên cần có người có sức mạnh hộ trì, những người này đều có thể gọi là thần chấp kim cang. Sự hộ trì có hiển lộ, có ngấm ngầm, như vậy mới có thể khiến Phật pháp thật sự lưu thông không chướng ngại.
Trong công án dẫn một đoạn kinh văn từ “Chánh Pháp Niệm Kinh”. Từ công án này cũng có thể thấy, chư Phật Như Lai, Bồ Tát cùng những vua quan hộ pháp, cho đến hộ pháp kim cang, trong khi tu tập tạo nhân đều có quan hệ mật thiết. Chúng ta biết điểm này, hiện tại chúng ta đang ở giai đoạn tu tập tạo nhân, nếu không kết duyên lành rộng rãi với tất cả chúng sinh thì trong tương lai thành Phật, thành Bồ Tát Quán Âm, ai sẽ là người hộ pháp? Nếu hiện tại kết nhiều oan gia với chúng sinh, sau khi thành Phật hoằng pháp sẽ có ma đến quấy nhiễu, oan gia đến tìm gây rắc rối. Cho nên, các thần hộ pháp và ma oán đều kết nối từ giai đoạn tu tập tạo nhân. Kết nối nhiều duyên lành thì người hộ trì mạnh mẽ cũng nhiều; kết nối nhiều duyên xấu ác thì người quấy nhiễu, chướng ngại cũng nhiều. Ý nghĩa này phải hiểu rõ, vì chúng ta đang ở giai đoạn tu nhân. Hiểu được ý nghĩa này, nên phải rộng kết duyên lành.
Có những chúng sinh phát nguyện lớn như vậy, đoạn này mọi người tự xem. Một điểm quan trọng là ở dòng cuối trang 832: “Có chúng sinh chí nguyện dũng mãnh, hộ trì Phật pháp”, có những chúng sinh như vậy, phát nguyện như vậy, phát nguyện hộ trì Phật pháp. “Bồ Tát hiện thân, nói pháp phá lẽ tà vạy, làm rõ lẽ chân chánh, giúp họ thành tựu.”
Công đức hộ pháp cũng không thể nghĩ bàn. Công đức hộ pháp và công đức hoằng pháp là như nhau, nhất định không có sự chênh lệch cao thấp. Ví như đức Phật, suốt một đời hoằng pháp lợi sinh, công đức cao tột không thể nghĩ bàn. Những vị vua quan thời đó hộ trì ngài, công đức cũng đồng như Phật không khác. Nếu không có những vua quan hộ trì, Phật pháp không thể hoằng dương rộng khắp, sự giáo hóa 49 năm của Phật sẽ không có ảnh hưởng lớn. Cho nên công đức của những người hộ trì cũng bằng như Phật. Không có họ cúng dường đạo tràng, giảng đường, Phật sẽ giảng kinh ở đâu? Người thường ai biết Phật đang giảng kinh? Có giảng đường là có nơi chốn, người muốn nghe kinh, thân cận Phật, có chỗ đến; bằng không, muốn thân cận Phật, không biết Phật ở đâu, tìm không thấy. Mọi người biết Phật ở vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc mới tìm đến gặp Phật; hoặc Phật ở núi Linh Thứu, tìm đến núi Linh Thứu gặp Phật. Cho nên, hộ pháp là cung cấp nơi để hoằng pháp, tu hành. Cúng dường bốn việc thiết yếu, giúp những người tu hành không phải lo lắng về đời sống, thân an ổn thì đạo mới hưng thịnh. Đây là việc phải làm để hộ trì chánh pháp.
Ngoài ra là hàng phục tà ma, hộ trì chánh đạo. Có người hiểu biết sai lầm tà vạy, muốn gây chướng ngại, phá hoại Phật pháp, lúc đó hộ pháp kim cang phải ngăn chặn. Mọi người đều biết Phật Bồ Tát đại từ đại bi. Ma vương nói với Phật: “Đừng giảng kinh nữa, tốt nhất nên rời khỏi thế giới Ta-bà.” Phật Thích-ca Mâu-ni rất từ bi, cũng nói: “Được! Ta đồng ý.” Liền rời đi. Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn là do Ma vương Ba-tuần thỉnh cầu, yêu cầu ngài rời thế gian, đừng hoằng pháp lợi sinh nữa. Phật liền đồng ý, quá từ bi! Không có kim cang thần thì sao? Phật đồng ý, kim cang thần ngăn chặn. Nên Phật Bồ Tát luôn đại từ đại bi, có cầu liền có ứng. Ma đến cầu Phật, Phật cũng đồng ý, tâm Phật bình đẳng. Trong tâm bình đẳng thì không Phật, không ma, cũng không chúng sinh, như trước đã nói. Do đó nên biết rằng vai trò của hộ pháp thần trong đạo Phật rất quan trọng.
Đến đây đã giảng xong về ba mươi ba ứng thân [ của Bồ Tát Quán Thế Âm]. Chúng ta xem phần kinh văn tiếp theo, tức là phần kết luận.
“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu những công đức như vậy, dùng đủ mọi hình tướng đi khắp các cõi nước mà độ thoát chúng sanh.”
Trong phần chú giải nói: “Thành tựu công đức, đó là tóm kết sơ lược.” Nói sơ lược là vì hết thảy những điều đã nói trước đều chỉ là nói sơ lược, vì công đức của Bồ Tát thật không thể nói hết. “Đủ mọi hình tướng” tức là từ câu “dùng đủ mọi hình tướng” trở đi, ba câu tiếp theo. Đây là “nêu rộng”, để chúng ta có thể từ những điều nói sơ lược ở trước mà hình dung ra được công đức của Bồ Tát rộng lớn vô biên.
“Do Bồ Tát tùy theo loại chúng sanh mà biến hiện nên đâu chỉ là ba mươi ba thân.” Ba mươi ba là nói ba mươi ba tổng loại, mỗi tổng loại đều có vô lượng vô biên thân, thật khắp hư không pháp giới, không nơi nào không hiện thân. “Ứng hóa theo duyên”, nơi nào có đủ duyên, Bồ Tát đều ứng hiện nơi đó, “đâu chỉ là giới hạn trong thế giới Ta-bà”. Mười phương vô lượng vô biên thế giới, ở đâu không có Bồ Tát Quán Thế Âm?
“Đủ mọi hình tướng” nên gọi là “thân rộng khắp”, nếu cần phải dùng thân gì để có thể hóa độ chúng sanh, Bồ Tát liền hiện thân đó.
“Đi khắp các cõi nước, là nói những nơi Bồ Tát hóa độ thật rộng lớn trùm khắp”, không nơi nào Bồ Tát không hiện thân. “Độ thoát chúng sinh, là nói giúp chúng sanh được lợi ích rộng lớn”, chúng sinh được ân huệ, lợi ích từ Bồ Tát rộng lớn vô biên, có cầu nguyện liền có cảm ứng. Nhưng về phương pháp cầu nguyện, quý vị phải nhớ lời chỉ bày của đức Thế Tôn từ trước, nhất định phải chuyên tâm, hoàn toàn không có sự nghi ngờ. Phải nhất tâm xưng niệm, trong tâm luôn giữ sự cung kính. Nhất tâm là cung kính, miệng xưng niệm, thân lễ bái. Muốn thật sự có được sự cảm ứng, phải chuyên tu. Đây là điều trong khi giảng kinh tôi đã nhiều lần nhắc nhở quý vị đồng tu. Sự cảm ứng tương giao trong đạo đều dựa vào nhất tâm. Như trước đã nói, chỉ cần đạt được nhất tâm thì giữa chúng ta với chư Phật Bồ Tát đều có thể tương giao thông suốt. Đã có thể qua lại, tương giao thông suốt với chư Phật Bồ Tát tức có cảm ứng, với chư thiên, quỷ thần, tất cả chúng sinh đều có thể cảm ứng qua lại. Phải ghi nhớ điều này thì sự tu hành của chúng ta mới đúng theo chánh pháp.
Kinh văn đến đây là “hết phần giải đáp chính về Phổ môn”, nói hết tức là đã giải đáp xong. Dưới đây là đoạn lớn thứ hai, “khuyên nên cúng dường”, đức Phật Thích-ca Mâu-ni khuyên Bồ Tát Vô Tận Ý, cũng tức khuyên chúng ta.
“Vì vậy các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.”
Đọc kinh văn phải đọc cho rõ ràng. Kinh nói dùng điều kiện gì để cúng dường Bồ Tát Quán Âm? “Một lòng cúng dường” chính là nói nhất tâm, nhất tâm là cúng dường chân thật. Nếu nói cúng dường tài vật, công đức pháp tài của Bồ Tát đã vô lượng vô biên, có cần quý vị cúng dường không? Không cần nữa. Cho nên chúng ta cúng dường chư Phật Bồ Tát chính là cúng dường sự nhất tâm.
“Đại Bồ Tát Quán Thế Âm này, trong lúc nguy cấp sợ sệt thường mang đến sự an ổn không sợ sệt cho chúng sanh, nên trong cõi Ta-bà đều gọi ngài là bậc Thí Vô Úy.”
Chúng ta xem chú giải, trong đoạn văn này có vài đoạn nhỏ. “Sau khi Phật giải đáp câu hỏi trước đó”, tức là sau khi trả lời xong câu hỏi trước, “khuyên trì danh, chúng sinh kính ngưỡng mong nhờ Bồ Tát, muốn cho hóa thân chân thật ngầm ứng hiện chỉ cần trì niệm danh hiệu, cho nên khuyến khích thọ trì”, đây là điểm khuyến khích thứ nhất. Câu văn nói rất rõ ràng, rất khẳng định, chỉ cần một lòng trì niệm danh hiệu. Nói mong nhờ là có thể mong được hóa thân chân thật của Bồ Tát Quán Thế Âm ngầm ứng hiện, tức là ngấm ngầm gia hộ bảo vệ quý vị. Cho nên đức Phật khuyên quý vị thọ trì. Thọ là tiếp nhận, tiếp nhận lý luận và phương pháp trong kinh, y giáo phụng hành.
“Cuối phần giải đáp câu hỏi sau”, vì trước đó nêu hai câu hỏi: thứ nhất hỏi về nhân duyên danh hiệu của Bồ Tát, thứ hai hỏi về nhân duyên giáo hóa rộng khắp của Bồ Tát ở thế giới Ta-bà. Đức Phật giải đáp xong thì “khuyên cúng dường, đó là chúng sinh đã cầu mong được Bồ Tát theo ba nghiệp mà cảm ứng ngấm ngầm cũng như rõ rệt, thấy hình tướng, nghe âm thanh, vì vậy khuyên nên cúng dường”. Chúng ta đã cầu mong Bồ Tát cảm ứng, ngấm ngầm cũng như hiển lộ, thì tự nhiên sẽ phát tâm cúng dường.
Trong việc cúng dường, trước đó đã nói quan trọng nhất là sự nhất tâm. Nhất tâm là cúng dường bằng tâm ý, sự nhất tâm lưu lộ ra bên ngoài, đó là tu pháp cúng dường. Dùng sự hoằng pháp để cúng dường, đó gọi là cúng dường chân chánh. Quý vị xem kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập đại nguyện vương nói “rộng tu cúng dường”, tất cả mọi sự cúng dường tài vật đều không bằng cúng dường pháp.
Phần tiếp theo nói, “từ câu ‘Đại Bồ Tát Quán Thế Âm này’ trở đi là thuyết dạy ý nghĩa cúng dường”. Thuyết là nói ra, nói ra ý nghĩa cúng dường. “Bồ Tát Quán Thế Âm này, trong lúc nguy cấp sợ sệt thường mang đến sự an ổn không sợ sệt cho chúng sanh.” Phần trước nói “cứu thoát bảy nạn, trừ được ba độc, đáp ứng hai sự mong cầu, ứng hiện trọn vẹn ở khắp mọi nơi, thuyết pháp tùy theo chủng loại chúng sanh, đủ hai thân chân thật và ứng hóa.” Chân thân là chỉ pháp thân Bồ Tát, ứng thân là chỉ thân ứng hóa của Bồ Tát. Chân thân hiện khắp mọi nơi, ứng hóa thân tùy loại hóa thân, có cảm liền ứng. “Đó đều là bố thí.” Pháp thân, báo thân và ứng thân, ba thân của Bồ Tát đều bố thí. “Hai sự lợi ích ngấm ngầm và hiển lộ”, đây là nói hai sự lợi ích. Thứ nhất là âm thầm bảo vệ gia trì, thứ hai là giáo hóa hiển lộ, có thể giúp cho chúng ta thật sự đạt được sự không sợ sệt. Như trong Tâm kinh nói, “soi thấu năm uẩn đều không, vượt qua hết thảy khổ ách”, đây là nói không có gì sợ sệt. Tâm không có gì sợ sệt thì tâm mới an, mới đạt được nhất tâm, mới có thể vào đạo, nói theo người đời là mới có thể được đạo. Cho nên phần sau mới có lời khen ngới tóm kết lại “trong cõi Ta-bà đều gọi ngài là bậc Thí Vô Úy”.
Đức Phật khuyên Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, Bồ Tát Vô Tận Ý lập tức vâng theo. Chúng ta xem phần kinh văn tiếp theo.
“Liền cởi chuỗi ngọc quý trị giá trăm ngàn lượng vàng dâng lên Bồ Tát Quán Thế Âm, thưa rằng: ‘Bậc nhân từ, xin ngài nhận món pháp thí là chuỗi ngọc quý này.’
Bồ Tát Vô Tận Ý thật là người hiếm có! Ngài vừa nghe lời Phật nhắc nhở, lập tức phát tâm cúng dường. Nhưng trong kinh văn cần lưu ý, ngài gọi Bồ Tát Quán Thế Âm là “bậc nhân từ”, nhân từ đó là bậc đại từ đại bi, có lòng nhân từ. “Nhận món pháp thí này”, không gọi đây là tài thí, mà gọi là pháp thí, ý nghĩa này rất quan trọng. Chúng ta xem chú giải của Pháp sư Đại Nghĩa.
“Nói chuỗi ngọc quý, là nhiều loại ngọc quý cùng dùng để trang nghiêm làm đẹp”, chuỗi anh lạc này là món đồ trang sức, đeo nơi trước ngực, do rất nhiều hạt ngọc quý kết lại, không phải một loại, nên gọi là “chuỗi ngọc quý”. Phần tiếp theo Đại sư giả thiết một đoạn vấn đáp để làm rõ ý nghĩa.
“Hỏi: Theo trong kinh Anh Lạc thì giai vị Sơ trụ là ví như chuỗi anh lạc bằng đồng, cho đến giai vị Đẳng giác ví như chuỗi anh lạc bằng ngọc như ý. Nay Bồ Tát Vô Tận Ý giai vị đã rất cao”, Bồ Tát Vô Tận Ý là bậc Bồ Tát Đẳng giác, “chuỗi anh lạc dùng đó phải là quý báu vô giá, lẽ nào chỉ có giá trăm ngàn lượng vàng”.
Đây là khi chúng ta xem qua nhiều kinh sẽ có nghi vấn này. Nhìn vào đoạn kinh văn này, có vẻ như chuỗi anh lạc của Bồ Tát Vô Tận Ý không quý báu lắm, vì địa vị của ngài là bậc Bồ Tát Đẳng giác, lẽ ra nên nói chuỗi ngọc anh lạc này là vật báu vô giá, “trăm ngàn lượng vàng” nghĩa là vẫn có giá trị đo lường. Chúng ta thấy giá trị này rất lớn, nhưng với các đại Bồ Tát dường như không nhiều lắm.
“Trả lời: Nói ‘trăm ngàn’ đó chỉ là nêu số lượng để nói rất nhiều”, tức là ở đây chỉ nêu đại lược, cũng là ý khiêm tốn của Bồ Tát Vô Tận Ý, nói chuỗi anh lạc của tôi không đáng bao nhiêu, là ý nói như vậy, nhưng kỳ thật đó là báu vật vô giá. Lời nói ở đây mang ý nghĩa khiêm tốn.
“Cũng như nói ‘muôn dân trăm họ’, lẽ nào chỉ giới hạn trong số ‘trăm họ’ hay ‘muôn dân’”. Đây lấy ví dụ như ta thường nói “trăm họ”, nhưng trăm ở đây không phải con số nhất định, hoàn toàn không phải chỉ có một trăm. Ở đây cũng nói ý này, tức là ý khiêm xưng đại lược. Những chỗ như vậy đều nên học tập, trong sinh hoạt thường ngày đối nhân tiếp vật, tặng vật quý giá, cũng nói không đáng gì. Người nhận được yên tâm hơn. Nếu nói đây là báu vật vô giá, người khác có dám nhận không? Sẽ không dám nhận. Nếu nhận thì suy nghĩ, có lẽ quý vị hẳn có ý gì với tôi, phải không? Nên người nhận không yên tâm. Nếu nói vật không đáng gì, họ tiếp nhận cũng không sao. Nên những chỗ như vậy, đều là lễ tiết thông thường, các vị đại Bồ Tát qua lại, lễ mạo đều rất chu đáo.
Những câu dưới đây rất quan trọng.
“Cúng dường chuỗi anh lạc vốn là tài vật”, chuỗi ngọc anh lạc là tài vật quý báu, vậy trong bố thí phải thuộc về tài thí. Nhưng Bồ Tát Vô Tận Ý lại nói “Bậc nhân từ, xin ngài nhận món pháp thí.” Tại sao gọi là pháp thí? “Vì không bám chấp nơi hình tướng.” Nếu chúng ta bám chấp hình tướng, tài vật đó thật là tài thí, dù pháp cũng biến thành tài thí. Nếu không bám chấp hình tướng, không những pháp là bố thí, dù tài vật cũng là pháp thí. Bố thí tài vật được phước báo thế gian, bố thí pháp thành tựu công đức vô lậu, quả báo hoàn toàn khác nhau.
Phần tiếp theo giải thích rất rõ. “Trong lúc cởi chuỗi ngọc”, tức là Bồ Tát Vô Tận Ý cởi chuỗi anh lạc đang đeo, “khi dâng lên cúng dường”, là lúc hai tay kính dâng Bồ Tát Quán Thế Âm, lúc đó thì “thể của ba luân đều là không”. Không bám chấp tướng của người cúng dường, không bám chấp tướng của chuỗi ngọc dâng lên cúng dường, không bám chấp tướng của người được cúng dường, đó gọi là “thể của ba luân đều không”. Quý vị thấy đó, tâm như vậy thanh tịnh biết bao! Đó gọi là bố thí pháp. “Đối với vật như vậy, nhỏ đến mức không thành một hạt bụi”, vì dùng tâm thanh tịnh, nên trong tâm thanh tịnh vốn không có một vật, không có đến một hạt bụi. “Lớn thì bao trùm khắp pháp giới”, vì tâm thanh tịnh, không chướng ngại, nên công đức trùm khắp hư không pháp giới. “Thâu tóm công đức của cả 42 giai vị”, 42 giai vị đó là từ Sơ trụ Viên giáo đến quả Phật Như Lai, tất cả bốn mươi hai giai vị. Bố thí cúng dường được như vậy, chúng ta nên học theo.
“Gồm đủ tám muôn bốn ngàn công hạnh nhiệm mầu”, tu một pháp tức là tu hết thảy mọi pháp, chỉ một pháp bố thí cúng dường này, cả sáu ba-la-mật với muôn công hạnh đều trọn đủ. Tại sao trọn đủ? Phải biết rằng, mục đích của sáu ba-la-mật với muôn công hạnh là gì? Đều không ngoài cầu đạt được nhất tâm không tán loạn, đạt đến thể của ba luân đều không. Pháp tu học này đạt nhất tâm không tán loạn, đạt thể của ba luân đều không, vậy chẳng phải sáu ba-la-mật với muôn công hạnh đều trọn đủ rồi sao? Đây gọi là: một công hạnh là hết thảy mọi công hạnh, một pháp tu là hết thảy mọi pháp tu, một sự thành tựu thì hết thảy mọi sự thành tựu.
“Người bố thí và người nhận bố thí đều không còn, các pháp đối đãi đan xen đều dung hòa, không phải pháp thí thì là gì?” Cho nên, Bồ Tát tu bố thí đều là pháp thí, chúng sinh tu bố thí toàn là tài thí. Giảng kinh thuyết pháp vẫn là tài thí, chỉ được phước báo trong hai cõi trời người. Tại sao vậy? Vì thể của ba luân chẳng phải không. Bám chấp rằng có ta đang giảng kinh, có tướng ngã; bám chấp rằng ta đang giảng “kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn”, là bám chấp tướng pháp được thuyết. Có nhiều đồng tu ở đây nghe giảng, nghe tôi giảng kinh, tiếp nhận sự bố thí pháp này, nhưng bám chấp tướng chúng sinh, thể của ba luân chẳng phải không. Ba luân chẳng phải không thì giảng kinh thuyết pháp cũng là tu phước, không liên quan đến định, tuệ. Cho nên người hiểu rõ thì khi thuyết giảng thể của ba luân đều là không. Trong trạng thái thể của ba luân đều là không thì thuyết giảng mà không có thuyết giảng, không thuyết giảng mà là thuyết giảng. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng kinh thuyết pháp 49 năm, cuối cùng nói rằng Ngài không nói ra một chữ, ai nói Phật có thuyết pháp gọi là báng Phật. Đó mới gọi là chân chánh pháp thí! Trong thanh tịnh tâm Ngài chưa từng khởi một niệm.
Cho nên khi giảng kinh tôi thường nhắc nhở quý vị đồng tu, chúng ta phải giống như chư Phật Bồ Tát, phát đại nguyện, nhưng không thể giống như phàm phu khởi tâm, khởi tâm là chạy đuổi theo duyên bên ngoài, lập tức sai lầm.
Khi chúng sinh có chướng ngại, cơ duyên chưa chín muồi, chư Phật Bồ Tát vẫn ngày ngày thuyết pháp, không hề gián đoạn, nhưng chúng sinh không thấy được. Không thấy được hình tướng Phật Bồ Tát, không nghe được âm thanh Phật Bồ Tát, nhưng pháp âm của Phật Bồ Tát luôn âm thầm gia hộ, giúp đỡ tất cả chúng sinh. Cũng giống như chương trình phát thanh phát đi các tiết mục, phát ra khắp mọi nơi, chúng ta giống như máy thu thanh, máy thu thanh bị hư hỏng, điều chỉnh thế nào cũng không nhận được chương trình.
Không phải là không có, quả thật có. Có thể thấy được sự gia hộ, giúp đỡ của chư Phật Bồ Tát đối với chúng ta, nhưng tự chúng ta có chướng ngại, không tiếp nhận được. Cũng như máy thu thanh nếu không hư hỏng, vừa mở lên liền nhận được chương trình. Tần số đài phát thanh phát ra, đối với các máy thu thanh đều giống nhau, không thể nói là có sự thiên lệch, nhiều ít. Quý vị nghe rõ hoặc không rõ, thu được hoặc không được, hoàn toàn là vấn đề của quý vị, có hư hỏng chướng ngại hay không. Chư Phật Bồ Tát bình đẳng từ bi, đối với tất cả chúng sinh đều thực hiện pháp thí trọn vẹn đầy đủ. Đây là điều chúng ta nên tin chắc.
Mời quý vị xem đoạn tiếp theo.
“Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm không nhận.”
Bồ Tát Quán Thế Âm rất khiêm tốn. Bồ Tát Vô Tận Ý dùng chuỗi ngọc quý báu cúng dường, Bồ Tát Quán Thế Âm không dám tiếp nhận, không chịu tiếp nhận. Chúng ta xem phần chú giải: “Không nhận, là nói Bồ Tát Vô Tận Ý vâng lời dạy mà cúng dường”, Bồ Tát Vô Tận Ý vâng lời dạy của đức Phật Thích-ca Mâu-ni nên cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, “ta chưa có lời Phật dạy”, Bồ Tát Quán Thế Âm chưa được Phật cho phép, chưa bảo ngài tiếp nhận, “lẽ nào lại bỗng dưng nhận lấy”. Những câu này cho thấy người học trò trước mặt thầy ắt phải tôn trọng thầy, tôn kính thầy, tôn trọng đạo. Tuy Bồ Tát Quán Thế Âm là cổ Phật thị hiện lại, quay thuyền từ lại để cứu độ chúng sanh, nhưng thân phận hiện tại của ngài là Bồ Tát, đức Phật là thầy, ở đây nói theo hình tích thị hiện, phải tôn sư trọng đạo. Giống như khi diễn kịch, học trò đóng vai hoàng đế, vị thầy đóng vai đại thần, ở trên sân khấu thầy phải lạy học trò, phải diễn đúng vở kịch! Không thể nói ông dù làm hoàng đế nhưng ta là thầy, không thể vậy được, ông phải lạy ta. Như vậy chẳng phải đảo ngược sao? Không thể được. Dù cổ Phật thị hiện quay lại thân phận Bồ Tát, đối với học trò đang thị hiện là Phật cũng phải cung kính. Chính là ý nghĩa như vậy mới có thể giáo hóa chúng sinh. Cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm chưa được Phật cho phép thì không dám tiếp nhận, biểu thị tinh thần tôn sư trọng đạo, đồng thời cũng có ý khiêm tốn, khiêm nhường. Dâng tặng một lần không dám nhận, nhắc lại hai, ba lần mới nhận, như vậy một mặt biểu thị thành ý của người dâng tặng, cũng là sự khiêm tốn của người nhận.
Cho nên, “việc này cần sự khiêm tốn nhún nhường, người bố thí với người thọ nhận đều có nghĩa”, “có nghĩa” ở đây là nói nghĩa vụ, “đem chỗ dư bố thí chỗ thiếu”. Người bố thí có dư, người nhận đang thiếu; ta hiện có dư thừa, có thể đem tặng cho, đem ra bố thí. Như vậy thì “người bố thí và người nhận đều nên”, đều nên làm việc ấy. “Chuỗi anh lạc này hai bên đều có, lại dùng để cúng dường ta, ta có dư thừa, người kia không đủ, như vậy làm sao có nghĩa.” Nếu như chuỗi ngọc anh lạc này, Bồ Tát Vô Tận Ý hiện có, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có, đôi bên đều sẵn có, nhưng ta dư thừa, có nhiều hơn ông, ông không nhiều bằng ta. Bằng như ông không có lại đến cúng dường ta, như vậy thì không thông suốt về đạo nghĩa.
Mấy câu này cũng rất quan trọng. Khi chúng ta tu bố thí, cúng dường, tự mình nên suy nghĩ xem, nếu họ có dư, ta thiếu thốn, nói cách khác, chúng ta không cần cúng dường, tức không cần tu cúng dường ở nơi này; còn nếu người khác thiếu thốn, chúng ta nên cúng dường, nên giúp đỡ họ. Nhưng người đời thì thế nào? Họ luôn thích “thêm hoa trên gấm”, mấy người biết “cho than lúc trời đông giá rét”? Ở đây dạy bố thí, chính là “cho than lúc trời rét”, không dạy “thêm hoa trên gấm”, là ý nghĩa như vậy, gọi là chân chánh bố thí. Người thí, người nhận đều có đạo nghĩa, đều nên bố thí, nên tiếp nhận.
Trong nhà Phật, mọi người tu tập bố thí đều có một niềm tin, rằng bố thí là tu tích phước. Dù Phật Bồ Tát, các pháp sư có dư thừa, ta còn thiếu thốn, ta cũng muốn bố thí. Đó là lấy chỗ không đủ cúng dường chỗ dư thừa. Như vậy để cầu điều gì? Cầu được phước báo. Vậy quý vị thử nghĩ xem, họ tìm đến tu tích phước báo, nếu chúng ta không làm cho họ được phước báo, đó là như lới cổ đức nói, “phải mang lông đội sừng mà trả đủ”. Việc này hết sức phiền phức! Tự thân chúng ta không tu hành chứng quả, không có thần thông quảng đại như Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ta nhận cúng dường của họ thì làm thế nào? Nếu nói không nhận, không nhận cũng không được, người ta đến vun bồi phước đức, quý vị lại cự tuyệt, không cho họ gieo trồng phước đức, không thể được, như vậy không hợp lý. Người khác đến kết duyên với quý vị, quý vị lại cự tuyệt, không cho kết duyên, như vậy không hợp lý.
Cho nên các vị đồng tu học Phật, dù là tại gia hay xuất gia đều phải ghi nhớ, người khác đến cúng dường, ta phải thọ nhận; người ta đến kết duyên, mình nhất định phải tiếp nhận. Nếu kết duyên mình không nhận, họ thành không có duyên. Không chỉ là người xuất gia, người khác đến cúng dường kết duyên phải tiếp nhận; ngay cả người tại gia, người khác đến cúng dường kết duyên cũng phải tiếp nhận. Tiếp nhận rồi thì sao? Tiếp nhận rồi chuyển sang bố thí cúng dường [nơi khác]. Như vậy thì duyên càng kết càng rộng, tương lai pháp duyên mới thù thắng. Nếu như người khác cúng dường trân bảo, tài vật để kết duyên, quý vị đều cất giữ, cho vào két sắt để cất kỹ. Vậy thì tốt rồi, duyên này của riêng quý vị, tương lai tự quý vị phải trả lại dần. Nếu trân bảo cúng dường cho ta, ta lập tức phân chia để kết duyên với tất cả chúng sinh, như vậy thì không sao. Dù ta không chứng đạo, có nhiều người trả lại, những người đó đều thay ta trả một phần. Cho nên phải biết rõ ý nghĩa này. Chúng ta kết duyên như vậy thì hết sức rộng lớn. Vì vậy nói rằng không thể chứa giữ tài vật, tài vật phải phân chia, chia ra càng rộng lớn càng tốt, trong tương lai hoằng pháp được pháp duyên thù thắng, được nhân duyên tốt; bố thí nhiều được nhân duyên tốt. Quý vị làm kinh doanh được nhiều khách hàng, mọi người sẽ thích sản phẩm của quý vị; quý vị ra tranh cử, mọi người sẽ bỏ phiếu cho quý vị, nhờ kết duyên rất nhiều.
Hiểu được ý nghĩa này, khi người khác cúng dường ta lập tức chuyển sang cúng dường, chuyển sang bố thí nơi khác nữa. Chư Phật Bồ Tát có thể hoằng hóa khắp ba cõi chính là nhờ tu tập như vậy. Không những tự mình tu tập như vậy, cũng phải giúp người khác tu, giúp người khác tu chính là tu tự mình. Trong mỗi bộ kinh Phật, cuối cùng đều có phần lưu thông, vậy ý nghĩa phần lưu thông này là gì? Là giúp chư Phật Như Lai tu pháp bố thí. Chúng ta ngày nay in ấn kinh điển là giúp Phật bố thí Phật pháp; chúng ta ngày nay giảng giải, cũng là giúp Phật bố thí Phật pháp. Ở đây lưu thông rộng rãi băng ghi hình, ghi âm giảng pháp, cũng là giúp Phật lưu thông Phật pháp. Đức Phật đem đạo lý, phương pháp bố thí cho chúng ta, chúng ta lập tức chuyển sang bố thí cho tất cả chúng sinh, gọi là bố thí pháp. Nếu đến ta dừng lại, không chịu chuyển ra, đó gọi là tham tiếc, bỏn xẻn pháp. Tài vật đến ta dừng lại, không chịu lưu thông ra, đó gọi là tham tiếc, bỏn xẻn tài vật. Quả báo bỏn xẻn pháp là ngu si; quả báo bỏn xẻn tài vật là nghèo khốn, hèn hạ. Cho nên mọi người đọc kinh đến đây phải hiểu được trong đó có ý nghĩa sâu xa này.
Chúng ta xem phần tiếp theo, Bồ Tát Quán Thế Âm không thọ nhận ngay, nhờ đó hiển lộ thành ý của Bồ Tát Vô Tận Ý.
“Bồ Tát Vô Tận Ý lại thưa: “Bậc nhân từ! Xin ngài thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.”
Bồ Tát Vô Tận Ý nói rõ ý cúng dường. “Vì sao tôi cúng dường? Vì muốn cầu ngài đại từ thương xót chúng tôi, tất cả chúng sinh, cầu ngài tiếp nhận.” Đoạn chú giải ngắn nói: “Tôi vì bốn chúng nên cúng dường.” Sự cúng dường bố thí là vì ai? Vì bốn chúng đệ tử. Bốn chúng là hai chúng xuất gia, hai chúng tại gia, vì những chúng này mà bố thí. “Vì lòng nhân đức thương xót bốn chúng nên thọ nhận.” Ngài nên vì thương xót bốn chúng, vì giáo hóa bốn chúng mà nên tiếp nhận. Ví như việc hoằng dương Phật pháp, lưu thông Phật pháp, nếu không có tài vật thì không cách gì có thể làm lợi ích chúng sinh. Hôm nay chúng ta đem bản kinh Pháp Hoa cúng dường cho người khác, bản kinh này cũng cần có tiền để in, tức là tài vật. Không có một khoản tiền này thì không thể có nhiều bản kinh. Mọi người cúng dường tiền tài, chúng ta dùng in kinh, mới có thể lưu thông Phật pháp, lợi ích bốn chúng. Người bố thí tài vật như vậy là đúng, là có ý nghĩa. Chúng ta tiếp nhận như vậy là thích hợp, đem tài vật chuyển thành kinh sách, lợi ích đại chúng. Như vậy là nên tiếp nhận. Nếu nói chúng ta không tiếp nhận, như vậy là không đúng, không tiếp nhận thì không thể lưu thông giáo pháp, không thể làm lợi ích chúng sinh. Điều này chúng ta phải hiểu.
Ngày trước có một vị pháp sư đến đây. Vị này rất quen thuộc với tôi, từ trước khi xuất gia tôi đã quen biết. Ông ấy là người rất tốt. Ông tự mình cảm thấy xuất gia hơn 20 năm nhưng chưa biết được gì. Ông là quân nhân giải ngũ, hưởng lương hưu 80%, đại khái mỗi tháng có thể nhận được khoảng một vạn tiền. Cho nên, từ ngày xuất gia đã hơn 20 năm, ông không nhận bất kỳ sự cúng dường nào. Ông nói, tự mình không đức hạnh, không tài năng, không dám thọ nhận cúng dường. Nghe nói nhận cúng dường thì trong tương lai “phải mang lông đội sừng hoàn trả”, nên ông không dám tiếp nhận. Tiền lương hưu tất nhiên là dùng không hết, nên ông thường làm việc tốt, dùng tiền dư để làm việc tốt. Nhìn bên ngoài thì làm như vậy là rất đúng, nhưng kỳ thật cũng sai. Tại sao vậy? Nếu chấp nhận sự cúng dường của đại chúng thì tài lực phong phú hơn, có thể làm nhiều việc tốt hơn. Ông thường in kinh sách biếu tặng, mỗi năm in một, hai lần, tiền bạc phải dành dụm tích lũy mới được nhiều như vậy. Nếu như ông ấy chấp nhận sự cúng dường của đại chúng, nói không chừng mỗi tháng đều có thể in kinh.
Cho nên chúng ta phải biết ý nghĩa này. Nhận cúng dường không phải để tự mình hưởng thụ. Tài vật cúng dường đến chỗ ta, ta dùng trí tuệ, dùng phương pháp của ta để khiến cho tất cả chúng sinh đều được thụ hưởng. Thử hỏi cúng dường bố thí như vậy có nên tiếp nhận hay không? Nên tiếp nhận, tiếp nhận có ý nghĩa, có ý nghĩa là có đạo lý, nên tiếp nhận. Nếu cúng dường để tự cho mình, tất cả chỉ để cho đời sống của riêng mình được thoải mái, như vậy là không nên, không nên tiếp nhận. Chuyển sang bố thí cho tất cả chúng sinh, giúp Phật hoằng dương Phật pháp, giúp người cúng dường chân chánh cầu phước, đó là nên tiếp nhận.
Phần tiếp theo cũng thuộc về ý nghĩa thể của ba luân đều không. “Không bố thí gì mà bố thí mọi vật, không thọ nhận gì mà thọ nhận mọi sự thọ nhận.” Được như vậy là đúng, là đều có thể tiếp nhận. Tâm bố thí với tâm thọ nhận đều thanh tịnh, đều không dao động. Như vậy thì có thể bố thí, có thể thọ nhận, người bố thí và người thọ nhận đều được công đức vô lượng vô biên.
Phần tiếp theo đức Phật cũng khuyên Bồ Tát Quán Thế Âm thọ nhận.
“Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: ‘Nên thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, người, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già mà nhận chuỗi ngọc này.’”
Ở đây, Bồ Tát nêu gương để chúng ta noi theo, vì tất cả chúng sinh đang chịu khổ nạn mà chúng ta nên tiếp nhận. Tiếp nhận xong rồi thì dùng phước báo ấy để gia hộ, giúp đỡ cho tất cả chúng sinh, khiến cho đều được tiêu tai miễn nạn, ý nghĩa là ở chỗ này. Đây là đức Phật khuyên Bồ Tát Vô Tận Ý tu pháp cúng dường, cũng khuyên Bồ Tát Quán Thế Âm tiếp nhận cúng dường. “Đây là khuyên nên thọ nhận.”
“Tài vật vốn để bày tỏ sự kính lễ, sao có thể từ chối được.” Tài vật đây là lễ vật, không thể từ chối. Nói về sự khiêm nhường, ở đây nói thêm với quý vị, khiêm nhường chính là bình đẳng, cùng một tầng bậc như nhau có sự kính lễ, khiêm nhường. Nếu đối với bậc trưởng bối, trưởng thượng, nói khiêm nhường là thất lễ. Sách Lễ ký nói: “Người lớn ban cho, không dám chối từ.” Bậc trưởng bối cho vật gì phải lập tức nhận, cám ơn người, không được khách khí từ chối. Vì khách khí thì sao? Người ngang hàng với mình mới có thể khách khí, đối với trưởng bối thì không thể. Khách khí với bậc trưởng bối là bất kính, điều này phải luôn ghi nhớ. Ví như người bạn của cha mình cho vật gì, liền phải nhận ngay, nói lời cám ơn. “Người lớn ban cho, không dám chối từ”, đó là phải biết lễ. Cũng không được nói lời thối thác như “Cái này cháu… …”, không được nói vậy. Những lời thối thác như vậy chỉ dùng với người ngang hàng. Điều này nhất định phải hiểu rõ, không được như vậy đối với bậc trưởng bối. Quý vị học khiêm nhường, trong tương lai đối với bậc trưởng bối cũng khiêm nhường là không đúng.
“Từ chối không nhận vật tức là cắt đứt với người; thọ nhận vật tức là chấp nhận chân tình.” Cho nên tài vật bố thí cúng dường nhất định phải tiếp nhận. “Cho nên nói là ‘xin thương xót’.” Đệ tử nhà Phật tiếp nhận sự cúng dường, ý nghĩa tuyệt nhiên không phải tầm thường. Tiếp nhận cúng dường thật có công đức vô lượng vô biên. Việc này có thể thúc đẩy luân chuyển hoằng hóa, giống như thần chú “biến thực” dùng trong pháp thí thực, khiến cho một biến thành bảy, bảy lại biến lên gấp bảy nữa, biến hóa thành vô lượng vô biên trong khắp pháp giới. Việc tiếp nhận cúng dường có ý nghĩa như vậy. Quý vị có một chút tiền, đem tiền ấy biến hóa thành Phật pháp, Phật pháp hoằng dương khắp hư không pháp giới. Tự mình không thể làm được như vậy, tìm đến cửa Phật liền làm được, thành tựu công đức lợi ích vô lượng vô biên. Cho nên Phật tán thán cúng dường, tán thán bố thí.
Phần tiếp theo nói, “cho nên nói xin thương xót, hay thương xót”. Nói “đương mẫn” là thương xót, “hết thảy chúng sinh, chính là nói Bồ Tát vì chúng sanh mà bố thí, vì chúng sanh mà cúng dường”. Bồ Tát Vô Tận Ý vì Bồ Tát Quán Thế Âm hoằng pháp lợi sinh, nên bố thí cúng dường; Bồ Tát Quán Thế Âm đang làm công việc hoằng pháp lợi sinh, nên nên thọ nhận. Chữ “vật” chỉ cho hết thảy chúng sinh. “Bồ Tát Vô Tận Ý dâng anh lạc”, Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường chuỗi ngọc anh lạc, “ý nghĩa nơi hình tích hiện thời, Bồ Tát Quán Thế Âm không thọ nhận, ý nghĩa nơi bản môn chân thật”. Ở đây có hàm ý biểu trưng giáo pháp rất sâu xa. Bồ Tát Vô Tận Ý bố thí, biểu thị ý nghĩa gì? Biểu thị từ tướng hình tích, hình tích thị hiện nên có, tức là nói theo sự tướng. Bồ Tát Quán Thế Âm không tiếp nhận, hiển lộ chân lý, chân như thực tế không thọ nhận bất cứ pháp nào, như Lục Tổ nói “xưa nay không một vật, chỗ nào bám bụi trần”. Nói đến chân như thực tế là “không một pháp nào hình thành”. Hàm nghĩa rất sâu xa, đây là dùng pháp biểu trưng. Do đó nên biết, có sự, có lý, lời Phật khuyên là lý sự viên dung. Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường biểu trưng cho sự, Bồ Tát Quán Thế Âm không thọ nhận là hiển lộ chân lý, đức Phật khuyên thọ nhận là lý sự viên dung. Trong sự việc này ý nghĩa rất thâm sâu.
“Đức Như Lai khuyên thọ nhận, là muốn hiển lộ ý nghĩa không có chỗ mong cầu mà cầu được, không có chỗ thọ nhận mà thọ nhận; việc bố thí cúng dường với thọ nhận đều từ trong chỗ tịch diệt mà ra.” Mấy câu này rất quan trọng. So với Đại sư Liên Trì trong kinh A-di-đà, cuối mỗi đoạn chú giải đều “hiển lý, xứng tánh” mà nói, mấy câu này là xứng tánh mà nói.
Không có chỗ mong cầu mà cầu; không mong cầu là đối với tự thân mình không có gì mong cầu, đối với hết thảy chúng sinh cũng không có chỗ mong cầu, đây chính là nói “làm mà không làm, không làm mà làm”. Bồ Tát đối với tự thân mình, nhất tâm thanh tịnh, không có gì mong cầu, dù trong việc hoằng hóa chúng sinh cũng không mong cầu, nhân duyên thành thục liền thực hiện, duyên chưa thành thục thì không làm. Duyên thành thục là gì? Là mọi người mang đến bố thí cúng dường, không thể không làm. Không có ai bố thí cúng dường, cũng không cần tìm cầu, chẳng hạn như nói “hiện tại tôi đang làm việc này, mọi người phải góp tiền góp sức giúp tôi”. Không cần thiết, không làm như vậy, đó mới gọi là không có chỗ mong cầu mà cầu. Mong cầu như thế nào? Là mọi việc tự nhiên mà đến, không mong cầu mà cầu. Mọi người mang tài vật đến cúng dường, vậy phải làm sao? Chỉ nhận để làm việc lợi ích cho chúng sinh. Người ta cúng dường nhiều thì làm nhiều, cúng dường ít thì làm ít, trong tâm không một chút dính mắc theo duyên. Quý vị nhìn xem, như vậy thì tự tại biết bao! Làm hay không làm cũng đều tự tại. Không làm thì tâm thanh tịnh, làm được thì tâm cũng thanh tịnh. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Lý sự đều không ngăn ngại thì hết thảy mọi việc đều không ngăn ngại.” Người đời thì nói: “Nước chảy tự thành kênh, đâu cần tốn công suy tính?” Duyên chưa thành thục, quyết không miễn cưỡng; duyên đã thành thục thì tùy duyên mà làm, tâm không thay đổi; tâm không thay đổi, chỉ tùy duyên mà làm.
Đoạn kinh này dạy chúng ta pháp môn như vậy. Dạy chúng ta tùy duyên mà không dính mắc theo duyên, tùy duyên liền được tự tại. Đó là nói tâm an ổn thì được lý chân thật.
Dính mắc theo duyên liền không được tự tại. Dính mắc theo duyên thì trong tâm có vô lượng vô biên phiền não, cần gì phải làm khi miễn cưỡng như vậy? Chư Phật Bồ Tát thị hiện nơi nào cũng đều dạy chúng ta, muốn lợi mình lợi người thì phải tu học như thế nào, đều là những tấm gương để chúng ta noi theo.
Không thọ nhận mà thọ nhận, là tự thân mình không hề thọ nhận, chúng sinh cũng không thọ nhận, đây chính là ý nghĩa như phần trước đã nói, trong thể chân thật không một pháp nào thành lập. Thế nhưng với tất cả sự việc, không một sự việc nào không tích cực tiến hành. Đó không phải là tiêu cực, phải là tích cực; trong sự tích cực làm việc đó, tâm vẫn thanh tịnh như vậy, nên nói “việc bố thí cúng dường với thọ nhận đều từ trong chỗ tịch diệt mà ra”. Tịch diệt không phải là sinh diệt. Phần trước đã giảng với quý vị, dẫn kinh Lăng Nghiêm nói: “Sinh diệt đã diệt rồi, ngay đây là tịch diệt.” Sinh diệt là gì? Phần trước nêu sáu gút thắt, tất cả đều là pháp sinh diệt. Sáu nút thắt là gì? Nếu nói theo Duy thức thì đó là các pháp hữu vi: tâm vương, tâm sở, bất tương ưng hành pháp, hết thảy các sắc pháp cho đến pháp tương tợ hữu vi, không phải chân thật vô vi thì đều là pháp sinh diệt.
Chỉ có một pháp chân như vô vi không phải là pháp sinh diệt. Không sinh diệt gọi là pháp tịch diệt. Bố thí và thọ nhận bao gồm tất cả pháp, vô lượng vô biên hết thảy các pháp môn đều bao gồm trong hai chữ bố thí và thọ nhận này. Có thể thấy rằng, không một pháp nào không từ trong chỗ tịch diệt mà ra. Nói cách khác, không một pháp nào không phải do chân như tự tánh biến hiện mà hiện ra.
Ở đây “nêu rõ phước báo của một xâu chuỗi anh lạc”, tức là phước báo cúng dường một xâu chuỗi ngọc anh lạc. Xâu chuỗi của Bồ Tát Vô Tận Ý là bằng bảy món báu. Ngày nay xâu chuỗi của chúng ta là dùng hóa học chế tạo ra, giá trị không bằng, nhưng phước báo vẫn bằng như phước báo của Bồ Tát Vô Tận Ý, không phân chia, không khác biệt. Vì sao vậy? Xâu chuỗi của ngài từ trong tịch diệt mà ra, xâu chuỗi hóa học của chúng ta cũng từ trong tịch diệt mà ra, đâu có khác gì? “Cứu giúp khắp nơi không giới hạn”, đều dùng để cứu độ tất cả chúng sinh, thoát bảy nạn, lìa ba độc, đáp ứng hai sự mong cầu.
“Ban cho khắp mọi nơi, thù thắng đến mức nào”, “thắng” là thù thắng, khắp mọi nơi là nói phổ môn ứng hiện khắp nơi. Phổ môn ứng hiện đặc biệt hiển thị trong việc lưu thông giáo pháp Đại thừa. Phẩm này trong kinh Pháp Hoa thuộc phần lưu thông. Phần trước đã giảng với quý vị về việc hoằng pháp, lưu thông giáo pháp. Cả hai phẩm Bồ Tát Diệu Âm và Bồ Tát Quán Thế Âm đều nói về hoằng pháp, lưu thông giáo pháp. Hoằng pháp lưu thông cần phải ứng hiện khắp mọi nhà. Chúng sinh có sự chiêu cảm, trong tâm họ phát khởi ý muốn học Phật, chúng ta phải hết sức giúp đỡ, thỏa mãn tâm nguyện của họ. Chẳng những là phải cố hết sức, mà còn phải nhanh chóng giúp đỡ, vì họ được nghe Phật pháp sớm một ngày thì được thành tựu sớm một ngày. Phải hết lòng hết sức, vì tất cả chúng sinh mà suy nghĩ. Nếu là người chưa phát ý, trong tâm chưa phát khởi tâm nguyện, chúng ta phải tìm cách khiến cho họ phát tâm.
Chúng ta ở đây hôm nay chưa đủ tài lực, có lẽ vài năm nữa Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ gửi tài bảo đến, Bồ Tát Vô Tận Ý cũng sẽ đến cúng dường. Tại sao hiện tại chưa cúng dường? Vì hiện tại công phu của chúng ta còn kém, chưa thành thục. Một khi công phu thành thục, chư Phật Bồ Tát sẽ đến cúng dường.
Tôi có một tâm nguyện, đó là cứ mỗi trường đại học nổi tiếng trên toàn thế giới chúng ta đều cúng dường một bộ Đại tạng kinh và một bộ đĩa ghi hình các buổi giảng kinh của chúng ta. Mục đích là để những ai còn chưa phát tâm, một khi được xem những đĩa ghi hình này, được đọc kinh sách, liền có thể phát tâm, muốn học Phật. Đây chính là khuyến khích phát tâm, dùng phương pháp này để khuyến khích họ phát tâm. Việc này cần phải có tiền bạc, không có tiền thì không làm được.
Khi chúng ta gửi kinh sách, băng ghi âm, ghi hình đến thư viện các trường đại học, họ sẽ bảo quản rất tốt. Thông thường, ở thư viện các trường đại học, đặc biệt là đối với các thiết bị nghe nhìn, họ đều có nhân viên kỹ thuật chuyên trách bảo quản, đáng tin cậy hơn nhiều so với cách bảo quản thông thường của chúng ta, có thể mang lại lợi ích cho rất nhiều người. Đây là việc chúng ta nên làm.
Phần tiếp theo nêu một ví dụ: “Một khúc nhạc xuân, ai là người có thể cùng hòa điệu? Nhờ có Bồ Tát Trì Địa nhận hiểu được phần nào. Có thể nói là gặp việc tùy cơ, chính nhờ có người thích hợp.” Đoạn này rất thú vị. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Bồ Tát Vô Tận Ý, Bồ Tát Quán Thế Âm một phen hỏi đáp, ai là người hiểu được ý nghĩa? Nếu không có ai hiểu được thì một phen hỏi đáp này, dường như vở kịch diễn ra uổng công. Vì sao vậy? Vì không có người hiểu được ý nghĩa, mọi người đều đến xem nhiệt náo nhưng không một người hiểu được ý nghĩa, phụ lòng chư Phật, Bồ Tát. May thay, tại đó có một người hiểu được ý nghĩa, đó chính là vị sẽ được nói đến dưới đây, tức là Bồ Tát Trì Địa. Vẫn còn ở phần sau, ở cuối phẩm kinh này, chúng ta sẽ thấy, đó là Bồ Tát Trì Địa.
“Ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm vì thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, rồng, cho đến người, phi nhân... liền nhận chuỗi ngọc rồi chia làm hai phần, một phần dâng lên Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng lên tháp Phật Đa Bảo.”
Khi đức Phật vừa khuyên bảo, Bồ Tát Quán Thế Âm liền nhận lời. Ngài nhận rồi không phải lập tức đeo chuỗi ngọc lên người. Không phải vậy, quý vị cần chú ý điểm này, không phải là tự mình thọ dụng. Ngài chia ra làm hai phần, một nửa dâng lên cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni, một nửa cúng dường tháp Phật Đa Bảo.
Phần chú giải tiếp theo nói: “Dùng một chuỗi anh lạc phân ra hai phần, đó là biểu thị một công hạnh ắt phải đủ hai nhân, về lý là chánh nhân, về sự là duyên nhân. Sự lý không phân biệt chia hai, đó gọi là diệu nhân. Dâng lên cúng dường hai vị Phật, đó là hai nhân hướng đến hai quả.”
Đến đây đã giảng xong phần kinh văn “khuyên nên cúng dường”.
Trong kinh luận thường đề cập đến ba nhân của tánh Phật, ở đây nói có hai nhân. Ba nhân của tánh Phật là chánh nhân, liễu nhân và duyên nhân. Chỗ này nói là chánh nhân. Chánh nhân là gì? Chính là chân như bản tánh, là tánh thể mà mỗi chúng sinh đều sẵn đủ, vốn sẵn có, chánh nhân vốn có. Liễu nhân là gì? Liễu nhân là Bát-nhã trí tuệ, chính là sự hiểu biết chính xác, thấu suốt đối với vạn pháp, trí tuệ hiện tiền. Vì vậy, liễu nhân là khai giải, gọi là khai ngộ, đối với vạn pháp có thể đạt được sự hiểu biết chính xác. Duyên nhân là tu hành, là phát khởi tu hành, sau khi hiểu rõ thì tu hành, tu hành là duyên, đó gọi là sự, sự là duyên nhân. Lý và sự không hai, đây gọi là diệu nhân.
Trong phẩm kinh trước, Bồ Tát Diệu Âm tu pháp như vậy. Pháp tu của Bồ Tát Quán Thế Âm tu cũng là diệu nhân, chỉ là đem cái diệu nhân đó mở rộng ra, trở thành sự ứng hóa trọn vẹn khắp nơi. Vì vậy, hai vị Bồ Tát này cùng tu một pháp môn. Nói cách khác, pháp tu của Bồ Tát Diệu Âm là diệu nhưng không mở rộng, pháp tu của Bồ Tát Quán Thế Âm là vừa diệu vừa rộng lớn, nhưng cũng là cùng một pháp môn tu hành như nhau.
Việc cúng dường lên hai đức Phật biểu thị chánh nhân và duyên nhân. Dùng đức Phật Phật Thích-ca Mâu-ni biểu trưng cho duyên nhân, dùng tháp Phật Đa Bảo biểu trưng cho chánh nhân. Quý vị vị cần hiểu rõ ý nghĩa này. Khi chúng ta nhận [ý nghĩa] cúng dường [ở đây], đừng chấp chặt nơi câu chữ. Người đời hiện nay đọc kinh, phạm phải sai lầm lớn ở điểm này. Vừa thấy nói cúng dường, ồ tốt quá, ở đây tôi có tượng Phật Thích-ca Mâu-ni, tôi chia một nửa đồ cúng dường nhận được để cúng dường trước tượng Phật, nửa còn lại để cúng dường một bảo tháp. Thử hỏi quý vị, như vậy có tác dụng gì? Không có tác dụng! Quý vị nên dùng những tài vật này để khai mở trí tuệ cho tất cả chúng sinh, trợ giúp sự tu hành của tất cả chúng sinh, đó mới thật sự là ý nghĩa “một phần dâng lên Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng lên tháp Phật Đa Bảo”, đó mới gọi là cúng dường!
Chúng ta xây dựng đạo tràng, giảng kinh thuyết pháp, dẫn dắt mọi người đến đây tu hành. Người đến đây tu hành được khai ngộ, được nhất tâm. Xét về mặt tu hành, đó chính là cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni; xét về mặt khai ngộ, đạt được nhất tâm, đó chính là cúng dường tháp Phật Đa Bảo. Các vị cần hiểu rõ ý nghĩa này, đó gọi là cúng dường chân thật.
Đến như phẩm trước, như phẩm Bồ Tát Dược Vương, lần này chúng ta không giảng. Quý vị nên đọc qua phẩm ấy. Bồ Tát Dược Vương vì cầu pháp mà xả bỏ thân mạng. Được, vậy chúng ta vì Phật pháp mà đổ xăng lên người, đốt cháy thân thể, quý vị làm như vậy có phải là vì Phật pháp chăng? Mọi người vừa nhìn thấy hành vi của quý vị như thế thì lập tức đăng tin lên báo. Phật pháp không thể học được, quý vị xem, như thế là học được gì? Người người đều tự sát, là trốn tránh hiện thực, là tự sát. Như vậy là sai rồi!
Khi trong kinh viết như vậy, quý vị phải hiểu được ý nghĩa. Ý nghĩa là gì? Là xả bỏ tự thân mình vì người khác, là đốt cháy chính thân mình để soi sáng cho người khác. Ý nghĩa là như thế. Đốt cháy thân mình như thế nào? Là dùng trí tuệ của chính mình, dùng đôi tay của chính mình, vì đại chúng trong xã hội mà tu tạo phúc đức. Không vì bản thân mình, hoàn toàn vì người khác. Đó gọi là đốt cháy chính mình để soi sáng người khác. Nếu quý vị thực sự thiêu đốt thân thể, như vậy có thể làm được gì cho chúng sinh? Vì vậy, trong kinh Phật nói đốt ngón tay, chính là nói chúng ta dùng đôi tay có đủ mọi công năng của mình để phục vụ đại chúng. Đó gọi là đốt ngón tay. Đôi tay này không phải để làm việc cho bản thân mình, không phải để tự tư tự lợi. Không vì tự thân mình, mà là vì đại chúng. Nói đốt đỉnh đầu thì đỉnh đầu tượng trưng cho trí tuệ, đó là dùng sự thông minh trí tuệ của chúng ta để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ý nghĩa là như vậy. Không phải bảo quý vị thật sự tự thiêu đốt. Nếu thật sự tự thiêu, chư Phật Bồ Tát sẽ đều rơi lệ, quý vị còn có thể làm được gì cho chúng sinh? Trong Phật môn có rất nhiều văn tự, qua đó hình tích, tướng trạng, ngôn ngữ đều là phương pháp để biểu đạt, ý nghĩa nằm ngoài ngôn từ, quý vị không thể bám chấp cứng nhắc nơi câu chữ.
Tháp Phật Đa Bảo là biểu thị điều gì? Tháp Phật Đa Bảo là tâm thanh tịnh của chúng ta. Phật Thích-ca Mâu-ni biểu thị điều gì? Là biểu thị sự tu hành của chúng ta. Chúng ta giảng kinh ở đây, chúng ta niệm Phật trong Niệm Phật đường, những điều này là biểu trưng cho đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Các thiết bị trong giảng đường, niệm Phật đường của chúng ta, đó chính là cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta ở trong đó được nhất tâm bất loạn, được trí tuệ sáng suốt, đó chính là cúng dường tháp Phật Đa Bảo. Mọi người cần hiểu rõ ý nghĩa này, không thể hiểu sai. Hiểu sai là mê tín.
Trong Phật pháp thường nói “Y theo kinh văn giải nghĩa, oan cho ba đời chư Phật”, nếu quý vị căn cứ theo chữ nghĩa mà làm thì chư Phật ba đời đều kêu oan: “Ta không phải nói ý đó”, quý vị hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa rồi, mỗi vị Phật đều kêu oan. Đây là chỗ khó của Phật pháp. Vì vậy, đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật pháp không ai thuyết giảng thì dù người có trí cũng không thể hiểu.” Trí thông minh của người thế gian không có thể nào hiểu được ý Phật. Do đó có thể thấy, học Phật không có bậc thiện tri thức chỉ dẫn thì không thể thành tựu. Vì sao vậy? Vì ý nghĩa không chỉ nằm trong văn tự, mà còn ở ngoài văn tự. Quý vị nhất định phải lĩnh hội được những ý nghĩa bên ngoài câu chữ mới có thể đúng pháp.
Câu cuối cùng này là kết luận trong phần [giải thích kinh văn] trường hàng.
“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần tự tại như vậy, đi khắp thế giới Ta-bà.”
Phần chú giải nói: “Sức thần tự tại như vậy” là chỉ cho việc thị hiện khắp nơi với ba mươi ba thân thuyết pháp. Đây là chính thức giải đáp câu hỏi “đi khắp thế giới Ta-bà như thế nào”. Như vậy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã trả lời xong hai câu hỏi quan trọng của Bồ Tát Vô Tận Ý, một cách đơn giản nhưng đầy đủ các điểm trọng yếu. Mặc dù ngôn ngữ đơn giản chỉ nêu những điểm trọng yếu, nhưng ý nghĩa thì không cùng tận, giải đáp một cách hoàn toàn trọn vẹn.
Chúng ta đối với Bồ Tát Quán Thế Âm đều phải có sự nhận hiểu. Nhận hiểu được Bồ Tát Quán Thế Âm, quý vị mới có thể tin tưởng vào ngài, mới có thể không nghi ngờ ngài; quý vị mới biết được làm thế nào để tu học pháp Phổ môn.
Tiếp theo là phần kệ tụng. Trong kệ tụng thì đa phần thuộc về trùng tụng, nhưng cũng có phần cô khởi tụng. Trùng tụng là lặp lại phần kinh văn ở trước. Trùng tụng có rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, kinh điển cần dễ tụng đọc. Nếu không thể thuộc lòng, không thể tụng đọc, thì trong cuộc sống hằng ngày chúng ta không thể đề khởi công phu quán chiếu, không có cách nào vận dụng những ý nghĩa, phương pháp của kinh điển vào sinh hoạt hằng ngày. Nói cách khác, quý vị phải ghi nhớ được. Kinh văn trường hàng rất khó ghi nhớ. Kệ tụng giống như thi ca, dễ ghi nhớ, tụng đọc nhiều là thuộc. Vì vậy, kinh văn trường hàng thuận tiện cho việc giải thích, kệ tụng thuận tiện cho việc ghi nhớ. Trong một bộ kinh thường có cả kinh văn trường hàng, có cả kệ tụng, ý nghĩa là như vậy.
Ngoài ra còn một ý nghĩa khác. Đức Phật giảng kinh không phải như lên lớp ở trường học, cho nên thính chúng không cùng lúc đến. Có người đến trước, có người đến sau. Người đến trước, phần trước đã nghe; người đến sau, phần trước chưa được nghe. Phần trước chưa được nghe, đức Phật rất từ bi, cũng không phụ lòng họ. Họ đã đến nghe là điều khó được, nên Phật dùng kệ tụng để nói sơ lược lại phần trước, bổ sung cho phần trước. Mặc dù những người ấy đến sau, nhưng ý nghĩa phần trước cũng có thể nhận hiểu được từ trong phần kệ tụng. Nhờ vậy, tất cả đều có thể đạt được Phật pháp viên mãn.
Trong kệ tụng có cô khởi tụng, tức là những gì trước đó chưa nói đến, nói chưa trọn vẹn trong phần trước, nay dùng kệ tụng này để bổ sung, khiến cho ý nghĩa lời Phật dạy càng thêm trọn vẹn, rốt ráo.
Có nhiều ý nghĩa như vậy nên không thể thiếu phần kệ tụng. Đặc biệt, người thế gian đa số đều thích nhạc điệu, đều thích ca nhạc, kệ tụng chính là như lời ca, có thể phối hợp thành bản nhạc để diễn tấu, có thể hát lên thành lời.
Phần tiếp theo là xác định kinh văn, tức là nói “phần kệ tụng và phần kinh văn sau kệ trùng tụng, ngài Thập sư không chuyển dịch”, Thập sư là ngài Cưu-ma-la-thập. Bản dịch Kinh Pháp Hoa của Đại sư Cưu-ma-la-thập, phẩm Phổ Môn - Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ đến chỗ này, không có phần kệ tụng tiếp theo. “Các bậc thầy xưa nay đều cho rằng trong bản Phạn văn vốn có phần này nhưng về sau mới được dịch thêm vào. Điều này được nói rõ trong lời tựa “Pháp Hoa kinh hoằng truyền” của Luật sư Đạo Tuyên ở núi Chung Nam, trong quyển thượng bản kinh chúng ta đang xem. Trong lời tựa Hoằng truyền của quyển thượng nói rất rõ, giải thích ai là người dịch phần kệ tụng này và bổ sung vào khi nào. Mọi người có thể tự tham khảo.
Phần kệ tụng có 26 hàng, tức là 26 khổ kệ, vì trong bản này, kệ tụng là ngũ ngôn tụng, tức là mỗi câu năm chữ, bốn câu là một khổ, vừa đúng một hàng là bốn câu. Vì vậy một hàng là một khổ, hai mươi sáu hàng tức là tổng cộng có hai mươi sáu khổ kệ. Trong hai mươi sáu khổ lại chia làm ba đoạn.
“Đoạn thứ nhất”, tức là một khổ kệ đầu tiên. “Tụng lại cả hai câu hỏi trước.”
Tiếp theo là đoạn thứ hai có hai mươi hai khổ kệ, “Tụng lại phần trả lời cho cả hai câu hỏi.” Đây là phần trùng tụng.
Đoạn cuối cùng có ba khổ kệ, “tụng lại cả hai ý nghĩa khuyến khích”.
Bây giờ nói về khổ kệ thứ nhất, tụng lại cả hai câu hỏi. Chúng ta cùng xem kinh văn.
“Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý đọc kệ thưa hỏi rằng:”
Câu này là phần nghi thức, tức là nghi thức mở đầu trước khi nói. Dùng kệ để thưa hỏi, cũng là ngợi khen xưng tán Phật, bởi vì kệ là để tụng ngâm. Cũng giống như bào Tán hương của chúng ta hiện nay, kệ tụng đều phối hợp với âm nhạc, như lời ca ngâm, đa phần đều là xưng tán.
“Đức Thế Tôn đủ đầy diệu tướng,
Con nay xin thưa hỏi đôi lần.
Có Bồ Tát tên Quán Thế Âm,
Nhân duyên gì xưng danh hiệu ấy?”
Đây là khổ kệ đầu tiên. Trong khổ đầu tiên, về mặt văn tự chỉ thấy hỏi nhân duyên danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng ý nghĩa thì bao hàm cả hai. Trong phần chú giải ở đây giải thích rất rõ. “Đức Thế Tôn đầy đủ diệu tướng, muôn đức trang nghiêm”, “xưng tán hình tướng” cũng chính là xưng tán trí tuệ, công năng, đức độ của Phật, vì mỗi loại tướng tốt đều do tu tập trăm phúc lành mới thành tựu, đủ trăm phúc trang nghiêm. Nói “xin thưa hỏi” là bao hàm cả câu hỏi thứ hai. Nên về mặt văn tự chỉ có một câu hỏi về nhân duyên danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng trong đó cũng bao hàm câu hỏi về nhân duyên gì Bồ Tát Quán Thế Âm đến thế giới Ta-bà này giáo hóa khắp nơi. Hai phần ý nghĩa này, một là được hiển lộ, hai là được ngầm hiểu.
Phần tiếp theo là nội dung giải đáp.
“Đức Thế Tôn đủ đầy diệu tướng”
Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, viên mãn đầy đủ, nên câu này là sự xưng tán trước Phật.
“Kệ đáp rằng: Ông hãy lắng nghe,”
Ngài Vô Tận Ý dùng kệ tụng để hỏi, đức Phật cũng dùng kệ tụng để trả lời.
“Bồ Tát Quán Thế Âm hạnh nguyện,
Cũng rộng sâu như biển như trời.
Khéo hóa hiện nơi nơi, chốn chốn,
Trải bao đời không thể suy lường,
Đã kề cận muôn ngàn đức Phật,
Phát nguyện lành thanh tịnh lớn lao.”
Hai mươi hai khổ kệ tiếp theo, tức là hai mươi hai hàng, “tụng hai ý nghĩa giải đáp”, chia làm hai đoạn.
Đoạn thứ nhất [có hai khổ kệ], là “xưng tán tổng quát về hạnh nguyện”, tức là giải đáp theo ý tổng quát. Đoạn thứ hai có hai mươi khổ kệ là giải đáp chi tiết.
Trong phần giải đáp tổng quát, “trọn hai câu kệ này là người chép kinh đặt vào để mở đầu”, tức là do người kết tập kinh sắp xếp.
Từ câu “ông hãy lắng nghe, Bồ Tát Quán Thế Âm hạnh nguyện” trở đi là lời Phật nói. “Ông hãy lắng nghe” là lời dạy phải lắng nghe, suy xét kỹ. Chúng ta thường thấy trong kinh nói: “Hãy lắng nghe cho kỹ.” Lắng nghe kỹ tức là dùng trí tuệ để nghe, dùng trí tuệ để chọn lọc, không phải mù quáng nghe theo.
“Hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, đó là một tâm có đủ ba trí.” Câu này chúng ta phải ghi nhớ thật kỹ. Khi có người hỏi thế nào là hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quý vị có thể lập tức trả lời ngay: “Một tâm có đủ ba trí.” Một tâm là tánh thể, ba trí là công dụng. Ba trí là gì? Đó là nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí. Ba trí này đều từ một tâm lưu xuất ra. Nếu quý vị đạt được sự nhất tâm thì quý vị có nhất thiết trí; nếu quý vị có lý nhất tâm, thì quý vị lại có thêm hai trí nữa, có đạo chủng trí và có nhất thiết chủng trí.
Vị A-la-hán đã dứt trừ hai loại phiền não do kiến hoặc và tư hoặc, tương đương với sự nhất tâm, cho nên A-la-hán có nhất thiết trí, nhưng chưa có đạo chủng trí. Bồ Tát Viên giáo ở bậc Sơ trụ thấy rõ tự tánh, tâm được sáng suốt nên có đạo chủng trí; đến khi lên hàng Thập địa thì có nhất thiết chủng trí. Vì vậy, Bồ Tát Tam hiền có nhất thiết trí, đạo chủng trí, Bồ Tát đã vào Thập địa thì đầy đủ cả ba trí. Ba trí đều sinh từ nhất tâm, lưu xuất từ nhất tâm, có trí tuệ thì việc gì cũng làm được.
“Quán xét âm thanh muôn loài, khiến cho vô lượng khổ não được nhất thời giải thoát, tức là thành tựu công hạnh lợi tha của Bồ Tát Quán Thế Âm.” Đây là nói về sự nghiệp lợi sinh của Bồ Tát. “Chân tâm không dao động, hóa hiện đủ mọi hình tướng.” Chân tâm chính là chân như, trong thực tế cũng chính là pháp thân. Hóa hiện đủ mọi hình tướng tức là Ứng hóa thân. “Cho nên nói là khéo ứng hiện”, không dao động mà ứng hiện được, đó mới gọi là khéo léo. “Hết thảy mọi cõi nước, nơi nơi đều hóa hiện đến, cho nên nói là “nơi nơi, chốn chốn”.
“Thệ nguyện rộng sâu” là nói bốn hoằng thệ nguyện rất sâu rộng. Câu này vô cùng quan trọng, chúng ta phải ghi nhớ “một tâm ba trí, bốn hoằng nguyện rộng”. Những điều này chúng ta đặc biệt phải ghi nhớ, chính là chỗ phải tu học.
“Trải bao đời, là trải qua nhiều kiếp, khó tính đếm hết”, biểu thị sự kiên tâm, nhẫn nại, dũng mãnh, không sợ mọi gian khổ, phải tu học trong thời gian dài.
“Do thệ nguyện sâu xa vững chắc nên qua thời gian dài cũng không thối chuyển, qua thời gian dài nên được gặp nhiều vị Phật, theo chư Phật mà làm mọi việc lành, tu tập theo công hạnh của chư Phật, như vậy mới gọi là “kề cận chư Phật.” Cả ba câu này đều phải ghi nhớ, chúng ta là đệ tử Phật nên phải học tập theo. Chư Phật có tâm như thế nào, công hạnh như thế nào, chúng ta đều phải học, đó mới gọi là học Phật! Học Phật gọi là hầu cận bên Phật, hầu cận bên Phật là thị giả của Phật. Đức Phật ngày nay không còn tại thế, nhưng chúng ta cũng có thể làm như vậy, chúng ta làm giống như Tôn giả A-nan, không rời Phật một bước. “Ở nơi chỗ của hết thảy chư Phật, đều phát nguyện thanh tịnh. Vì Bồ Tát có hạnh nguyện sâu xa lớn lao, nên trí tuệ chân thật cứu thoát khổ não của chúng sanh ở khắp mọi nơi, thân ứng hóa biến hiện, cứu độ cho hết thảy.”
Tốt rồi, hôm nay chúng ta giảng đến đây thôi. Còn một buổi giảng kinh nữa, tối nay chúng ta sẽ hoàn tất trọn vẹn. Phần kệ phía sau tuy dài, nhưng có nhiều bài kệ là trùng tụng, chỉ đọc qua là hiểu được. Những chỗ quan trọng, tôi sẽ giảng giải cho mọi người, còn lại xem qua là hiểu, đọc qua là xong thôi. Phần giảng kinh tối nay như vậy là trọn vẹn.
Chúng ta hiện tại hội họp nơi đây, tương lai cùng đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, trong ao thất bảo, chúng ta lại cùng đức Phật A-di-đà hội họp. Đó chính là công đức viên mãn của chúng ta.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.27 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập