Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phần kệ thứ 2 có 165 hàng và chia ra làm 2.
Phía trước có 100 hàng; tụng bên trên theo văn trường hàng và sau có 65 hàng, làm rõ phương pháp của kinh. Bên trên trường hàng có khai dụ và hợp dụ. Kệ tụng lại lại chia ra làm 2. Đầu tiên có 65 hàng rưỡi; tụng và khai dụ. Kế đến có 34 hàng rưỡi; tụng về hợp dụ. Đầu tiên ấy lại chia ra làm 2. Phần đầu có 33 hàng kệ; tụng về tổng dụ. Kế đến có 32 hàng rưỡi kệ; tụng về biệt dụ. Tổng tụng ấy có 6 ý. Trong 6 ý ấy dừng tụng ở phần thứ 4 nầy. Kiêm luôn cả phần thứ hai; tụng về nhà cửa và ngay cả việc chỉ có một cánh cửa ra vào. Tụng về 500 người, kể cả 30 người con. Câu đầu nói rõ về vị Trưởng Giả, liền tụng địa vị, danh hiệu trên hết; tức là kiêm luôn việc tán thán về đức hạnh. Lại có cái đức của người lớn; tức là rõ biết việc làm được tôn sùng ở nơi quốc, ấp. Lại biết được thêm cái đức của vị ấy rất cao đối với trong ngoài. Bên trong hợp với vị hiệu Bà Già Bà. Tự rõ, đầy đủ trí đoạn, từ bi vạn đức. Có một ngôi nhà lớn. Phần thứ 3 có 3 hàng và một câu. Tụng bên trên phần thứ hai về nhà lửa và dụ nầy có 2. Câu đầu tiên tụng về nhà, rộng rãi to lớn. Nhà nầy đã có từ lâu. Phần thứ 2 có 3 hàng; nói về cách ra khỏi nhà to lớn rộng rãi ấy. Làm rõ cái tướng bị thiêu. Cho nên rõ biết về cái thể của nhà nầy qua bài tụng. Ba cõi từ vô thỉ đã bền bỉ; chẳng phải ngày hôm nay mới tạo ra. Bị vô thường chi phối; nên gọi là đốn tệ. Lại nói rằng: Đầu là cung điện; bụng là lầu các và vai là nhà cửa. Niệm niệm thường liên tục, vô thường chỗ ấy thật cao nguy. Một chỗ khác nói: Sắc giới là lầu các. Dụ giới là nhà cửa; chẳng trừ việc rơi vào đó; nên gọi là cao nguy. Mạng căn được duy trì như cây trụ chống đỡ. Quá khứ hành nghiệp là chỗ dựa. Lại nói rằng: Hai chân là 2 cây cột; ba tướng gá vào gọi là nương tựa. Ý thức như mắc lưới làm đòn dông. Các khổ ấy hoại diệt như chớp nhoáng. Lại nói rằng: Da xương như rường cột; các mô là chỗ dựa; suy già là sự hủy hoại. Tường vách một cách nói khác là tứ đại như bức tường. Da thịt như bùn đất. Bốn oai nghi không còn đứng vững; cho nên khốn đốn. Năm thứ chẳng thông, chẳng rõ biết tướng chính và từ đó có việc sai sót.
Lại nói: Bức tường đổ nát giống như da thịt rã rời. Hình thức đẹp đẽ ấy như bùn đất. Khi già sắc đẹp úa tàn và sau đó thì rơi rụng. Tóc râu đổi màu dần dần rụng tiệt. Khổ bị che lấp lại nổi lên. Gân cốt khi già, yếu lại; không còn co giãn như xưa, giống như cây cối khô héo; khắp nơi cong quẹo. Có vị Thầy người Ấn nói rằng: 36 loại đều biến tướng khác thường. Cho nên nói là các nơi đều chướng. Bụng phệ quá cỡ; nên nói là thô xấu. Chẳng phải vô thường đến thăm là gì? Lại còn thêm bất tịnh, khổ sở nữa. Cho nên nói rằng: dẫy đầy hôi thối. Nay lại bảo: Sự hư hoại ấy là 6 thức, sự cong quẹo đó là lục căn. Lực thức duyên vào với 6 căn để giữ đó làm cảnh. Khó khăn khiếm khuyết; cho nên nói là cong vẹo. Sáu trần đều nhiễm với 6 căn; cho nên nói là dơ uế. Nhơn duyên quán tâm đều có giải thích về những điều nầy v.v…
Có 500 người thuộc phần 3 có nửa hàng. Tụng phần bên trên dụ cho 350 người; lấy 3 Thừa, căn tánh làm 5 đường. Chỗ nhiếp ấy gồm luôn thí dụ 30 người con.
Từ „Diên Cáp“ trở đi; phần thứ 4 có 29 hàng kệ. Phần bên trên chính thức tụng về 5 loại lửa bốc cháy. Cuối cùng lại còn 4 loại nầy. Đầu tiên có 22 kệ; làm rõ việc ở trên đất; dụ cho dục giới lửa thiêu đốt; kế đến phần 2 có 3 kệ rưỡi; làm rõ việc trong hang động; dụ cho sắc giới bị lửa đốt cháy. Kế đến phần 3 có 2 kệ rưỡi; làm rõ chỗ không; dụ cho rõ sắc giới bị lửa khởi lên thiêu đốt. Sau đó phần 4 có một kệ tổng kết các nạn; chẳng phải một. Tựu chung khi cõi dục lửa đốt cháy có 4 việc. Đầu tiên 17 hàng rưỡi làm rõ về các loại thiêu đốt. Dụ cho thập sử của chúng oanh. Kế đến phần thứ 2 có một kệ rưỡi. Làm rõ chỗ nguyên do của lửa nổi lên đốt cháy. Dụ cho 5 trược khởi lên. Kế đến phần thứ 3 gồm một hàng rưỡi. Chính thức làm sáng tỏ sức mạnh của lửa khi bắt đầu đốt cháy. Dụ cho việc chánh thức khởi lên 5 trược. Sau cùng phần thứ 4 có một hàng rưỡi, làm rõ cái tướng bị thiêu đốt; dụ cho việc thọ nhận của 8 khổ và 5 trược. Cuối cùng trong 17 hàng rưỡi ấy lại có hai. 16 hàng đầu tiên chính thức làm rõ chỗ thiêu. Một hàng rưỡi sau cùng tổng kết. Tựu chung chỗ thiêu lại có hai. 6 hàng đầu tiên làm rõ cho thấy cầm thú bị thiêu, dụ cho 5 đốn sử của chúng sanh. 10 hàng sau đó làm rõ chỗ hồn thần (tâm thức) bị thiêu; dụ cho 5 lợi sử của chúng sanh. Phần thứ nhất của ngũ độn sử chia ra làm hai. 5 hàng rưỡi đầu làm rõ chỗ 5 độn. Phần thứ 2 có nửa hàng kết. Nay lấy 5 độn đầu làm 5. Nửa hàng đầu giống như mạn sử; chúng sanh tự khinh mạng người khác. Như giống chim vì tánh hay bay cao và thấy bên dưới thấp. 8 loài chim dụ cho 8 loại mạn ấy. Trong Văn Thù vấn kinh có nói rõ về 8 sự kiêu mạn ấy. Nay dùng đến sự phân phối nơi 8 loài chim. Chim là một loài rất kiêu ngạo. Tánh kiêu ấy thể hiện nơi loài chim nầy; giàu sự kiêu ngạo, khinh miệt. Tự tại kiêu căn như chim Thứu (kênh kênh). Thọ mạng kiêu như loài chim thường. Thông minh kiêu như chim Cú mèo. Làm việc lành kiêu hãnh như con chim tu hú. Kiêu hãnh về sắc đẹp như con chim bồ câu. Lăng mạ kẻ khác và tự kiêu, vì quý trọng mình mà kiêu. Tự yêu mình, vì tham ái kẻ khác, sanh ra dâm. Tự giận làm si; giận kia thành sân. Tự hoặc mình là ngu; hoặc kẻ khác là si v.v…
Kế đến từ „ngươn xà“ trở đi; phần thứ 3 có hai câu, dụ cho sân sử. Sân ấy có 3 loại. Độc hại của rắn ấy chẳng tiếp xúc, mà qua hô hấp. Dụ nầy phi lý; nên sanh ra sân hận. Loài rắn độc khi gặp thì nguy to, dụ cho chấp cái lý về sân. Ngô công ở đây thí dụ cho sân hý luận. Người đời nói rằng: Người có trán màu đỏ là ngô công. Chẳng phải người màu đỏ là Do Diên.
Từ „thủ cung“ trở đi; phần 3 nầy có 2 hàng, dụ cho si sử: si ấy có sự độc hại; có tướng khởi lên tương ưng. Thủ cung ấy có 100 chân đầy lửa, dụ nầy dụ cho riêng cái đầu là vô minh. Chồn, cáo, chuột v.v… dụ cho những sự tương ưng khác. Tất cả là những lũ ác trùng.
Từ căn bản của si làm gốc hỗ trợ cho các kết sử khởi lên. Làm rõ cho các sử tương duyên; hoặc duyên vào 3 cõi như ngang dọc giao thoa, khởi lên nhanh chóng rồi chạy trốn. Một hàng nói về nước tiểu, làm rõ chỗ tâm si mê, dính mắc vào cảnh. Tất cả đều là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh. Do si mê chẳng rõ được sạch dơ; nên bị nhiễm trước; cho nên nói rằng: Giống như đám trùng bọ hung bò lên trên ấy.
Chồn cáo, phần 4 có 2 hàng; làm rõ chỗ tham sử. Tham ấy lại có 2 loại. Một là có sức mạnh; hai là chẳng có sức mạnh. Có sức mạnh là dùng uy thế để gìn giữ như chó sói. Không có sức mạnh có thể chạy tránh đi.
Rách nát, tồi tệ như dã can tranh nhau. Ở đây làm rõ cảnh tham giữ, dẫn đến việc cấu xé với nhau. Chẳng dùng đạo lý để làm bàn đạp, mà giữ tâm tham; hoặc giữ một thành; hoặc giữ một nước. Ở đây có đủ loại như bọ kiến.
Lại nói rằng tâm tham ấy chấp cảnh, có chỗ dùng và không dùng được. Có chỗ dùng là chấp vào chỗ cấu xé nhau. Chẳng dùng được mà giữ lấy như bàn đạp. Lại ít mà còn tranh nhau và nhiều thì giẵm đạp lên nhau. Cốt nhục tương tàn. Tích tụ 5 trần chẳng rõ chỗ dừng nghỉ và biết đủ. Do sự quần thảo và cạnh tranh như chó đánh nhau. Ở đây do lực tham mà chuyển thành không có sức mạnh. Nghĩa là như vua tặc; đói khát, bướng bỉnh thường chẳng rõ đủ cho sự đói. Cầu chẳng thể được; nên yếu đuối, đói khát. Đủ loại đến lui; nhưng toàn là yếu đuối. Người nhiều ham muốn; tuy giàu nhưng mà nghèo. Tâm tham ái. Tham ấy do ngũ trần, nhục dục; tâm thấy khiến tham. Tham là cốt lõi của đạo lý. Truy cầu chỗ thấy biết, chạy theo nhiều chỗ giải bày; cho nên nhiều lao khổ. Sự khổ ấy như chó chạy đua với nhau. Khi nhìn lại tâm, chưa được chánh pháp; nên tuy ăn mà vẫn đói. Chưa thể thấy đứng đắn; cho nên gọi là yếu kém. Nơi nơi đều cầu cứu giải giúp; nên gọi là sự sợ hãi khôn xiết. Có lần nói rằng: Người tham lam hy vọng, tìm cầu vọng niệm. Đấu tranh, giành giựt với nhau.
Phần thứ 5 gồm 2 câu, dụ cho nghi sử. Do dự hai bên; nên gọi là nghi. Chưa quyết định được là đấu tranh hay không. Ý nghĩa nầy là sự chế ngự. Lại cũng có nghĩa là chẳng cướp được. Đau đớn, khóc lóc la lối luận nói chẳng theo lý lẽ. Sự sợ hãi gồm 2 câu. Phần thứ hai, kết lại bên trên về 5 độn sử. Nơi nơi đều có.
Phần thứ 2 có 10 hàng, làm rõ 5 lợi sử. Phần nầy chia làm 2. Nửa hàng đầu là thông minh lợi sử. Lợi sử biến duyên vào ngũ ấm, tứ đế. Cho nên nói rằng: Nơi nơi đều có. Phàm là quỷ thần thì có trí và thần thông. Cầm thú lại chẳng có. Cho nên phần lợi sử để thí dụ cho quỷ thần. Độn sử để dụ cho cầm thú; Dạ Xoa v.v...
Phần 2 gồm 9 hàng rưỡi; riêng làm rõ 5 lợi sử và chia làm 5. Ba hàng đầu tiên làm rõ về Dạ Xoa. Đây là loại quỷ hay cướp giựt thí dụ cho tà kiến; chấp phá chẳng có nhân quả.
Quả báo lành là làm người, dụ cho việc xuất thế nhân quả, chẳng gồm phiền não. Bát bỏ chẳng có lý, như người ăn thịt người vậy. Còn việc trùng thuộc về ác báo. Giống như thế gian nhơn quả, toàn là những phiền não. Bát bỏ chẳng có lý nầy, giống như loài độc trùng vậy. Những loại sinh ra trôi nổi hay có sữa là các pháp của thế gian, chính từ nguyên nhơn từng loại, sanh ra và tự có kết quả. Mỗi mỗi đều tự chứa chấp và giữ gìn. Nhơn ấy có thể có quả; cho nên gọi là tàng chứa. Tất nhiên được, chẳng mất; nên gọi là giữ gìn. Lại nữa người, thịt thuộc lành và độc. Trùng ấy thuộc ác. Với tâm tà kiến bát bỏ chẳng có thiện ác nhơn quả. Việc nầy giống như ăn thịt lẫn nhau vậy. Loài sanh sản trên nước hoặc có sữa. Nói chung là lành dữ đều có nhơn quả tương sanh với nhau. Ăn tức phải no. Thấy thì tâm thành tựu. Người có tâm ác đốt cháy là tâm thấy nhiều và tăng trưởng thêm. Âm thanh của việc tranh giành với nhau là nội tâm thành tựu, ngoại chướng dùng lời nói để tuyên truyền về pháp chẳng có nhơn và chẳng có quả; khiến cho người nghe bị lạc vào 3 đường dữ cho nên nói là sợ hãi.
Từ “Quỷ Cưu Bàn Trà” trở đi; phần thứ 2 gồm 2 hàng và 2 câu thí dụ về giới thủ. Cưu Bàn Trà gọi là quỷ thắng, như có lậu thiện, có thể hơn cả các loài trùng. Ngồi hở hang trên mặt đất. Tu 10 giới lành có thể sanh lên 6 cõi trời. Trong 6 cõi trời ấy, dục giới là nơi cao hơn. Giống như việc ngồi trên đất. Lại nữa ngoại đạo giữ giới có thể tu thiền định. Đầu tiên chứng được dục giới định; hoặc được vị lai định. Vị lai định chưa thoát khỏi dục giới. Trên đỉnh của dục giới, như ngồi trên mặt đất. Hoặc lìa một thước, hai thước được lên cõi trời sắc giới định như trong một thước. Được vô sắc giới định như trong 2 thước. Được lên cõi trời trên, rồi qua lại. Tiếp đó đọa trở xuống ngược lại, khởi lên chỗ thấy bị che, rồi loay hoay vui vẻ; giống như chó 2 chân. Có người nói rằng: Vì hủy báng không có cái nhơn của khổ; nên giống như chó không đủ chân. Bát bỏ không có cái khổ quả, giống như chân chim. Rồi tập hợp cái gốc gác để được quả; giống như tiếng kêu của chó. Thấy lợi và bát bỏ nói không có tập; nên chẳng có cái lý của sự khổ. Lại mất đi âm thanh. Còn quán giải nghĩa là tu học hạnh, quán phục bần. Bần ấy chẳng làm giống như bị gián đoạn; nên mất âm thanh. Chó ấy là lòng mong muốn, nghèo nàn đôi chân, lấy đó làm giác quán. Giác quán ấy qua lại thường tại nơi cảnh nghèo hèn. Hơi thở dừng thì tâm có thể bị trói buộc, làm chỗ nắm bắt của giác quán. Thường con người nghèo nàn quá khổ hay hướng về cảnh bất tịnh tạo nên bất tịnh quán, lại bần quán. Bần giác trở lại cũng giống như con chó bị nô bộc đánh đập. Nhơn đó chẳng kêu thành tiếng. Lại nói rằng: Tạo sự bất tịnh quán như đánh chó, có thể sanh thiền định. Như bị đánh, liền mất tiếng kêu.
Khước gia cảnh cũng giống như con chó, tuy bị đánh giao động; nhưng chẳng quay lại, mà bỏ chạy. Sự tham lam tuy rõ biết bất tịnh, dừng đó; nhưng sự tham lam giống như chưa thật trong sạch; nên lại phải dùng đến vô thường quán. Thêm vào sức mạnh sẽ sanh sợ hãi; tức là bần giác chẳng thể khởi lên.
Lại nói rằng: Một lần tâm qua lại, như hướng xuống đất để đánh; thường bị trói cột bởi duyên giống như Khước Gia Cảnh (một loại chó) chẳng thể chạy được. Sợ như chó tự vui; nên tu về quán vô thường, giác ngộ tâm tham lam như sợ chó vậy. Nguyên nhơn ấy được thiền vị; gọi là tự vui.
Từ “thân nầy dài” trở đi; phần thứ 3 có một hàng rưỡi kệ, dụ cho thân kiến. Đã vào 3 cõi giống như ta nói là trưởng thành. Qua lại 5 ấm, ta gọi là to lớn. Từ đó ta tự tại, chẳng siêng tu pháp lành; cũng chẳng xấu hổ; cho nên nói là lõa hình. Dùng việc ác để trang nghiêm; cho nên nói là đen đúa. Chẳng có tư lương của công đức; cho nên nói là héo hắt. Do vậy ta chẳng thể ra khỏi 3 cõi. Cho nên nói là thường ở trong ấy. Rồi ở tâm ta, phát ngôn nói năng có tướng của ngã, rồi nói tiếng đại ác, chê nhơn và vọng nói được đạo phủ. Lời nói ấy chỉ để cầu cho miếng ăn.
Từ “lại có những loài quỷ” trở đi; phần thứ 4 gồm nửa hàng dụ cho việc kiến chấp. Khi cổ khô, mệnh nguy mới lo bảo toàn thọ mạng; chẳng nghĩ đến vô thường mà lo chuyện Niết Bàn; cho nên nói là cổ như kim châm.
Từ “đầu như đầu trâu” trở đi; phần thứ 5 có hai hàng dụ cho biên kiến: thôi thúc ta đoạn thường; đoạn thường nhị biên như đầu trâu có 2 sừng. Vì thân là ta và vì ta là thân. Nương vào cái thấy của ta; nên khởi lên biên kiến. Như đầu có 2 sừng vậy. Cho rằng thường đoạn rồi thì có thể đoạn việc lành xuất thế; như người tham ăn thịt; có thể đoạn mất căn lành ở đời; hoặc như cho ăn; hoặc lúc cho là thường; hoặc lúc cho là đoạn. Trước sau lui tới như đầu tóc rối bù. Cho rằng thường tức là phá đoạn. Cho rằng đoạn tức là phá thường. Như tàn hại hung hiểm; chẳng có trí định, ăn uống tự lo; như đói khát bức bách.
Từ “Dạ Xoa ngạ quỷ” trở đi; phần thứ 2 có một hàng rưỡi. Tổng kết về dục giới là phần não tướng. Cũng kết luận là tướng lợi, độn của chúng sanh; đồng thời cũng có tâm hữu lậu; thường chẳng có đạo vị gì cả; cho nên nói là đói khát.
Khuy khán bích (lỗ thông nơi bức tường) để chỉ rõ cho tà quán nầy không đúng với chơn lý và chưa ngưỡng vọng được đạo vị. Tuy có quan sát; nhưng mà mang tâm chấp trước nhiều; do vậy chẳng gặp lý chơn chánh. Giống như thấy không qua cửa sổ; chẳng được vô ngại.
Từ “đây là cành cây khô và nhà thuộc một người” trở đi; phần thứ 2 có một câu kệ làm rõ lý do mất đi ngọn lửa. Ba cõi chỉ là nơi của Phật hóa hiện. Phát tâm rồi, lại thệ nguyện độ thoát. Cho nên nói rằng: Thuộc về một người. Trưởng Giả ở trong nhà, có thể làm cho hết lửa; nhưng do ra khỏi và sau đó các con chẳng biết; cho nên làm cho lửa bốc cháy lên. Ở bên trong thích hợp với lý do chánh đáng. Như Lai dùng thần thông của Phật để giáo hóa cho chúng sanh và giúp cho chúng sanh trong đời ngũ trược. Cảm ứng tận rồi Đức Như Lai xả bỏ ứng thân nầy; nên sau đó chúng lại khởi lên 5 trược. Ở quốc độ khác phó duyên; chẳng đi khỏi; cho nên nói là gần xuất hiện.
Lại nói rằng: Từ khi được vô sanh rồi, chẳng sanh nơi tam giới; cho nên nói là ra khỏi. Chẳng ứng hiện lâu dài; cho nên nói là gần. Trong phẩm Thọ Lượng nói rằng: Nhiều lần hiện Niết Bàn; tức là cái ý nói ra khỏi nhà nầy.
Từ “ở nơi nhà cửa” trở đi; phần thứ 3 có 2 hàng; chính thức làm rõ về sức mạnh của lửa khi bốc cháy. Tứ bề ý nói các nơi chốn. Thân nầy thọ tâm pháp, cùng khởi lên tứ đảo và ngũ trược, bát khổ; cho nên gọi là một lúc. Lửa ấy liên tục tăng và giảm. Mạng căn nầy mất như sự bạo phát. Gió đao ấy cắt thân thể nầy thành miếng. Lại bảo rằng: Sự thọ hình khổ nhọc, đau đớn kêu gào; nên gọi là bộc phát. Các căn bị phá hết như cắt nát ra. Hơi thở không còn; xương cốt rời rã và gân da chẳng còn; rồi liền rơi vào địa ngục. Bốn đại tan rã như tường vách sụp đổ.
Từ “chư quỷ thần” trở đi; phần thứ 4 có một hàng rưỡi, làm rõ cái tướng bị thiêu đốt. Hoặc nói rằng: Thân thuộc là thần hồn; khóc than cao tiếng nay như ví dụ bên trên về lợi sử; lấy đó thí dụ cho thần hồn. Người lợi sử; hoặc hay đoạn thường. Nếu thường thì nghĩa là pháp định không. Từ hữu trở lại không và không ấy liền thường hằng. Còn kẻ đoạn (thường) nghĩa là pháp định đoạn. Tuy việc nầy một lần chết; lại chẳng liên tục trở lại. Tất cả đều nói là định thuyết và việc nầy đã hiển lộ, cho nên nói rằng: Nghe tiếng lớn la lên. Nếu là độn sử cùng với ác giới thủ thì cái gốc chẳng tính đoạn; nay thấy vô thường; liền sanh nghi, sợ; chẳng rõ biết phương pháp lìa khổ; cho nên nói là bồn chồn chẳng thể tự ra khỏi.
Từ “ác thú độc trùng” trở đi; phần thứ 2 có 3 hàng rưỡi, làm sáng tỏ việc trong hang ngách. Dụ cho sắc giới lửa đốt cháy. Tất cả các bộ (phái) đều giải thích nghĩa nầy là sân ấy qua đến 3 cõi; tức là câu văn nầy vậy. Câu văn nầy chia làm 4. Hàng đầu tiên làm rõ về loại bị thiêu đốt. Tứ thiền định dụ cho lỗ trống nầy. Tuy chẳng thể cùng ở ngoài cánh cửa, được mở ra; giống như được miễn khỏi ngọn lửa cháy mạnh; tức là khi vào thiền định cũng giống như được miễn nơi các trần xấu ác của dục giới vậy. Lợi sử chúng sanh lại được thiền định. Như quỷ Tỳ Xá Xà lại sống ở trong đó.
Phần “phước đức mỏng manh” có 1 câu; đây là phần thứ 2 khi có lý do để lửa nổi lên. Do thiếu phước đức; cho nên gần với việc xấu ác và gặp khổ.
Vì “lửa thúc bách” gồm 1 câu; đây là phần thứ 3 làm rõ chỗ sức mạnh của lửa khi đã nổi lên. Tuy trong lỗ hang ấy không bị lửa mạnh đốt cháy là dụ cho có nhiệt não. Tứ thiền tuy không phải là dục giới ác, lại vẫn còn vị yêu thương nhỏ nhiệm nên khổ. Cho nên nói là lửa vây bủa.
Từ “cùng với tướng tàn hại” trở đi; phần thứ 4 gồm 2 hàng, làm rõ cái tướng bị thiêu đốt. Làm rõ cái tướng cướp đoạt của lợi độn. Chúng khiến cho chúng sanh được thiền và cũng giống như chỗ tính toán sai khác. Vì chỗ sai khác nầy hỗ tương cho nhau nên không; giống như tướng tàn hại vậy. Liền khi thiền khởi lên mà thấy; tức là chẳng thể sanh nơi vô lậu định huệ được. Hay tự nhiên đắm trước như uống máu. Lại đắm trước nơi ngũ chi như ăn thịt. Giả can chính là sự tham lam nơi dục giới. Vị lai định đã đoạn; cho nên nói cùng với cái chết phía trước rồi. Lại có tên là ăn nhạt. Thiền định mà còn tham lam như thú dữ có thể ăn nuốt như cái tham của dục giới. Dục giới 4 đảo, 8 khổ như lửa cháy mạnh. Sắc giới như tứ đảo và khổ nầy như khói hôi. Lại qua nơi thọ thân, tâm pháp, tứ đại, da thịt v.v... cho nên nói rằng bốn bề đều hôi thối.
Từ “Ngô Công” trở đi; phần thứ 3 có 2 hàng rưỡi kệ; làm rõ trong chỗ không ấy; dụ như vô sắc giới lửa bắt đầu cháy và chia ra làm 2. Hàng đầu tiên làm rõ loại bị thiêu đốt. Sau đó một hàng rưỡi, làm rõ cái tướng bị thiêu đốt. Xa rời sắc giới định, ra khỏi hướng về vô sắc. Xa rời sắc trần cảnh, quán vô sắc pháp, như những loại rắn độc, bị lửa đốt cháy, ra khỏi hang. Nếu như sân thông qua 3 cõi và nếu được vô sắc định thì tất nhiên liền mất nhơn duyên bên dưới. Cho nên nói rằng: Tùy theo sự chấp thủ mà ăn lấy. Phi Tưởng là cõi trời cao hơn, dụ cho việc chẳng trừ khỏi điên đảo và các khổ, như trên đầu, lửa đang cháy vậy. Phi Tưởng lại cũng có 8 loại khổ của lửa đốt. Tâm sanh niệm khác; cho nên gọi là sanh khổ. Niệm niệm chẳng dừng; nên nói là lão khổ. Tâm hay phỏng định lo lắng; nên gọi là bịnh khổ. Ra khỏi định thì chết khổ. Cầu định chẳng được, là cầu chẳng được nên khổ. Cầu định chẳng được, tất nhiên có sự chướng; liền giận dữ nên gặp khổ. Tứ ấm tâm, tức là ngũ thạnh ấm khổ; chẳng thể tức là lìa mất các loại (trời) hữu đảnh. Do vậy mà lửa cháy trên đầu. Không vô lậu; cho nên đói khát, khổ sở. Do phải luân hồi lên xuống.
Từ “nhà nầy như thế” trở đi; phần thứ 4 có 1 hàng. Tổng kết về 3 cõi đều khổ nạn, không riêng một cõi nào. Tụng về tổng dụ rồi; lúc bấy giờ người chủ nhà ở trước cửa đứng đó; phần nầy có 32 hàng kệ rưỡi; tụng phần thứ 2 về biệt dụ. Biệt dụ nầy lại có 4. Nay tụng làm 3. Đầu tiên có 2 hàng rưỡi. Tụng về Trưởng Giả thấy lửa. Kế đến phần 2 có 13 hàng, tụng về việc xả bỏ bàn ghế đồ dùng, xe cộ thí dụ cho lớn nhỏ. Kế phần 3 ấy có 17 hàng. Tụng về việc cho xe lớn. Hai hàng rưỡi đầu tiên tụng về việc thấy lửa có 3 phần. Một là hay thấy; hai là chỗ thấy; ba là khởi lên việc lo sợ. Trong nầy đều tụng hết.
Đầu tiên người chủ nhà trở đi có 3 câu; tức là nói về người có thể thấy. Bên trên làm rõ chỗ thấy và nay nói là nghe. Dùng việc nghe để thấy cho việc thấy. Nghe tức là từ người khác. Kẻ đứng bên ngoài cửa là chính thức tụng về ta bên trên; tuy có thể an ổn ra khỏi chỗ thiêu đốt. Đứng đó nghĩa là ở nơi pháp thân địa thường hay đoái tưởng đến lòng từ, muốn cứu chúng sanh, chẳng phải nơi đệ nhứt nghĩa, ngồi nơi không ấy. Xưa nói rằng: Mười phương lời nói của chư Phật do Đức Thích Ca nói. “Ngươi có duyên với các con ở trong 3 cõi, căn lành sẽ mất”. Lại nói: Chúng sanh cảm nhận được Phật vì căn cơ của người khác. Nay lại nói rằng: Pháp ấy là Thầy của Phật. Nghĩa là 3 pháp vị vậy. Pháp nầy là Thầy; tức là người khác. Nếu vào trong 3 muội tức có thể thấy cơ duyên. Tam Muội ấy làm cho thấy Phật; nên nói là có người nói vậy. Lại nói rằng: Đại bi là người khác v.v...
Từ “Ngươi và các con” trở đi: phần thứ 2 có một hàng và 1 câu; tụng về chỗ thấy lửa.
Hỏi: Người con chưa ra khỏi, do nguyên nhân nào mà vui để vào lại?
Đáp: Hoặc gặp sự phát tâm; gọi là ra khỏi 3 cõi, mà còn trở lại; nên gọi đây là vào. Như người bước chân muốn ra khỏi cửa; liền lại quay ngược. Cho nên nói là đi ra mà còn gọi là trở vào. Lại nữa lý tánh ấy gốc là thanh tịnh; không phải pháp của 3 cõi. Nhơn ấy vô minh; cho nên khởi lên sự hý luận, rồi có sanh tử. Cho nên nói rằng nguyên nhơn trước du hí, lại nhập vào vậy. Việc thiện lớn chưa dính vào; nên lấy tạp nhỏ. Vì vô minh che lấp; nên bị vô trí.
Từ “nghe rồi kinh khiếp vào” trở đi; phần thứ 3 có 2 câu; tụng phần bên trên; tức là lo sợ lớn mà khởi tâm đại bi. Rồi từ “cứu tế” trở đi; phần thứ 2 có 13 hàng là tụng về việc xả bỏ bàn ghế đồ dùng, xe cộ, lại chia làm 2. Đầu tiên có 5 hàng rưỡi, tụng phần bên trên, cứu con chẳng được. Bên trên khai mở thí dụ; trong đó có sự khuyên bảo. Nay hay tụng về sự khuyên bảo ấy. Câu văn khuyên bảo lại có 3. Nay làm rõ ra lại có 3. Đầu tiên 4 hàng rưỡi kệ, tụng phần trên về “ta sẽ nói việc sợ hãi, nghĩ bàn. Kế đến từ “các con vô trí” trở đi; phần 2 có 3 câu; tụng về việc chẳng thọ nhận việc khuyên lơn về đùa giỡn chẳng được. Phần thứ 3 có một câu. Bên trên tụng về việc biến hóa; sau đó mới chỉ bày. Suy nghĩ nói việc lớn. Cái cho biết về thí dụ tức là nói chúng gặp nạn; nên giải bày dạy dỗ. Để chỉ việc nầy có một câu. Phần tụng bên trên về người cha rồi, ý nói từ bỏ cái khổ.
Từ “lúc bấy giờ Trưởng Giả nghĩ rằng” trở đi; phần thứ 2 có 7 hàng kệ rưỡi. Phần tụng bên trên về việc dùng xe, có 4 phần. Một là suy nghĩ về 3 xe; hai là rõ biết về tâm của các con; ba là ca ngợi, tán dương về 3 xe thật là khó có; bốn là nơi lời nguyện của chính các con. Nay tụng đến phần giữa lại có 3 nghĩa. Lược bớt chẳng tụng phần rõ biết trước của các con. Phía trước 3 hàng, tụng về việc suy nghĩ.
Từ “bảo các con rằng” trở đi; phần thứ 2 có 3 kệ khuyến khích, tán thán 3 xe khó có. Bên trên làm rõ chỗ khuyến khích chỉ bày để chứng 3 nghĩa. Nay tụng ấy lại có 3 nghĩa. Tụng chồng lên về việc khuyến khích, thành ra bốn. Hàng đầu tiên tụng về sự khuyến khích. Kế đến nói về xe hươu. Phần thứ 2 có 3 câu tụng về sự chỉ bày.
Tiếp đến từ “các con ra khỏi” trở đi; phần thứ 3 có một câu, lại tụng về sự khuyến khích. Tiếp theo từ “ta vì các ngươi” trở đi; phần thứ 4 nầy có một kệ tụng về sự chứng đạo. Rồi “khai nói như thế nầy về các xe” trở đi; phần thứ 3 có một hàng kệ tụng lại bên trên gồm 6 câu. Chạy khỏi, như tụng bên trên về thấy chân lý. Không địa ấy là tụng về chỗ Vô Học (A La Hán).
Từ “Trưởng Giả thấy con mình ra khỏi nhà” trở đi; phần 3 nầy có 17 hàng kệ. Bên trên tụng phần thứ 3 dụ cho xe lớn cho các con. Câu văn bên trên lại chia ra làm
4. Một là khỏi nạn; hai là xe hư; ba là cho xe lớn; bốn là được xe rồi, sanh ra vui vẻ. Nay tụng ấy lại có 4. Năm hàng đầu tiên tụng về sự khỏi nạn được vui vẻ. Kế đến phần 2 gồm 3 hàng, tụng về sự hư xe. Phần thứ 3 gồm 7 hàng rưỡi, tụng về việc cho. Phần thứ 4 gồm một hàng rưỡi tụng về việc được xe, nên vui mừng. Cuối cùng 5 hàng đầu tụng về việc các con khỏi nạn, lại có 2. Hàng đầu tiên tụng về việc khỏi nạn. Kế đến tự bảo rằng; phần 2 nầy có 4 hàng, tụng về sự vui vẻ.
Ngồi nơi tòa sư tử có 2 lối giải thích. Một là các con ngồi là được ra khỏi 3 cõi; cho nên không sợ. Hai là chỗ ngồi của Trưởng Giả. Trưởng Giả thấy con khỏi nạn; cho nên chẳng sợ hãi nữa. Đầu tiên ở bên phía ngoài cửa; dụ cho sự lo lắng sợ hãi; cho nên bảo là đứng đó. Nay được ra khỏi cửa liền ngồi, không sợ. Do vậy trong phẩm Phương Tiện nói rằng: Nay ta vui, chẳng sợ, khỏi nạn. Qua câu văn ấy mà tự thấy vui. Phần thứ 2 có 4 hàng, tụng về việc Trưởng Giả vui vẻ như câu văn.
Từ “rõ biết người cha ngồi rồi” trở đi; phần thứ 2 nầy có 3 hàng kệ; tụng về 2 chiếc xe hư như câu văn.
Từ “Trưởng Giả giàu có lớn” trở lên; phần thứ 3 có 7 hàng rưỡi; tụng bên trên phần thứ 3 là cho xe lớn. Câu văn trên có 2 chương, 2 rộng và 2 sự giải thích. Hợp lại có 6 việc; nay hay tụng làm 4. Chẳng tụng về tâm rộng rãi; chẳng tụng về lối giải thích. Hàng đầu tiên, tụng phần thứ 4 giải thích về xe lớn. Chỗ che đậy gọi là nhà kho. Chỗ ấy cũng còn gọi là chỗ cất chứa. Nơi đó đầy đủ tất cả pháp; gọi là tạng. Mắt, tai, sáu căn đầy đủ tất cả pháp; gọi là nhà kho v.v...
Kế đến “dùng các loại vật quý” trở đi; phần thứ 2 có 6 hàng kệ tụng; phần thứ 3 nói về xe rộng lớn. Kế tiếp 2 câu tụng và 2 chương về cánh cửa. Dùng cho xe đẹp nầy chỉ một câu. Phần thứ 3 tụng, phần thứ 2 về xe lớn và chương về cửa ra vào; rồi cho các con, trong một câu. Phần thứ 4 tụng về tâm ban đầu và chương về cửa.
Từ “các con lúc ấy vui vẻ lạ thường” trở đi; phần thứ 4 gồm một hàng rưỡi, tụng về việc được xe vui vẻ, đi khắp bốn phương; leo lên huệ trung đạo. Ngang qua 4 cánh cửa của 4 loại chân lý; đạt đến 41 vị, rốt ráo được cái đức của thường, lạc, ngã, tịnh. Cho nên nói rằng: hoan hỷ tự tại.
“Bảo Xá Lợi Phất rằng: ta cũng lại như thế” trở đi; phần thứ 2 có 34 hàng rưỡi, tức là tụng về tất cả các thí dụ vậy. Bốn hàng đầu tụng về hợp tổng dụ, gồm cả 4 ý và kiêm luôn 6 thí dụ. “Ta cũng như vậy” gồm một hàng, tụng chung về Trưởng Giả; nửa hàng bên trên tụng về hợp vị hiệu. Nửa hàng bên dưới tụng về hợp danh hạnh, kiêm luôn ý nghĩa tán thán về cái đức, bảy loại phương tiện hiền thánh trung tôn. Chín loại người cha của thế gian. Tất cả chúng sanh đều là con của ta gồm 1 kệ; tụng hợp lại 5 đạo; nghĩa ấy kiêm luôn 30 người con. 30 người con ấy là con của nhơn và duyên. Tất cả chúng sanh, tức là những đứa con có nguyên nhơn chính thức.
Tam giới chẳng an gồm nửa câu kệ. Tụng về nhà cửa và kiêm luôn ý nghĩa chỉ có một cánh cửa. Các sự khổ đầy dẫy gồm 1 câu kệ rưỡi; tụng hợp lại việc lửa đốt cháy. Hợp tổng dụ xong rồi.
Từ “Như Lai đã lìa khỏi nhà lửa của 3 cõi” trở đi gồm 30 hàng rưỡi; phần thứ 2 tụng hợp lại phần biệt dụ. Bên trên tụng về việc mở bày; chẳng phải chẳng hư. Nay tụng hợp lại, tức là có. Ba kệ đầu tiên tụng về việc thấy chúng sanh vì sanh già v.v... hợp lại thấy lửa là một thí dụ. Câu văn bên trên tụng về thí dụ thấy lửa có 3. Nay hợp lại cũng có 3. Câu kệ đầu tiên tụng bên trên về “Như Lai hay thấy”. Chính là do ở chốn yên tĩnh; nên hay thấy các con trong ngũ trược vậy; tức là hợp lại nghe có người nói.
Kế đến từ “nay 3 cõi nầy” trở đi; phần thứ 2 có một hàng rưỡi; bên trên tụng về chỗ thấy chúng sanh, vì sanh, già, bệnh, chết mà bị thiêu đốt; hợp lại phần 2 để dụ cho chỗ thấy lửa. Từ “chỉ có ta một người” trở đi; phần thứ 3 gồm nửa hàng kệ; tụng bên trên về việc Phật thấy điều nầy rồi, liền suy nghĩ rằng: Thật khủng khiếp khi vào trong nhà lửa. Rồi lại dạy rằng: Phần thứ 2 gồm 4 hàng, tụng về việc xả bỏ đồ dùng, dụ cho xe và chia ra làm 2. Một hàng đầu tiên tụng về việc xả bỏ đồ đạc nầy. Bên trên khai mở thí dụ có 3. Nghĩ nói với những người thiếu cơ duyên. Nay một bài kệ nầy lại có 3 ý. Thường là tổng lược; rồi lại chỉ bày gồm một câu. Tụng về việc nghĩ lại, mà chẳng tin nhận, gồm một câu. Tụng về những kẻ chẳng có cơ duyên, gồm lại 2 câu tụng về việc tiêu mất nầy. Hoặc có thể bên dưới, 2 câu tụng về người chẳng căn cơ nầy vậy. Về việc tham trước, đắm nhiễm – bên trên tụng về những người chưa khỏi sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, não v.v... thì đây là phương tiện. Phần thứ 2 có 3 câu kệ. Tụng về việc hợp lại dùng xe để cứu con được, là một thí dụ. Câu văn bên trên có 4. Nay hay tụng làm 3. Hợp lại cũng làm 3. Lược bớt chẳng hợp, rõ biết tâm của con trước tiên. Đầu tiên dùng phương tiện gồm một câu. Phần tụng bên trên hay dùng trí tuệ phương tiện và muốn nghĩ lại.
Từ “vì nói 3 thừa” trở đi; phần thứ 2 có một hàng, một câu. Tụng hợp lại bên trên, phần thứ 3 ca ngợi về 3 xe thật khó có. Rồi từ “những đứa con” trở đi; phần thứ 3 gồm một hàng rưỡi, tụng hợp lại phần thứ 4 đúng với chỗ nguyện. Phía bên trên hợp với 3 thừa; mỗi mỗi đều có 4 câu. Nay tức là tổng tụng. Nếu tâm quyết định thì từ khổ pháp nhẫn rồi, bên trên là quyết định đúng. Phần nầy có một câu. Tổng tụng 3 thừa để đến vị. Sau đó phần phía dưới, đầy đủ gồm một hàng. Mỗi mỗi tụng 3 thừa riêng ra khỏi vị.
Từ “Nầy Xá Lợi Phất! Ta vì” trở đi; phần thứ 3 có 8 hàng. Tụng hợp phần thứ 3 dụ về việc cho xe lớn. Trường Hàng (câu văn dài) chẳng hợp với xe hư, cùng với sự hoan hỷ. Tụng khai; tức là tụng đầy đủ. Nay hợp lại để cho, vui vẻ; chẳng hợp với khỏi nạn, xe xấu. Chạy khỏi, cuối cùng thành ra có 2 câu văn; lại chia ra làm 2. Năm hàng đầu tụng về việc hợp lại cho. Sau đó 3 hàng, tụng về sự hoan hỷ. Bên trên hợp lại cho có 4; chẳng tụng 2 phần nầy. Nay hợp lại, lại lược bớt. Hay hợp 2 chương về cánh cửa và với chiếc xe to lớn thứ 3. Lại tụng về giải thích nguyên do có xe.
Đầu tiên “ngươi Xá Lợi Phất” trở đi gồm có một hàng. Trước tiên tụng về xe lớn và chương nói về cánh cửa. Câu văn trên do chư Phật thiền định. Kế đến “các con nếu có thể” trở đi; phần 2 có 1 hàng; tụng hợp lại với tâm và chương về cánh cửa.
Bên trên nói về chúng sanh thoát ra khỏi 3 cõi. Kế đến là nói về Thừa (cỗ xe) vi diệu. Phần thứ 3 có 2 hàng; tụng về hợp và chính thức nói về chiếc xe rộng lớn. Bên trên nói tất cả đều cùng một tướng, một loại. Kế đó là vô lượng ức thiên các lực giải thoát. Phần thứ 2 nầy có 3 bài kệ. Tụng về việc được xe hoan hỷ. Tựu chung việc nầy lại có 2. Hai câu kệ đầu tiên làm rõ mỗi mỗi đều được xe lớn. Sau đó dùng nhơn duyên nầy. Phần 2 nầy có 1 kệ và kết lại khuyến khích nên tin. Nay 2 câu kệ đầu nầy nói về ngày đêm. Ban đầu được Phật tri kiến, dùng trí trung đạo thì ánh sáng như một phần của mặt trời. Vô minh ở trong đêm tối. Còn tự chứng được trí trung đạo thì như mặt trời. Từ bi đi vào sanh tử như đêm tối. Thường thực hành 2 pháp ấy; cho nên nói là du hý. Người vào Tam Thừa cùng nhập vào Phật trí. Cho nên nói rằng cùng với các vị Bồ Tát và chúng Thanh Văn. Lại nữa điều nầy làm rõ cho việc tự hành và hóa tha. Tự nhận thừa nầy; cho nên ngày đêm vui chơi. Dùng sự hóa tha nầy; cho nên nói rằng cùng với Bồ Tát và chúng Thanh Văn, hay hóa Tam Thừa và cùng lên thừa (xe) quý báu ấy.
Kế đến một kệ nói về một thừa, chẳng có 3 nhơn duyên. Đối với 10 phương quốc độ, thật ra chỉ cầu một chứ không có 2. Trừ khi chư Phật phương tiện, liền nói chẳng theo lời. Nói rằng: Bồ Tát nếu chẳng hư xe thì vì nhân duyên gì mà vui vẻ về xe?
Từ “bảo Xá Lợi Phất, ngươi cùng với các người” trở đi; phần thứ 4 có 15 hàng kệ rưỡi; tụng bên trên phần thứ 4, hợp lại thí dụ chẳng hư vọng. Bên trên hợp lại có
2. Đầu tiên đưa ra 2 thí dụ; sau đó hợp lại chẳng hư vọng. Nay thường tụng hợp sự chẳng hy vọng, câu văn lại chia làm 2. Ba hàng rưỡi đầu chính thức tụng về hợp, chẳng hư vọng và chương về cánh cửa. Tiếp theo “nếu có Bồ Tát” trở đi; phần thứ 2 có 12 kệ; tụng về hợp lại sự giải thích chẳng hề hư vọng. Thân Tử (Xá Lợi Phất) gọi bản tâm nầy dụ cho việc chẳng hư vọng. Người cha vốn muốn làm cho con được ra khỏi; cho nên mới muốn cho 3 xe, mà khi khỏi nạn rồi, cho đến chẳng cho xe nhỏ, lại chẳng trái với tâm trước. Cho nên noí là chẳng hư vọng. Phật tụng về thí dụ nầy tức là làm rõ chỗ chẳng hư vọng; làm rõ được bản hoài của chư Phật; tức là muốn nói một (thừa) mà vì ngũ trược; nên chẳng chịu tin nhận. Do vậy mà nói rằng 3 trược chướng, rồi liền trở lại nói một lớn; tức là muốn ca ngợi về bản tâm vậy. Nay chương đầu tiên nói về cánh cửa lại chia làm 3. Hàng đầu tiên, định rõ về cha con, làm rõ ý muốn chính là to lớn. Cho nên nói rằng: Tất cả đều là con ta. Cái lý ấy bình đẳng với việc lớn.
Kế đến từ “các ngươi” trở đi; phần thứ 2 có một câu kệ làm rõ chỗ nói về 3 thừa, ý là trừ những chướng (ngại). Cho nên nói rằng các ngươi từ xưa các chỗ ấy vây chặt. Kế đến “ta duy nhất, trước tiên” trở đi; phần 3 nầy có một hàng rưỡi nói về chướng ấy trừ rồi, trở lại bản tâm và pháp Đại Thừa (xe lớn). Cho nên nói rằng: nay chỗ tạo tác ấy chỉ có trí tuệ Phật mà thôi. Từ “nếu có Bồ Tát” trở đi; phần thứ 2 có 12 hàng, tụng về hợp lại giải thích 3 ý trước kia. Hai bài kệ đầu, giải thích giống nhau; tất cả là con ta. Lý nầy được bình đẳng.
Kế đến từ “nếu người trí nhỏ” trở đi; phần thứ 2 có 7 bài kệ. Giải thích việc chẳng thể thọ nhận; cho nên nói 3 thừa. Kế đến từ “sự thật nầy chưa” trở đi; phần thứ 3 có 3 câu kệ; giải thích việc sau đó nếu trở lại với việc lớn. Nay 2 hàng đầu nói: Nếu có Bồ Tát dùng phương tiện 3 Thừa để hóa độ chúng sanh. Tất cả từ xưa nay vẫn là những Phật Tử cùng kết duyên với nhau. Tất cả cũng lại cùng giống nhau về chơn như Phật tánh. Cho nên nói rằng: tất cả đều là Bồ Tát vậy. Từ “nếu có người trí nhỏ” trở đi; phần thứ 2 có 7 hàng làm rõ kẻ trí nhỏ là chướng nặng, chẳng thể tin thọ được. Vì đó mà dùng phương tiện để khai mở ra 3 mà tiếp dẫn. Kẻ trí nhỏ, dùng khổ đế để nói. Thanh Văn đối với 3 thừa thật quá nhỏ. Lại nữa khổ đế là cửa ngõ đầu tiên. Khi chúng sanh tâm hoan hỷ thì gọi đây là có căn bản lâu đời; cho nên vui. Cái gốc ấy là chán sanh tử và tự cầu Niết Bàn. Nay nghe được ra khỏi; nên liền hội họp vui vẻ. Ở trong nầy chính thức làm sáng tỏ việc tạo tác của Tứ Đế, hằng lìa hư vọng. Vô minh thực ra chẳng thật, qua hoặc giúp vào; nên vô minh mới khởi lên. Cho nên nói: vì đó mà hư vọng. Tạo tác của Tứ Đế mà loại trừ được hoặc nầy thì gọi là giải thoát. Thoát đây là ra khỏi từng phần; phần chưa ra khỏi thì trở nên dễ hơn; cho nên chưa tự tại được.
Từ “sự thật nầy chưa được” trở đi; phần thứ 3 có 3 câu kệ, giải thích về những chướng nạn khi tiêu trừ thì gốc gác của tình cảm lại trở lại theo đuổi bản tâm và pháp Đại Thừa. Phật vốn muốn cùng tất cả được giải thoát. Nay ngươi bắt đầu dứt từng phần, không phải là Đại Niết Bàn; với điều nầy chưa được tất cả vậy. Cuối cùng chưa thể gọi là bổn tâm. Cho nên nói rằng: ý ta chẳng muốn làm cho đến diệt độ; nay liền quay lại, làm cho được vô thượng đạo, nhập vào Đại Niết Bàn. Cho đến rốt ráo, gọi là bản hoài của chư Phật. Tất cả giải thoát tức là chẳng tạo ra Diệt Đế. Vô thượng đạo tức là chẳng tạo Đạo Đế. Dùng nhị đế để phá vô tác khổ đế. Ngày xưa muốn nói điều nầy, chúng sanh chẳng thể kham nổi. Chướng ấy khi đã trừ rồi, liền trở lại nói điều nầy. Phật làm vị Pháp Vương, đối với các vị quyền thật, đều được tự tại. Khai tam nhưng hiểu một thật; há lại có sự hư vọng sao?
Từ “Ngươi Xá Lợi Phất! Ta ấn cho pháp nầy” trở đi; phần thứ 2 có 65 hàng kệ để khuyến tính lưu thông. Kẻ tin thì tin Phật nói và chẳng nói. Còn khuyến tấn nghĩa là khuyên có thể thông qua chuyện không thể thông. Điều nầy có 2 nghĩa; cho nên nói là khuyến tin. Câu văn nầy chia ra làm 2. Một là tiêu đề của 2 chương. Hai là giải thích. Hàng đầu tiên của tiêu đề là nói và chẳng nói. Như Lai nói pháp ấn nầy, là vì sự lợi ích của thế gian, cho nên mới nói. Chẳng nói có nghĩa là hơn 40 năm ấy chưa hề nói lần nào. 5.000 lần chưa đi khỏi, cho nên nói là chẳng nói.
Kế tiếp từ “từ đây đến kia” trở đi gồm nửa hàng. Tiêu đề chẳng thể thông; cho nên chương ấy cũng chẳng thể thông; chớ có vọng nói tuyên truyền. Kẻ ác nương đây nói thêm; khiến cho rơi vào khốn khổ. Kẻ lành chẳng nói điều sai quấy, mất vui. Nếu đại bi mẫn ác; tức chẳng làm cho thông. Nếu đại bi mẫn thiện; tức có thể làm cho thông. Đây gọi là tiêu đề có thể thông và chẳng thể thông.
Từ “nếu có nghe” thuộc về giải thích phần 2, lại có 2 phần. Đầu tiên 8 hàng, giải thích về việc có thể nói và chẳng thể nói. Phần thứ 2 có 50 hàng rưỡi, giải thích về việc có thể thông và chẳng thể thông. Nay 8 hàng đầu làm rõ tướng của Như Lai làm lợi ích thế gian. Thông ấy luận về sự lợi ích của 3 đời. Biệt ấy luận làm cho nhị thừa đi vào lòng tin. Tứ A Súc Bệ (Phật) cho đến quán sát sự lợi ích trong hiện tại. Hội kiến nghĩa là quan sát quá khứ lành để nói. Tin ngươi, nên ta xem vị lai thiện mà nói vậy.
Câu văn phía dưới nói rằng: Nếu tin tưởng sâu xa giải bày thì thấy Phật thường ở Linh Thứu, là ở nghĩa nầy chính trong kinh Pháp Hoa cũng có lần khai mở như vậy. Như Lai quán rõ biết sự lợi ích của 3 đời; cho nên mới nói. Kẻ trí mỏng chẳng thể hiểu; nên chẳng nói làm gì. Sự giải thích nầy Như Lai nói và chẳng nói.
Từ “kiêu mạn giải đãi” trở đi giải thích về người thực hành thông hoặc chẳng thông; chương nầy lại chia làm 2. Đầu tiên 36 hàng rưỡi minh chứng rằng: Nếu dùng tâm đại bi thì cánh cửa chưa vì người ác mà nói. Đầu tiên chỉ ra những lần ác. Tất nhiên sẽ gợi lên lời ác hủy báng, rơi vào quả báo ác. Cho nên đại bi chẳng thể nói, làm mất giống Phật ở thế gian. Tên riêng là lấy phiền não làm hạt giống của Như Lai, rồi chấp giữ vào cảnh giới tánh nầy. Trong Đại Phẩm dùng tất cả chủng trí để rõ biết Bát Nhã. Ở đây chấp giữ vào nhơn tánh thuần thục nầy để làm giống Phật. Niết Bàn dùng tâm còn tánh lý thì chẳng dứt. Điều nầy chấp giữ vào chánh nhơn tánh làm giống Phật. Nay kinh lại làm rõ việc nhỏ ít thành Phật. Đây là chấp vào nhơn duyên làm hạt giống Phật. Nếu chẳng tin việc lành nhỏ thành Phật thì liền đoạn Phật chủng của thế gian.
Từ “nếu có lợi căn” trở đi gồm 19 hàng giải thích về sự hoằng truyền kinh điển thì dùng cửa đại bi, vì lành đó mà nói, làm cho chẳng mất đi niềm vui. Phàm là sự hoằng truyền làm cho thông qua việc cần yếu, hòa 2 cửa lại, làm cho điều nầy có thể lành lưu thông riêng ra. Nếu chẳng được như vậy là vọng tưởng tuyên truyền. Câu văn nầy lại chia ra làm 2. Đầu tiên 17 hàng, có 5 cặp 10 cặp có tướng người lành, có thể nói được và hai hàng sau đó tổng kết về việc có thể nói. Đầu tiên thuộc quá (khứ) và hiện (tại) có một cặp. Lợi căn là hiện tại. Trồng việc lành tức là quá khứ. Sự rõ biết mạnh, tức là hiện tại. Thấy 5.000 là quá khứ. Hai là trên, dưới một cặp. Tu từ tức là có sự thương yêu. Cung kính là tôn trọng bề trên. Ba là trong ngoài gồm một cặp. Bỏ ác gần lành là ngoại cầu. Giữ giới như của báu là nội bộ. Bốn là tự hành hóa tha là một cặp. Chất trực kính Phật là tự hành; thí dụ thuyết pháp là hóa tha. Năm là trước sau làm một cặp. Bốn phương cầu pháp, thỉnh việc lợi ích là đầu. Đảnh thọ, chuyên tu là quy về nương tựa v.v...
Từ “bảo Xá Lợi Phất” trở đi gồm 2 hàng là tổng kết. Lòng tin thật nhiều, lược nói chỉ 10 tướng, để chỉ bày phương pháp lưu thông. Hiển từ bi cả 2 cánh cửa, có thể thông và chẳng thể thông là đại ý vậy. Giải thích về phẩm Tín Giải
Có người nói rằng: Tín giải gồm 3 pháp. Nghĩa
thứ nhứt là vãng hóa tùy theo hóa cảnh hóa. Ngày xưa nói sự to lớn ấy là một vãng. Sau này nói là tùy theo. Cha con gặp nhau tức là rốt ráo. Lại nói rằng: người, trời lành là một vãng. Nói Tiểu Thừa nhỏ nhiệm, Pháp Hoa là tùy theo. Nói Pháp Hoa được thọ ký là rốt ráo. Lại nói: đầu tiên nói Nhị Thừa làm một vãng. Chuyển đổi dạy dỗ lấy đó làm chỗ theo. Pháp Hoa làm chỗ rốt ráo. Lại nói chuyển giáo là một vãng. Qua Phương Đẳng lấy đó làm theo. Ngộ nhứt thừa, lấy đó làm rốt ráo. Lại nói Pháp Hoa làm một vãng. Thập Địa thường giáo hóa làm chỗ nương theo. Cho đến tâm Kim Cang làm cứu cánh. Lại kết với Tăng Na làm một vãng. Trung gian là sự theo đuổi. Được Phật là rốt ráo. Giải riêng từng phần giống như ngọc chẳng thấy quý. Phàm là một vãng (một lần trở lại) thì chẳng phải là bổn hoài. Cứu cánh là tông cực. Nói người, trời Nhị Thừa là một vãng. Có thể chẳng phải là bổn hoài. Ngày xưa nói về lớn; nay lại nói về Pháp Hoa. Cá biệt là rốt ráo, phần kia gọi là một vãng.
Nếu Pháp Hoa rốt ráo mà liền thành một vãng, thì người, trời một vãng lại trở thành rốt ráo. Tức là điên đảo lớn. Lại nữa Nhị Thừa là một vãng, thảo am liền bị phá. Ngày xưa lớn ấy là một vãng. Trói buộc châu báu lại bị đập phá. Nếu một phá một mà chẳng phá thì một ấy là một vãng, một phi và một vãng. Lại nữa cha con gặp nhau là rốt ráo. Trước khi rốt ráo, rõ biết về một. Tức là sau đó cứu cánh chẳng còn dùng lại nữa. Nếu sau rốt ráo mà ngộ một, trước rốt ráo chẳng rốt ráo thì mỗi mỗi có hại; nay tất cả đều chẳng dùng. Có người nói rằng: Phẩm nầy là Tích. Thế nào là Như Lai đã thành đạo từ lâu xa cho đến khoảng giữa dừng lại, lại là Tích sao ? Cái nghĩa lý riêng tư nầy là do tại câu văn chẳng rõ ràng. Sao Phật lại chưa nói bổn tích, nào hay dự lãnh. Nếu như gặp được 3 thì ngộ một v.v...
Nay giải thích phẩm nầy. Phàm là căn thì có lợi độn; hoặc thì có dày mỏng. Nói thì có pháp dụ và ngộ thì có trước sau. Trước thời Pháp Hoa giống như đậu nành. Câu văn nói rằng: Như Lai thuyết pháp lâu dài, còn ta thì ngồi đó thân thể mệt mỏi, tâm lười biếng. Ban đầu nghe nói gọn, động loạn sanh nghi. Khi nghe rộng rồi, 5 vị Phật cũng còn mông lung chưa sáng tỏ. Nay nghe thí dụ lấy làm hoan hỷ lạ thường. Niềm tin phát triển, giải bày thêm ra; nghi ngờ tiêu mất, lý mầu sáng tỏ. Hoan hỷ là thế giới. Niềm tin phát sanh là làm người. Nghi ngờ mất khỏi là đối trị. Lý lẽ được sáng tỏ là nghĩa đệ nhứt. Dùng nhơn duyên nầy; cho nên nói là phẩm Tín Giải. Từ nhỏ kia hay giáo lớn. Ban đầu ngăn chia phàm thành thánh; mỗi mỗi đều có thứ vị. Phàm là Tiểu Thừa thì tín hạnh từ nghe mà sanh giải. Khổ nhẫn làm sáng tỏ chỗ phát tín tâm; cho nên gọi là hành. Pháp hành trải qua pháp quan sát. Khổ nhẫn làm sáng tỏ nơi pháp phát sanh, gọi là hành. Nếu người tín hành chuyển nhập tu đạo; chuyển ấy gọi là Tín Giải. Pháp hành nhơn vào tu đạo; chuyển ấy gọi là kiến đắc. Lúc nhỏ mong lớn lại đều như điều nầy.
Người trung căn nghe nói về thí dụ, đầu tiên là phá trừ nghi hoặc, vào Đại Thừa thấy đạo; cho nên nói là tín. Tiến nhập vào Đại Thừa tu đạo; cho nên gọi là giải. Câu văn lại nói: Nhiều loại quý giá tụ lại, chẳng cầu mà được. Chúng ta ngày nay thật nghe được điều nầy. Dùng sự nghe nơi Phật đạo, làm cho tất cả được nghe. Nghe đầy đủ và nhập vào viên vị; cho nên gọi là Tín Giải phẩm. Bổn Tích ấy là bốn đại đệ tử đã từ lâu vào nơi Đại Thừa và thành tựu Phật Pháp. Tích ấy dẫn dụ cho những người trung căn, chỉ bày chỗ tin hiểu ban đầu. Cho nên gọi là phẩm Tín Giải. Đây là đoạn lành giải. Gần là lãnh lấy nhà lửa và xa là lãnh lấy phương tiện. Câu văn lại chia làm 2. Một là trải qua ngôi nhà hoan hỷ; hai là bạch Phật để tự trần. Trước là thuần thục nội tâm; kế tiếp là thuần thục sự tôn kính bên ngoài. Lành tốt riêng xưng là Huệ Mệnh. Ba người Ma Ha là thông suốt về luận. Tất cả đều là đại huệ. Biệt luận Thiện Kiết (Tu Bồ Đề) giải không và lấy không huệ làm mệnh. Đây là thuộc về hành. Trong những vị có huệ ấy thì Phật huệ là đệ nhứt. Phật ở nơi Bát Nhã dùng mệnh nầy để chuyển đổi, giáo hóa. Những người huệ mệnh nầy thuộc về mệnh; cho nên gọi là huệ mệnh. Ba là những đệ tử bị bệnh thiểu; nên chẳng dùng không để thực hành tông chỉ. Điều nầy gọi là giáo vậy.
Ma Ha như trước đã nói v.v... Được niềm vui là do xa nghe phương tiện về 5 đoạn thuyết pháp. Trải qua nơi ngôi nhà hay nghe thuần thục, pháp hy hữu, nghe về 2 loại thọ ký. Hoặc có thể nghe pháp hy hữu thuần thục bốn giai đoạn về việc thấy thọ ký, là đoạn thứ 5. Đây là lý do như từ xưa đã nghe thấy điều nầy; nhưng chưa từng có sự hoan hỷ.
Phát tâm hy hữu nghĩa là gần gũi, thuần thục nghe thí dụ nói 4 lần; nên tâm ly hữu phát. Tâm phát cho nên gọi là tín. Dùng sự tin tưởng cho nên nhập vào hoan hỷ vị; tức là ý nói về phẩm Tín Giải.
Từ chỗ ngồi đứng dậy là bên ngoài có chỗ thuần thục cung kính như câu văn. Thí dụ như Thân Tử (Xá Lợi Phất) lại cũng ứng với 3 nghiệp lãnh giải; chuẩn bị cho phía trước có thể giải, rồi bạch Phật, miệng tự nói tự trần. Câu văn nầy chia làm 2. Đầu tiên là Trường Hàng và có 73 câu kệ rưỡi, chánh thức trình bày; nên được giải rõ. Kế đến 13 câu kệ tán thán ân sâu của Phật. Lời giải nầy là do Phật cho nên trước là trần tình, kế đến là ca ngợi. Trường Hàng lại có 2. Đầu tiên là lược nói pháp; thứ hai là dụ nói rộng ra. Lược nói lại có 2 pháp; nói lược cùng với thí dụ. Thuyết pháp ấy lại có 2. Đầu tiên làm rõ chỗ xưa kia là 3, mà chẳng cầu. Hai là làm rõ chỗ nay tự gặp được một. Trong việc chẳng cầu ứng ấy lại có tiêu đề và có giải thích. Tiêu đề ấy chia ra làm 3. Một là Cư Tăng Thủ; hai là tục Niên Ngộ; ba là chẳng đắc.
Đầu tiên Cư Tăng Thủ nghĩa là Pháp của ta lạp cao, miễn học và lấy ta làm chỗ dựa. Cho đến việc thay đổi dễ dàng bỏ nhỏ cầu lớn. Vì đời sau mà ngờ vực. Tự kiên định giúp kia; cho nên chẳng cầu. Hai là tục niên dĩ ngộ. Nghĩa là nếu Bồ Tát thì chuyên có trách nhiệm cứu độ chúng sanh nơi con đường lớn. Nay già khô rồi, không có chỗ tín nhiệm; cho nên nói là chẳng cầu. Thứ 3 là chứng được Niết Bàn. Vô vi chánh vị chẳng thể phát tâm lớn. Trên cao nguyên lục địa chẳng sanh hoa sen. Tận vô sanh trí đã lập, không có chỗ nương cầu. Vì sao vậy ? Giải nghĩa về 3 việc chẳng cầu ấy câu văn chẳng theo thứ tự.
Trước tiên giải thích về việc được Niết Bàn chẳng cầu. Kế đến giải thích Niên Ngộ rồi kiêm luôn Tăng Thủ; hoặc chỉ theo thuyết pháp xưa; tức là tâm dài lâu chẳng hỷ lạc. Giải thích về Cư Tăng Thủ chẳng cầu, lại nói tại chỗ ngồi, rồi được đạo ở tuổi già. Rõ biết về Tăng Thủ là giải thích về chẳng cầu như câu văn.
Từ “chúng ta nay ở trước Phật” trở đi, do lý do giải bày được. Do xa nghe về 5 chương, lược bớt chỗ rộng, mở bày 3 để hiển thật. Cho nên gọi là khánh hạnh. Hoạch đại thiện lợi là chính thức trần tình được giải bày. Là gần gũi nghe 4 lần về pháp thí dụ hy hữu mà được khai ngộ. Khai ngộ việc lợi lành vậy.
Từ “vô lượng trân bảo” trở đi,; phần thứ 2 là lược nói về thí dụ. Dụ ấy ngày xưa chẳng cầu, mà nay lại tự được pháp hy hữu quý báu ấy.
Từ “Thế Tôn! Chúng con vui nói thí dụ” trở đi là giải rộng phần lãnh giải có khai và hợp với thí dụ. Muốn khai trước phải hỏi ra v.v... Dụ ấy lại có 5.
Một là từ “Bỏ cha để trốn đi” trở đi gọi là thí dụ về sự thất lạc giữa cha con. Gần lãnh nhà lửa là tổng dụ. Xa lãnh phương tiện, lược tụng.
Hai là từ “công tử bị trách” trở đi gọi là dụ về sự gặp gỡ giữa cha con. Gần với nhà lửa nên thấy lửa. Ở xa thì dùng phương tiện ta dùng Phật nhãn để thấy.
Ba là từ “người bên cạnh chạy mau đến rồi trở lại” trở đi, gọi là thí dụ về sự truy tầm. Gần với nhà lửa, xả bỏ bàn ghế, dụng cụ, xe cộ. Xa thì phương tiện lấy lớn cho nhỏ.
Bốn là từ “từ đây trở đi tâm hay sinh thể tín” là thí dụ về việc ủy thác gia nhập cho con. Đây chẳng phải là gần xa mà là cái ý chuyển giáo nơi Đại Phẩm về cách cho.
Năm là từ “trải qua thời gian trước, người cha rõ biết con” trở đi; đây là thí dụ về việc phụ lo cho gia nhập. Gần với nhà lửa; nên cho một xe lớn. Xa rời thuyết pháp, ngay thẳng xả bỏ phương tiện.
Lại hợp với phần 4 và phần 5, cùng với 1, có thí dụ phụ. Phía dưới lại làm sáng tỏ cho ý nầy. Ngày xưa sách Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật để ví cho Trưởng Giả; nay thì không còn dùng nữa. Tây Phương Phật là một duyên riêng biệt khác. Phật riêng biệt ấy ở nghĩa ẩn và hiểu chẳng thành tựu. Duyên ấy khác; cho nên cái nghĩa của cha con chẳng thành. Lại nữa kinh nầy trước sau hoàn toàn không có; điều nầy chỉ như nhắm mắt xâu kim. Nay nương vào câu văn để phụ nghĩa. Nếu giải thích về cùng tử thì dùng người nhị thừa gồm nửa chữ pháp làm tiêu đề cho câu văn.
Nếu giải thích Trưởng Giả là vị Lô Xá Na Phật đã đầy đủ pháp môn, thì câu văn không cần nữa. Sao Trưởng Giả lại ở trong nhà, rồi thoát ra khỏi anh lạc và dính mắc vào áo quần. Nương vào châu báu có sự khác biệt với người; chỉ là một. Dụ về Đức Lô Xá Na Phật là ẩn vô lượng thần đức, thị hiện ánh sáng sáu trượng, giữ gìn đồ bẩn, để giả sử cho 3 thừa giáo. Sự ẩn hiển ấy có đặc thù sao cần phải liên hệ với thể khác ? Xá Na ra khỏi chỗ dính mắc, gần với nơi cao sao lại chẳng rõ ? Di Đà ở xa sao lại biến đổi được v.v...
Cha con mất nhau; câu văn thí dụ nầy có 4. Thứ nhất khi người con bỏ đi, người cha chạy theo. Thứ hai người cha tìm con dừng lại. Thứ ba người con gặp lại gốc gác. Thứ tư người cha lo lắng suy nghĩ. Bốn giai đoạn ấy mỗi mỗi đều có 2.
Đầu tiên là sự bỏ đi và người cha tìm cầu. Trong nầy tổng thí dụ cho 500 người. Ngày xưa nối kết với Đại Thừa làm cha con. Tìm kiếm, lại thất lạc trôi nổi trong 5 đường; cho nên nói rằng: 10, 20 cho đến 50 tuổi. Qua hình bóng Phật, người con nầy rất là yếu đuối; cho nên nói rằng ấu trỉ. Đã chẳng kết duyên với cõi nầy; cho nên nói rằng: Ở lâu tại nước kia.
Hai là hướng đến gốc gác để trở về. Tổng thí dụ cho 30 người con. Duyên nầy là có sự dính mắc vi tế; cho nên nói là lâu lắm. Duyên ấy trải qua sự khổ nạn; liên quan với lòng từ bi của Phật; cho nên nói rằng gặp gỡ rồi trở lại quê xưa.
Người cha tìm con rồi dừng lại cũng có 2 phần. Một là người cha tìm cầu con chẳng được. Trong nầy tổng thí dụ về vị Trưởng Giả. Từ chúng sanh trải qua không biết bao lâu sau đó, cơ hội gặp lại nhau vẫn chưa được; cho nên nói rằng không được. Hai người cùng ở trong một thành. Ngôi nhà nầy tổng dụ cho ngôi nhà mà ông giàu có ở. Trong đó dụ ông Trưởng Giả đức nghiệp trong ngoài của cải quá nhiều. Khi người con đến ở nơi thành của cha cũng chia làm 2. Một là lý do đến thành. Khi đến, thấy cảnh lửa cháy khổ sở nên sầu não. Từ đó thối chí lớn, muốn quay về. Trải qua nhiều nơi khác nhau nếm đủ mùi cay đắng. Thứ hai là theo cha về thành. Vì sự khổ ấy là cơ hội để thấm lòng đại bi; cho nên theo đến nơi thành của người cha. Người cha nầy mừng vui lo rầu cũng có 2. Một là nhớ lại việc mất con; nên khổ. Hai là nhớ đến việc được lại con; nên vui. Trong tổng dụ nầy chỉ có một cánh cửa. Người con còn bé nên ở trong nhà; khiến cho người cha lo rầu. Nguyên thủy cửa nhà nầy mở; cho nên người cha vui mừng. Theo câu văn thì đầu tiên đứa con quay lưng và người cha chạy đi tìm. Việc nầy lại có 2. Đầu tiên thí dụ như có người. Rồi 20 người con dụ cho người theo hai thừa. Địa vị Bồ Tát khó rõ thực hành, huống hồ là chuyện nhỏ có thể lãnh thọ. Tuổi nhỏ tức là còn thơ. Xưa nói rằng: nghe pháp ít tức là ấu trỉ. Nếu như vậy, câu văn bên dưới nói dài lớn là ứng hợp với việc nghe pháp nhiều. Nay vì vô minh đầy dẫy che lấp tâm giải bày; tâm ấy không có khả năng giải đáp; cho nên nói là ấu trỉ. Căn lành huân tập nơi kia một ít dục nhiễm và gọi đây là trường đại. Xa lìa người cha trốn đi là bỏ cái lớn; nên gọi là xả. Vô minh che khuất nên nói là chạy trốn. Lấy chỗ sanh tử làm chỗ đi không trở lại.
Hỏi: Rời Phật và sau đó chúng sanh khởi lên hoặc. Còn đây là người cha nầy lìa con; chứ đâu phải người con nầy lìa bỏ cha ?
Đáp: Do chúng sanh chẳng cảm Phật, nên mới không còn trên đời. Trở thành người con tự bỏ cha trong nghĩa nầy và ở lâu tại xứ người. Niết Bàn pháp giới là nước của Phật; còn sanh tử ngũ dục là nước của kia. Muốn cầu ra khỏi mà bị rơi chìm, chẳng thể trở lại được; nên nói là ở lâu. Hoặc trong 10 cõi trời; 20 cõi loài người; 50 trong 5 đường. Cho nên một con người phải chạy quanh trong nhiều đường đó và gọi là lâu dài. Hai là hướng về quê hương mà trở lại. Chữ ấu nầy có 2 nghĩa. Nghĩa thứ nhất là vì si mê nên hẹp hòi, nhỏ nhặt. Thứ hai là chưa gặp khổ; nên chưa biết trở về. Thí dụ về kết duyên là sau nầy. Chỗ khác giải rằng: Vì còn nông cạn, ngu si; nên chưa quay về. Lại có phước mỏng; cho nên bị chìm; do vậy chưa quay về. Nay nghiệp lực huân tập vào chỗ tối tăm và đã rõ đường về. Gặp khổ, mất vui mới nhớ nghĩ, tìm cầu ra khỏi nơi nầy; cho nên đã 2 lần cúi đầu trước Phật. Đây gọi là hướng về quê hương của cha mình trong sự chậm chạp.
Câu văn bên trên nói rằng: Nếu người gặp khổ, mới nói Niết Bàn. Nếu dùng đường lành của trời người thì chẳng thể cảm được nhơn duyên nhà Phật. Ở trong 3 cõi chẳng hề thấy Phật như người cha là cùng. Chẳng được ra khỏi; nên lại gọi đây là cùng. Tám khổ, lửa đốt cháy; cho nên nói là khốn đốn. Rong ruổi 4 phương, lấy sự tìm cầu ăn mặc. Xưa nói rằng: Người trời giữ 5 giới và thập thiện; mỗi mỗi đều có nhơn và quả. Do đi 4 nơi tìm cầu đồ dùng cho chính mình. Lại trong 4 loài ấy tìm kế sinh nhai như đồ ăn, áo mặc.
Câu văn tiếp theo nói: Trong 130 kiếp, nay lại được thấy một lần. Khi ở trong những kiếp kia chẳng hề chẳng có nhơn quả của trời người; nên chẳng thể cảm được Phật. Cho nên biết rằng điều lành nầy; chẳng là cơ hội để gặp Phật. Nay Phật lại chưa ra đời, mà kẻ phàm phu với thân người, thọ tâm Pháp và khởi lên 4 chỗ thấy. Ở trong ấy cầu đạo chơn chánh như cầu ăn uống. Cầu trợ đạo như cầu y phục. Muốn xa khổ, cầu chơn lý, vì đó hóa duyên. Khi Phật mới ra đời, được thành đạo trước cả những ngoại đạo; tức là nói ở ý nầy.
Trong Đại Kinh nói rằng: Quán sát tứ phương dụ như tiêu chuẩn của Tứ Đế; điều nầy có thể rõ biết được. Dần dần ra đi, gặp hướng trở về quê cũ. Làm rõ chỗ xa lánh khổ sở; hy vọng thoát khỏi chỗ tà và cầu được Niết Bàn. Chỉ trừ ý chính, lại mong gặp Phật. Cho nên nói rằng: gặp phương hướng vậy. Quê xưa như trên đã nói. Câu văn phía dưới thì làm rõ thành quách, nhà cửa và sao lại phân biệt ? Tất cả Phật pháp đều là quê hương.
Nghĩa nầy ý nói về thành kia có một chút kín đáo. Dùng đoạn đức Niết Bàn để phòng ngừa những việc xấu ác, giữ lấy làm thành. Xá đây cũng có nghĩa là gần gũi, thân thiện. Đồng thể đại bi chính là Xá (nhà cửa) vậy.
Từ “người cha trước đến tìm con mà chẳng được” trở đi; phần thứ 2 cầu con dừng lại; dụ nầy lại có 2. Đầu tiên là thối lui từ chỗ lớn và sau đó tìm cầu cơ hội; nhưng chẳng gặp. Vì chẳng gặp; cho nên nói là không được. Điều thứ 2 là dừng lại ở thành. Chẳng phải vì một đứa con đã bỏ hoang phế gia nghiệp. Thí dụ nầy dụ cho Phật chẳng vì một nơi chẳng có cơ duyên mà phế bỏ bố thí, giáo hóa những nơi khác.
Xưa nói rằng: Sau 2 vạn Đức Phật và trước thời Đức Phật Thích Ca. Hai cột thời gian ấy dừng lại. Nay trong nghĩa nầy có thể rõ. Khi dừng lại ở quê hương, nhà cửa tất cả đều chẳng thể dùng được. Nay lấy phương tiện hữu dư độ làm quê hương. Tại đồng cư thật báo độ, dừng lại ở chỗ 2 khoảng thời gian ấy; lấy hữu dư Niết Bàn làm thành. Trụ ở trong Niết Bàn nầy gọi là dừng. Nơi nầy chính là nhà. Tạo ra sự hơn thua cả hai. Thua ấy giống như Thanh Văn; thắng ấy giống như Bồ Tát. Con người đoạn ngũ thông hoặc thì cùng sanh vào nơi nầy. Tất cả đều là Bồ Tát. Phật là bậc cao cả hơn. Thuần là gia nghiệp Đại Thừa, dạy cho việc tu học. Khoảng giữa dừng lại, đối với việc nầy là cơ duyên để con cùng ở chung. Chẳng phải cái nghĩa giữa đường mà gặp được. Nhà cửa, thành ấp; tất cả đều rõ ràng. Thật giàu ấy nghĩa là thật tướng hoàn cảnh của gia đình. Đầy đủ vạn đức; gọi là giàu có. Năm độ phước đức; gọi là tài bảo. Hướng dẫn tất cả Ma Ha Diễn (Trí) gọi là vô lượng. Vàng, bạc, châu báu v.v... là Đại Thừa 37 phẩm trợ đạo. Điều nầy nghĩa là Trưởng Giả rất giàu có. Của cải tràn đầy; nghĩa là trong ngoài đều nhiều. Nhiều lúa gạo gọi là lẫm (đồ chứa); nhiều đồ vật; đó là kho. Lẫm (chỗ chứa) dụ cho Thiền Định. Thiền sanh ra 183 vị. Kho ấy dụ cho thật tướng. Có khả năng sinh ra 18 không trí tuệ. Của riêng là giàu; bên ngoài phơi ra là có. Đây tượng trưng cho ý nghĩa của ruộng vườn, nhà cửa vậy. Nô Bộc có nghĩa là phương tiện tri kiến Ba La Mật; tất cả đều đầy đủ. Cong vẹo tùy theo căn cơ; gọi là sự và lý. Vị nầy lại có nhiều nô bộc là nói về địa vị. Ví như Nhị Thừa cùng với Thông, Giáo Bồ Tát; biệt giáo 30 tâm; tất cả đều giống như nô bộc. Biệt Giáo, Viên Giáo Thập Địa như đại thần. Thập (Hồi) hướng như Tá (tướng). Thập hạnh như Sứ (giả). Thập trụ như Dân. Cảnh giới đầu tiên vào Phật, tựa như chỗ kia đối với vị khách ấy không phải là không có vua, dân. Tuy được làm dân, có thể sánh với sứ (giả) và tá (tướng). Điều nầy dụ cho sự thông suốt xa xôi. Thập hạnh trải qua tu tập các pháp riêng biệt. Đủ loại rong ruổi đó đây như vị đi sứ. Thập hồi hướng sự lý đều sâu xa và thân cận gần gũi như vua gần với tá (tướng). Thập Địa chính là cốt lõi việc hành hóa của Đức Phật. Hàng ma, chế ngự địch thủ giống như các vị cận thần. Một tâm 3 quán giống như voi, chuyên chở Viên giáo Đại Thừa. Kế đến lần lượt 3 quán giống như ngựa, vận chuyển Biệt giáo Đại Thừa tức là không bị bẻ gãy, không quán ấy giống như trâu; chuyên chở Thông giáo và Đại Thừa.
Pháp bẻ gãy và quán tự thực hành, giống như hươu, dê; chuyên chở các pháp Nhị Thừa. Vô số có nghĩa là quyền thật các pháp tất cả gọi là Xe. Xe ấy quyền, thật, trí, quán gọi là xe voi, xe trâu, xe dê. Chẳng phải là những giáo pháp quá nhiều. Quán trí lại cũng vô số. Ra vào có nghĩa là hai nhưng chả phải là hai thì gọi là vào. Chẳng phải là hai mà là hai; nên nghĩa là ra. Lại nữa chẳng phải hai mà là hai; nên gọi là vào. Hai mà chẳng phải hai; nên gọi là ra. Vô lượng trở lại một, gọi là nhập. Một trong vô lượng gọi là ra. Dùng hóa tha gọi là ra. Dùng tự hành, gọi là vào. Tạo ra pháp, làm lợi ích chúng sanh gọi là tức. Hóa công trở về với chính mình gọi là lợi. Cho đến các xứ kia. Kia đây là ở 3 nơi chẳng phải đạo qua được Phật đạo. Tức là ở nghĩa nầy. Chỉ có pháp tánh là nước nầy vậy. Khách thương buôn bán cũng nhiều. Các Bồ Tát giống như những thương nhơn. Lại hay vào ra 3 nước để cầu pháp lợi; cho nên nói là nhiều người. Ở nơi đất nầy. Bồ Tát qua lại nơi kia để nghe pháp. Những Đại Sĩ ở phương kia, đến đây nghe kinh; qua lại làm lợi ích. Lại ứng, hóa gồm 2 thân; như khách buôn. Dùng pháp thật để vào nơi 3 cõi, hóa ra nhiều lợi ích cho chúng sanh khiến cho trở về với pháp thân và gọi đây là thật nhiều. Giống như người đời làm cho kia sanh ra tài sản và sinh mạng. Lại tự mình cùng sanh. Lúc ấy gã cùng tử đi đến làng khác. Đến lần thứ 3 thì đứa con trở lại gần gũi với người cha. Dụ nầy lại có 2 nghĩa. Một là đi tìm cầu cơm ăn, áo mặc; hai là đến thành của người cha ở. Đầu tiên hợp, rồi thối lui đại thừa. Gặp những sự khổ, trong thâm tâm khởi lên sự chán nản, muốn cầu ra khỏi, giữ lấy lý lẽ và chẳng ở trong ấy. Cho đến khi trưởng thành thì tà ty. Nhơn tà ấy mà huệ trải qua, tâm dễ dàng có thể nhập vào chánh và đây là lý do để cầu xuất thế làm cảm hoài chư Phật. Quan sát ngũ ấm là chỗ chứa chấp (làng ấp). 12 nhập ấy là ấp; 18 giới là quốc gia. Trải qua những nơi nầy để tìm cầu chân lý; gọi là cầu ăn uống. Hai là theo đến người cha trở về rồi dừng lại. Đây là chính hướng mà người cha dừng lại ở nơi thành. Khi cảnh khổ ấy cũng làm cơ duyên cảm đến lòng đại bi của Phật; nên gọi là đến thành. Thành ấy tức là Niết Bàn. Niết Bàn nầy qua hơn nữa, chúng sanh tập giải; có thể được ý nghĩa của Niết Bàn. Cho nên nói rằng: đến thành.
Từ “người cha khi nào cũng nhớ nghĩ đến con” trở đi; phần thứ tư tức là người cha lo lắng nhớ nghĩ đến con. Trong thí dụ nầy lại có 2 phần. Một là nhớ nghĩ về đứa con thất lạc; nên khổ sở; Như Lai từ xưa đến nay hằng nhớ đến con cái có cơ duyên lớn cho nên nói lúc nào cũng nhớ nghĩ về 5 đường trong hơn 50 năm ấy. Khai hồn ra khỏi A Tu La; cho nên nói là dư. Chưa hề nói nghĩa là chưa hề hướng đến phương tiện hữu dư độ.
Cận thần, tướng tá, sứ giả, nhân dân được nói ở đây là cơ duyên của người con nầy vậy. Lại nữa sau khi xuất hiện ở đời từ xưa đến nay nói Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Đại Phẩm những chỗ ngồi ấy chưa hề hướng về các Đại Sĩ để nói cho Thanh Văn; đây chính là đứa con của Đại Thừa; tức là chẳng phải Phật Tử; nên chẳng giải nghĩa Phật Pháp. Hoặc như kẻ câm ngọng; hoặc như hoa dính nơi chỗ ngồi. Hoặc cho bát nổi trôi, đủ loại chẳng đuổi theo kịp. Tâm khắc khoải hối hận, từ xưa chẳng khuyến khích giáo hóa. Làm cho chẳng theo lời dạy, mà bỏ đi nơi khác. Nhớ và giận con chẳng rõ nghĩa ân đức, ta là người thân của nó. Bên trong giống như Đức Phật hối hận chẳng khuyên bảo để vào được bên trong, để phải chạy theo sứ mà làm mất đi chỗ giải bày chân thật; hận cho cái vô tâm nầy, chẳng siêng năng, ý chí cứng cáp, mà mải mê chạy khắp chẳng hề trở lại; cho nên nói là hối hận vậy.
Tự nghĩ rằng mình già nua tức là thời gian hóa độ đã xong, chẳng truyền pháp lớn cho người nữa; như cây già khô không sinh ra trái vậy.
Hỏi: Khi pháp thân biến hóa, các Bồ Tát tất nhiên là kham nhận sự bổ xứ, sao lại phải lo rầu ?
Đáp: Pháp thân biến hóa, gốc ấy chẳng phế bỏ. Ai nói về việc già suy; điều nầy chẳng phải là chỗ luận bàn. Nay làm rõ chỗ hóa thân và quyến thuộc ấy lại có 2 loại. Một là pháp thân Đại Sĩ; tướng nầy ảnh hưởng. Tích ấy là chỉ có một con và Bản ấy hoặc là vị Thầy. Lại nữa chẳng hề nghĩ đến chuyện già suy. Hai là cùng ở với phàm phu, như từ khi mới hóa Phật, mới phát đạo tâm; gọi đây là đứa con. Con ấy kế thừa gia nghiệp của cha, làm cho gia tộc chẳng mất. Nếu Thân Tử (Xá Lợi Phất) được thọ ký và quyết làm Phật Hoa Quang thì một phương giống Phật luôn luôn tương tục chẳng gián đoạn. Đại Thừa gia nghiệp tương tục truyền thừa. Nếu Thân Tử chẳng thể hóa hiện cơ duyên; tức là gia tài giáo pháp của Đại Thừa trong hiện tại không có người để phó chúc. Đời sau giống Phật ở yên, già suy cùng phấn chấn nằm ở điều nầy. Lại suy nghĩ rằng: ta nếu được con và hai là nhớ nghĩ đến khi được con chắc là vui lắm. Có thể có cơ duyên độ được; cho nên nói là được con. Cùng với lời thọ ký của Phật, gọi đây là nắm giữ gia tài pháp bảo; gọi đây là bản tâm và lại nói là niềm vui lớn. Lãnh lời tổng thí dụ bên trên xong.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú Quyển Sáu (Phần trên -Hết)
Lúc bấy giờ gã cùng tử đảm trách... Phần thứ 2
cha con gặp nhau. Dụ nầy là việc thấy lửa ở trong nhà lửa gần đó. Ở xa thì ý nói về phương tiện trong ngũ trược lại có 3. Một là làm rõ chỗ gã cùng tử đảm trách. Gặp nơi nhà lửa và thấy lửa đốt cháy, pháp ấy nói về chỗ thấy ngũ trược. Hai là người cha thấy con ở trong nhà lửa và Trưởng Giả thấy pháp được nói trong mắt Phật thấy được. Ba là vui mừng thích ứng với lời nguyện là ở trong nhà lửa ấy sợ hãi; nên trong pháp ấy khởi lên tâm đại bi. Pháp ấy dụ cho đứa con thấy ở trước. Ở trong nầy làm rõ chỗ đứa con gặp thấy người cha trước. Cùng đến chỗ Phật tức là linh trí. Đầu tiên rõ biết căn cơ, sau đó mới khởi tâm ứng phó. Cho nên nói rằng người cha thấy con trước. Nếu là chúng sanh thì tất nhiên đầu tiên là cơ duyên, sau đó mới ứng phó. Cho nên nói là con thấy cha trước. Cơ duyên ứng phó thật là bất khả tư nghì. Chẳng có trước, chẳng có sau; cho nên nói rằng: Trước sau cùng một lúc. Nay theo câu văn nầy liền chia ra làm 2 đoạn. Một là con gặp cha và hai là cha gặp con. Trong 2 đoạn nầy mỗi mỗi đều có 4. Đầu tiên con gặp cha chia ra làm 4. Một là lý do gặp cha. Do cầu cơm áo. Hai là gặp nơi chốn, thấy cha. Nơi ấy chính là phía trước cửa. Ba là thấy cha ngồi trên giường Sư Tử. Bốn là sinh ra sợ hãi và hối hận đã đi đến chỗ nầy.
Lý do gặp cha ấy là do chán khổ, muốn vui, tìm cầu ý nghĩa, dần dần tích chứa, huân tập, quen thành ra đối với căn lành. Cho nên gọi là đảm trách thay thế. Dùng căn lành nầy có thể cúi đầu trước lòng từ bi của Phật. Cho nên nói rằng gặp rồi đến nhà của người cha. Người cha ấy dụ cho con đường sau pháp thân. Nhà cửa ấy dụ cho người vô duyên từ bi. Lớn, nhỏ cả 2 cơ duyên đều cúi đầu trước ngôi nhà nầy. Có cơ duyên lớn; cho nên nói rằng: Xa thấy người cha. Có cơ duyên nhỏ cho nên ở tại cửa. Nếu chỉ có nhỏ mà không lớn (cơ duyên) thì chẳng thể thấy tôn nhan đặc biệt ấy. Người cha chẳng nói ta có tiền của đầy kho nay đem giao cho ông. Nếu là lớn chẳng nhỏ thì chẳng nên đứng ở bên ngoài cánh cửa. Người con cũng chẳng nên nói: Ta chẳng có đảm lực để được những vật nầy. Thấy người cha ở chốn ấy tức là phía trước cửa. Hai là nhìn bằng phương tiện; tức là 2 bên cánh cửa kia. Người có cơ duyên tròn đầy thì sẽ gặp ngay tại cửa. Nhị Thừa còn ở bên chơn (lý); cho nên nói là phía bên cánh cửa. Không, tam muội ấy gồm chơn huệ nhãn; bên cạnh ấy là pháp thân.
Xa trông thấy người cha nầy. Việc gặp ngay nầy có hai loại. Một là thấy gần và hai là thấy xa. Nay nói cơ duyên lớn bắt đầu phát, gọi kêu việc xa; cho nên nói là xa. Lại nữa cơ duyên ấy vi tế, chẳng thể ứng phó được; nên gọi đây là xa vậy. Ngồi nơi giường Sư Tử nghĩa là viên báo pháp thân ở nơi yên ổn, không lý. Lại chẳng có Thông, Biệt hai hoặc, tám ma cùng sự lo sợ; cho nên mới nói là: ngồi tòa Sư Tử.
Hoa Nghiêm nói: Đệ nhất nghĩa không là lấy tứ vô sở úy làm giường. Người quý đủ chân nghĩa là lấy định huệ làm chân bảo đế của con người. Vô sanh định huệ nương vào cảnh chơn như.
Bà La Môn xưa gọi là: Thuộc dòng họ cao cả; có ruộng đất trên tám (mẫu). Thất lợi thì bảy (mẫu) trở lại
Cư Sĩ nội phàm phu xưa gọi là: Như trong kinh nầy nói rõ là pháp thân; chẳng phải thường trụ pháp thân. Cho đến ứng thân ở phương kia tương ứng với nơi nầy. Tức là pháp thân ở nơi đây. Cho nên nói bên trong có nhiều người vây quanh. Nay thì nghĩa chẳng phải như vậy.
Nếu làm Phật ở phương khác thì cha con cơ duyên ứng, thể, dụng khỏi cảnh dính mắc. Tất cả chẳng giống như trước đã nói. Người cha chẳng dung nạp tiểu cơ (duyên); mà cúi đầu trước việc lớn kia. Lại chẳng nên kết với đại duyên và với kia thì kết với tiểu duyên đối với việc nầy. Lại cũng chẳng nên cùng kết ở đây và cùng kết ở kia. Như vậy sẽ loạn hoặc. Nay làm rõ chỗ hơn ấy là Bồ Tát. Tức là đặc thân của Lô Xá Na Tôn Giả; là chỗ khấu đầu của người có duyên lớn. Đối với nghười yếu đuối Tiểu Thừa thì nương vào chỗ xấu tệ, tiểu cơ mà cúi đầu. Nay kinh làm rõ thường trụ ở Đề Hồ cùng Niết Bàn. Pháp thân viên đốn cùng với Hoa Nghiêm. Chỗ thí dụ Trưởng Giả uy đức có người hầu cận và Sát Đế Lợi, Bà La Môn cung kính vây chung quanh. Tất cả đều chỉ cho quyến thuộc trong Hoa Nghiêm; tất cả đều chẳng khác; cho nên nói pháp tướng như kia; chỗ làm sáng tỏ lại cũng chẳng khác. Bà La Môn được gọi là tịnh hạnh. Quý tộc cao khiết nghĩa là sánh với các vị Bồ Tát lìa cấu nhiễm. Sát Đế Lợi thuộc dòng dõi vua chúa. Dưới chín địa và trên sơ địa. Cư sĩ giàu mà chẳng sang; tức là 30 tâm vậy. Chơn châu anh lạc tức là giới, định, huệ. Đà La Ni Tam Muội tức anh lạc. Giá trị ngàn vạn, tức là 4 địa công đức, dùng để nghiêm thân. Sứ giả, nhân dân, nô bộc, khác với cửa là làm sáng tỏ cho nghĩa nầy; tức là ở nơi kia dùng phương tiện để giáo hóa. Đoạn lìa thông hoặc gọi là dân. Biệt giáo kia đoạn thông hoặc gọi là sứ giả. Hoặc giống nơi cửa làm sáng tỏ nghĩa nầy và trở lại phương tiện Ba La Mật. Bên trong cùng với thật trí giống nhau. Bên ngoài thì cơ duyên giống nhau. Giống như sứ giả và nhân dân có nghĩa là bên trong và bên ngoài đều có hậu thuẫn. Bạch phất có nghĩa là dùng đến quyền và trí. Gồm có trái, phải. Bên phải tức là vào không trí. Cầm phất trần tứ trụ. Bên trái đây tức là vào giải trí; cầm phất trần vô trí. Trong hai phần nầy trong đạo phương tiện; cho nên nói là thị lập v.v...
Được che bởi lọng báu là lòng từ bi chơn thật. Cầm các nhành hoa và tràng phan. Hoa ấy là Tứ Nhiếp Pháp. Phan ấy tức là thần thông. Hương, thủy rải lên đất nhằm lấy nước pháp nầy rải lên tâm địa của chư vị Bồ Tát để tẩy đi các hoặc trần. Lại là nước định, gạn lọc tâm tán loạn. Họ rải hoa khắp nơi bằng 7 loài hoa báu. Nghĩa là giới định huệ, đoạn con đường nghi, chẳng phải đạo rõ biết thanh tịnh. Giới ấy là nhiếp luật nghi cùng với 3 loại giới. Định ấy là Thủ Lăng Nghiêm. Huệ ấy là thật trí huệ. Đoạn nghi có nghĩa là đã qua cái nghi của nhị đế. Đạo phi đạo tịnh nghĩa là hành nơi phi đạo, trải qua Phật đạo. Trí kiến tịnh nghĩa là trí đức viên mãn rồi, rõ biết thấy Phật tánh. Đoạn trí có nghĩa là đoạn đức thành tựu, vô minh vĩnh viễn tận diệt. La liệt bảo vật ở đây có nghĩa là la liệt trên mặt đất những công đức chơn thật. Ra vào như bên trên đã giải thích v.v...
Uy Đức Đặc Tôn Giả có ánh sáng vô biên, sắc tượng vô biên, tướng hảo nguy nguy đường đường. Với nghĩa nầy là đầy đủ để làm Phật Lô Xá Na. Há được làm ngoài sự giải thích sao ?
Cùng tử thấy cha có thế lực lớn... Đây là lần thứ 4 thấy cha sợ chạy. Đại thế lực nghĩa là trí lớn; cho nên nói là đại lực. Thần thông lớn nghĩa là thế mạnh. Nghĩa là thân thể tay chân có sức mạnh. Sợ hãi nghĩa là kẻ có cơ duyên thấp và yếu kém, khiếp nhược trước con đuờng lớn. Hối hận khi đến đây nghĩa là: Vốn Phật muốn dùng pháp lớn để tuyên dương; nhưng chẳng xứng với căn cơ; nên có ý trở lui trước việc lớn. Cho nên nói rằng: Sợ hãi khi đến đây. Riêng nghĩ như thế nầy nghĩa là: Trong cơ duyên ấy mật có việc nầy; chẳng phải là hiện ra cho thấy ở thân nầy hơn hẳn. Hoặc là vua và vua ấy là Vua Ba Tuần chạy phía sau v.v...
Người có cơ duyên nhỏ như than đốt cháy gián đoạn, chẳng nói được đạo tuyệt diệu đối với hình tượng; liền thấy hơn những tượng khác; chẳng sánh với trời người. Rồi chỗ nói pháp, tướng ấy hướng khác với Nhị Thừa; kẻ trí nhỏ, đức mỏng chưa từng thấy, nghe. Liền cho rằng đây là ma và do ma nói. Lược khai 3 và hiển 1. Thân Tử riêng nghi, chẳng phải ma giả Phật để não loạn tâm ta sao ?
Nếu đầu tiên dùng sự tiêu vong lớn và nghi nhỏ là Phật làm ma, có trong quá khứ, ngày nay cũng vậy.
Lại nữa sự hơn ấy là dụ cho Trưởng Giả. Trưởng Giả tức là biểu thị cho báo thân của Phật; cho nên làm vua, pháp thân tức là báo sư; sư ấy giống như vua. Nhiều kinh gọi đây là Kinh Vương (vua trong các kinh). Trí khế hợp đối với pháp; tức là trí cùng pháp vậy. Nên gọi là báo Phật là thế. Đây cùng với Đại Thừa pháp báo. Chẳng phải là Tiểu Thừa mà được nơi lợi ích vậy. Hoặc là vua cùng sánh với vua. Chẳng phải lực đảm đương của ta mà được vật ở nơi ấy. Kẻ có căn cơ nhỏ chẳng thể thọ sự giáo hóa lớn. Chẳng phải như đến nơi nghèo nàn mà tìm kiếm miếng cơm manh áo dễ dàng được. Tịnh Danh nói rằng: Có thể dùng cái nghèo ấy mà được pháp, độ cho những kẻ yếu đuối vậy. Với cái lý không, chẳng gồm vạn đức; chẳng phải là Như Lai tạng vậy. Cho nên nói là bần lý. Thiên lệch về không, gọi đây là trí nhỏ. Cho nên nói là lực ấy có địa. Y thực dễ được nghĩa là có thể được Hữu Dư Niết Bàn, Vô Lậu y thực. Thực hành pháp hành và nương vào huệ để đi xin ăn. Nếu người ở lâu nơi nầy hoặc thấy bức bách, bảo người sứ giả là ta sẽ làm. Việc thực hành con đường Đại Thừa phải trải qua vô lượng kiếp; cho nên nói là lâu dài. Ta vốn chán ghét sanh tử; nhưng nếu tu theo Đại Thừa thì phải vào sanh ra tử. Rộng học các hạnh; cho nên nói là bức bách. Ta vốn ít vui mà nay làm cho ta phát tâm Bồ Đề Đại Thừa. Đây là việc làm mạnh mẽ. Bỏ lớn lấy nhỏ; cho nên nói là chạy trốn.
Từ “lúc ấy Trưởng Giả” trở đi; phần thứ 2 là thí dụ cho cha gặp thấy con; lại có 4. Một là cha thấy nơi con; hai là thấy con liền nhận ra; ba là thấy con vui mừng và bốn là thấy con thỏa nguyện. Thấy nơi con nghĩa là tòa sư tử vậy. Pháp thân Như Lai cư ở đệ nhất nghĩa không, chẳng sợ cảnh nào, chiếu sáng tỏ các căn cơ. Thấy con liền nhận ra, rõ biết ngày qua và kết duyên với chúng sanh. Tâm hoan hỷ lớn nghĩa là Phật hằng thương nhớ đến con; nay cơ duyên đã đến, gọi đây là lòng từ. Cho nên nói là vui mừng. Tức là nhân duyên thuyết pháp mà khởi tâm đại bi. Nhà lửa nghĩa là sự sợ hãi lớn. Việc kia làm sáng tỏ chỗ cứu khổ; cho nên nói là lo sợ. Điều nầy cũng làm rõ với niềm vui cho nên nói là hoan hỷ. Liền suy nghĩ rằng kho báu nay sẽ đem giao cho. Đây chính là thấy con rồi thỏa nguyện. Xưa thấy chúng sanh bỏ lớn tìm nhỏ, từ nơi quê nghèo phải tìm cầu thức ăn để sinh sống thật là khó nhọc. Thường mong muốn với tài sản mà không căn cơ thì chẳng được. Nay cơ duyên đã đến gọi là tâm đại bi. Cho nên nói là kho chứa của báu, nay có thể đem giao cho. Ta thường hay suy nghĩ rằng: Điều nầy làm sáng tỏ việc chẳng phải nghèo mà không được tài sản lớn. Lại bị lưu chuyển trong sanh tử và bị các khổ bức bách. Vì lòng đại bi mà đau xót; cho nên nói là thường hay nhớ nghĩ. Tuy muốn cứu giúp; nhưng không có cơ hội để làm. Cho nên nói rằng do không thấy. Nay có thể độ được qua cơ duyên sanh nhai nầy; cho nên nói rằng: tự đến. Gọi việc căn bản nầy là đại bi; cho nên nói rằng: thật là thỏa nguyện của ta. Ta tuổi đã già dụ cho việc khổ ngày xưa còn tích chứa. Giải thích điều nầy là do nơi thỏa nguyện. Do một thời đã hóa hiện rồi; cho nên nói là tuổi đã già nua. Chưa gặp được cơ duyên lớn, pháp chẳng thể ủy thác giao phó cho ai. Tương lai ấy ai có thể lãnh hội được. Vì có thể độ được; cho nên nói là bần tích. Nay cơ duyên tự đến; không thể không lo lắng cho điều nầy. Do vậy mà nói: Lòng mong đợi của ta đã được thỏa thích; liền cho người mau đi tìm đuổi theo; để bắt đem về.
Phần thứ 3 làm rõ chỗ suy tìm. Thí dụ nầy nói khi gần nhà lửa xả bỏ, con người dùng xe. Xa thì bảo rằng: Pháp ấy nói dùng lớn, cho nhỏ. Câu văn nầy lại chia làm
2. Đầu tiên là sai người đuổi theo và kế đến là dụ dỗ. Phía trước đuổi theo nghĩa là thân thể, tay chân phải mạnh; thế nhưng chẳng dùng đến. Theo phẩm Phương Tiện thì khuyên lơn và giải bày là một. Giải thích câu văn nầy lại có 3. Khi nhà lửa bắt đầu cháy, khuyên lơn nên ra ngoài. Giải thích ấy mỗi mỗi có 3; nhưng phải bớt câu văn ở đây. Câu văn Trường Hàng thường khuyến khích chứ chẳng hợp với lời khuyên răn; mà liền hóa câu văn ấy rộng ra. Trong kệ lại hay tụng lời khuyên; chứ chẳng tụng sự khuyến khích. Lại nữa chẳng tụng sự biến hóa. Tất cả đều ra khỏi. Nhà lửa, Trường Hàng, giới khuyến... những giải thích ấy mỗi mỗi đều có 3. Nay lại tính chung. Tức là sai người chạy đi tìm rồi khuyên răn giải bày. Gã cùng tử sợ nên không trở về chẳng đủ duyên, liền dùng sức bắt ép đem về nhà. Gã cùng tử tự nghĩ rằng mình chẳng có tội gì; nên đã cự tuyệt. Dùng lời khuyên cũng chẳng đủ.
Từ “người cha liền thấy” trở đi; phải dùng lời dụ dỗ. Đây là ý Phật. Phật tuy khuyến khích, rộng rãi; nhưng chẳng đủ cơ duyên. Ý nầy chưa xong thì dùng giới để khuyên răn. Việc chẳng thành, sau đó lại bỏ đi. Người đi tìm ấy đầu tiên là khuyến khích về lại nhà. Trí là việc hay khiển và giáo là chỗ khiển. Nghĩa của lý ấy là chánh và giáo ấy nghĩa là bên cạnh. Từ khi Phật ra đời, Đại Thừa 12 bộ, rộng tuyên chúng sanh, ai chẳng có cơ duyên thì chẳng thọ nhận loại sữa nầy. Cho nên nói là: Người bên cạnh. Lại nữa những người bên cạnh ấy là những cận thần và tướng tá. Tức là các pháp thân của các Bồ Tát, vì đó mà nói Đại Thừa như trong kinh Hoa Nghiêm làm cho 4 vị Bồ Tát nói 40 địa; tức là người bên cạnh vậy. Liền chạy đuổi theo nghĩa là Đại Thừa làm rõ cái nghĩa hiển lộ ngay thẳng. Dùng cơ hội nầy để chạy thẳng đến Bồ Đề. Cho nên xe lớn ấy chạy như gió. Nếu dùng Bồ Tát là người bên cạnh thì Bồ Tát ấy tự có thần lực. Lại thêm nhờ Phật lực kia gia thêm, lại có thể làm cho kia chạy thẳng vào Bồ Đề. Cùng tử sợ là do khuyến môn ấy không đủ cơ duyên. Liền hiện chẳng có nhân duyên trói buộc như xưa, rồi bỏ việc nhớ lại dài lâu; cuối cùng muốn nghe đại giáo. Do tâm vậy. Lo chẳng rõ cho nên sợ. Gọi đây là nỗi lo lớn. Tiểu Thừa thấy phiền não thì lo. Sanh tử lấy làm khổ. Nếu khuyên rằng: Phiền não tức là bồ đề thì sẽ la to lên là sợ hãi. Nếu nghe sanh tử tức là Niết Bàn thì la to lên là đau đớn. Chẳng có cơ duyên để khuyến khích vậy.
Ta chẳng hằng phạm. Ta chẳng hay cầu thì với dụng ý gì mà bắt ta như thế ? Đây chính là khuyến khích về cánh cửa có 2 ý chưa mất đi được. Kế đến lại la hoán lên và chẳng chịu trở về lại nhà xưa. Đây là rộng nói về giới môn. Phía trước làm sáng tỏ chỗ khuyên điều lành, dụ việc do dự nầy. Ta sẽ nói về việc sợ hãi tức là việc cấp thiết, chỉ dùng sức mạnh để lôi kéo về nhà lại. Nói theo kiểu khuyên lơn thì dùng lời nói khổ nhọc, làm cho xa rời việc xấu ác kia. Bên trong không có cơ duyên; còn bên ngoài thì bức bách chạy trốn. Nghĩa là sợ phải trở về. Tự nghĩ mình chẳng có tội gì; nên chẳng thọ nhận sự khuyên răn. Tội ấy là lòng từ bi vậy. Vì chúng sanh tội; cho nên vào ngục sanh tử. Bồ Tát lại cũng phải giống tội ấy để đi vào ngục. Người Nhị Thừa chẳng có lòng từ lớn; nên gọi là vô tội mà làm cho vào nơi sanh tử; tức là bị trói buộc vào ngục tù. Không phải phương tiện lớn mà vào sanh tử; tất nhiên sẽ vĩnh viễn mất huệ mệnh Tam Thừa. Cho nên nói rằng phải chết. Suy nghĩ về những việc nầy; cho nên nói là chuyển liền sự sợ hãi. Sức mạnh ấy là sự dạy dỗ to lớn. Người trí nhỏ chẳng thể hiểu được; nên gọi là quá buồn; liền khởi lên sự hủy báng; nên đọa vào tam đồ. Cho nên nói là đất rộng. Lại là sự mê mờ, buồn nản, yếu đuối, vô minh địa.
Từ xa người cha nhìn thấy, liền đó lần thứ ba không muốn khuyên răn đại thừa nữa. Việc nầy chia ra làm 4. Một là suy nghĩ mất đi; hai là giải thích mất đi; ba là chính thức mất đi và bốn là sự mất đi được tuyên dương. Đầu tiên có 2 ý. Một là rõ biết ý chí lớn yếu kém. Hai là ý chí nhỏ lớn mạnh. Người cha thấy nghĩa là cái nhỏ không hiện hữu, cái lớn ở xa; cho nên nói là trông thấy. Chính là kết duyên với con; cho nên nói là thấy. Qua lời nói của sứ giả và qua lời khuyên của sứ giả. Rõ biết căn bản lời nói ấy không có cơ duyên để hiểu được. Trí mất tức là lời dạy bảo cũng mất. Người sứ ấy nói như các vị Bồ Tát, chẳng đợi ngươi hiện thân đẹp đẽ, làm cho thấy được Nhị Thừa, mà Tịnh Danh nhiếp phục thân thơm của ngươi; chẳng làm cho các chúng sanh kia khởi lên việc dính mắc vào các hoặc. Đức Phổ Hiền vào Ta Bà nầy, làm cho thân nầy nhỏ lại. Tất cả đều ở nghĩa nầy.
Người mạnh chớ đến; nghĩa là chẳng có cơ duyên lớn sợ bị thương tổn đến căn lành nầy. Cho nên nói là chớ mạnh tay. Lời nói riêng chẳng đủ cho người nầy. Suy nghĩ liền khuyến khích rộng hơn. Chớ nên dùng sức mạnh. Suy nghĩ liền khuyến khích giới môn.
Nước lạnh, nước mắt trên mặt. Phần thứ 2 rõ biết ý chí nhỏ. Nói là dùng tro hòa với nước để chẳng thấy nóng nơi mặt. Đây là sợ sự sanh tử nên gọi là chối từ. Hướng đến Niết Bàn như mặt mình vậy. Khi tỉnh ngộ rồi khai mở cơ duyên nhỏ, được lìa phiền não lo sợ, ngộ được 4 chân lý. Nhưng chưa nói quyết định nơi Đại Thừa giáo.
Từ “vì sao vậy” trở đi; phần thứ 2 giải thích về cái ý mất mát kia. Chính là lìa khổ và vui với không. Thân cận đùa bỡn với kẻ yếu kém, tâm chẳng từ bi; liền sợ khó khăn nơi pháp lớn. Chớ có ý chí nhỏ hẹp nầy mà đè nén bổn hoài của Phật. Cho nên liền hóa vậy. Rõ biết 2 vạn ức Phật; nơi gặp gỡ, phát tâm đạo; chẳng phải cả hai đều chẳng có cơ lớn. Chớ nghĩ việc hóa lớn ấy ý Phật chưa rõ; liền chờ đến kỳ sau; chẳng nói với người khác. Đối với ngày xưa ở trong Tiểu Thừa, tùy theo ý kia nói phương tiện; che khuất, giúp đỡ gọi là Thanh Văn. Chẳng nói dựa theo tự ý nói là Bồ Tát.
Từ “sứ giả nói lời” trở đi; phần thứ 3 chính thức làm sáng tỏ chỗ biến hóa. Ta nay thả ngươi ra; nghĩa là biết căn cơ lớn còn yếu kém. Tùy theo ý hướng; nên liền biết là việc lành nhỏ lại mạnh hơn. Dùng 2 nhơn duyên nầy; nên biến hóa lớn.
Từ “cùng tử vui vẻ” trở đi; phần thứ 4 tức là sự biến hóa nầy gọi là cơ duyên. Chẳng vì việc dạy dỗ lớn bức bách; nên nói là vui vẻ. Chẳng hủy báng việc lớn thì tội được miễn ở tam đồ. Cho nên nói là từ đất là vậy. Có một ít việc lành nhỏ sanh ra; cho nên nói là khởi. Lại như trước tuyên nói về pháp lớn thì mê hoặc, lo ngại, chẳng thể rõ được chỗ nằm nơi đất vô minh. Nay thì bỏ chạy và nhân việc nhỏ ấy có thể được tỉnh ngộ. Cho nên nói rằng: Từ đất mà dậy. Đối với Tứ Đế, muốn cầu đạo pháp; cho nên nói rằng qua đến chỗ người nghèo kia, vì cầu ý thực; hoặc đối với 4 việc thấy gặp ấy để cầu đạo; nên nói là quê nghèo. Rồi muốn dụ dỗ và sai 2 người đến để dỗ dành. Việc nầy lại có 2. Một là sự dạy dỗ gần thì đưa 3 xe để cứu các con. Xa thì dùng Ba La Nại để thí quyền. Kế đến là từ ngày ấy trở đi, dùng ý và pháp thân địa, hằng chiếu sáng phương tiện; chẳng phải đạo thọ; bắt đầu chỗ rõ biết dùng loại nhỏ. Sớm rõ chúng sanh khó khăn gìn giữ, gần gũi thân cận với y áo nhơ nhớp; cho nên tìm đến phía trước và nay lại rõ điều ấy.
Hỏi: Bốn Đại Đệ Tử với nhơn duyên gì mà rõ biết pháp thân chiếu sáng lâu dài?
Đáp: Khước từ gần, rõ biết xa. Nếu ngay từ đạo thọ mà rõ biết chẳng có cơ duyên lớn thì chẳng nên từ Đẩu Suất giáng thần và gá vào thai bằng trí tuệ; cho đến hiện hữu những phiền não. Rồi lấy vợ sinh con và 34 tâm với hậu thân, đoạn trừ kết sử. Kinh nghiệm rõ biết thoát ra khỏi tướng lớn, nhỏ như biển vi diệu anh lạc. Thô xấu một trượng sáu, y áo dơ bẩn. Điều nầy đã qua lâu rồi. Nay ban sơ lại chớ nên giải thích về những sự dạy dỗ nhỏ nhặt.
Phẩm Thí Dụ câu văn lại có 4. Một là dùng phương tiện để rộng tuyên; hai là rõ biết tâm trước; ba là hoan nghênh 3 xe và bốn là thích ứng với lời nguyện nầy. Phần Phương Tiện lại có 4. Nay sự lãnh hội cũng có 4. Từ “mong muốn dụ dỗ” trở đi là lãnh nhận ý bên trên để rộng nói. Ngay lúc ấy 2 sứ giả liền tìm đến gã cùng tử thì được ngay. Rõ biết được tâm trước của con có cơ duyên; cho nên việc nầy đã khiến vui với 3 xe là việc hy hữu. Gã cùng tử trước nhận giá nầy và lãnh việc thích ứng để ra khỏi nhà lửa. Đầu tiên muốn dụ dỗ; nghĩa là liền hóa ra việc lớn; chẳng dung chứa việc riêng. Muốn tạo ra phương tiện; cho nên nói rằng: sẽ muốn; mới mật sai hai người. Bốn đệ tử đã lãnh phần rồi; nên chẳng can thiệp vào Bồ Tát; cho nên nói là 2 người. Về pháp ấy chính là nhơn duyên Tứ Đế. Về lý ấy tức là có tạo ra chơn, tục. Về con người là Thanh Văn Duyên Giác. Đầu tiên muốn quảng bá Đại Thừa nên mật sai người bên cạnh. Đây là biểu thị của một thật đế, một Đại Thừa giáo, một vị Bồ Tát. Nay làm cho sáng tỏ phương tiện ẩn thật làm chỗ bí mật. Chỉ lệch chơn là mất. Về giáo mà ẩn hoàn toàn thì chữ kia giấu kín; chỉ còn nửa chữ; nên nói là mất. Về con người thì bên trong có bí truyền Bồ Tát hạnh; cho nên nói là mật. Bên ngoài lại hiện thân Thanh Văn; cho nên nói là mất. Hình thù nghĩa là theo Nhị Thừa giáo chẳng tu về tướng tốt; hay nói về khổ, vô thường và bất tịnh; cho nên nói hình sắc lại tiều tụy. Về con người, phía các vị Bồ Tát ẩn dật về bản sắc là chỉ cho hình tướng của Tích. Chẳng nói hết nghĩa được. Chẳng có 10 lực vô úy; nên gọi là chẳng có uy đức. Ngươi có thể đến kia tức là dùng nhỏ đến giáo hóa thì làm sáng tỏ các lý chơn thật; cho nên nói rằng chạy đến nơi kia. Tiểu Thừa dạy làm rõ cái lý ẩn mật; cho nên nói là thong thả. Điều nầy có tác xứ, thấy tu 2 đường là đoạn hoặc tác xứ và gấp đôi với ngươi là ngũ giới, thập thiện sẽ dừng lại và ra khỏi 3 cõi. Nay Tứ Đế, 12 nhơn duyên có thể làm cho ra khỏi sanh tử. Đây là một lần gấp bội. Lại nữa ngoại đạo lục sư hay thực hành và có thể hàng phục được các hoặc. Nay tu Tứ Đế tức là có thể đoạn hoặc được đến Niết Bàn. Đây là việc gấp đôi. Cùng tử nếu được hứa tức là có cơ duyên về việc hứa nầy; nghĩa là thiết giáo. Không có cơ duyên thì chẳng hứa và chẳng thiết giáo. Muốn làm điều gì ? Nhị Thừa chỉ muốn trừ hoặc và được chứng. Chẳng cần đến tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh. Cho nên nói: sẽ sai ngươi hốt phân. Chúng ta 2 người lại cùng làm với nhau. Nhị Thừa đốn căn; những việc dạy dỗ ấy nhắm vào chỗ tu nghiệp. Về cái lý tức là rõ biết chơn lý và tướng riêng ấy. Về người thì quyền và thật tu hành. Lúc ấy 2 sứ giả liền dần gặp gã cùng tử. Lần thứ 2 thì rõ biết căn cơ; cho nên nói đã được rồi. Bên trên đã rõ biết tâm trước rồi.
Để sáng tỏ việc trên qua những việc dưới đây. Lần thứ 3 khi giải thích về việc làm thì bên trên liền tán thán về 3 xe. Từ khổ, tập ấy là phẩn. Giữ đạo, diệt ấy là giá cả. Gã cùng tử đầu tiên chịu giá cả và lo việc hốt phân. Phần thứ 4 khi tìm đến thì đi làm. Bên trên thì thấy công việc thích ứng với lòng mong cầu để ra khỏi được nhà lửa. Nhị Thừa mến quả và thực hành nguyên nhơn. Do vậy mà chấp trước. Khi người cha nầy thấy con sinh thương cảm mà kinh ngạc. Kinh vì chẳng cầu Phật đạo. Thương vì chỉ chấp giữ A La Hán. Chỗ mất thì lớn; chỗ được lại nhỏ. Cho nên nói rằng kinh dị. Riêng lẽ trong pháp dụ nầy ý ấy câu văn đã làm rõ.
Từ “lại một ngày kia” trở đi; phần thứ 2 là nhận lấy ý. Linh trí trước chiếu lâu dài về giả sử quyền, mưu rồi đọa lạc. Không dừng lại dưới cây, mà bắt đầu thấy nhơn duyên, như bên trên đã nói. Câu văn nầy lại chia ra làm
4. Một là một ngày kia giữ ý như trước, dùng quyền trí lâu dài muốn tuyên bày, giải nói. Hai là thấy con tiều tụy và lâu rồi rõ biết phương tiện; cho nên cho đồ chơi tốt. Ba là thoát ra khỏi những đắm nhiễm thô tế. Lâu dài rõ biết đủ; nên ca ngợi 3 xe. Bốn là gần gũi thân cận và chỉ cho con làm. Lâu dài rõ biết sự thích hợp, nhận làm như lúc đầu. Lại nữa lời nói thêm trịnh trọng. Sẽ muốn giữ ý lãnh và pháp thân ở địa lâu dài; nên rõ biết căn cơ lớn, nhỏ để giáo hóa vậy. Thuật lại ý Phật, cho nên chương nầy được lập lại.
“Ngày khác” theo chính Nhị Thừa nghĩa là phương tiện làm chính. Chẳng phải pháp Nhị Thừa là kia; tức là căn cứ vào pháp thân. Ngày ấy là thời gian, mà cũng là trí vậy. Lúc nương tựa vào pháp thân, dùng trí để chiếu sáng cơ duyên; cho nên nói là ngày kia. Nếu từ ý nghĩa nầy thật trí chiếu, thì thật ấy là chính mình. Quyền trí chiếu sáng phương tiện là của kia. Hướng dẫn rõ ràng do hóa thân dùng đến công việc thì là ngày đã qua. Chẳng phải việc của hóa thân dùng đến thì thuộc “ngày khác”. Nếu cuối cùng Đức Như Lai tự thực hành trí tuệ về quyền thật; tất cả đều gọi là cái nầy. Như Lai hóa ra quyền thật để chiếu sáng. Tất cả gọi là kia. Như Lai tự, tha quyền thật chiếu. Chiếu thật ấy là nầy và chiếu quyền ấy là kia. Đó chính là lúc tìm kiếm pháp thân, dùng đến hóa, tha và quyền trí, chiếu nơi quyền cơ, hoặc có, hoặc không, chiếu dùng quyền sự, hoặc có thể hay chẳng có thể. Tất cả là quyền trí được chiếu. Cho nên nói là “ngày khác”. Nếu từ nghĩa nầy thì việc chỉ dẫn vi tế cho hóa, tha về quyền sự thì Nhị Thừa gọi là “việc nầy”. Tìm tòi về quyền của tự, tha thì quyền nầy chẳng phải là việc của Nhị Thừa. Cho nên gọi là vì kia.
Có 2 ý về “ngày kia” được hình thành. Nay nương vào chỗ giải thích của Nhị Thừa và lại theo câu văn của “ngày kia” dùng để tìm tòi về pháp thân chiếu nơi căn cơ nầy.
Cánh cửa sổ nghĩa là thấy một bên; cho nên nhỏ. Biểu hiện quyền trí chiếu đến cơ duyên kia. Đáo mắt thì thấy nhỏ mất và lớn hiện. Cho nên nói là trông thấy.
Thấy con nghĩa là từ xưa gặp các loại lớn, gọi đấy là con. Dùng lớn để củng cố; cho nên nói là thấy. Cửa sổ thường chật hẹp, chưa chỉ bày giáo hóa việc lớn được. Cho nên nói rằng dùng lớn và cho nhỏ.
Từ “gầy mòn” trở đi; phần thứ 2 nói về trước đó rõ thích chơi việc nhỏ. Vì tu nhơn trí lực kém; nên hao mòn. Tu nhơn phước lực yếu; cho nên mệt mỏi. Bên trong thì sợ vô thường cho nên tiều tụy. Bên ngoài gặp 8 nạn khổ nên héo hắt. Bốn là ở chỗ hốt phân. Vì không trí cho nên như bụi đất.
Từ “liền ra khỏi lầu các” trở đi; phần thứ 3 là trước thấy đầy đủ cho nên vui mừng với 3 thứ xe khó có kia. “Cởi bỏ y phục” là dụ cho ẩn chìm báo thân với vô lượng công đức. 42 địa, giới, định, huệ, đà la ni cùng với anh lạc. Dùng tịch diệt, nhẫn tế để mặc bên trên. Dùng các đồ trang sức lớn nhỏ của biển. Nếu ăn mặc quá sang, đứa con sẽ sợ hãi. Vì Nhị Thừa chẳng hề thấy tướng đẹp nầy.; cho nên nói là “cởi bỏ”, liền mặc đồ thô xấu; hiện hình một trượng sáu là thô. Sanh nhẫn, pháp nhẫn là tệ, xấu. Mình mẩy đầy bùn đất là tượng trưng cho phiền não hữu lậu có trong hiện tại. Chấp nhận lo việc hốt phân là cố giữ cái thấy và sự suy nghĩ về pháp hữu lậu; chẳng luận các địa thanh tịnh, trí huệ. Tay trái dụ cho thật. Tay phải dụ cho quyền. Quyền dụng phương tiện dễ dàng; chính mình dùng pháp nầy để đến đoạn kết (sử) và thành Phật. Lại dùng người hóa hiện nầy.
Lại có chỗ sợ hãi; nghĩa là cũng giống như sự sanh tử. Lại có gió lạnh mùa đông và lúa cho ngựa ăn là báo (nghiệp).
Từ “bảo những người làm” trở đi; phần thứ 4 nói về việc gần gũi, dạy cho con làm việc. Thí dụ nầy tức là 7 tư liệu pháp môn trong đạo phẩm vậy. Dùng sự hiển bày để trừ tướng dơ của phẩn. Các con tâm đã sáng tỏ cùng nhau chạy ra khỏi nhà lửa. Một là thí dụ nói cho người làm công. Dụ về Tứ Niệm Xứ, là việc ở phạm vi bên ngoài. Hai là khuyến khích cho người làm chớ được giải đãi. Dụ về Tứ Chánh Cần. Ba là cho những đứa con ra khỏi, chớ chạy trở lại. Dụ cho Tứ Như Ý Túc. Bốn là thích tự an ổn ý chí; nên gọi là thí dụ về sự an ủi. Dụ cho 5 căn. Năm là từ “vì sao vậy” trở đi gọi là dụ cho việc không ra khỏi 5 căn ấy. Dụ cho 5 lực. Bốn câu trước đây là phần hai bên trong của phàm (phu) vị. Sáu là lúc ấy Trưởng Giả tự viết tên con mình. Đây là dụ cho Bát Chánh (Đạo) và bảy là “tuy vui mừng khi gặp”; gọi đây là sự dạy bảo dụ cho trừ khỏi phẩn dơ. Bảy là giác. Hai câu nầy tức là 3 Thánh Vị vậy. Nay ban đầu nói về những người làm. Tức nói về 3 tạng để chỉ cho Tứ Niệm Xứ, là đồ trừ phẩn, đoạn kết (sử) cảnh giới.
Kinh Di Giáo nói rằng: Thường nương niệm xứ để hành đạo thì có thể phá được tứ (điên) đảo. Khi biết rằng trong nhà lửa ấy theo sự mong cầu mà can đảm lên, đây tức là Văn Huệ. Phần thứ 2 chớ được lười biếng tức là khuyến khích tu Tứ Niệm Xứ. Nếu khởi lên sự giải đãi; tức là chẳng thể diệt hai việc ác; chẳng thể sanh 2 việc thiện. Dùng 2 việc ấy để khuyên, cho nên có thể phát ra cháy ấm. Ngược lại lửa cháy nhà làm cho thôi thúc; nên nhập vào Tu Huệ noãn vị. Dùng phương tiện cho nên được gần gũi con. Niệm xứ chưa được cái lý của lửa làm cho ấm tâm. Dụ nầy nghĩa là bên ngoài chẳng thể gần gũi. Dùng lúc ban đầu được noãn phương tiện. Tức là có thể gần gũi được.
Phần thứ 3 là đốt những người con trai nghĩa là sự đốt cháy nầy làm cho kinh ngạc và rõ biết là trách nhiệm. Bên trên phần Chánh Cần nói về sự ngổn ngang động tỉnh tức là trí pháp. Như người con trai kia là dương tánh; như ý túc kia là định tánh. Còn người nữ là âm tánh. Giỏi dùng Chánh Cần để sách tấn; nhưng chẳng được cùng với chơn tương ưng; cho nên đốt cháy, sợ hãi và trách nhiệm. Nay lại xả bỏ, tản mác và vào chỗ yên tĩnh. Cho nên sự đốt cháy những người con trai cũng như ngươi thường tạo ra việc nầy chẳng thể chạy trở lại được. Niệm xứ Chánh cần, động chẳng chuyển đổi một; nên gọi là thường. Trong đó Tứ Như Ý, định ấy chẳng khác với duyên. Tư duy ấy tức là định tư duy; tức là đoạn. Định, đoạn chuyên nhứt; cho nên thường. Chẳng phân chia, động loạn; cho nên chớ trở lại. Đây là dụ cho sự hỗ tương hối thúc sự bài trừ. Tức là Đảnh Pháp Vị vậy.
“Sẽ trả thêm lương” nghĩa là Noãn Pháp Ý quán, chẳng thể phát ra chơn (thật). Như trong ý quán thì có thể phát ra vô lậu; cho nên nói là thêm giá. Nếu có chỗ đầy đủ nghĩa là lậu, vô lậu, lành trợ đạo và chánh đạo. Tất cả đều là từ như ý quán cầu. Muốn đủ tức là được. Tứ Thiền có thể bao gồm những cành lá như là đồ đầy đủ; sanh không, thô như lúa; pháp không, tế như bột mì. Đây tức là chánh đạo. Tứ Đế trở đi 16 đế quán. Vô thường giống như muối và khổ giống như giấm. Đây tức là trợ đạo. Như lúa mạch khó ăn được khi hòa chung với muối và giấm. Chánh đạo khó hiểu được trợ đạo khi trợ giúp. “Chưa tự nghi nan” nghĩa là việc kết luận bên trên về chánh trợ. Chi tiết tại như ý quán; cho nên chớ nghi ngờ, mà quyết định có thể biện giải như vật nầy, chớ nghĩ nghi nan. Lại có người tớ già xấu tệ hay muốn gặp ngay người giúp việc tay chân như người sứ giả làm kẻ sai bảo; giống như trong ý quan niệm lại cũng có thông qua điều nầy. Thông thường việc yếu đuối đồng nghĩa với việc già tệ. Tuy chẳng phải là người mạnh khỏe nhưng lại có thể sai vặt. Lại dùng chánh đạo để cầu lý mà chánh đạo yếu, chưa thể phát chơn được, muốn đủ trợ đạo thì cửu tưởng, thập tưởng, tám bội xả v.v... Trợ đạo là người sứ, như trong ý quán, lại cũng có pháp nầy. Nếu được trợ (đạo) trợ giúp chánh thì sẽ cùng thành người giải thoát.
Phần thứ 4 là vui tự ý an là được 5 căn anổn khó hoại. “Ta như cha của ngươi” nghĩa là cố gắng gần gũi, giống nhưng chưa thật; cho nên nói là “giống như cha”; lại là như con. “Chớ có lo buồn” là làm cho ý được an ổn, phá tan chỗ thấy và suy nghĩ.
Phần thứ 5 nói: “ta già, ngươi trẻ” giống như khi Phật tịch rồi thì tất cả trí đều đoạn dứt; cho nên nói là già nua. “Ngươi ở nơi đạo, trước sau có trí đoạn”; cho nên nói là thiếu niên. Đây chính là nhẫn pháp vị vậy.
“Vô ngũ quá” nghĩa là được 5 lực, lìa 5 pháp ác. Được tín lực; cho nên chẳng dối lừa. Tinh tấn lực cho nên chẳng giải đãi; niệm lực cho nên chẳng sân; định lực cho nên chẳng hận; huệ lực cho nên chẳng nói lời oán hờn.
“Người làm dư” nghĩa là chỉ xa cho ngoại đạo vậy. Đi tìm cái thấy để cầu lý, nên gọi là “dư tác nhơn”. Gần thì chỉ cho Noãn Đẳng 4 vị, chưa khỏi 5 quá. Lại cũng có tên là “dư tán nhơn”. Câu văn nầy không có “ngũ quá”; tức là “ngũ lực” vậy. “Từ nay về sau ngươi như con của ta”. Hạ nhẫn 16 sát na, thời tiết giống như sự trưởng thành. Trung nhẫn tuy phải quán lại, lại chưa phải là một sát na. Còn thượng nhẫn, thế gian tối hậu là một sát na của tâm. Gần thành bực Thánh; cho nên ngôi vị nầy sánh như con ruột vậy; tức là “thế đệ nhứt pháp vị”.
Phần thứ 6 “lúc ấy Trưởng Giả liền cùng viết lên chữ con”. Đây là được bát chánh, nhập vào kiến đạo, chạy đua cùng. Cho nên gọi là con. Thế đệ nhứt pháp cùng với chơn (chánh) chẳng lâu dài; cho nên nói là: liền lúc ấy. Trong kinh A Hàm nói có 5 loại Phật Tử. Bốn quả và Bích Chi Phật gọi là Chơn Phật Tử. Bồ Tát không đoạn kết (sử) thì nghĩa con ấy chưa thành tựu.
“Lúc bấy giờ gã cùng tử tuy vui mừng về sự gặp gỡ này” trở đi; phần thứ 7 thường thí dụ cho công việc đảm đang. Thí dụ ấy tuy nói là con; nhưng suy nghĩ chưa tường tận là dụ cho ở các học vị chưa được việc chẳng khó; cho nên trong 20 năm trường thường sai hốt phân. Lại cũng tự rõ biết mình chẳng thể đảm nhận được việc lớn. Chính là nương vào lời dạy tu hành hết khổ. Cho nên nói dụ ấy là tự cho mình là khách làm giặc. Nếu được sở quả thì trốn nhỏ, vui lớn.
“Đại Thừa cơ phát” tức là nên cầm giữ Đại Thừa. Lại nữa chẳng đủ đoạn tấn và còn lại kết. Chính là do chẳng bỏ nhỏ, nay được cơ duyên lớn, không phát khởi. Đây là điều ngăn cản, làm chỗ nương tựa học hỏi cho hết lậu (hoặc). Do vậy mới nói rằng: Cả 20 năm thường sai hốt phân. Hai mươi năm ấy là thấy chân lý giải thoát và vô ngại. Suy nghĩ về 9 vô ngại và 9 giải thoát. Cho nên nói là 20 năm. Lại nữa nói rằng: thấy, tư hai đường; giữa đó đoạn kết (sử); gọi là 20 năm. Lại bảo có 5 phần dưới và 5 phần trên; là vì 20 năm nầy. Lại bảo rằng: dụ ấy đối với hai thừa và trong pháp ấy đoạn lấy tư, hoặc vậy; gọi là 20 năm. Lại bảo rằng: nương vào 2 người sứ giả, cùng đoạn dư, kết; cho nên nói là 20 năm. Từ có 2 thừa là cơ duyên mà đến cảm Phật; cho nên nói rằng: tự thấy người con đến rồi, 20 năm. Nếu trụ ở Nhị Thừa vị, chuyển qua Đại Thừa giáo thì đây gọi là trong 20 năm ấy chấp tác làm việc nhà. Hai mươi lời nói ấy giống với mỗi mỗi cái có ấy. Chỉ có câu nầy; tức là ra khỏi 3 cõi hỏa trạch vị.
“Qua khỏi đây về sau” trở đi; phần thứ 4 là giao phó cho việc nhà. Dụ nầy gần thì cho xe để ra khỏi nhà lửa. Xa thì giao cho pháp vô thượng đạo. Tựu chung điều nầy có 2 việc. Đầu tiên là lãnh và sau đó là giao. Mỗi thứ có 2 việc. Cùng lãnh nhà lửa với việc cho xe lại có 4 ý. Lại là Phương Tiện phẩm hiển thật 4 ý. Phần đầu 2 chương là một lòng tướng, thể và tín. Tức là lãnh rồi được khỏi nạn. Hai là ủy thác cho gia nghiệp, dần dần thông thái, thành tựu chí lớn; liền lãnh những xe ấy. Sau 2 chương; một là phó thác cho gia nghiệp tức là lãnh nhận việc cho xe; hai là được giao cho; nên vui mừng, liền lãnh và được xe vui vẻ. Do tâm, tướng, thể. Cho nên được ủy thác cho gia nghiệp. Gia nghiệp được am tường tất nhiên đều rõ biết tất cả, thành tựu được chí lớn. Do ý chí mà được thông thái, được giao phó cho gia nghiệp. Khi được gia nghiệp lại vui mừng. Do có gần, xa. Nếu trước đó chẳng dạy việc đảm đang công việc và trả giá cho từng ngày thì há được tướng, thể để ủy thác cho gia nghiệp và tài sản của cải sao. Bên trong hợp với lý do của ba tạng, đoạn trừ kết (sử), kham nhẫn việc nghe Đại Thừa, thọ nhận thanh tịnh; nên gọi là chuyển qua dạy Bát Nhã; nếu mà giao phó cho tài sản. Nên biết rằng: đảm trách công việc, giữ lấy giá cả, tức là lý do xa. Thể, tín ủy thác gia nghiệp tức là lý do gần. Lại nữa phía trước có thí dụ về việc dụ dỗ; có chỗ khuyên lơn tế nhị, như khi ban đầu từ khi ở dưới cây đạo thọ và sau cùng đến ra khỏi nhà; lại có tìm tòi lãnh hội. Ban đầu chính tự pháp thân và cuối cùng là suy nghĩ hết. Nay sự lãnh nhận ấy có 2. Đầu tiên là tìm tòi lãnh nhận từ bi tử vị điều thục. Cuối cùng là nhận lãnh sự giao phó tài sản, cứu cánh một vị. Xa gần, trước sau hợp lại luận bàn là ngũ vị. Vì sao vậy ? Liền bảo với người bên cạnh. Người bên cạnh ở đây là nói thí dụ về Hoa Nghiêm viên đốn. Lời dạy nầy đầu tiên. Người bên cạnh nầy dụ cho trâu. Chỗ nói dụ cho sữa. Bên trong hợp lại từ khi Phật ra đời 12 bộ kinh; tức là sơ vị vậy. Dùng đầy đủ củng cố cho người nhị thừa. Không có nhân duyên; nên chẳng thọ nhận sự mê mờ, giận dữ ở đất xấu. Ở đây hoàn toàn thuộc mùi vị của sữa. Kế đến làm rõ chỗ mật sai 2 người nói là chỉ để hốt phân. Dụ nầy để nói về Đại (Thừa) sau khi ở Lộc Uyển lại nói làm 3. Đối với Tiểu (Thừa) tin đây là khía cạnh của Phàm thành Thánh. Như chuyển đổi từ sữa thành lạc. Bên trong hợp từ 12 bộ kinh đã có; tức là 2 vị nầy vậy.
Kế đến làm sáng tỏ tâm, tướng, thể, tín vào ra chẳng khó khăn. Đây là dụ cho 3 tạng sau khi nói Phương Đẳng, Tịnh Danh (Duy Ma Cật) đưa ra Đại (Thừa) và bẻ Tiểu (Thừa). Nhị Thừa nghe Đại (Thừa) không hủy báng và bẻ gãy Tiểu (Thừa) chẳng trở lui. Đây cũng chính là nơi 3 tạng đoạn kết, giữ giá một ngày. Được rồi vui vẻ với sự trả giá rẻ; nếu chưa đoạn được kết (sử) chẳng kham nghe khi tuyên dương việc lớn. Như phía trước chẳng thọ lãnh sự khuyên bảo; lại chẳng kham nghe lời bẻ gãy Tiểu (Thừa). Như trước chẳng thọ nhận về sự khuyên răn, mà nay chẳng hủy báng lại chẳng trở lui. Đây chính là tâm, tướng, thể, tín vậy. Thân cận tức là chứng Tiểu (Thừa); nghĩa là tin Đại (Thừa) chẳng hư dối. Được cái giá Niết Bàn; cho nên thể ấy bẻ gãy sự sân hận. Tuy chẳng phải việc nầy mà chẳng nghi ngờ, phỉ báng. Tâm nầy đôn thục như từ lạc biến thành tô vậy. Bên trong thì hợp với kinh điển như kinh Phương Đẳng ở đệ tam vị.
Kế tiếp làm sáng tỏ việc Trưởng Giả tự rõ biết sẽ chết, chẳng còn bao lâu nữa. Thí dụ nầy nói về phương đẳng, tâm, tướng, thể, tín vào ra chẳng khó khăn, sau đó lại ủy thác cho gia nghiệp. Khiến sự dạy dỗ kia làm cho các Bồ Tát nói Ma Ha Bát Nhã; tức thời lãnh hội rõ biết các vật và suốt thông các pháp môn. Tâm làm sáng tỏ cho miệng biện hộ sự lợi ích chưa được vui; nên thường hay ở nơi Tiểu (Thừa); chẳng phải là điều đã phân chia. Thoát ra khỏi rồi, liền hứa cho, há chẳng vui sao! Đối với tâm nầy dần dần thông thái, thành tựu chí lớn; giống như sanh tô biến thành thục tô (sữa tốt nhất). Đây nghĩa là từ Phương Đẳng qua đến thời Bát Nhã thuộc phần đệ tứ vị.
Kế đến lúc lâm chung ra lệnh cho đứa con. Dụ nầy là dụ cho sau thời Bát Nhã, do tánh đã định sẵn, cha con gặp nhau trở về 3 và giao phó một phần tài sản, như nói kinh Pháp Hoa vậy. Đây là khai mở Phật tri kiến để chỉ bày tướng chơn thật của Bồ Tát, trừ nghi của Thanh Văn để làm Phật. Xong rồi sau khi Như Lai diệt độ cũng diệt độ theo. Giống như từ thục tô qua đến đề hồ cũng đồng thời từ Ma Ha Bát Nhã đến Đại Niết Bàn vậy. Đây thuộc về đệ ngũ vị.
Bốn Đại Đệ Tử lãnh sâu ý Phật, thám lãnh một hóa ra 5 vị để dạy vậy. Trước sau lần lượt như câu văn nầy. Câu văn về lãnh gia nghiệp lại chia ra làm 2. Một là tướng, thể và tín. Hai là mệnh lãnh nghiệp. Tựu chung thể, tín ấy lại cũng có 2. Trước tiên làm rõ chỗ thể, tín. Hai là dụ cho cư bổn vị. Nay tướng đầu tiên là sự hỗ tương với tín. Nghĩa là đối với 3 tạng được giá Niết Bàn. Điều nầy chẳng hư vọng. Nay vì Bồ Tát mà nói điều nầy cho Đại Thừa lại cũng chẳng phải hư vọng. Điều nầy nghĩa là con tin nơi cha. Phật rõ biết điều nầy sánh với sự thấy, suy nghĩ đã đoạn và khi nghe thì chẳng phỉ báng, vô lậu căn lợi, khi nghe thì sanh lòng tin. Đây tức là cha tin con. Điều nầy thấy được thân Tôn Đặc (Lô Xá Na Phật); nghe giáo pháp Đại Thừa; nên gọi là nhập. Lại bị bẻ gãy, giống như thấy một trượng sáu nói pháp Tiểu Thừa; gọi đây là ra. Lớn, nhỏ, ra, vào mà chẳng gặp khó khăn.
Phần thứ 2 dừng lại để dụ cho bổn xưa. Tuy là có vào ra nhưng chẳng khó khi nghe Đại Thừa; mà đây cũng là công việc của Bồ Tát, chẳng phải lấy trí để phân chia; chẳng lui trở lại Tiểu (Thừa) mà hướng đến Đại (Thừa). Giống như ở bậc La Hán chẳng nói vị lai sẽ được làm Phật. Điều nầy nghĩa là lãnh nhận Đại (Thừa) nghe lời dạy của Tịnh Danh (Duy Ma Cật) như Tô vậy.
Từ “Thế Tôn, lúc bấy giờ Trưởng Giả bị bịnh” trở đi; phần thứ 2 là ủy thác gia nghiệp. Sự lãnh nhận nầy trong Đại Phẩm, Đức Phật ra lệnh truyền dạy Bát Nhã, tức là dạy Thục Tô (việc đã chín muồi). Chung quy việc nầy lại chia ra làm 2. Một là ra lệnh cho cả nhà biết và hai là người thọ nhận mệnh lệnh nầy rõ. Hai chương ấy mỗi mỗi đều có 4. Đầu tiên nói về 4 ấy: Một là làm rõ thời gian; hai là chính thức mệnh lệnh cho cả gia đình biết; ba là khuyên lơn về thân thể và tâm của ta; bốn là bảo ban đừng cho mất mát. Việc đầu tiên là (người cha) sẽ chết; chẳng biết lâu mau. Có nhân duyên tức là sẽ có sanh; cơ duyên hết thì cũng nên cảm tạ về sự chết. Nay hóa duyên đã mãn; nên từ tạ, không bao lâu nữa.
“Nói cho gã cùng tử rằng ta nay có nhiều” trở đi; phần thứ 2 là ra lệnh cho cả nhà biết sự việc. Vàng ở đây tức là lời dạy riêng Biệt (giáo); bạc ở đây tức là giáo lý về Thông (giáo). Nơi Đại Phẩm làm việc rõ về chơn đế chẳng ra khỏi 2 việc nầy, mà nói là có nhiều. Lý ấy tức chẳng phải nhiều; nhưng đối với đủ loại (pháp) môn thì lại nói là nhiều. Ví dụ như không ra ngoài 18. Phá 18 pháp ấy gọi là 18 không. Trong khuyến học thì làm rõ tất cả các pháp môn. Tất cả đều là trân bảo vậy. Thương đây chính là định môn; tức là 183 vị. Khố ấy là huệ môn, gồm 18 cảnh giới không. Thông, Biệt cả 2 loại định huệ gọi là Thương Khố (kho chứa). Bao gồm tất cả thiền định trí huệ, chẳng có chỗ thiếu khuyết. Bên trong thì sung mãn; bên ngoài ích lợi; cho nên nói là nhiều lắm. Trong nầy có ít nhiều tức là nói về Bát Nhã; tức là có chỗ rộng và lược nhị môn. Bồ Tát thực hành Bát Nhã nên rõ biết tướng của việc lược và rộng nầy. Lược ấy là ít và rộng ấy là nhiều. Tự thực hành làm chỗ để giáo hóa kẻ khác làm cùng. Trong Đại Phẩm nói rằng: Ngươi sẽ vì Bồ Tát mà nói; cho nên nói: ngươi tất sẽ rõ.
Từ “tâm ta như thế” trở đi; phần thứ 3 khuyên bảo về thể của tâm ta. Phật dùng Bát Nhã làm tâm. Người nay truyền chứng sẽ theo ý Phật nói. Lại nữa người Nhị Thừa căn bản về sự giải thích nầy là bẻ gãy pháp không. Lệnh là thể của ý nầy. Mệnh lệnh ấy chuyển giáo và dùng sự khuyên răn làm cho giống với thể pháp không của ta. Lúc xưa bị ra lệnh; nghĩa là truyền đăng cùng kia. Nay nhờ rõ biết Phật, làm cho ta hiểu rõ thể của môn. Cho nên nói về đương thể của ý nầy. Nay ta cùng với ngươi lại chẳng khác biệt. Giải thích việc nầy có 3. Một là bị thêm, làm cho nói cùng với Phật chẳng khác; hai là chung quy cái lý là dùng các pháp đều như; nên được sự chẳng khác. Thiện Khiết như; Như Lai như; một như chứ không có hai như. Cho nên nói liền chẳng có khác. Ba là rốt cùng là bây giờ. Đầu tiên rõ biết thiên tánh của cha con bản lai chẳng khác; mà người Nhị Thừa thì tự nghĩ bị thêm khác vậy.
Từ “nói thêm dụng tâm” trở đi; phần thứ 4 là bảo cho đừng làm thất thoát. Ngươi vì Bồ Tát mà nói Bát Nhã, dạy không, làm cho chẳng thất thoát. Hai là cuối cùng lý nầy tức là pháp của ngươi sau đó mới dùng đến. Cho nên chẳng làm cho thất thoát. Tức thời nhận lời dạy bảo. Phần thứ 2 là thọ nhận mệnh lệnh nầy chia làm 4. Một là chính thức thọ nhận mệnh lệnh rõ biết. Hai là chẳng thể giữ. Thiện Kiết tuy là nói Bát Nhã; nhưng không tự phân biệt về ngã ấy không. Ba là chưa xả bỏ tâm yếu kém; giống như ở bổn xứ. Trụ ở vị A La Hán. Tuy là chưa được Đại (Thừa), lại chưa định, mà nói là muốn làm Bồ Tát. Chưa xả bỏ tâm nhỏ nghĩa là tuy có tâm xấu hổ về việc nhỏ, lại chưa định mà nói xả với việc chứng nhỏ. Bốn là “trải qua lúc nhỏ người cha rất rõ ý con”; tức là dụ cho việc lãnh xe bên trên. Bỏ cái tâm trước kia, muốn cầu đại đạo và cơ duyên lớn đã đến.
Hỏi: Lúc nào gọi là lúc nhỏ ?
Đáp: Một cách nói là Bát Nhã. Đối với nơi khác thấy vậy. Tìm đến chỗ để nhận lãnh Đại Thừa pháp môn sanh tâm tham vui, vì mất và vì chẳng mất. Như những tầm tư nầy; tức là lúc mà cơ duyên Đại Thừa đã phát. Lúc nầy Bát Nhã, Pháp Hoa chưa xa; cho nên nói là niên thiếu. Lại nữa khi nói Vô Lượng nghĩa thì căn cơ Đại Thừa đã phát, sao lại lấy đó rõ biết được ? – Trong Vô Lượng nghĩa làm rõ 7 loại phương tiện vô lượng, dần đốn và từ một pháp sanh; liền nghe thuyết nầy, suy nghĩ xưa có 3 tạng 3 thừa, tất nhiên cũng từ một pháp sanh. Như 3 thừa nầy cũng nên nhập vào một. Thời kỳ suy nghĩ như vậy dần dần thông thái, tâm lớn liền phát khởi. Cho nên nói là thành tựu chí lớn vậy.
Từ “lâm dục chung thời” trở đi; phần thứ 2 chính thức giao phó việc nhà. Lại chia làm 2. Một là giao phó sự nghiệp. Hai là vui mừng. Phần đầu lại có 4. Một là lúc giao phó sự nghiệp; hai là bảo mọi người làm chứng cho con; ba là kết hợp cha con và bốn là chính thức giao phó cho gia nghiệp. Lúc giao phó sự nghiệp là lúc trước khi chết. Đây là làm rõ thời gian hóa duyên đã mãn, nói kinh Pháp Hoa 8 năm sau cùng tại Linh Sơn, lúc mà báo tin sẽ vào Niết Bàn.
Từ “mà mệnh lệnh cho đứa con nầy” trở đi; phần thứ 2 là tập hợp mọi người lại, liền có 2 vạn ức Phật đến thọ nhận việc nầy. Gọi đây là vì đứa con. Khi đại cơ đã thuần thục thì 10 phương vân tập. Bên trên thì có 4 chúng vây quanh cùng với thân tộc. Xưa nói rằng: phân thân như thân tộc; thập địa như quốc vương; cửu địa như Đại Thần; Bát Địa như Sát Đế Lợi; thất địa như Cư Sĩ. Người phía Bắc dùng phân thân như thân tộc. Đa Bảo là Quốc Vương. Thập Địa là Đại Thần. Bát Địa là Sát Đế Lợi. 30 tâm là Cư Sĩ. Nếu như vậy thì Tích Môn thuyết pháp; phân thân Đa Bảo cũng chưa hiện tiền. Sao lại được chỉ cho việc nầy?
Kia giải thích rằng: chính vì lúc Thân Tử (Xá Lợi Phất) hoài nghi, đối với Pháp Hoa chưa thể sinh lòng tin. Cho nên Đa Bảo phân thân một lúc đến để chứng minh. Nếu nghi trừ Tín Giải và Thọ Ký đã xong rồi. Lại dùng đến Đa Bảo để chứng minh cho điều gì ? Do rõ biết lúc nói pháp; cho nên Đa Bảo đã xuất hiện. Khi đã xuất hiện, nói chẳng được yên. Vì tạo lần lượt nguyên nhơn để phía sau cánh cửa. Nay nghĩa là người nầy, tình chẳng dùng chấp vào sự nương cậy. Nói Tích Môn là việc gần, chưa dùng đến cái chứng đạo ngày xưa. Nếu nói Bổn Môn là việc xa thì tất nhiên trước đó đủ để chứng rồi. Nay chẳng dùng kia để giải thích, mà nương vào kinh Tát Vân v.v...
Nay làm rõ thập phương pháp thân Bồ Tát ảnh hưởng là vì thân tộc. Ảnh hưởng ở đây phần nhiều là những người thân của Đức Thích Ca ngày xưa. Cùng với Như Lai có 2 vạn ức Phật đã cùng khai hóa. Đối với Tất Đàn (Trí) nầy là những việc làm của thúc, bá. Cho nên dùng điều nầy gọi là thân tộc. Quốc Vương ở đây là tất cả các kinh tiệm, đốn. Chẳng phải chẳng gọi nơi chốn tỏ tường là Kinh Vương. Theo căn cơ lợi ích cùng với lúc bị phế bỏ. Bộ bộ chẳng giống nhau; cho nên nói là quốc (gia). Tất cả đều là số một; nên gọi là Vua. Lại nữa kinh nầy hợp thông với các giáo pháp, há chẳng tụ tập lại với Vua sao ? Cho nên trong Vô Lượng nghĩa, trước đã thu thập về việc nầy.
Kia nói rằng: Đầu tiên nói Tứ Đế, 12 duyên sanh. Kế đó nói Phương Đẳng 12 bộ kinh. Tiếp đó nói Ma Ha Bát Nhã, Hoa Nghiêm phải không. Đây tức là gồm tất cả các kinh, dung thông tiệm, đốn, hội nhập với điển tích nầy. Cho nên gọi là gặp gỡ Quốc Vương.
Di Lặc cùng với các vị Bồ Tát; tất cả những vị Đẳng Giác làm Đại Thần. Sơ địa đến cửu địa làm Sát Đế Lợi. Pháp vương chủng tánh sanh ra trong ấy. 30 tâm làm Cư Sĩ. Tất cả đều nhận từ sự giáo hóa của Đức Thích Ca.
Từ “các vị nên biết” trở đi; phần thứ 3 là cha con gặp nhau. Thật ra ta đã biết từ xưa, thật là con của ta. Từ ta mà lớn lên và biết là chỗ ta sanh ra và ta đã từng gặp hai vạn ức Phật thường giáo hóa pháp lớn. Cho nên ta thật là cha của ngươi và ở trong thành nầy. Bài kinh nầy thuộc câu văn nước phía Tây (Ấn Độ) qua nhiều lần sai khác; hoặc có thể nói ngày xưa gọi chữ là quốc thổ như Đại Thông Trí Thắng nhơn duyên. Nay giản lược gọi bằng chữ trực tiếp là Mổ, Giáp v.v... Đây là những chúng sanh phản lại Đại Thừa nầy, khởi lên vô minh ám độn; nên vào sanh tử; cho nên nói rằng bỏ đây chạy kia. Bị kinh Lục Thú cho rằng: hơn 500 năm. Xưa kia tại thành chánh đã nhớ kỹ lo lắng về điều gì ? Tự xưa ở nơi pháp thân, thường dùng hai trái để quan sát, có thể biến hóa cơ duyên. Đầu tiên đối với ngày nay là cảm ứng đạo giao. Cho nên nói sự sao lãng đối với việc nầy là cơ hội gặp để thấy.
Từ “nay ta có” trở đi; phần thứ 4 chính thức giao phó gia nghiệp; tất cả Đại Thừa vạn hạnh vạn đức. Do vậy nói là: tất cả sở hữu. Trước đây, chỗ ra vào, người con đều rõ biết. Theo đó xưa và nay Đại Phẩm chỉ bày chỗ ủy thác có rộng, lược về Bát Nhã cộng và chẳng cộng pháp. Do ngươi rõ biết; tức là ngươi sở hữu. Cho nên Pháp Hoa hay làm rõ chỗ tri kiến Phật. Chẳng liền rộng nói tất cả hành tướng vậy.
Từ “Phật tử nghe cha nói lời nầy” trở đi; phần thứ 2 tức là được giao phó hoan hỷ. Nhận lãnh các xe lớn là được điều chưa từng có. Tự nhìn lại chẳng có tâm mong được con đường Phật, mà nay lại hốt hoảng nghe được thọ ký làm Phật. Cho nên nói là chẳng cầu mà tự được. Trong Tam Tạng thì Bản Tâm chẳng cầu; trong Phương Đẳng, xấu hổ ít mong hết; cho nên chẳng cầu. Trong Bát Nhã chỉ có lãnh giải về chẳng phân biệt nầy; cho nên chẳng cầu. Như đây chẳng cầu, mà nay thì tự được.
Từ “Thế Tôn! Vị Đại Phú Trưởng Giả” trở đi; phần thứ 2 hợp dụ với hợp dụ của Quang Trạch. Hoặc trước, hoặc sau giải thích quá giản lược. Nay lại nương vào câu văn để điểm ý nên chẳng trở lại với phía người con. Hợp dụ lược nghĩa là quý ấy tại được như ý; chẳng phải là lời nói lãng phí. Đại Phú Trưởng Giả là thí dụ gặp lại giữa cha con đã mất lâu nay. Câu văn dụ nầy chia ra làm 4. Sự gặp gỡ giữa cha con, tựu chung là ngoài sự tưởng tượng. Gặp Như Lai là gặp người cha, giống như liền gặp con. Sự giống nầy có 2 nghĩa. Một là giữ cơ duyên lớn làm con. Ngày xưa chưa từng bỏ trốn đi, tức là chưa vào chơn vị; giống như ở bên ngoài phàm phu; cho nên nói là giống. Dùng cơ duyên nhỏ làm con. Cơ duyên nhỏ ấy giống với căn tánh Đại Thừa. Người con liền chạy đi tìm cha mà nói giống như thế v.v...
Hỏi: Ở phẩm đầu giải thích rằng đã được nhập chơn. Sao nay nói điều nầy giống ?
Đáp: Ở đây người con chạy trốn lúc ấy người cha nói là giống. Phẩm đầu làm sáng tỏ chỗ khai ngộ. Ngươi hỏi chẳng phải vậy.
Từ ”Như Lai thường nói chúng con là con“ trở đi; Đây là dụ cho chỗ cha con gặp nhau. Khi gặp, Trưởng Giả thấy con liền nhận ra.
Từ “chúng con dùng 3 khổ; cho nên” trở đi. Khi gặp thì theo dụ dỗ. Bên trên có 2 việc dụ về việc truy tầm bên cạnh. Nay gặp nhau lại có 2. Bên trên đầu tiên là theo dụ của người bạn. Kế đến lại đuổi theo. Kế tiếp lại thả ra. Nay sự gặp gỡ giữa 2 cánh cửa chẳng có cơ duyên. Sao lại thấy việc bắt ép và tự nghĩ là vô tội. Sự gặp gỡ ấy lại chẳng có nhơn duyên lớn. Vui đắm nơi pháp nhỏ; sự gặp ấy lại có chí nhỏ, chẳng hợp nên thả ra. Ngày nay Đức Thế Tôn làm cho chúng ta gặp nhau với 2 thí dụ nầy. Bên trên chỉ dạy tỏ tường việc thám lãnh (đảm đang), nay gặp nhau có 2 ý.
Từ “độc trừ” trở đi; gặp nhau chỉ bày tỉ mỉ để giải thích việc trên.
Từ “chúng con đối với trong đây khuyên thêm tinh tấn” trở đi. Gặp bên trên là tìm để hốt phân. Được đến Niết Bàn là gặp nhau ở trước trả giá.
Từ “Thế rồi Đức Thế Tôn, trước rõ biết chúng con” trở đi. Gặp bên trên dò xét. Bên trên dụ ấy có 4 và nay sự gặp nhau ấy còn 3. Chẳng gặp nhau ở việc làm chánh giáo. Chỉ cho việc bên trên khuyến khích làm thêm việc hốt phân tức là kiêm thêm; chẳng liền gặp vậy. Bên trên nói về trông thấy còn nay thì nói trước rõ biết. Bên trên nói: ốm o, tiều tụy; nay thì nói tâm nhiễm trước điều tệ hại. Bên trên nói rằng lúc rời khỏi anh lạc, liền dính mắc chỗ thô dơ. Nay nói liền thấy và bỏ đi chẳng vì phân biệt từng phần của bảo tạng.
Từ “Dùng phương tiện lực nói về trí tuệ của Như Lai” trở đi dụ cho việc gặp nhau rồi, giao phó cho gia nghiệp. Bên trên có lý do để giao phó. Nay sự gặp nhau ấy lại có 2. Lý do ấy lại có 2. Một là cảm thấy tin tưởng; hai là ủy thác gia nhập. Nay sự gặp gỡ lại có 2. Một là cảm thấy tin tưởng cũng có 2. Trước là gặp và thể hiện lòng tin. Dùng phương tiện lực để nói về trí tuệ của Như Lai. Ngày xưa bảo rằng: cái nhơn về trí tuệ của Như Lai và cái quả là giữ làm Nhị Thừa. Nay làm rõ chỗ dùng Tam Thừa làm phương tiện, nói Đại Thừa thật tướng; cho nên nói dùng phương tiện lực. Đối với chúng con, trước nói pháp Đại Thừa; lại sự gặp gỡ nầy vào ra cũng chẳng khó. Dùng phương tiện lực để ra, biện giải cho Nhị Thừa. Dùng Phật trí lực để nhập vào chỗ sáng của thật tướng. Nếu chẳng thể tin được thì há đối với ta phía trước đã làm sáng tỏ trí huệ Phật ?
Từ “chúng con từ Phật được Niết Bàn, giá của một ngày” trở đi. Sự gặp nhau ấy giống như ở nơi chính.
Từ “chúng con lại do cái nhơn của trí tuệ Như Lai” trở đi; gặp nhau rồi lại lãnh gia nghiệp. Bên trên có mệnh lệnh, có sự thọ nhận. Nay lại gặp và thọ lãnh. Sự thọ lãnh ấy lại có 4. Một là thọ nhận mệnh lệnh; hai là chẳng có hy vọng để giữ lấy; ba là chẳng có kẻ yếu đuối; bốn là dần dần thông thái. Nay sự gặp gỡ ấy có 2. Đầu tiên là gặp rồi thọ nhận mệnh lệnh và lãnh gia nghiệp, mà tự đối với việc nầy. Sự gặp gỡ ấy chẳng hy vọng giữ lại mà còn kiêm thêm việc được nữa. Kẻ chẳng có chí nguyện thì làm rõ nơi Phật gia hộ thêm uy lực làm giống như tâm Phật mà nói. Cho nên ta chẳng có chí nguyện.
Từ “vì sao vậy” trở đi giải thích chỗ chẳng có hy vọng nắm giữ ý chí. Dùng phương tiện lực rồi tùy tâm Tiểu Thừa mà nói không phân biệt. Do điều nầy cho nên chẳng rõ là chơn Phật Tử. Sở dĩ chẳng nhận giữ vì Phật dùng phương tiện lực để tùy theo chúng con mà nói Phật mang lực phương tiện, dùng thật tướng pháp cùng với việc nói Nhị Thừa. Chúng con chẳng rõ biết chẳng cùng với ý chí. Cho nên chẳng phải là Phật Tử.
Từ “nay chúng con mới rõ” trở đi, gặp nhau rồi giao phó cho gia nghiệp. Bên trên có 2 là có phó chúc và có vui vẻ. Nay sự gặp nhau ấy lại có 2. Bên trên sự phó chúc gia nghiệp ấy có 4. Nay tức là tổng hợp sự phó chúc. Cùng với sự phó chúc ấy có 2. Một là làm sáng tỏ bổn ý của Phật đối với Đại Thừa chẳng có kính trọng. Hai là giải thích việc chẳng kính trọng. Lý do chính là vui với Tiểu Thừa, chẳng sớm phó chúc Đại Thừa. Trong kinh nầy phần phía dưới sẽ đưa ra việc chứng cứ cho xưa và nay. Nay cái lý duy nhất là nên biết ngày xưa 3 ấy chẳng phải thật. Hằng vì chưa sâu sắc. Cho nên đối với Đại Thừa trước thì hủy báng vì tâm nhỏ hẹp. Muốn bỏ điều ngụy và giữ lấy điều chơn. Định ấy rõ biết về việc không kính trọng, rồi Phật mới thật dùng Đại Thừa để giáo hóa.
Từ “chúng con nói gốc vô tâm” trở đi; sự gặp nhau liền hoan hỷ. Lại đối với 3, chẳng cầu nơi ý. 86 hàng rưỡi kệ gồm 73 hàng rưỡi kệ tụng bên trên và kế tiếp 13 hàng tán thán sự suy nghĩ sâu xa của Phật. Đầu tiên lại có 2. Hai hàng đầu tiên tụng về việc thuyết pháp. Sau đó 71 hàng rưỡi tụng về nói thí dụ. Trong việc nói pháp ấy chẳng tụng chẳng cầu; hay tụng việc tự được. Tụng về nói thí dụ. Lại có hai. 41 hàng kệ đầu tụng về lời mở của thí dụ. Kế đến 30 hàng rưỡi tụng về thí dụ việc gặp nhau. Bên trên về lời mở lại có 4. Cha con xa nhau nay gặp lại, rồi ủy thác gia nghiệp tài sản. Nay tất cả đều tụng. Đầu tiên 13 hàng, tụng về việc cha con mất nhau. Phần trên của việc xa nhau nầy lại có 4. Một là người con quay lưng với cha; hai là người cha đi tìm con; ba là người con dần trở lại; bốn là cha nhớ nghĩ đến con. Nay tụng ấy lại có 4; thường chẳng theo thứ lớp. Một hàng rưỡi đầu tiên tụng về lần thứ nhất người con phản bội cha và bỏ ra đi. Kế đến phần thứ 2; 7 hàng, tụng về lần thứ 2 người cha đi tìm con mà chẳng được. Kế tiếp lần thứ 3 gồm 2 hàng, khởi lên lần thứ 4 tụng về việc lo lắng nhớ nghĩ sâu xa. Kế đến phần 4 gồm hai hàng rưỡi tụng về việc đuổi bắt lần thứ 3 mới dần dần trở về lại để gặp cha. Bên trên bốn phần câu văn mỗi mỗi có 2. Nay phần đầu thí dụ như một hàng rưỡi ở phía dưới, hằng tụng về việc con phản bội cha mà đi; chẳng tụng việc hướng về quê hương để trở lại. Trong ngôi nhà lửa ấy làm rõ chỗ Trưởng Giả giàu có như ông vua gồm có cả làng ấp, lời nói. Trong nầy cũng cho thấy rõ gã cùng tử luân hồi trong 3 cõi; gọi là các nước khác và lục đạo ấy là hơn 50 năm rong ruổi.
Từ “người cha nầy lo lắng” trở đi; phần thứ 2 có 27 hàng. Đây là tụng về việc cha tìm con nhưng chẳng gặp. Bên trên lại chia làm 2. Nay tụng ấy lại có 2. Nửa hàng đầu tụng về chưa gặp được con. Sự tìm cầu mệt mỏi gồm 6 câu kệ rưỡi, tụng về việc mất một đứa con, bỏ bê gia nghiệp, rồi tìm cầu 4 phương chẳng giống như trên đây. Ở bên trên 4 phương ấy là tìm cầu cái lý nơi Tứ Đế. Nay 4 phương đây lại thấy 4 loài sanh trong ấy. Việc tìm ấy có thể là cơ duyên để độ.
Tạo lập nhà cửa nghĩa là có hữu dư quốc và hữu dư Niết Bàn. Khởi lên nhà từ bi; nương vào tánh không trạch. Những người lui tới là những Bồ Tát ở quốc độ kia đến đây để nghe pháp.
Từ “mà già nua” trở đi; phần thứ 3 có 2 hàng; tụng phần thứ 4 về lo lắng nhớ nghĩ sâu xa. Câu văn bên trên lại có 2. Đây là tụng về việc trước tiên mất con và nay thì khổ. Chẳng có nơi để ủy thác, giao phó cho nên lo lắng.
Từ “lúc bấy giờ gã cùng tử đi tìm cầu miếng ăn và đồ mặc” trở đi; phần thứ 4 có hai hàng rưỡi; tụng về sự đuổi bắt bên trên; rồi lần thứ 3 dần trở lại và hướng về người cha. Câu văn bên trên lại có 2. Nay tụng lại có 2. Hai hàng đầu tụng về lý do gần gũi cha mình. Do việc cầu ăn mặc.
Từ “dần đến trải qua” trở đi gồm nửa hàng; tụng về việc chính thức gần nơi cha ở. Đầu tiên nói về lý do đến gần. Từ ấp nầy sang ấp nọ. Đây dụ cho căn trần giống như những ấp ấy. 18 giới như một nước. Tu hữu lậu thiện như được sở đắc. Tu nhị thừa thiện, như chẳng chỗ được. Chẳng được pháp Đại Thừa để ăn; vì đó mà đói khát. Chẳng có lực lớn của Đại Thừa cho nên mỏi; chẳng có công đức lớn cho nên chán nản, mòn mỏi. Việc lành có và không như bên trên là khởi lên chỗ thấy, suy nghĩ như là những ung nhọt.
Từ “đảm trách” trở đi gồm 7 hàng rưỡi kệ, tụng lần thứ 2 cha con gặp nhau. Câu văn trên lại có 2. Nay tụng ấy lại có 2. Sáu hàng rưỡi đầu tụng về người con gặp cha. Kế đến một hàng tụng về cha gặp con. Bên trên người con thấy cha, câu văn lại có 4. Nay tụng lại thành
3. Nửa hàng đầu tụng về lý do gặp cha. Do việc đảm trách mà theo đến nhà của cha.
Kế tiếp từ “lúc ấy Trưởng Giả” trở đi; phần thứ 2 có hai hàng rưỡi. Tụng về lần thứ 3 gặp nhau với cha. Bên trên làm rõ nơi gặp gỡ người cha. Nơi ấy là phía cửa nhà. Nay lại nói Trưởng Giả ở trong cửa nầy, cùng với chỗ được gặp. Cho những đồ quý báu. Khi chánh thức thấy nơi cha ở và ngồi trên tòa Sư Tử. Pháp thân ấy là Sư là Vương; báo ứng thân ấy là Trưởng Giả. Việc chú thích của các quyển sớ giải thì nói đây là việc thọ ký, làm rõ chỗ tu hành. Tôi thì nghĩ rằng dùng sự rộng rãi ấy để hiển lược làm việc chú giải. Thọ ấy quyết định là ký. Tứ Hoằng Thệ Nguyện ấy là quyển. Sự tu hành ấy là sớ.
Từ “cùng tử gặp cha” trở đi gồm 3 hàng rưỡi; tụng phần 4 có tâm sợ hãi khi sống và tỵ nạn ở nơi khác.
Từ “Trưởng Giả lúc ấy” trở đi gồm một hàng; tụng phần thứ 2 cha gặp lại con. Câu văn trên lại có 4. Một là thấy nơi chốn; hai là sự gặp ấy tức là đã rõ biết; ba là khi gặp nhau hoan hỷ; bốn là thỏa với lòng mong ước. Nay lại tụng có 2. Nửa bên trên tụng về thấy con ở đâu.
Từ “đưa mắt nhìn” trở đi; gồm 2 hàng rưỡi, tụng về việc gặp con và nhận ra. Từ “liền sai sứ đuổi bắt ép đem về” trở đi; phần 3 nầy có một hàng rưỡi; tụng về phần tìm cầu dụ dỗ như thí dụ bên trên. Nay phần đầu 3 hàng tụng về việc tìm cầu bên cạnh. Bên trên phần người bạn đuổi theo, câu văn ấy có 3. Một là gọi lớn mà người con ấy chẳng đến; hai là kêu nữa nhưng cũng chẳng đến; ba là bỏ đi. Nay 3 câu đầu tụng về việc hô hoán bên trên đầu mà chẳng đủ cơ duyên nên chẳng đến. Kế đến từ “mê lầm, buồn bực” trở đi; phần thứ 2 có một câu. Tụng về việc kêu nữa nhưng lại chẳng đến.
Kế tiếp từ “người nầy” trở đi; phần thứ 3 có hai hàng. Tụng về việc chẳng đầy đủ cơ duyên; tức giống như bên trên, giải thích cái ý là bỏ đi. Sau đó liền dùng phương tiện. Phần 2 nầy có 7 hàng rưỡi; tụng về việc mật sai 2 người đến để dụ dỗ. Câu văn trên lại chia ra làm 2; nay tụng ấy lại có 2. Ba hàng đầu tụng về công việc. Kế đến 4 hàng rưỡi tụng về việc dạy cho việc làm. Công việc như bên trên lại có 4. Một là tạo ra phương tiện; hai là tìm đã được; ba là giải thích về việc làm và 4 là trả giá ngang với việc hốt phân. Nay tụng ấy lại có 2. Hai hàng đầu tụng về phần một là tạo ra phương tiện. Từ “cùng tử nghe vậy” trở đi gồm một hàng. Tụng đến phần thứ 4 là lấy giá để đi gánh phân. Nay phần đầu tạo ra phương tiện, dưới mắt trở thành không. Kẻ hiểu ít ấy là chẳng phải căn nguyên thật tướng tận cùng. Kẻ mà qua lại hẹp hòi ấy là chẳng có Ma Ha Diễn (Trí) và những điều lành trang nghiêm vậy. Chẳng phải Tứ Vô Úy thì gọi là Vô Úy. Khác với thường, lạc, ngã, tịnh thì gọi là Vô Đức.
Kế tiếp từ “gã cùng tử nghe rồi” trở đi; phần 2 là trả giá. Giữ cho 6 căn thanh tịnh và phòng ốc là nhà ngũ ấm.
Từ “Trưởng Giả cho đảm trách” trở đi; phần thứ 2 gồm 4 hàng rưỡi tụng phần trên về việc chỉ dạy việc làm. Câu văn trên lại có 4. Nay tụng ấy lại có 4. Nửa hàng đầu tụng về việc đảm trách.
Từ “nghĩ con ngu muội yếu đuối” trở đi; phần thứ 2 gồm nửa hàng tụng về sự mỏi mòn.
Từ “đối với việc nầy Trưởng Giả mắc vào” trở đi; phần thứ 3 có một hàng tụng về việc thoát diệu trước trần (ra khỏi sự dính mắc của trần lao một cách tuyệt diệu).
Từ “phương tiện giao phó gần gũi” trở đi; phần thứ 4 có 2 hàng rưỡi tụng về việc chính thức chỉ giáo cho việc làm. Bên trên lại có 7 loại pháp môn; nói ấy là gặp nhau với Tứ Niệm Xứ. Nay khuyến khích làm việc tức là Tứ Chánh Cần.
Từ “liền đúng giá với người” trở đi gồm một hàng; tụng về Tứ Như Ý Túc. Dầu mà nhiều có thể che khuất nước sâu, giống như thần thông vậy. Lại nữa dầu có thể trừ được gió. Định ấy làm cho chẳng loạn. Ăn uống đầy đủ; tức gồm những gạo và lúa mạch bên trên. Chỗ cây điểu bám vào thì sâu và ấm; tức là sự quán sát luyện tập huân tu về định, hay trừ được sự tán loạn. Như vậy sự khổ nầy bảo ngươi nên siêng làm gồm nửa hàng. Tổng cộng tụng bên trên có lần thứ 4 an ủi; lần thứ 5 thì không có 5 quá. Căn lực liền thành chỗ sâu xa của lời nói khổ. Lại nữa dùng lời nói mềm mại có nửa hàng. Tổng cộng lần thứ 6 là viết chữ; phần thứ 7 bảo hay làm, cùng với địa vị của đứa con nầy vậy.
Từ “Trưởng Giả có trí” trở đi; phần thứ 4 có 10 hàng. Tụng phần bên trên thứ 4 là lãnh trách nhiệm, giao phó cho gia nghiệp. Câu văn trên lại có 2. Nay tụng lại có 2. Ba hàng rưỡi đầu nay tụng về lý do giao phó gia nghiệp. Kế đến 6 hàng rưỡi tụng về việc chính thức giao phó. Lý do đầu tiên trong ấy có hai. Nay tụng lại có 2. Đầu tiên từ Trưởng Giả có trí trở đi gồm nửa hàng. Tổng quát tụng về tâm, tướng, thể và tín tức là sự ra vào.
Từ “trải qua 20 năm” trở đi; phần thứ 2 có 3 hàng, tụng về sự ủy thác và nhận lãnh gia nghiệp. Bên trên sự ủy thác gia nghiệp có mệnh lệnh và có sự thọ nhận. Nay hay tụng về sự thọ nhận mệnh lệnh. Bên trên sự thọ nhận mệnh lệnh lại có 4. Nay hay tụng thành 3. Một hàng rưỡi đầu tiên tụng về việc nhận lãnh mệnh lệnh. Tiếp theo từ “giống như ở nơi cửa” trở đi; phần thứ 2 gồm một hàng tụng về việc ở bản vị chưa xả bỏ được tâm nhỏ. Tiếp đến “người cha rõ biết tâm con” trở đi; phần thứ 3 gồm nửa hàng. Tụng về sự thông thái chí lớn Đại Thừa là động cơ. Hai mươi năm đầu chẳng được giống như trên. Bên trên trừ kiến và tư hoặc còn lại 20. Điều nầy làm sáng tỏ sự chấp tác công việc trong nhà. Hoặc nói rằng chuyển Đại Thừa giáo để dạy dỗ cho các vị Bồ Tát. Đoạn Đại Thừa biệt hoặc; kiến tư (hoặc); gọi là 20 năm. Hoặc nói rằng Bát Nhã thì lâu, cả 20 năm; hay nói ở địa vị Nhị Thừa, chuyển Đại Thừa giáo 20 năm. Kinh Nhơn Vương Bát Nhã nói: 28 năm nói Ma Ha Diễn.
Từ “muốn cùng tài vật” trở đi; phần thứ 2 có 6 hàng rưỡi, tụng phần thứ 2 là chính thức giao phó cho gia nghiệp. Câu văn trên lại chia ra làm 2. Nay tụng nầy lại cũng có 2. Bốn hàng rưỡi đầu tiên tụng về sự chánh thức giao phó cho gia nghiệp. Kế đến 2 hàng tụng về việc được giao rồi; nên vui mừng. Bên trên sự chính thức giao phó cho gia nghiệp lại có 4. Nay tụng thành 3 chẳng thời tiết.
Từ “đầu tiên muốn cùng” trở đi, gồm một hàng; tụng phần bên trên, phần thứ 2 là tập trung vào thân tộc. Đối với đại chúng; phần thứ 2 có 2 hàng rưỡi, tụng phần bên trên, phần thứ 3 về định là thiên tánh của cha và con. Từ “phân sở hữu” trở đi; phần thứ 3 có một hàng; tụng phần bên trên thứ 4 là chính thức giao phó. Từ “người con nhớ nghĩ ngày xưa nghèo khổ” trở đi; phần thứ 2 có 2 hàng; tụng về sự được giao phó; nên hoan hỷ. Từ “Phật cũng như vậy” trở đi có 30 bài kệ rưỡi, tụng về thí dụ lúc gặp nhau. Phật cũng lại như vậy, gặp được ở phần một là cha con sau khi xa nhau. Rõ biết ta vui với việc nhỏ gồm một câu. Gặp nhau cha con tương kiến. Chưa từng nói lời nào gồm 2 câu; tụng về sự gặp nhau lần thứ 3 truy đuổi và bắt ép. Phần gặp nhau bên trên nầy lại có 2. Một là gặp nhau và kêu ép; nhưng vẫn không đến. Như vậy sau 2 lần gặp, lại bỏ đi. Nay thì tổng tụng về ý nầy và nói về chúng ta có một hàng. Tụng bên trên về sự gặp gỡ nầy là mật sai 2 người đến để dụ dỗ. Phần gặp nhau bên trên chi tiết dạy dỗ sâu xa gồm 2 chương. Nay điều nầy có một hàng tổng tụng về ý nầy vậy.
Từ “Phật bảo chúng ta” trở đi gồm 28 hàng rưỡi. Gặp nhau lần thứ 4 thọ lãnh gia nghiệp. Bên trên việc gặp nhau nầy có 2 việc tương tin và ủy thác gia nghiệp. Nay 18 hàng rưỡi đầu hay tụng về sự gặp nhau và ủy thác gia nghiệp. Kế đến 10 hàng tụng về sự gặp nhau và chính thức giao phó. Bên trên sự thọ nhận mệnh lệnh ấy tuy chỉ có 2. Một là lãnh nhận mệnh lệnh; hai là chẳng muốn giữ lấy. Nay một hàng dài đầu tiên tụng về mệnh lệnh lãnh rồi rõ biết. Bên trên sự lãnh ấy như không có. Như tối thượng đạo tức là không của Bát Nhã, lại cũng chẳng sai với với điều trên vậy.
Kế tiếp phần dưới 17 hàng rưỡi chính thức lãnh thọ mệnh lệnh và chẳng muốn giữ; chẳng phải chẳng xả bỏ mà là quen thuộc (thông thái).
Từ “ta vâng lời Phật dạy” có 5 hàng; tụng về sự thọ nhận mệnh lệnh bên trên. Phật tử nghe pháp được thọ ký rồi; làm sáng tỏ sự chuyển đổi dạy dỗ lợi ích cho kia. Lúc bấy giờ nghĩa là sự chuyển giáo, giáo hóa cho các vị Bồ Tát chứ chẳng nói là vì ta.
Từ “như gã cùng tử kia” trở đi gồm 12 hàng rưỡi, tụng về phần 2 là chẳng hy vọng giữ gìn. Câu văn nầy đã nói rộng như bên trên. Trong nầy lại có 2. Một là hàng đầu tiên cùng với thí dụ trước chiếm cứ về việc gặp nhau. Kế đến “chúng con tuy nói” trở đi; phần thứ 2 có 11 hàng rưỡi, chính thức gặp nhau nhưng chẳng hy vọng giữ lấy. Lại chia làm 3 ở đây. Một hàng đầu tiên chính thức tụng về việc chẳng hy vọng giữ lấy. Tiếp theo “chúng con mất bên trong” trở đi gồm 9 hàng rưỡi. Với trí lực đầy đủ đoạn mất; cho nên chẳng hy vọng giữ gìn. Lại có 3 ở đây; nghĩa là tiêu, thích và kết (mục tiêu, giải thích và kết luận). Đầu tiên lại chia làm 2. Hàng đầu là tiêu đề đoạn đức cụ; cho nên chẳng hy vọng giữ gìn.
Kế tiếp “chúng ta nếu nghe” trở đi; phần thứ 2 có một hàng. Tiêu, trí, đức đầy đủ cho nên chẳng hy vọng giữ gìn. Từ “vì sao vậy” trở đi gồm 6 hàng. Giải thích cả 2 về trí, đoạn 2 chương. Tiếp “chúng con chỉ vì” trở đi; phần thứ 3 một hàng rưỡi là kết thích, tự chẳng hy vọng giữ gìn. Tiếp theo “Đạo Sư thấy” trở đi; phần 3 có một hàng, làm rõ chỗ Phật thấy và bỏ ta. Gặp nhau chẳng có hy vọng để giữ gìn. “Như ông Trưởng Giả” trở đi có 10 hàng, tụng về việc chính thức giao phó sự nghiệp. Bên trên sự gặp gỡ lại có 2. Một là chính thức giao phó sự nghiệp; hai là được giao phó vui mừng. Nay thì tụng ấy lại có 2. Ba hàng đầu tụng về sự chính thức giao phó. Kế đến 7 hàng tụng về việc được giao phó nên vui vẻ. Ba hàng đầu giữa; bên trên tổng nói về sự gặp nhau và chính thức giao phó sự nghiệp. Nay lại tổng tụng, duy một hàng rưỡi đầu cùng với thí dụ, chiếm phần gặp nhau. Kế đến một hàng rưỡi chính thức tụng về sự gặp gỡ.
Từ “chúng con ngày nay” trở đi gồm 7 hàng; tụng phần thứ 2 được giao phó thì vui mừng. Được đạo, được bảo tướng đạo. Được quả là được một phần Đại Thừa tập quả vậy. Hai câu nầy làm rõ chỗ khai Phật tri kiến. Đối với pháp vô lậu được thanh tịnh nhân. Hai câu nầy làm sáng tỏ khai mở chỗ thấy của Phật là thấy lý thật tướng. Xưa nay thấy vô lậu chẳng lạc vào phàm phu. Ngày nay thấy vô lậu là chẳng lạc vào Nhị Thừa vậy. Xưa nay dùng huệ nhãn để thấy không. Nay thì thấy tịnh nhãn là trung đạo. Trì giới chấp rằng: Ngày xưa trì giới là phạm hạnh cùng với hiển vô lậu. Thân tro nầy mất thì rõ biết không có người nào thọ quả báo nầy. Nay thì phạm hạnh có thể được vô lậu. Tức là rõ hết nhân và giữ cái nghĩa của quả. Trì giới tức nghĩa là duyên nhơn. Thanh tịnh nhãn nên thấy được lý. Tức là nghĩa chánh nhơn. Chúng ta thật toàn là Thanh Văn tức là Đại Thừa chơn vị. Thập tín dùng một âm, biến khắp 3.000 thế giới; giống như đạo chẳng chơn. Vào Thập Trụ thì mới chơn. Chơn A La Hán có 3 nghĩa. Trong nầy thường đưa ra ý nghĩa là Ứng Cúng. Nếu chẳng sanh biến dễ dàng, giết thông, biệt hoặc thì chẳng sanh Sát Tặc (A La Hán). Cho đến 10 phước giới pháp điền cũng có nghĩa là Ứng Cúng. Ứng Cúng, Sát Tặc hỗ tương và bổ túc cho nhau vậy. Phía dưới 13 hàng tán thán ân sâu dày của Phật khó báo đáp được như câu văn. Nghĩa là ân lớn của Thế Tôn một vị Phật kiến tạo từ bi, cứu khổ 6 đường khổ cùng vui với 4 quả vị Thánh.
Một là cùng trong 10 pháp giới và vào trong 4 thệ nguyện lớn. Đây chính là Đức Như Lai đến với ân đức.
Hai là Như Lai hành Bồ Tát đạo, để chỉ dạy lợi lạc niềm vui, cùng dạy cho ta Đại Thừa. Tuy lại trong ý chí ấy rõ nguyện chưa mất. Che chở cho Đức Như Lai mát mẻ, ấm yên là lòng đại từ và ân đức an lạc.
Ba là chúng sanh gặp khổ, thấy cha rồi còn Phật thì nói giống như theo mẹ. Hay hành lục độ để lợi lạc cho chúng sanh. Che Như Lai như thể mùa đông lạnh được ấm áp. Ân đại từ cứu khổ ấy.
Bốn là từ khi Phật thành đạo rồi, muốn vào vô vi tịch diệt, vui với sự yên ổn của thần đức, dùng sự nghèo nàn và vui với ngũ giới, thập thiện; nhưng nước lạnh đã thấm vào mặt, làm cho tỉnh ngộ. Che chở Phật, nương vào sự nghèo ấy mà mong muốn ân đức nồng đậm.
Năm là hiển thị hình tướng của vị Tỳ kheo già phương tiện gần gũi cùng với trả giá cho một ngày. Đây chính là sự che chở của Phật, nương trừ chỗ thấy đông sang lạnh lẽo mà yêu thích ân đức ấm áp.
Sáu là sự sai trái về sau; tâm, tướng, thể, tín Đàn Ha Phật. Làm cho xấu hổ việc nhỏ chứ chưa lớn (Đại Thừa). Che chở nương vào nơi Phật là cái ân say sưa việc hẹp hòi xấu xa.
Bảy là qua mệnh lệnh lãnh gia nghiệp, vàng bạc đầy kho, tất cả đều rõ biết. Che chở là nương nhờ vào Phật cùng với ân đức để trang nghiêm ta.
Tám là gặp gỡ thân tộc và chỉ định, cha giao gia nghiệp cho con, vô thượng đồ quý nằm đó, chẳng cầu mà được. Đức Như Lai che chở chỗ ngồi là ân đức.
Chín và mười là chỗ ngồi kia, thân ý được thảnh thơi và vui được chỗ yên ổn ấy.
Dùng lời nói của Phật để cho tất cả nghe được. Tất cả trời người đều ở trong ấy; nên thọ nhận của cúng dường. Như Lai che chở chỗ ngồi, làm cho ta được đầy đủ, là ân nghĩa của tự hành hóa tha vậy. Ân đức Đức Thế Tôn cả 2 vai gánh vác; chỗ ấy chẳng thể báo đền được. Đây là ý nghĩa vậy. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú Hết quyển 6 (Phần sau)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 13.59.156.15 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.