Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
BÀI TỰA LUẬT TRÙNG TRỊ TỲ-NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU
Giáo pháp của Như Lai vang lừng khắp Ðông Ðộ, trước sau đều nhờ vào giới luật. Pháp âm từ bi nhờ vậy ban bố cho chúng sanh, mở mang hưng thịnh và hoàn bị đến ngày nay.
Giới luật thịnh hay suy đều do con người, mà nay con người đã đến lúc quá suy đồi!
Việc truyền giới các nơi trong quốc độ này phần nhiều chưa y vào Luật và Pháp. Nói đúng hơn, thậm chí ngày nay, sự truyền giới và thọ giới trong nước ta đều sai lầm. Thật là sự sai lầm cho cả mình và người. Tất cả tệ trạng này đều do thầy trò truyền thừa cho nhau trái với lời dạy của Phật đã chế định.
Ngài Thiên Thọ Chấn Công Hòa thượng tinh tường tu tập ba tông, thấu triệt tận những chỗ vi tế. Ngài chống tích trượng du hóa nơi đất Tần, gặp cơ duyên trú ở Thiên Thọ. Ngài cảm thương cho luật pháp không được hoằng truyền, nên phát nguyện thay đổi tệ trạng này.
Hơn mười năm, ngài lấy Luật làm đầu. Nên dưới ngài có một số các vị có tâm chí muốn truyền trì giới luật, trong đó Tỳ-kheo Tấn Liêu nhiệt thành và có khả năng nhất. Tấn Liêu thiên tư đặc biệt chuyên về Luật tông, xem hết giáo lý Tỳ- nại- da (giới luật), nghiên cứu cùng tận cương chỉ của năm thiên (1).
Tiếc thay những nhà chú thích Luật không nhiều, Tạng luật lại phức tạp. Thế nên làm cho người học cũng khó thấu triệt. Duy có bộ Trùng trị tỳ-ni này là có khả năng thức tỉnh những tệ trạng hiện nay, đủ để trình bày rõ chỗ hướng về. Do thế, tôi rất tha thiết mong được khắc bản để lưu truyền ở đời, hy vọng đáp ứng cho mọi người được phần nào.
Ý muốn là một việc, nhưng thời gian không cho phép, nên chưa thực hiện được. May thay gặp caùc vị Tỳ-kheo: Cốc Ấp, Triêu Dương, Truyền Giới, Tự Luật cũng đều nghĩ rằng: Nếu khắc bản được bộ Trùng trị tỳ-ni đề lưu hành thì lợi ích cho Luật học và người đi sau có chỗ học hỏi.
Khi ấy các vị: Cửu Thánh, Tuệ Thạch, Phật Bích, Thiên Thọ, Trí Ðài cùng một số vị Thượng tọa trì luật khác đồng ý cử người lo tài chánh đề khởi công in. Tất cả đều một lòng quyết chí với nhau, lao khổ không sờn, chông gai chẳng ngại. Khắc bản luôn hai năm, công việc mới xong.
Ngưỡng mong những vị được thấy được nghe đều hoan hỷ thọ trì, ngõ hầu treo mặt trời Giới giữa hư không, dựng lại Chánh pháp trong thời mạt vận. Thứ nữa, không phụ lòng thương vì pháp của Tổ và báo đáp ân đức của Phật, như một giọt nước trong biển cả!
Luật học Tỳ-kheo Trí Ðài soạn
---o0o---
Nguyên bài tựa bộ Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu và bản mục lục này lần khắc bản đầu tiên không có. Sau khảo cứu thấy ở trường Viễn Ðông Bác Cổ Hà Nội, nguyên bản của Nhật Bổn đầy đủ toàn bộ, sửa chữa bản khắc rất hoàn mỹ. Bộ này đủ từ đầu đến cuối. Từ phần “Lời tiểu dẫn...” từ cuốn đầu cho đến phần “hồi hướng” cuốn 18, tất cả là 595 tờ, nay kính cẩn ghi lại.
Bản lưu tại chùa Bửu Khám, xã Tế Xuyên, huyện Nam Xương, phủ Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam. BÀI TỰA TRÙNG TRỊ TỲ-NI TẬP YẾU
Tôi sanh vào giờ Hợi, ngày mồng 3 tháng Năm, năm Kỷ Hợi, niên hiệu Vạn Lịch thứ 27, đời nhà Minh (1599).
Ðến năm 24 tuổi, tôi cạo tóc xuất gia, ngày mồng 7 tháng Năm, năm Nhâm Tuất, tức năm 1622.
Năm sau, ngày mồng 8 tháng Chạp, tôi thọ giới Cụ túc1 trước tượng ngài Hòa thượng Vân Thê. Năm sau nữa, tôi thọ giới Bồ-tát trước tháp ngài Hòa thượng Vân Thê. Các vị A-xà-lê đều là bậc Cổ đức Pháp sư.
Năm 27 tuổi, vào mùa Xuân tôi xem qua bộ Luật, soạn “Tập sự nghĩa yếu lược”, chỉ được hơn 100 tờ.
Năm 30 tuổi, vào mùa Hạ tôi nghiên cứu Luật lần thứ hai soạn thêm được bốn tập nữa.
Năm 31 tuổi, vào mùa Ðông tôi lại nghiên cứu Luật lần thứ ba, soạn thành sáu tập, gồm 18 cuốn.
Năm 32 tuổi, vào mùa Hạ tôi lại dạy cho 3 người bạn là Tịch Cốc, Như Thị và Tuyết Hàng, giảng qua một lần rất kỹ. Năm đó, tôi thêm vào hai tập đầu và cuối, thành ra 8 tập.
Năm 33 tuổi, vào mùa Ðông tôi chỉ giảng bảy quyển cho Kim Ðài pháp chủ, người cùng quê, ở chùa Phật Nhật, núi Cao Ðình, tại Linh Phong.
Mùa Hạ năm sau, tôi tiếp tục giảng cho 10 vị, một cách đầy đủ. Trong 10 vị đó có Tỳ-kheo Triết Nhân là người có khả năng thực hành.
Năm 35 tuổi, tôi kiết hạ tại Kim Ðình Tây, chùa Tiểu Hồ, giảng qua một lần cho 9 vị Tỳ-kheo, trong số đó có 3 vị Ðại đức: Triết Nhân, Tự Quán, Duyên Huyễn là thuộc hạng đáng quan tâm.
Năm 36 tuổi, mùa Ðông, tại Ngô Môn, nơi am Huyễn Trú, tôi lại giảng qua một lần nữa. Người nghe độ 5, 6 vị, hai Tỳ-kheo Tự Quán và Tăng Tụ có khả năng thực hành.
Năm 38 tuổi, tôi vào núi Cửu Hoa, năm 40 tuổi, tôi vào đất Mân Trung. Năm 44 tuổi tôi đến Ðiều Thành. Từ đó đến 13, 14 năm sau, tôi tự thấy không thể thực hiện được gì thêm vì không có người để trao đổi mà khả năng mình thì có hạn. Ba vị Triết Nhân, Tự Quán và Tăng Tụ đều quá vãng cả. Luật học thật đã không phát huy được.
Năm 51 tuổi, mùa Ðông tôi từ Kim Lăng về khu mình ở Linh Phong; mùa an cư năm sau, mới có chừng 10 vị phát tâm học Luật và họ yêu cầu tôi giảng lại bộ Luật này. Nhân nghĩ đến số tài liệu đã soạn trước, tuy các điều hay đã thâu vào, nhưng chưa chọn lọc từng vấn đề. Hơn nữa, hai phần “vấn biện” và “âm nghĩa” chưa khắc in, chi bằng gom vào bộ Tập yếu này mà chỉnh đốn lại. Sau đó, tôi san định, loại bỏ những chỗ rườm rà, giữ lại những phần thiết yếu và gọn gàng, để những người căn độn khỏi phải than phiền trước sự mênh mông như biển cả của Luật học.
Ngày 21 tháng Sáu năm Canh Dần (1650), Cổ Ngô, Ngẫu Ích, Sa-môn Trí Húc tự viết bài tựa này.
---o0o---
KHAI TỪ
Tạng luật là kỷ cương của Phật pháp, là mạng sống của Tăng-già, là bến lành nơi bể khổ, là đường chính đưa đến Niết-bàn. Khởi đầu từ Kê Viên(*), đức Thế Tôn đã đề xướng Luaät học, bằng cách Ngài gọi: “Thiện lai Tỳ-kheo” thì người được gọi, giới thể thành tựu, cho đến khi Thế Tôn thị tịch tại Sa-la song thọ, chính Ngài dặn dò rằng: “Giới luật là quan trọng nhất”.
Tuy rằng do người vi phạm mới chế giới, nhưng giới thể hiệp Ngay với vô tác; nên tùy duyên mở ra, tùy trường hợp ngăn cấm, đó chính là nêu cao sự sống động vi diệu và bao quát của Luật học.
Giới luật là con đường chung của cả Ðại thừa và Tiểu thừa, đâu phải chỉ là nẻo riêng của Thanh văn.
Buồn thay! Cuối đời tượng pháp, con người mù mờ, không đạt được chơn tông; Kẻ ngu muội bởi kiến văn hẹp hòi, người cuồng trí thì rơi vào ngạo nghễ; hoặc có người dựa vào thiền cơ để trốn tránh, lại có kẻ lấy Phương quảng(2), để sơn thếp cách nói năng. Các vị ấy đều bị lệ thuộc vào văn tự, mấy ai hiểu được thật nghĩa. Như ngài Huệ Năng đắc tâm ấn nơi Hoàng Mai ngũ Tổ, tại sao ngài không ra hoằng hóa ngay ở Tào Khê mà cần phải đăng đàn thọ giới Cụ túc, Quốc sư Trừng Quán hoằng dương giáo lý Hoa nghiêm nơi núi Ngũ Ðài, là bậc mô phạm cho cả triều đình đến dân gian mà còn lập ra mười lời thề để giữ thân. Khi đức Ðại Hùng còn tại thế, Pháp bảo và Tăng bảo đều do bậc Chánh Giác phát huy, nhưng khi Thế Tôn thị tịch thì Phật bảo và Pháp bảo đều được kiến lập từ Tăng-già. Nếu Tăng-già chỉ có 10 giới trọng và 48 giới khinh thì khác nào kẻ tại gia, và nếu không có Năm thiên Bảy tụ(3) thì làm sao biết được sự thoát ly thế tục là cao cả?
Thế nên biết rằng, kinh Phạm võng bao gồm cả năm đạo, chỉ trừ địa ngục, vì xuyên suốt nhau nên thành ra rộng lớn. Tạng luật chỉ áp dụng cho loài người ngăn ngừa các nạn. Vì chế như vậy nên trở thành tôn quý. Ắt hẳn có người ngưỡng mộ Ðại thừa nên không chịu lệ thuộc vào tiểu tiết, tự mình để tóc, không mặc pháp y, muốn làm đóa sen trong biển lửa. Nếu như các vị ấy có lòng thương đời mạt pháp, có chí làm bậc trụ cột, sao lại buông lung phóng túng theo ý mình, cam làm con giòi trong thân con sư tử vậy?
Trí Húc tôi, tự nghĩ mình nghiệp chướng nặng nề không thể tu hành theo lý huyền diệu được, lại buồn vì tuổi đã lớn, mà chưa được gần gũi các bậc Hiền triết. Ðau đớn nhất là không níu kéo được thời gian, nên tôi từ giã mẹ hiền đi xuất gia, và nghĩ rằng Tịnh độ có thể về. Tôi ái mộ đại sư Liên Trì nhưng chỉ được học với ngài qua sách vở để lại.
Biện biệt về kỷ cương của Tông mỗi khi nhớ đến phong thái của ngài Tư Bá, hộ pháp quên thân, nguyện kế tục theo phái Khuông Sơn, mà thấy kẻ lưu tục đương thời nên than thở, đọc kinh Di giáo lại càng thêm buồn tủi.
Mãi đến cuối mùa Ðông năm Giáp Tý, tôi làm lễ tháp Vô Lượng Quang, lòng càng bội phục nên phát tâm tăng thượng, cầu xin các bậc Cổ đức Xà-lê chứng minh, để học giới Bồ-tát. Sau đó, tôi tham khảo Luật bộ của cả Ðại thừa và Tiểu thừa, lấy Tứ phần luật làm chuẩn, và tham khảo luật của những bộ phái khác, soạn thành bộ Sự nghĩa yếu lược. Tôi làm việc này với cái khả năng nhận thức ngu muội quê mùa, do đó, không thể trình bày hết sự cao rộng của Luật học được, nhưng việc làm này là để tạo tư lương cho mình với sự vô tâm không vụ lợi.
Mùa Xuân năm Mậu Thìn, tôi gặp Tuyết Hàng Tiếp Công, lòng rất mừng vui vì ngài nghiêm tịnh Tỳ-ni. Nhân đó tôi có ý muốn vào núi gấp để tra cứu lại những chỗ trích lục (ghi chép) vẫn còn nhiều sơ sót. Tôi đến hang Thiền Long Cư, xem lại văn trong Tạng, không luận bộ phái mình hay tông phái khác, những vấn đề nào chính yếu tôi đều trích lục cả, tra cứu những chỗ khinh trọng của Luật rất tận tường, để xác định rõ ràng tiêu chuẩn của sự khai, giá. Ðồng thời, tôi tra cứu Ðại luật, tìm cho được nguồn gốc sự đồng dị, và hết sức tránh những ý kiến riêng tư, nên không mắc phải cái sai là chê Tiểu thừa, do đó những kẻ thích sự thẳng mực, khó có cớ mượn lý Ðại thừa để phê phán. Tôi khảo đính thành một pho, đặt tên là “Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu”.
Tôi tham khảo ý kiến của các bậc Chân Tịch, Bốc Lão nhân, thiền sư Bác Sơn Vô Dị thì các ngài đều khuyến khích khắc bản lưu thông.
Sau đó, tôi lại cùng với hai pháp hữu Bích Như và Quy Nhất xem xét thảo luận lại cho chắc chắn, và bổ túc cho hoàn chỉnh.
Kim Ðài Pháp Chủ ở chùa Phật Nhật rất hoan hỷ và cho khắc bản. Cơ duyên hưng khởi của Phật pháp chắc chắn nhờ vào lúc này.
Nhưng than ôi! Tập yếu lược đây ví như hạt bụi nhỏ, đối với thể của Luật như núi cao mầu nhiệm. Ðây là kết quả do khả năng kém cỏi của tôi, nhưng có thể nói là hết sức mình.
Tôi tự hận, sự hiểu biết của mình quá thô sơ, hành trì lại thiếu kém, nhìn lên rất thẹn với bậc Hiền triết đi trước, nhìn xuống thêm tủi hổ với hàng hậu tấn. Rất mong các bạn lành đồng học, xét chỗ tâm thành của tôi, thương cho sự không bén nhạy lạc hậu của tôi, cùng một lòng, một trí phò trì vận mệnh của Phật pháp, báo đáp phần nào ân đức Phật.
Ðầu mùa Xuân năm Tân Mùi, Trí Húc viết tại chùa Cao Ðình Cổ Vĩnh Khánh. NGUYÊN BẠT
Luật Ma-ha Tăng kỳ nói:
“Thiện nam tử nào muốn xây dựng Phật pháp, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào muốn cho Phật pháp cửu trụ tại thế gian, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào tâm sợ sệt vì phạm tội, muốn tìm chỗ nương tựa, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào muốn không còn có nghi hối để khỏi phải hỏi người khác, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào muốn đi du hóa khắp nơi, không bị trở ngại thì cần phải thọ trì Luật này”.
Luận Tát-bà-đa nói:
“Tỳ-ni có bốn nghĩa mà kinh khác không có:
-Một là vùng đất bằng của Phật pháp, các thiện pháp đều sanh trưởng từ đó.
-Hai là tất cả đệ tử của Phật đều y vào luật để sinh hoạt, và tất cả chúng sanh do giới mà có.
. Ba là cửa ngõ đầu tiên để đến Niết-bàn.
. Bốn là xâu chuỗi ngọc để trang nghiêm Phật pháp.
Do đủ bốn nghĩa này nên không có gì quý bằng Luật”.
Than ôi! Lợi ích của giới đâu phải là nhỏ, tại sao cách Phật đã xa, việc nhầm lẫn lại nhiều, và chúng sanh đời mạt pháp ít gặp bậc chơn phong?
Từ khi giới luật truyền vào Trung Quốc, khởi đầu từ ngài Tăng Khải đời Tào Ngụy, ngài Tự Huy và Hoài Tố Luật sư đến nay, những bậc am tường về luật thật là hiếm. Ðôi khi có một hai vị Ðại sĩ thông suốt hoằng truyền thì đã không được như sư tử ra khỏi hang, chẳng khác nào như con ngỗng chúa chọn sữa uống (chừa nước), gần thì bỏ cương tôn của 5 bộ, mà nhận lấy những cương mục hỏi đáp bên cạnh, chú trọng gấp điều đáng hoãn, hoãn lại điều đáng gấp, tự mâu thuẫn nhau, mất dê ngày càng dài. Do đó, bậc hào kiệt chưa từng hỏi đến. Vậy thì biết nhờ đâu cho mặt trăng giới sáng giữa đêm sâu, duy trì giềng mối cũ khỏi bị đứt tuyệt.
Thọ Trù tôi, đọc kỹ những tài liệu để lại, phát sinh nhiều mối cảm xúc. Tôi thấy sư huynh Trí Húc, nặng tình với Chánh pháp, lòng bi nguyện rất sâu, tham khảo hết chỗ kín đáo của Luật tạng. Tự chọn Tứ phần làm cương lĩnh và dựa vào các bộ khác để soi sáng, tìm tận nguồn nước để lấy được cam lồ, góp lại thành nhiều quyển, đều tuân theo lời dạy của Cổ đức, không phải những lời nói ngoa, mong sao ai uống được một giọt, có thể trị hết những bệnh lâu ngày; ai uống no đủ thì bệnh mới không phát sinh. Biển giới sẽ được trong sáng là chính nhờ ở hành động này.
Không biết nhờ đời trước tôi đã làm nhân tốt gì mà nay được dự phần trong pháp tịch Tỳ-ni? Vì quá vui mừng nên vội nếm trước, và gởi vài lời vào cuối sách này.
Người biết Chánh pháp, ắt không phải vì mưu tính mà làm; kẻ bất tiếu, thì không hùa theo cái đẹp của người khác.
Mùa Xuân năm Canh Ngọ, người em trong Luật học, hậu học U Khê Thọ Trù kính ghi.
(Bài bạt này nằm ở cuối quyển thứ 18 của bộ Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu, nay để vào nơi đây cũng theo sự sắp xếp của bản Trùng trị cũ). TỔNG VẤN BlỆN
HỎI: -Luật học chú trọng đến chỗ tin chắc, và nỗ lực hành trì. Ai giữ được Năm thiên, chắc sanh vào cõi trời cõi người; nhưng khi phước của họ nếu hết, tương lai sẽ ra sao? Người nào tu theo Tông, Giáo: trước hết, phải biết mở mắt ra, sau đó đạo cộng giới(a) mới sanh, đó là việc cần gấp. Nguời xưa có nói: Quý ở chỗ thấy tánh, không quý ở hành trì, há không đúng hay sao?
ÐÁP: - Luật học là nhân chánh để xuất thế. Thành tựu giới Ba-la-mật mới đạt đến địa vị Phật-đà. Vậy Luật học đâu phải chỉ là phước baùo của cõi trời, cõi người! Sự kiến tánh của Tông, Giáo tuy rằng giống nhau, nhưng muốn rời giới luật để nói riêng về Giáo và Tông thì đó chỉ là bỏ sự cầu lý, rơi vào ác tri kiến.
Ngài Qui Sơn có nói: “Chưa thân cận và học hỏi theo giới luật thì chơn nghĩa của Tối thượng thừa làm sao thấu triệt được ?”
Tôn giả Kinh Khê nói: “Bốn giới đầu làm cảnh, sáu giới sau quán chung, sự lý tương tức”(b).
Nên biết rằng: Thiên và Tụ không thể thiếu sót. Người đời coi thường Sự mà lại muốn đạt đến Lý sâu, xét ra quan niệm này rất hư huyễn, không có cơ sở gì cả. Ðã thiếu caûnh quán thì lấy gì để quán? Nhưng dù Tông hay Giáo đều có răn dạy rõ ràng, tại sao không nghĩ đến điều ấy?
Người xưa sở dĩ nói: “Quý ở chỗ thấy tánh, không quý ở hành trì”. Chính vì có thấy tánh tức có hành trì, nhưng có hành trì chưa chắc đã thấy tánh. Nay ta lại cho rằng giới pháp Vô thượng của đức Phật thuộc nhơn, thiên, bỏ cả Luật nghi, chỉ nói suông về Ðạo cộng giới, chánh kiến đã bị phá thì hành trì sai là lẽ dĩ nhiên. Như vậy chắc chắn bị đọa trong ba đường ác, tuy muốn sanh vào trời, người nhưng cũng không thể được.
HỎI: - Ðời mạt pháp con người căn tánh chậm lụt, chỉ nên nói gọn. Tứ phần luật vì ai cũng sợ sự phức tạp chi ly của nó, nên chỉ đặt lên chỗ cao mà thờ. Nay bộ Tập yếu này lại trích dẫn thêm các bộ Luật khác càng thêm phiền toái. Tại sao không lấy ngay Giới bổn Tứ phần để giải thích gọn các choã nghi ngờ, có hay hơn không?
ÐÁP: - Ðời mạt pháp, con người căn tánh chậm lụt, chỉ thích gọn không ưa rộng là một chứng bệnh, cố thủ sự ngu si, không hiểu biết. Càng theo xu hướng ấy càng đi xuống mà thôi, cuối cùng không bao giờ giải tỏa được sự nghi ngờ. Nay muốn cứu vãn cái khổ nạn ấy, cần phải học rộng, phá bỏ sự hẹp hòi, mới có thể có chỗ y cứ. Nếu chỉ đem Giới bổn Tứ phần giải thích sơ qua thì làm sao phân tích cho rõ các vấn đề khai, giá, trì, phạm; người ưa chuộng Phật pháp còn khó thông đạt được, huống chi kẻ theo thói biếng nhác, không chịu để ý đến, tới lui sai quấy, có ích lợi gì!
HỎI: - Pháp môn niệm Phật, rộng lớn lại dễ dàng, chỉ tin theo và hành trì là được. Hành giả cố gắng nhất tâm niệm Phật tự nhiên ngăn được điều sai quấy, chận đứng các điều ác, phiền gì phải cần cù cả năm học pháp luật này, danh tướng mênh mông phiền toái, không đơn giản chút nào. Quả vị do trì giới, cao lắm là Thanh văn, rộng lớn gì đâu; như vậy sợ rằng không bằng chuyên chú phát triển một pháp môn vi diệu của Tịnh độ?
ÐÁP: -Trì giới và niệm Phật vốn là một pháp môn chứ không phải hai đường; tịnh giới là nhân, Tịnh độ là quả. Nếu ta gọi việc niệm Phật là đường tắt còn Luật học là đi quanh thì chính ta đã đi ngược lại lời giáo huấn tha thiết cuối cùng của đức Phật thì làm sao thành tựu được niệm Phật tam-muội? Lại nữa, giới như biển không bờ, như báu cầu không chán, sao lại không rộng lớn? Làm là phạm, đình chỉ là trì, bảo đảm giải thoát, sao lại không đơn giản; Thế nên người nhất tâm niệm Phật, tuy có thể ngừa điều sai, chận việc ác, nhưng người chuyên tinh Luật học, thật là kẻ giữ lấy lời dạy sáng ngời của đức Phật. Hiện tại làm hưng thịnh ngôi Tam bảo, khi lâm chung sanh lên cảnh giới thượng thượng phẩm. Sự vi diệu của pháp môn nào, làm sao hơn thế được!
HỎI: - Ðức Như Lai giáng sanh ở Ấn Ðộ, những giới luật thuộc về giá tội đều chế cấm do sự chê trách của cư sĩ đời này, song cũng tùy theo địa phương mà giới luật có thay đổi. Nay ở xứ ta, nếu không tuân hành, chưa chắc cư sĩ đã chê trách. Giả sử bỏ đi các giới vi tế, có gì sai với luật Phật dạy đâu? Lại nữa, nay thời mạt pháp, ngoại duyên hỗ trợ không nhiều, chính nhân bên trong lại mỏng và ít, nên muốn giữ lại tất cả các giới để không phạm, thì làm sao diễn giảng giáo pháp cho rộng rãi. Giữ gìn trọn vẹn các tiểu tiết để mất sự lợi ích lớn lao, đâu phải là bản tâm của Bồ-tát, kẻ chơn chánh học Nhất thừa như vậy sao?
ÐÁP: - Ðức Như Lai với tri kiến sâu rộng, Ngài vì chúng sanh khắp trên đại thiên thế giới chế ra giới luật. Còn lục quần Tỳ-kheo đều là bậc đại quyền Bồ-tát thị hiện, tự đặt mình vào hình thái của chúng sanh đời mạt pháp, nên tạo ra các nhân duyên phạm giới. Chính do tính người lười biếng, không giữ những giới trọng và giới khinh nên làm cho pháp của Phật suy đồi. Nay muốn hoằng truyền Tông, diễn thuyết Giáo nghĩa đều phải lấy trì giới làm gốc. Vị nào giới luật tinh nghiêm thì chánh nhân bên trong đôn hậu, phụ duyên bên ngoài tự đầy đủ; trong tướng bạch hào(c) một phần sáng rực, quả quyết không phải là lời nói hư cuồng. Nếu ta cho giới là tiểu tiết, tứùc hủy báng Chánh pháp. Người như vậy thì giảng về Tông, thuyết về Giáo đều là chuyện vu vơ vô ích. Nếu có thu hoạch được ảnh hưởng ngoại duyên nào, thì tất cả đều là ma nghiệp có ích lợi gì cho Chánh pháp.
HỎI: - Chư Tổ ở Tây Trúc đều tinh thông tam học. Tại đất nước thô lậu này, thời gian cách Phật lại xa, tri kiến mọi người lại hẹp hòi, từ đời Ðường, Tống trở lại đây có vài vị Tôn túc, đạo phong sáng tỏ dưới rừng cây, bên dòng suối nước, núp dưới vài tấm phên, với một cây cuốc tự sống một đời thuần tịnh. Ðến khi các vị ấy ra lãnh chúng thì đưa ra quy tắc: “Một ngày không làm, một ngày không ăn”, đến lúc độ người thì lại dùng tiếng hét và gậy làm phương tiện để đưa người hướng thượng. Tất cả những phương tiện ấy đều không tương ưng với giới luật. Thế mà những người hảo tâm xuất gia đều theo lối hành cước(4) vào núi, rồi sau đó lên tòa đắp y, những người sau này đều bắt chước theo cách ấy. Ngày nay bao nhiêu người làm theo như Tổ, họ có thật là Tỳ-kheo không? Nếu không phải là Tỳ-kheo thì làm sao kế thừa được địa vị của chư Tổ? Nếu họ là Tỳ-kheo tại sao không tuân theo Luật chế? Lại nữa, những người kế thừa địa vị của chư Tổ xem nhẹ Luật học, không biết chư Tổ đi trước có xem nhẹ Luật học như vậy hay không? Lại nữa, ngày nay những người kế thừa địa vị chư Tổ, tuy không tuân theo giới luật nhưng họ lại truyền giới cho người; không rõ chư Tổ đi trước có truyền giới cho người đi theo kiểu đó hay không?
ÐÁP: - Chư Tổ đi trước có 3 hạng:
-Bậc thứ nhất, nghiêm trì giới luật thanh tịnh làm mô phạm cho ba cõi, như các ngài: Huệ Viễn, Trí Giả, Tả Khê, Vĩnh Gia, Kinh Khê, Ðại Mai, Vĩnh Minh, Giác Phạm, Cao Phong, Trung Phong, Sở Thạch v.v... Ngài Giác Phạm không ăn phi thời, ngài Trung Phong mùa Ðông mùa Hạ chỉ mặc một
. Những tấm gương sáng đó được ghi đầy đủ rõ ràng trong sử sách. Từ xưa đến nay, những bậc Tri thức như vậy cũng nhiều, là chỗ đáng kính ngưỡng để chúng ta bắt chước theo.
- Bậc thứ hai, sống trong đời mạt pháp, ở vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, tuân theo di mệnh của Phật, song lại lược bỏ các giới vi tế, ở chùa thời cày cấy trồng trọt, lãnh chúng thời khai khẩn ruộng đất. Nhưng đối với các giới không ăn phi thời v.v... các vị ấy vẫn tuân hành đầy đủ. Trong Bách Trượng thanh quy gọi bữa ăn chiều là thuốc chữa bệnh mà không gọi là ăn cháo, chỉ cho là uống thuốc phi thời, thuốc bảy ngày, thuốc trọn đời mà thôi.
Lại nữa, ngài Ðức Sơn đem cất bình bát vì thấy mặt trời đã xế. Từ những chi tiết đó, nên biết rằng vấn đề không ăn phi thời đã được sáng tỏ; nhưng những bậc Tri thức ấy đâu dám vì người truyền giới. Cho nên, từ đời Ðường, Tống trở lại, Thiền sư thì có chùa của Thiền sư, Giảng sư thì có chùa của Giảng sư, Luật sư thì có chùa của Luật sư. Những người khi mới xuất gia phần đông học luật đầu tiên, ai có sở đắc về luật thì lấy luật làm tông phái của mình, nếu ai không có sở đắc về luật thì theo học giáo thuyết hay tham thiền, nhưng họ chỉ bỏ các giới nhỏ nhặt chứ không bỏ các trọng giới và tánh giới. Nếu ai không học luật thì tìm đến Thiền giáo để tham học, đây gọi là thừa gấp giới hoãn, nhưng vẫn giữ gìn 5 giới căn bản, tránh việc không hủy báng hay phạm trọng giới, các vị ấy vẫn không dám xưng là Tỳ-kheo và chắc chắn không dám khinh thường người học luật, họ tự thẹn là không thể hành trì theo giới luật, lấy đó làm đức tàm quý. Những vị ấy khi nhập thế tiếp độ mọi người thì họ thọ giới lại, để tánh giới và giá giới(5) đều thanh tịnh như đức Lục Tổ Huệ Năng v.v... Hoặc tự tu tự chứng, gặp cơ duyên chỉ tiếp độ một lần như ngài Thọ Xương. Có người hỏi ngài Thọ Xương:
“Phật chế Tỳ-kheo không được đào đất, tổn thương cây cỏ. Tại sao ngày nay ngài tự cày, tự gieo cây hạt, tự làm cỏ, tự gặt hái?”
Ngài đáp:
“Chúng tôi chỉ ngộ được tâm Phật, truyền thừa ý chỉ của chư Tổ sư, chỉ bày cho người có duyên thấy được tâm tánh. Nếu đem Chánh pháp mà xét thì chúng tôi chỉ có thể gọi là cư sĩ trọc đầu, chứ đâu xứng danh Tỳ-kheo”.
Lại hỏi:
“Giả như ngày nay có người hành trì được giới Tỳ-kheo đúng như Pháp thì ngài đối với vị ấy thế nào?”
Ngài đáp:
“Nếu thật có hạng người như vậy, nên kính họ như Phật, hầu hạ đúng như pháp thờ thầy. Chúng tôi không phải không làm, mà thật sự chưa thể làm được vậy”.
Lại như, Ðại sư Tử Bá suốt đời chỉ ăn cháo buổi sáng, ăn cơm buổi trưa, ngoài ra không ăn tạp, hơn 40 năm không nằm, hành trì như vậy mà ngài còn cho rằng chưa giữ được các giới vi tế, nên trọn đời không dám truyền giới Sa-di hay Tỳ-kheo cho người khác. Trường hợp bất đắc dĩ, ngài chỉ truyền 5 giới mà thôi.
Than ôi! Các vị Tổ sư trên đã tôn trọng giới luật như vậy, đâu dám xem thường, nếu ai khinh thường giới luật chắc chắn thuộc loại tà kiến, chẳng phải chơn thật là bậc mô phạm.
-Bậc thứ ba, thì đại vận dụng phương tiện, xem xét các cơ duyên lợi ích, phá nghi chấp cho người, nên không câu chấp vào quy tắc thường áp dụng. Như ngài Văn-thù Bồ-tát cầm gươm bức Phật(6) ba nơi phá hạ. Tỳ-kheo Trùng Thắng cùng người đồng nữ ngồi khiến cho họ chứng quả Vô sanh. Ðến như Hàn Sơn, Thập Ðắc mắng cả Luật chủ, Quy Tông Nam Tuyền chặt rắn, giết mèo... Những hành động ấy, vào lúc quyền hiện không thể không làm. Như thầy thuốc giỏi dùng vị tỳ sương(7) để chữa bệnh. Ðại tướng lập trận đồ để dẹp giặc, chẳng qua là chỉ dùng trong nhất thời, không thể đưa vào quy tắc của sách vở cần yếu hàng ngày.
Lại như những hành động la Phật, mắng Tổ, đánh thật đau, hét thật lớn, đều là việc bất đắc dĩ phải sử dụng. Thường gọi: “Binh là vật bất tường" chính là nghĩa đây vậy. Không phải như dùng gạo, đậu, lúa, bắp để so sánh được. Cách sử dụng hình như ngược lại với luật, nhưng người trì luật chơn chánh đã nắm được ý chỉ cuûa luật. Trường hợp như Mạt-lợi phu nhơn uống rượu để cứu người khỏi chết; đức Phật tán thán phu nhơn là người giữ trai giới chơn thật.
Bồ-tát giới bổn chép: Bồ-tát thấy việc thiết yếu phải làm thì được phép sát sanh, ăn trộm... hành động có mục đích lợi ích như vậy, Bồ-tát không bị phạm giới, mà còn sanh trưởng nhiều phước đức. Nếu như sử dụng sai chỗ thì sẽ tạo ra nhận định sai lầm cho người đi sau, tai hại không nhỏ, như Ưu Mạnh bắt chước Thúc Ngao(8).
Những kẻ Tông chẳng phải Tông, Luật lại không phải Luật, hủy báng Ðại Bát-nhã, gây nghi ngờ, tạo sai lầm cho người hậu thế, quả báo trong ba đường ác làm sao tránh khỏi; giả như vì khuyến dụ kẻ ngu si hướng về Tam bảo, mà làm các phước nghiệp tà mạng, do phước lực này giữ gìn không bị đọa lạc ngay, nhưng cuối cùng vẫn là quyến thuộc của ma vương ngoại đạo, không phải là đệ tử của Phật.
Trong đời mạt pháp loại ma tà như vậy rất nhiều. Chúng dối gạt thế gian, lại nhờ sức hỗ trợ của ma vương nên được cúng dường đầy đủ. Chúng thường tụ tập cả trăm ngàn quyến thuộc con cháu của chúng, phân bổ khắp thế gian, chúng hủy giới luật của Như Lai. Người ngu không hiểu biết tham muốn danh tiếng của chúng nên tranh nhau bắt chước, làm cho những người hảo tâm xuất gia đều bị đọa lạc vào bè đảng của chúng, họ muốn cầu thoát ra, lại bị rơi vào, thật đau lòng biết bao! Song những người ấy, nhờ Tam bảo làm cảnh sở duyên, nên khi tội báo hết lại nhờ vào năng lực của Phật Pháp Tăng độ thoát. Như người bị té trên đất nhờ dựa vào đất được đứng dậy. Những người này so với những người không nghe danh hiệu Tam bảo còn hơn một bậc. Thế nên Ma vương nói với đức Phật:
“Chúng tôi ở trong đời mạt pháp của Ngài, sẽ sai quyến thuộc của chúng tôi, ăn cơm của Ngài, mặc áo của Ngài, ở nhà của Ngài để phá hoại giáo pháp của Ngài”.
Ðức Phật bảo Ma vương rằng:
“Các ngươi chỉ tự phá lấy mình chứ pháp của Ta không thể bị phá hoại được”.
Nay ai muốn không bị đọa vào ba đường ác, đi thẳng lên quả Thánh, thì trì giới là việc làm hàng đầu. Nếu ai không thể giữ giới được, nên tán thán giới, tự thân phải tàm quý.
Ai tự mình đã mang danh thọ giới, sao lại xem thường giáo pháp? Tự thân không giưõ giới tinh nghiêm mà lại làm thầy truyền giới cho người, đã vì người truyền giới, lại không dạy người học giới đúng như pháp, thế mà những vị này còn nói: “Giới luật là Tiểu thừa, không cần phải học tập”. Những người này chắc chắn phải đọa vào tam đồ, làm quyến thuộc của ma, tự mình thọ lấy cái khổ đã tạo ra, không ai có thể cứu được. Tuy vậy, cuối cùng ai cũng có thể thành Phật được. Tôi đâu dám khinh thường họ! PHÀM LỆ
1) Văn dịch trong Luật tạng rất phức tạp, nay muốn cho người học dễ nắm được, nên tôi nhằm vào ý nghĩa chủ yếu, lược bớt văn tự. Văn tuy được rút gọn, nhưng ý nghĩa chính vẫn giữ nguyên, nếu vị nào không tin, xin cứ đem Luật tạng ra đối chiếu.
2) Sau khi đức Như Lai diệt độ, Luật tạng được kiết tập, ban đầu không có chủ trương riêng của từng bộ phái. Sau này do kiến giải sai khác, nên phân
thành nhiều bộ, khi đã phân thành bộ phái, tất nhiên ai đi theo chủ trương nấy. Như ngài Nghĩa Tịnh chỉ hoằng dương luật Căn bản, ngài Hoài Tố đề cao luật Tứ phần, cho nên khó mà hội thông được.
Sợ rằng: Có học xứ bị bên này bỏ ra, lại được bên kia thu dụng, hoặc bỏ giới giá lấy giới khai, đưa đến tình trạng chú trọng giới khinh, xem thường giới trọng. Tôi phỏng theo ý chỉ của Luật sư Nam Sơn để đả thông tất cả sự dị đồng của các bộ. Chính yếu là sử dụng những ý kiến hợp lý nhất, không dựa vào cơ sở nào hết, như tránh né, thu dụng hoặc loại bỏ. Mục đích chính là hoàn thành việc tổng hợp những quan điểm đúng của các bộ phái. Ngõ hầu khế hợp được bản ý của Như Lai.
HỎI: - Tuyên luật sư sử dụng các bộ phái còn bị Hoài Tố luật sư chê. Nay y cứ vào đâu để làm cơ sở cho việc lấy, bỏ, đúng, sai? Nếu dựa vào sự suy luận của phàm phu thì liệu có đúng với quy định của Phật không?
ÐÁP: - Do sự tranh chấp nên sanh ra nhiều bộ phái, hiện tượng đó là sự suy thoái của đạo pháp. Sử dụng những sở trường của các bộ, chính là ý muốn tập thành. Tuy Hoài Tố chê, có chỗ cũng có căn cứ, nhưng chẳng lẽ Luật học của Tuyên luật sư sai hết hay sao? Huống chi Phật có dạy rõ: “Người nhiều trí tuệ có thể bỏ, có thể lấy, nhưng kẻ ngu si không thể phân biệt được”. Thế nên ở đây, lấy sự phân minh để tập đại thành là nghĩ đến người đi sau. Cho nên bộ Tập yếu này sử dụng sở trường của các bộ, là để đủ điều kiện tham khảo. Hơn nữa, vì ngược dòng tìm đến tận nguồn, nên đâu phải căn cứ trên những suy luận riêng tư để lấy hay bỏ một cách tùy tiện.
3) Riêng luật Thiện kiến phân giá tội và tánh tội(d) nhưng bên dưới mỗi giới có chỗ phân có chỗ không. Nay tôi theo nguyên bản không dám thêm vào, ai muốn đối chiếu nguyên bản thì có thế thấy rõ. Lại nữa, theo luật Thiện kiến gọi là chế tội, thì ở đây gọi là giá tội, chữ dùng tuy khác, ý nghĩa như nhau.
4) Theo sau mỗi giới, đều có các phần: Duyên khởi, thích nghĩa, đưa ra sự khinh trọng của tướng tội, hỏi và đáp để nêu lên lẽ đúng, lẽ sai. Sau hết dẫn chứng các bộ Luật oai nghi khác, những điều tương tự giới đó cũng phụ lục vào. Sáu phần này có khi nêu ra hết, có khi giảm bớt, vì thấy không cần thiết, nên không liệt kê chi tiết mà chỉ sử dụng sáu từ: Duyên, thích, tướng, biện, chứng và phụ, để nêu lên từng phần muốn nói.
5) Xét về mặt dịch thuật các bộ Luật, có trường hợp sử dụng từ ngữ khác nhau nhưng ý nghĩa đồng, hoặc lời văn khó hiểu. Những trường hợp như vậy có thể chú thích được thì chú thích, nếu không thể chú thích thì đưa vào cuối mỗi quyển để tiện tham khảo.
6) Giá tội của Thanh-văn, Ðại thừa đồng học. Cho đến những điều vì chúng sanh nên phương tiện mở ra, đều có chứng cứ rõ ràng trong kinh, không thể lẫn lộn được. Nay y cứ kinh Phạm võng và Từ thị giới bổn, mỗi giới chỉ thuyết minh phần chính. Ðó là phỏng theo ý của Sớ giải Thiên Thai.
ÐỀ CƯƠNG
1) Năm phần Pháp thân đều y cứ theo giới, ba môn học Vô lậu, lấy giới làm đầu, không một đức Như Lai nào không đủ giới thể, không một Bồ-tát nào không tu giới Ba-la-mật, không một kinh điển nào không đề cao giới pháp, không vị Thánh, bậc Hiền nào không giữ giới hạnh trang nghiêm. Trì giới giống như đất, tất cả thiện pháp đều từ đó mà sanh trưởng. Trì giới như thành quách, dựa vào đó mà xa lìa được ma chướng. Luận về sự thù thắng siêu việt của giới thì một người phàm phu khi được thọ giới, liền được gọi ngay là phước điền của thế gian; còn đạt đến chỗ cùng tận của giới thì chỉ có Phật mới được gọi là bậc tròn đầy về giới.
Bốn tầng lầu cao, mỗi bậc là cảnh giới viên đốn. Tám vạn tế hạnh, mỗi hạnh cùng pháp giới tương ưng. Nếu không trì giới thì dù có học tập giáo lý, tọa thiền, tạo các phước nghiệp đều là nếp sống của ma và rơi vào bè đảng của chúng. Thế nên ngườí hảo tâm, xuất gia, nhất thiết phải bắt đầu từ trì giới, và sau đó việc tự lợi lợi tha, các pháp mới thành tựu. Nếu bỏ con đường thông suốt này, thì không còn lối đi nào ngắn hơn nữa.
HỎI: -Tạng luật của Tỳ-kheo vốn thuộc Thanh văn, giới kinh Phạm võng mới là đại giáo, nay lại noùi rằng: Bốn cấp bậc đều là cảnh viên đốn, làm sao phân rõ được Ðại và Tiểu thừa? Lại nữa, đã gọi là viên đốn thì một cấp bậc là đủ rồi, cần gì phải bốn cấp bậc.
ÐÁP: - Người viên, khi thọ pháp, không pháp nào không viên. Ai đã nhận chân được chỉ thú của kinh Pháp hoa mở bày thì nhất sắc, nhất hương đều là trung đạo. Như vậy, có giáo pháp nào là không viên đốn? Pháp hoa huyền nghĩa nói: Khai thô (hiển) thì Luật học là Ðại thừa. Thức xoa, Thức xoa tứclà nghĩa thứ nhất của Ðại thừa. Ánh sáng không phải là xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, 250 giới đều là Ðại thừa. Như vậy, sao lại có thô giới khác với diệu giới? Giới đã diệu thì người thọ giới cũng diệu, nên câu “Ngươi thật là con ta” chính là nghĩa này. Ðây gọi là diệu giới, không còn đối đãi.
Than ôi! Do đây, quán sát từng cấp bậc đều là viên đốn, một và nhiều không ngại nhau, mới thành bất khả tư nghì. Nếu cho rằng một loạt là đủ, thì như kinh Hoa nghiêm có bảy chỗ, chín hội(e). Vậy, ta có thể đặt vấn đề là một chỗ, một hội là đủ có được không?
HỎI: -Năm giới, mười giới, Tỳ-kheo giới, Bồ-tát giới dụ như bốn cấp bậc vào nhà lầu. Thế nên nói rằng: Không thọ năm giới mà thọ mười giới, chođến không thọ Tỳ-kheo giới mà thọ Bồ-tát giới, việc làm ấy không đúng. Ý nghĩa thứ lớp đã rõ ràng như vậy, huống chi ngày nay, cho Sa-di thọ giới Bồ-tát, há không tự làm ngược lại và vượt lên lời dạy chơn thật của Phật hay sao?
ÐÁP: -Dụ về nhà lầu, chẳng qua thuyết minh tiến trình của một lần đi lên, nhưng nếu chấp hành một cách cứng ngắt như vậy thì Ưu-bà-tắc cũng không được thọ Bồ-tát giới. Sự thật thì Ưu-bà-tắc có thể thọ giới được vậy tại sao không cho phép Sa-di thọ? không lẽ Sa-di lại không bằng Ưu-bà-tắc hay sao? Giới Bồ-tát theo Nghĩa sớ thì cộng thông cả bảy chúng, mà các chùa đại và tiểu ở Tây Trúc chia riêng, như vậy chẳng lẽ các chùa của Ðại thừa lại không có Sa-di hay sao?
HỎI: -Ba môn, Thiền, Giáo, Luật cũng như lan mùa Xuân, cúc mùa Thu, đều phô trương cái đẹp của mình. Nay chỉ lấy giới làm đường đi chung, tại sao từ xưa lại lập ra ba Tông?
ÐÁP: - Hai mươi tám vị Tổ ở Tây Vực đều bảo trì ba Tạng, khi Phật pháp lưu truyền đến Ðông Ðộ thì mới phân chia thành môn phái, nhưng không một vị Thiền sư nào, một vị Giảng chủ nào không lấy giới luật để thúc liễm thân tâm, ngõ hầu không gây ác nghiệp.
2) Người chưa học giới, phần nhiều sợ giữ khó khăn, nguyên nhân chính là họ không hiểu giới pháp nên sanh lòng thối thất. Nếu ai học giới này, mới thấy rằng đức Như Lai trí tuệ vô cùng, hiểu tận lòng người. Ngài ngăn ngừa và mở ra rất đúng chỗ, nên sự giữ giới không khó khăn gì cả.
Tôi nhớ lúc mới xuất gia, tự thị cho rằng căn bản mình thanh tịnh, rất sợ sự hành trì bó buộc với nhiều chi tiết, nên mười giới Sa-di tôi còn chẳng chịu thọ, huống chi là giới Tỳ-kheo. Sau này, nhân theo đại chúng ở Tùng lâm nên gượng thọ mười giới. Sau đó xem qua giới bổn, cho đến học Luật tạng mới tin rằng: muốn được tự tại không còn sợ gì, thì cần phải thông suốt giới luật.
Người chưa học luật, gặp việc gì cuõng bế tắc cả. Nhà Nho nói: “Người không học lễ, không thể lập thân.” Lời nói ấy đúng thay!
3) Xứ Tây Trúc khí hậu nóng và ẩm, cây cỏ không sanh trưởng được, nên đức Phật cho phép Tỳ-kheo ăn 5 thứ tịnh nhục. Xứ này rau trái rất nhiều, quyết định không đuợc ăn thịt. Lại nữa, các nước ở Tây Vực, nếu thực hành theo pháp Tiểu thừa mới ăn 5 thứ tịnh nhục, còn các người hành trì theo Ðại thừa, đều cấm không cho ăn.
Nay tại xứ này giáo pháp Ðại thừa đã truyền khắp, nếu Tỳ-kheo ăn thịt, nhất định tăng thêm sự hủy báng. Ðể ngăn sự chê bai của thế gian, nên chú trọng việc này, dù ai chưa thọ giới Bồ-tát cũng không được ăn thịt, nếu ăn thịt thì không phải nếp sống của Sa-môn.
4) Hai tạng Kinh và Luận quý ở chỗ lưu thông, riêng có tạng Luật rất quý giá và kín đáo, vì luật là pháp của Ðại Tăng không phải dành cho người ngoài.
Luật Căn bản chép: “Người tại gia chỉ được nghe hai tạng Kinh và Luận, tạng Luật là phép tắc của người xuất gia không được xem”.
Bài tựa của kinh Giới nhân duyên chép: “Tại Thiên Trúc, luật được giữ kín, chỉ có bậc Ðầu-đà và những vị có trí tuệ vững chắc mới được phép mở xem và cùng truyền cho nhau”.
Ngài Da-xá dặn đi dặn lại rất kỹ việc này: “Con người nên bảo họ làm chứ không nên cho họ biết”. Câu nói này thật là chí lý chí thiết, cần lưu ý và cẩn thận mong rằng những vị đồng giới phải cẩn thận vấn đề truyền thọ. Ai chưa đủ năm hạ, chẳng phải người trì luật, chớ nên cho họ biết. Xem rõ hai Luật đều nói như vậy, nên biết việc này phải cẩn thận, nếu để Sa-di hiểu rõ Năm thiên thì sẽ thành già nạn khi họ thọ Cụ túc giới.
Bộ Tập yếu này đặc biệt dành cho người thích gọn, tiện dụng khi hành trì. Chớ nên cho người chưa thọ giới xem trước. Nếu Sa-di trao cho nhau xem, phải trách họ và ngăn cản ngay, nếu không làm như vậy ta và họ đều có tội.
HỎI: - Ðức Thế Tôn giảng pháp như một trận mưa làm thấm ướt khắp nơi, người nào thấm nhuần đều được lợi ích. Ngày xưa có người nghe nửa bài kệ trong kinh, được thoát khỏi tội đầu thai làm chó, và trâu chở đại kinh, đời sau được sanh làm Sa-môn. Như vậy, tại sao Tạng luật lại cho là quý báu và giữ kín? Chẳng lẽ luật không có lợi ích cho người, hay là quý vị không muốn đem luật làm lợi ích cho mọi người? Lại nữa, giả như có người chưa thọ Cụ túc giới, phát tâm duyệt Tạng luật, không biết Phật cấm chỗ nào không được đọc. Lại như những người viết chép, khắc bản in... thì phải xem qua, giả như sau này họ phát tâm thọ giới, nếu vì những người aáy cho thọ giới thì họ có mắc trọng nạn hay không? Nếu điều đó là trọng nạn thì trong Phật pháp cũng có những hạn chế và tác dụng ngược lại “Cam lồ biến thành độc dược?”
ÐÁP: - Kinh điển quý ở chỗ lưu thông, nhờ thế nên thành chủng tử của văn huân, còn Luật quý báu ở chỗ giữ kín nên ngăn ngừa được cái nạn của tặc trụ. Một bên là giữ kín, một bên là phơi bày, đều là nằm trong Tứ tất-đàn của Như Lai, cho đến như người không biết gì mà lầm xem hay xem qua khi chép, khắc, in... thì đâu có tâm trộm pháp, tất nhiên không liệt vào trường hợp bị trọng nạn. Nhưng những người chép hay khắc chưa hiểu rõ được thì còn có thể dung thứ, còn như người xem mà hiểu rõ thì phải ngăn cấm. Vì vậy, đối với những người biết pháp cần phải khéo léo hướng dẫn cho họ.
HỎI: - Các thiên và tụ của luật đã không cho Cư sĩ và Sa-di được biết, tại sao trên hội Niết-bàn đức Thế Tôn nói với đại chúng trời, người về 5 thiên 7 tụ và phó chúc cho đời sau không được vi phạm, chẳng lẽ trong kinh Niết-bàn nói riêng cho Tỳ-kheo và không thể lưu thông trong thế gian hay sao?
ÐÁP: -Hội Niết-bàn thuần là chúng đại Bồ-tát, chắc chắn không có kẻ ác trộm pháp, nên đức Phật đối với tên của thiên và tụ không kiêng cữ. Tuy nhiên Phật chỉ nói ra tên chứ không trình bày sự nghĩa, nếu ai muốn giảng kinh Niết-bàn cũng không nên giải thích chi tiết.
HỎI: - Sa-di hiểu được 5 thiên thì thành già nạn khi thọ giới Cụ túc. Nay giả như có người muốn thọ giới Cụ túc nhưng trước đây lỡ đọc 5 thiên thì có thành già nạn không?
ÐÁP: - Giới pháp của Tỳ-kheo chỉ cho phép hành trì sau khi thọ. Trước khi thọ giới không được đọc giới bổn, nếu không biết mà xem nhầm thì có thể tha thứ được, còn biết mà cố ý vi phạm thì khó có thể bỏ qua.
5) Giới thể của Tỳ-kheo rất tôn quý, nếp sống của người thế tục rất ô nhiễm. Tụng kinh, lễ sám còn có thể gọi là pháp thí, nhưng thổi tiêu, đánh bạt thì khác gì kẻ xướng ca? Trường hợp trong kinh Pháp hoa cho phép làm như vậy để cúng dường Phật thì vốn là bảo người khác làm, chứ đã mang hình dáng trang nghiêm của Tăng sĩ, sao lại tự mình làm nhưõng điệu bộ khó coi như vậy! Nếu am viện nào muốn thay đổi nếp sống, theo Thiền tông thì cũng không được sử dụng các loại âm nhạc, nếu ai không từ bỏ thì trái với những quy định của Phật.
HỎI: - Nếu cho rằng việc thổi tiêu, gõ bạt cũng giống như hát xướng, nhưng truyện Ký qui có ghi: “Ðại hội Tự tứ có gõ nhạc, đánh trống, treo tràng hoa, đi hành hương các miếu thờ”. Như vậy, xét về nội dung thì khác gì thổi tiêu, gõ bạt, tại sao lại không cho? Giả sử bảo người khác làm, có khác gì mình làm mà lại không phạm tội?
ÐÁP: - Tội ngũ nghịch, thập ác là tánh tội của thế gian, nên bảo người khác làm hay tự mình làm đều chịu quả báo như nhau. Nay việc ca hát, xướng múa là Giá tội của người xuất gia, còn bảo người đánh nhạc để cúng dường thì đó là phước nghiệp, việc này không thể xem là tánh tội được.
6) Giới không ăn phi thời, tất cả kinh, luật đều nghiêm cấm rõ ràng và đầy đủ, không một bộ luật nào khai cho giới này. Câu nói: “Ăn quá ngọ là dược thạch”, không phải lời của Phật dạy, đó là quyền xảo của người xưa, nếu thân thể yếu ớt nhiều bệnh thì cho dùng nước phi thời, nước bảy ngày, thuốc trọn đời, có thể đáp ứng sự suy yếu của cơ thể. Tại sao lại cam tâm phá giới này? Trừ trường hợp vì nhân duyên mất mạng không còn cách nào để bảo tồn sinh mạng thì hoặc là xả giới Tỳ-kheo, Sa-di, chỉ làm một người cận trú Bồ-tát, hoặc cứ 15 ngày hàng tháng thành khẩn sám hối, nguyện không làm Giới sư thì có thể được.
HỎI: - Giới không ăn phi thời còn gọi là trai, chắc chắn không được phạm rồi. Nhưng những bậc Tri thức xưa nay, phần nhiều không thể giữ được.
Nếu như người nào, các giới căn bản đã thanh tịnh, chẳng lẽ bị đọa vì các giới khác không thanh tịnh hay sao?
ÐÁP: -Phá giới phá trai đều gọi là ác pháp, nếu chỉ giữ giới căn bản, thà đừng thọ dụng của tín thí. Từ xưa đến nay, những bậc Tri thức chơn chánh theo khuynh hướng “Thừa cấp giới hoãn”, đều biết đức tàm quý, không làm Giới sư như ngài Tử Bá, Thọ Xương. Những bậc Tri thức gần đây không tuân theo giới vi tế, đã làm thầy mọi người một cách sai lầm, nếu họ chưa bị đọa lạc có thể nhờ phước nghiệp đặc biệt nào đó bảo trì. Ngài Huệ Viễn cương quyết từ chối uống nước mật, ngài Cao Phong chỉ ăn một bữa, ngài Ðạt Quán quá ngọ không nếm một thứ gì cả. Các ngài danh túc về Thiền giáo từ trước, giữ gìn trai giới thanh tịnh rất nhiều, chính là giữ gìn giáo. Ta không thể học theo kẻ Tri thức đời sau, cầu lợi một cách bẩn thỉu.
7) Trong luật quy định Tỳ-kheo chưa đủ 10 hạ không được phép làm Hòa thượng hay y chỉ A-xà-lê, nếu vị nào vội vã làm thầy, đó là người biết pháp mà lạm pháp.
HỎI: - Bây giờ thời mạt pháp, mạng người vô thường, thân như sương buổi sớm, làm sao có thể chờ đợi đúng lúc? Hoặc là có thể nào mở ra một trường hợp ngoại lệ để Tăng bảo không bị đoạn tuyệt hay không?
ÐÁP: -Do đời mạt pháp không y theo luật định, Tăng luân suy đồi, nên thành suy giảm như thế. Nay muốn phục hưng lại phải tuân theo sự quy định của Phật. Ai muốn độ người xuất gia, ít nhất phải đủ 10 hạ, biết rõ hai bộ luật của Tăng và Ni.
8) Theo luật, mỗi ngày chia làm ba thời, cho phép hai thời học nội điển, một thời còn lại học sách vở khác, thuộc sách ngoài. Những người lợi căn, có thể dựa vào đó để hàng phục ngoại đạo, vì các nước ở Tây Vực rất nhiều ngoại đạo chống đối Phật pháp. Ở xứ này, việc ấy không đối tượng, nên vị nào chỉ chuyên tâm theo việc chính của mình thì hàng Cư sĩ càng thêm kính trọng. Như ai đắm nhiễm thơ văn thì người giỏi được đời thương cảm tổn và kẻ dở bị chê bai. Tôi chỉ thấy họ bị người ngoài hàng phục họ, chứ nào thấy họ hàng phục được ai đâu. Vị nào căn cơ có hạn, thì giờ không nhiều, phải mau học việc chánh yếu, cho rõ ràng thông suốt, còn sợ không kịp thì giờ. Nếu tham đắm thơ văn chắc chắn không là người giới tử chơn thật.
9) Luật này là nền tảng của định tuệ, là gốc của giải thoát. Nền móng xây xong, nhà cửa làm theo thiết kế, gốc cây đã vững thì đến khi trổ hoa kết trái lẽ tất nhiên hơn nhiều. Nếu không rèn luyện nội tâm, mà chỉ trang sức hình tướng bên ngoài thì ngược với nhơn chánh thọ giới, vĩnh viễn đoạn tuyệt diệu quả Niết-bàn.
HỎI: - Giới là nền móng của định tuệ, là gốc của giải thoát. Không xây nền móng, tất nhiên không xây nhà được. Nhưng nếu chỉ có nền móng thì chưa phải là hoàn thành toàn bộ, nên cần phải lấy việc học giáo nghĩa, tham thiền để đạt đến cứu cánh, chẳng lẽ chỉ có luật mới đạt đến cứu cánh hay sao?
ÐÁP: -Thọ được Luật nghi, đó chính là nền móng, để Ðịnh cộng giới2 và Ðạo cộng giới hoàn thành, cho nên mới nói: Cần phải rèn luyện nội taâm. Như phần đại tiểu Kiền-độ trình bày: Ban đầu hành giả tu tập Thánh giới để đạt đến Ngũ thông, Tam minh, tất cả đều thuộc về thật nghĩa của giới. Như vậy, lại có thể tìm cầu cứu cánh nào bên ngoài luật hay sao?
10) Giới luật không hạn chế ở Thanh-văn, nếu ai phát tâm ắt bằng bậc Ðại sĩ. Vả lại, đủ các giới hạnh mới là chánh nhơn của thượng phẩm.
Niệm Phật được độ thoát, thời nay chính là lúc tin vào sự ghi chép, nếu không về được nơi an lạc thì chưa hoàn toàn tuân theo lời Phật dạy. Mong rằng những vị đồng tu hãy biết rõ nơi hướng về.
HỎI: - Ðầy đủ các giới hạnh, tất nhiên là đủ điều kiện để được sanh thượng phẩm thượng sanh và sanh vào một trong ba loại chúng sanh. Trì giới giống như mặt đất, tất cả thiện pháp đều sanh thành từ đóù. Nếu Ðịnh cộng và Ðạo cộng đều bao hàm đầy đuû thì cần gì phải niệm Phật? Lại nữa, niệm Phật là pháp môn ngắn nhất để ra khỏi ba cõi, khi lâm chung chỉ cần 10 niệm, tức được vãng sanh, cần gì phải hành trì giới tướng cho phiền phức? Cả hai pháp môn đều là đường tắt, chỉ cần đi một đường là đến đích, cần gì phải bước cả hai đường mới gọi là hoàn toàn tuân theo lời Phật dạy?
ÐÁP: - Ðịnh cộng và Ðạo cộng tất nhiên có khả năng thoát khỏi sanh tử, nhưng nếu không nguyện sanh về Tịnh độ thì đương nhiên chỉ sanh về cõi phương tiện uế độ mà thôi. Còn nếu trì giới kiêm niệm Phật, có thể đoạn được thông hoặc (kiến tư hoặc) và biệt hoặc (trần sa, vô minh), đương nhiên có thể sanh vào ba cõi Tịnh độ: Phương tiện, Thật báo và Tịch quang Tịnh độ. Giả như chưa đoạn được hoặc, cũng có thể sinh vào cõi Ðồng cư Tịnh độ. Lại nữa, niệm Phật để tâm được tịnh, đó là Vô thượng diệu giới. Nếu không tuân theo lời dạy “niệm Phật được giải thoát” thì cũng chính là đi ngược lời dạy của Phật, giới luật cũng chê trách điều đó. Nhưng nếu ỷ lại vào con đường tắc, 10 niệm vãng sanh khinh thường giới tướng cho là phiền phức, cũng không phải là người niệm Phật chơn chánh, 10 niệm lúc lâm chung khó thành tựu. Thế nên người tu cần phải lấy Tịnh giới làm nhân, Tịnh độ làm quả, mới lấy việc chính yếu để giải thoát; đây chính là một con đường thanh tịnh sao gọi là hai đường ư?
11) Bộ Tập yếu này chỉ đáp ứng cho việc tự lợi, nếu vị nào muốn hoằng truyền luật thì cần phải tham khảo hết Tạng luật, mới có thể hiểu rõ hết nguồn gốc, mà chỉ bày lại cho người sau. Ðã là bậc thầy mô phạm, đâu có thể cho phép chỉ chọn sự tóm lược mà bỏ đi sự rõ ràng đầy đủ. Nay nếu vị nào y cứ giới luật làm cơ sở, riêng tu giáo quán Thiền tông v.v... trước hết cần phải thuộc lòng chánh văn của giới bổn, sau đó y cứ giới bổn nghiên cứu cho thấu triệt những chỗ vi tế. Những vị như thế không bị chê là dê câm. Nếu ai quyết chí hoằng dương giới luật tiếp dẫn người sau, trước hết căn cứ vào bản Tập yếu này nghiên cứu cho rõ ràng nhuần nhuyễn, sau đó cần phải tham khảo toàn Tạng luật thì mang danh Luật sư mới không hổ thẹn vậy. LUẬT TẠNG TỔNG MỤC
1) TỨ PHẦN LUẬT TẠNG: 60 quyển -Ðời Diêu Taàn -Kế Tân -Tam Tạng Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch.
2) TỨ PHẦN GIỚI BỔN: 1 quyển - Tam tạng Phật-đà-da-xá dịch.
3) TỨ PHẦN GIỚI BỔN: 1 quyển.
TỲ-KHEO-NI GIỚI BỔN: 1 quyển -Ðường, chùa Tây Thái Nguyên, Sa-môn Hoài Tố y luật tập xuất.
4) ÐÀM-VÔ-ÐỨC LUẬT TẠP YẾT-MA: 1 quyển -Tiền Ngụy, Tam Tạng Thiên Trúc Khương Tăng Khải dịch.
5) YẾT-MA - Tào Ngụy - Sa-môn Ðàm-đế tập.
6) TỨ PHẦN TỲ-KHEO-NI YẾT-MA PHÁP: 1 quyển -Lưu Tống -Tam Tạng nước Kế Tân Cầu-na-bạt-ma dịch.
7) TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT-MA: 2 quyển - Kinh Triệu -chùa Sùng Nghĩa, Sa-môn Ðạo Tuyên soạn.
8) TỨ PHẦN TĂNG YẾT-MA: 3 quyển.
TỨ PHẦN NI YẾT-MA: 3 quyển - Ðường, chùa Tây Thái Nguyên, Sa-môn Hoài Tố y luật tập xuất.
9) MA-HA TĂNG KỲ LUẬT: 40 quyển -Ðông Tấn - Tam Tạng Pháp sư Phật-đà-bạt-đà-la cùng Sa-môn Pháp Hiển dịch.
10) BA-LA-ÐỀ-MỘC-XOA TĂNG KỲ GIỚI BỔN: 1 quyển - Phật-đà-bạt-đà-la dịch.
11) TỲ-KHEO-NI TĂNG KỲ LUẬT BA-LA-ÐỀ-MỘC-XOA GIỚI KINH[1]: 1 quyển - Ðông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, người Bình Dương cùng Giác Hiền dịch.
12) DI-SA-TẮC NGŨ PHẦN LUẬT: 30 quyển - Tống, Tam Tạng nước Kế Tân Phật-đà-thập và Trúc Ðạo Sanh dịch.
13) NGŨ PHẦN GIỚI BỔN: 1 quyển.
TỲ-KHEO-NI GIỚI BỔN: 1 quyển - Lương, chùa Kiến Sơ - Sa-môn Minh Huy biên tập.
14) NGŨ PHẦN LUẬT YẾT-MA BỔN: 1 quyển - Ðại Ðường, chùa Khai Nghiệp, Sa-môn Ái Ðồng ghi chép.
15) THẬP TỤNG LUẬT: 58 quyển - Diêu Tần, Tam Tạng Phất-nhã-đa-la, Cưu-ma-la-thập cùng dịch.
16) THẬP TỤNG TỲ-NI TỰ: 3 quyển - Ðông Tấn, Tam Tạng Tỳ-ma-la-xoa dịch tiếp theo.
17) THẬP TỤNG LUẬT TỲ-KHEO GIỚI BỔN: 1 quyển – Cưu-ma-la-thập dịch.
18) THẬP TỤNG LUẬT TỲ-KHEO-NI GIỚI BỔN: 1 quyển – Tống, chùa Trường Can, Sa-môn Pháp Dĩnh tập xuất.
19) TÁT-BÀ-ÐA TỲ-NI TỲ-BÀ-SA: 6 quyển, thêm một quyển tiếp theo.
Mất tên người dịch. Phụ vào thời Tam Tần sao chép. 20) TÁT-BÀ-ÐA TỲ-NI MA-ÐẮC-LẶC-GIÀ: 10 quyển - Tống, Tam Tạng Pháp sư Tăng-già-bạt-ma dịch.
21) ÐẠI SA-MÔN BÁCH NHẤT YẾT-MA PHÁP: 1 quyển - Mất tên người
dịch. Phụ vào thời Tống sao chép. 22) THẬP TỤNG YẾT-MA TỲ-KHEO YẾU DỤNG: 1 quyển -Lưu Tống, Thích Tăng Cừ y luật soạn.
23) CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HƯÕU BỘ TỲ-NẠI-DA: 50 quyển. 24) (Như trên[2]) BÍ-SÔ-NI TỲ-NẠI-DA: 20 quyển. 25) (Như trên) TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ: 40 quyển. 26) (Như trên) TỲ-NẠI-DA PHÁ TĂNG SỰ: 20 quyển. 27) (Như trên) TỲ-ÐÀ-NA: 5 quyển. MỤC-ÐẮC-CA: 5 quyển. 28) (Như trên) BÁCH NHẤT YẾT-MA: 10 quyển. 29) (Như trên) GIỚI KINH: 1 quyển.
BÍ-SÔ-NI GIỚI KINH: 1 quyển. 30) NY-ÐÀ-NA-MỤC-ÐẮC-CA NHIẾP TỤNG[3], TẠP SỰ NHIẾP TỤNG[4]: 1 quyển - Ðường, Tam Tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh phụng dịch.
31) CĂN BẢN TÁT-BÀ-ÐA BỘ LUẬT NHIẾP: 14 quyển - Tôn giả Thắng
Hữu tạo. Nghĩa Tịnh dịch. 32) CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ-NẠI-DA TỤNG: 3 quyển - Tôn giả Tỳ-xá-khư tạo. Pháp sư Nghĩa Tịnh dịch.
33) (Như trên) XUẤT GIA THỌ CẬN VIÊN YẾT-MA NGHI QUỸ: 1 quyển.
34) BÍ-SÔ TẬP LƯỢC PHÁP: 1 quyển - Nguyên, Ðế sư[5] Bí-sô Bạt-hiệp-tư-ba tập.
35) GIỚI NHÂN DUYÊN KINH[6]: 10 quyển - Diêu Tần, Tam Tạng Trúc Phật Niệm dịch.
36) GIẢI THOÁT GIỚI BẢN KINH: 1 quyển – thuộc Ca-diếp-tỳ bộ – Nguyên Ngụy, Bà-la-môn Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi dịch.
37) THIỆN KIẾN TỲ-BÀ-SA LUẬT: 18 quyển Tiêu Tề -Sa-môn ngoại quốc Tăng-kỳ-bạt-đà-la[7] dịch.
38) TỲ-NI MẪU KINH: 8 quyển - Mất tên người. Phụ vào thời Tần sao chép.
39) PHẬT A-TỲ-ÐÀM KINH: 2 quyển – Ðời Trần, Tam Tạng Pháp sư Chơn Ðế dịch.
40) XÁ-LỢI-PHẤT VẤN KINH: 1 quyển – Ðông Tấn, mất tên người dịch
41) ƯU-BA-LY VẤN KINH: 1 quyển -Lưu Tống, niên hiệu Nguyên Gia, Cầu-na-bạt-ma dịch.
42) CA-DIẾP CẤM GIỚI KINH: 1 quyển – Tống, Cư sĩ Thư Cừ Kinh Thanh dịch.
43) PHẬT THUYẾT PHẠM GIỚI TỘI KHINH TRỌNG KINH: 1 quyển -Hậu Hán, Tam Tạng An Thế Cao người An Tức dịch.
44) PHẬT THUYẾT MỤC-LIÊN SỞ VẤN KINH: 1 quyển -Ðồng như kinh trên, Tam tạng dịch kinh Triêu tán đại phu thí hồng lô thiếu khanh truyền giáo đại sư[8] Pháp Thiên người Tây Thiên phụng chiếu dịch.
Xét hai bản dịch 43 và 44 đều là một phẩm đầu của kinh Ngũ bách vấn đang lưu truyền.
Theo ý của kinh Ngũ bách vấn, người sau dựa vào đó thêm vào. Tôi (tác giả) đã từng xem kỹ, không những ngược với luật Tứ phần mà còn mâu thuẫn hầu hết tất cả luật luận 5 bộ phái. Tuy nói rằng: Thánh ý không thể xét bừa bãi kinh điển, không nên bàn luận một cách khinh xuất. Nhưng hành trì theo thì rõ là ngược với các bộ luật đang hiện có. Chẳng lẽ bỏ tất cả những nguyên tắc cộng thông để giữ lấy pháp môn đang còn nghi ngờ. Không rõ các vị Luật chủ trong cận đại, đang lưu thông kinh này, đã từng tham khảo toàn Luật tạng chưa? Nay tôi đã nghiên cứu kỹ nguồn gốc của 5 hệ thống luật không thể không nêu ra những nghi ngờ này được.
45) LUẬT NHỊ THẬP NHỊ MINH LIỄU LUẬN: 1 quyển - Chánh lượng bộ Pháp sư Phật-đà-đa-la-đa tạo. Trần, Tam Tạng Pháp sư Chơn Ðế dịch.
46) ÐẠI TỲ-KHEO TAM THIÊN OAI NGHI: 2 quyển -Hậu Hán, An Thế Cao dịch. Ngài Tăng Hựu nói mất tên người dịch.
47) SA-DI THẬP GIỚI PHÁP VÀ OAI NGHI: 1 quyển -Mất tên người dịch. Phụ vào thời Ðông Tấn sao chép.
48) SA-DI OAI NGHI: 1 quyển – Tống, Tam Tạng Thiên Trúc Cầu-na-bạt-ma dịch.
49) SA-DI-NI GIỚI KINH: 1 quyển -Mất tên người dịch, thời Hán sao chép.
50) SA-DI-NI LY GIỚI VĂN: 1 quyển - Mất tên dịch.
51) ƯU-BÀ-TẮC NGŨ GIỚI TƯỚNG KINH: 1 quyển -Tống, Tam Tạng Thiên Trúc Cầu-na-bạt-ma dịch.
52) GIỚI TIÊU TAI KINH: 1 quyển – Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm người Nhục Chi dịch.
53) NAM HẢI KÝ QUI NỘI PHÁP TRUYỆN: 4 quyển.
. Thọ dụng tam thủy yếu hành pháp.
. Hộ mạng phóng sanh nghi quỹ pháp.
. Tuyết tội yếu hành pháp. 3 pháp trên hiệp một quyển.
Ðường, Tam Tạng Sa-môn Nghĩa Tịnh dịch. TỨ PHẦN LUẬT TẠNG PHẨM MỤC
1) Phần thứ nhất: 21 quyển. Tỳ-kheo giới 2) Phần thứ hai: 15 quyển.
Tỳ-kheo-ni giới. Kiền-độ Thọ giới. Kiền-độ Thuyết giới. 3) Phần thứ ba: 13 quyển. An cư - Tự tứ - Bì cách - Y dược - Y công đức - Câu-thiểm-di - Chiêm-ba -
Quở trách - Nhân Che giấu - Ngăn phá tăng - Diệt tránh - Kiền-độ Tỳ-kheo-ni - Kiền-độ Pháp.
4) Phần thứ tư: 11 quyển. Phòng xá - Tạp - Ngũ bách kiết tập - Thất bách kiết tập Tỳ-ni - Ðiều bộ Tỳ-ni - Tỳ-ni tăng nhất. MỤC LỤC DẪN CÁC KINH LUẬN
– Ðại bát-niết-bàn kinh - Tạ Linh Vận trùng trị.
– Ðại Bát-nhã kinh - Huyền Trang pháp sư dịch.
– Bồ-tát thiện giới kinh – Cầu-na-bạt-ma dịch.
– Ưu-bà-tắc giới kinh - Ðàm-vô-sấm dịch.
– Pháp giới thứ đệ sơ môn - Trí giả đại sư soạn. – Quán Tâm Luận Sớ Chương An Tôn giả soạn
– Tri Môn Cảnh Huấn Chưa rõ người tập thành Chú thích:
(1) Năm thiên (ngũ thiên) gồm có:
a) Tội Ba-la-di波羅夷 Ä (Skt=Pāli. pārājika), dịch là đứt đầu. Tội này rất nặng như người bị đứt đầu không thể sanh trở lại được. Tỳ-kheo cũng thế,
phạm vào là không thể làm Tỳ-kheo trở lại được (Tỳ-kheo có 4 giới, Tỳ-kheo-ni có 8 giới).
b) Tội Tăng-già-bà-thi-sa 僧伽婆尸沙 Å (Skt. Saṃghāvẳeṣa, Pāli. Saṃghādisesa), Trung Hoa dịch là Tăng tàn, phạm vào tội này cũng như người bị chém cổ, chỉ còn lại cuống họng cần phải cấp cứu mới có thể sống lại được. Tỳ-kheo cũng vậy muốn trở lại làm Tỳ-kheo thanh tịnh, thì cần
phải có sự cứu chữa của Tăng bằng cách hướng về Tăng chúng sám hối tội này (Tỳ-kheo có 13 giới, Tỳ-kheo-ni có 17 giới).
c) Ba-dật-đề波逸提 Ý (Skt. Pāyattika, Pāli. pācittika), Trung Hoa dịch là đọa, là Tỳ-kheo nào phạm vào tội này thì bị đọa vào địa ngục. Ở đây có 2
loại đơn đọa và xả đọa (hai loại này cộng lại thì đối với Tỳ-kheo có 120 giới, Tỳ-kheo-ni có 208 giới).
d) Ðề-xá-ni, gọi đủ là Ba-la-đề đề-xá-ni 波羅提提舍尼 (Skt. Pratideśanỵya, Pāli. pātidesanỵya), dịch là “huớng vào người khác mà sám hối”, nghĩa là
Tỳ-kheo nào phạm vào tội này phải hướng về Tỳ-kheo khác mà sám hối, thì tội này mới tiêu diệt (Tỳ-kheo 4 giới, Tỳ-kheo-ni 8 giới).
e) Ðột-kiết-la 突吉羅 (Skt. duṣkṛta, Pāli. dukkaṭa), dịch là “ác tác”, nghĩa là chỉ cho những hành động tạo tác ác. Tội này thuộc loại nhẹ.
(*) Kê Viên: Ở Tây Trúc có chùa Kê-đầu-ma cách Lộc Uyển (vườn nai) không xa. Cho nên kinh Ðại Phật đảnh nói: “Ta ở Lộc Uyển, cũng ở Kê Viên”. (xem Như Lai tối sơ thành đạo).
(2) Phương quảng: là tên chỉ chung cho kinh điển Ðại thừa, với 12 bộ kinh thì kinh Phương quảng nếu theo thứ tự là thứ 10 trong 12 bộ.
(3) Bảy tụ (thất tụ): Căn cứ vào sự khác biệt của năm thiên đã kết thành quả tội, cùng cái nghĩa cấp yếu của nó để thiết lập Bảy tụ. Trong những trường hợp tội quả sít soát với Ba-la-di hay Tăng tàn, vì chúng chưa thành nên ở đây gọi là Thâu-lan-giá và tội Ðột-kiết-la của hai nghiệp thân, khẩu được phân định trở lại là Ðột-kiết-la, chỉ cho thân gọi là ác tác, còn khẩu gọi là ác thuyết. Do đó bảy tụ gồm có: Ba-la-di, Tăng tàn, Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề, Ðề-xá-ni, ác tác, ác thuyết.
(a) Ðạo cộng giới: là 1 trong 3 loại luật nghi của Thánh giả Tam thừa. Khi hành giả nhập vào sắc giới thì sẽ phát ra định Vô lậu, cùng với trí Vô lậu, ở trong thân tự phát ra được giới thể phòng phi chỉ ác (luật nghi Vô lậu), đó gọi là luật nghi Vô lậu hay cũng gọi là Ðạo cộng giới. Vì luật nghi Vô lậu cùng với Ðạo vô lậu cùng phát sanh và cùng diệt, cho nên gọi là Ðạo cộng giới.
(b) Mười giới: Theo đại Kinh thì có 10 loại: 1. Cấm giới; 2. Thanh tịnh giới; 3. Thiện giới; 4. Bất khuyết giới; 5. Bất chiết giới; 6. Ðại thừa giới; 7. Bất thối giới; 8. Tùy thuận giới; 9. Tất cánh giới; 10. Cụ túc Ba-la-mật giới. 4 giới đầu thuộc về sự là cảnh để quán. Còn 6 loại sau thì dùng lý sự tương tức quán. Trong 6 giới này thì giới thứ năm là giới không quán tương ưng, giới thứ 6, thứ 7 và 8 thuộc về giới giả quán tương ưng, giới thứ 9 và thứ 10 thuộc về giới trung quán tương ưng.
(c) Tướng bạch hào: là 1 trong 32 tướng của đức Như Lai. Tướng của nó là một cái lông sắc trắng ở giữa hai đường lông mày của đức Thế Tôn, xoáy tròn về phía hữu như mặt trời giữa trưa, phóng ra ánh sáng. Lúc mới sanh ánh sáng dài cỡ một thước, lúc thành đạo dài cỡ một trượng năm thước, cho nên gọi là tướng lông trắng.
(4) Hành cước: là từ chuyên môn dành cho các thiền Tăng, trước khi chưa chứng ngộ phải lấy việc đi tham học nơi các Thiền sư làm sự nghiệp cho mình, nên vấn đề đi tham học là sự nghiệp chính. Tổ đình sự uyển có nói rằng: “Nguời hành cước là nguời xa lìa làng xóm đi hành cước trong thiên hạ, dứt bỏ tình cảm trói buộc, tầm phỏng thầy bạn để cầu pháp chứng ngộ, bởi vì học vô thượng sư nên phải trải khắp”.
(5) Tánh giới và giá giới: Tánh giới là giới của chính tự tánh, ví như tự tánh của sát, đạo, dâm là giới không đợi Phật chế mới có giới nên gọi là tánh giới. Giá giới là ngược lại với tánh giới, nghĩa là những giới này do tướng phạm mà căn cứ vào đó đức Phật chế ra để răn cấm không cho phạm.
(6) Văn-thù Bồ-tát cầm gươm bức Phật: (Truyền thuyết) theo kinh Ðại bảo tích quyển 105 nói: “Khi 500 vị Bồ-tát được trí Túc mạng biết về nhiều kiếp trước đã tạo nhiều trọng tội, vì vậy nên lo tu hối hận khiến không thể chẳng được Vô sanh pháp nhẫn. Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù biết được tâm niệm của họ, ở trong đại chúng trịch áo vai phải, tay cầm kiếm bén hướng thẳng về đức Thế Tôn muốn hại ngài, đức Phật bảo ngài Văn-thù chớ hại Ta, nhưng nếu muốn hại thì nên hại một cách khéo léo. Vì sao vậy? Vì tất cả các pháp như mộng huyễn, không ngã không nhơn, bị ai sát hại mà thọ tai ương? Lúc ấy, các vị Bồ-tát biết rằng các tội kiếp trước của mình đều như huyễn hóa nên đạt được Vô sanh pháp nhẫn, khắp miệng đồng nói kệ rằng:
Văn Thù người đại trí,
Ðạt sâu nguồn gốc pháp.
Tự tay cầm kiếm báu,
Quyết bức thân Như Lai.
Như kiếm Phật không khác,
Một tướng không có hai.
Không tướng không chỗ sanh,
Ở đây sao gọi sát.”
(7) Tỳ sương砒霜 : cũng gọi là thạch tín là một loại thuốc độc, uống vào chết nguời.
(8) Ưu Mạnh là nhạc công của Sở Trang Vương trước đời Tần, giỏi khôi hài can gián. Tể tướng Tôn Thúc Ngao rất coi trọng phẩm đức của ông, lúc lâm chung di chúc cho con sau này có gì khó khăn nên tìm đến Ưu Mạnh. Sau này, quả nhiên con Tôn Thúc Ngao nghèo đến nỗi phải đi đốn củi để sống qua ngày, bèn tìm Ưu Mạnh xin giúp đỡ.
Ưu Mạnh mặc quần áo của Tôn Thúc Ngao, mô phỏng động tác và lời nói của Tôn Thúc Ngao... Luyện tập bắt chước hơn một năm, ông cải trang thành Tôn Thúc Ngao. Một lần, Trang Vương mở tiệc, Ưu Mạnh bước lên dâng rượu, khiến Trang Vương tưởng Tôn Thúc Ngao tái sanh, muốn mời về làm Tể tướng lần nữa... Ưu Mạnh trả lời: “Vợ con của thần làm Tể tướng nước sở là không xứng đáng, như Tôn Thúc Ngao trung thành liêm khiết cai trị quốc gia, làm cho nước Sở xưng bá trong thiên hạ, thế mà đến khi chết con cái nghèo không có cơm ăn....” Rồi Ưu Mạnh hát khúc ca, đại ý.... Làm quan sạch thì nghèo khổ... Trang Vương nghe khúc ca tỉnh ngộ, cho gọi con trai Tôn Thúc Ngao ban thưởng đất đai và nô bộc. (Bách khoa thư văn hoá cổ điển Trung Quốc – Nxb Văn hoá thông tin).
(d) Tánh tội và giá tội: Tánh tội là tội ác không cần đức Phật chế ra mà phạm vào là mắc tội như các điều ác của sát, đạo, dâm, nếu phạm vào những điều này là mắc tội. Còn giá tội là tội đã phạm vào những điều đã được đức Phật ngăn cấm đối với những người xuất gia, Phật muốn giữ gìn mọi điều cơ hiềm của thế gian có thể xảy ra, nên đức Phật chế ra giới pháp để ngăn ngừa không cho phạm, nếu phạm phải những điều cấm đó thì mắc tội như các loại chứa dư y, ăn đồ cách đêm, đào đất, hại cỏ v.v...
(e) Bảy chỗ chín hội: theo Thập bát hoa nghiêm kinh một bộ có 39 phẩm thì có 7 chỗ nói và gồm có 9 hội.
7 chỗ: - Nhân gian gồm có 3 chỗ: 1. Bồ-đề đạo tràng, 2. Phổ Quang Minh điện, 3. Trùng Các giảng đường,
-Thiên thượng gồm có 4 chỗ: 1. Ðao-lợi thiên, 2. Dạ-ma thiên, 3. Ðâu-suất thiên, 4. Tha Hóa thiên.
Ðó là 7 chỗ nói kinh Hoa nghiêm. Và gồm có 9 hội:
1. Thế chủ diệu nghiêm phẩm, 2. Như Lai danh hiệu phẩm, 3. Thăng Ðao-lợi thiên cung phẩm, 4. Thăng Dạ-ma thiên cung phẩm, 5. Thăng Ðâu-suất thiên cung phẩm, 6. Thập địa phẩm, 7. Thập định phẩm, 8. Ly thế gian phẩm, 9. Nhập pháp giới phẩm. Ðó là chín hội nói kinh Hoa nghiêm của đức Phật.
2 Ðịnh cộng giới: còn gọi là Tịnh lự sanh luật nghi. Khi nhập vào sơ thiền, nhị thiền cùng các thiền định khác, thì cùng với thiền định, giới thể phòng phi chỉ ác tự nhiên cùng sanh, tất cả những động tác của thân và khẩu đều kết hợp với luật nghi. Câu-xá luận 14 nói: “Tịnh lự sanh nghĩa là luật nghi từ nơi tịnh lự sanh ra, hoặc y vào tịnh lự. Nếu đạt được tịnh lự thì định thành ra luật nghi này.”
[1] Tỳ-kheo-ni Tăng kỳ luật Ba-la-đề-mộc-xoa giới kinh: là Ma-ha Tăng kỳ Tỳ-kheo-ni giới bổn, tr. 556, Ðại22n1427.
[2] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.
[3] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da ni-đà-na-mục-đắc-ca nhiếp tụng.
[4] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ lược Tỳ-nại-da tạp sự nhiếp tụng.
[5] Ðế sư: thầy của vua.
[6] Giới nhân duyên kinh: tên khác Tỷ-nại-da, Tỷ-nại-da kinh, Giới quả nhân duyên kinh – tr. 851, Ðại 24n1464.
[7] Tăng-kỳ-bạt-đà-la 僧祇跋陀 I羅: Bản nguyên tác in nhầm chữ (Trùng trị tỳ-ni sự nghĩa tập yếu quyển đầu, tr. 347c22, Vạn ‘Tục tạng’ 40n719). Ðính
chính: Tăng-già-bạt-đà-la 僧伽跋陀 I羅 (skt. Saṃghabhadra – dịch là Tăng Hiền, Chúng Hiền), người Tây Vực. Ngài đến Quảng Châu năm Vĩnh Minh (483-493) thời Nam Tề. Ngài dịch bộ Thiện kiến luật tỳ-bà-sa tại chùa Trúc Lâm, Quảng Châu, năm thứ 7 (có thuyết nói năm thứ 6), niên hiệu Vĩnh Minh (489).
[8] Triêu tán đại phu thí hồng lô thiếu khanh truyền giáo đại sư: là tước hiệu do vua ban cho ngài Pháp Thiên. QUYỂN THỨ 1
Toàn văn bộ Luật này chia làm hai phần, đề mục và giải thích bản văn. PHẦN ÐẦU LÀ ÐỀ MỤC
TỨ PHẦN GIỚI BỔN - Giải thích đề mục của bộ Luật này là phỏng theo giới Phạm võng nghĩa sớ, lược thuật theo ba lớp huyền nghĩa :
– Giải thích tên gọi.
– Trình bày bản thể.
– Ðịnh liệu vấn đề giản đơn.
A.GIẢI THÍCH TÊN GỌI:
Chia làm ba:
-Nói rõ Tứ phần giới bổn.
-Rút ra từ bộ Luật nào.
-Giải thích sự nghĩa tập yếu.
I. TỨ PHẦN GIỚI BỔN LÀ GÌ?
-Luật Tứ Phần Giới Kinh của Tỳ-kheo.
Bộ Luật này rút ra từ bộ luật Ðàm-vô-đức. Tiếng Phạn gọi là Ðàm-vô-đức, Hoa dịch là Pháp Mật.
Bộ Luật này có 4 phần:
- Phần thứ nhất, thuyết minh việc của Tỳ-kheo.
- Phần thứ hai, thuyết minh việc của Tỳ-kheo-ni và pháp thọ giới, pháp thuyết giới.
- Phần thứ ba, thuyết minh các pháp An cư và
tự tứ...
- Phần thứ tư, thuyết minh các pháp phòng xá
và tạp pháp...
Giới bổn này thuộc phần thứ nhất. Ðức Như Lai nhân sự việc mà kết thành giới kinh.
II. Rút ra từ bộ luật nào?
Rút ra từ nhiều bộ Luật, trong đó có thông và biệt.
Thông nghĩa là tất cả đều gọi là Luật. Biệt chỉ cho Tăng kỳ, Ngũ phần v.v... Chúng được rút ra từ sự quan hệ của Kinh sách số mục mà gọi tên. Tỳ-ni hay Tỳ-nại-da, phiên âm từ tiếng Phạn, Hoa dịch là Thiện trị cũng dịch là Ðiều phục, hay là Diệt, gọi chung là Luật, luật là pháp vậy.
Kinh Giới nhân duyên nói:
Chữ “Tỳ” ngôn ngữ nhà Tần gọi là “Khử”, “Nại-da” gọi là “Chơn”, nghĩa là loại bỏ bao nhiêu cái sai quấy để còn lại cái chơn, cho nên gọi là chơn. Hàng phục tâm này, chấm dứt tâm này, nhẫn nhục không để tâm này sinh khởi, nên gọi là chơn. Hàng phục là giới, chấm dứt là định, nhẫn là tuệ. Nêu lên một pháp là gồm thâu cả ba môn Vô lậu học. Nếu không có giới thiện thì định tuệ không phát khởi. Giới pháp này có ba loại:
- Luật nghi giới, cũng gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa giới.
- Ðịnh cộng giới, cũng gọi là Thiền giới.
- Ðạo cộng giới, cũng gọi là Vô lậu giới.
1) Luật nghi giới: Luật là ngăn ngừa và đình chỉ; Nghi là hình nghi, nó có khả năng đình chỉ các việc ác, thể hiện nơi thân gọi là giới, cũng gọi là oai nghi. Oai là thanh bạch trang nghiêm khả kính. Nghi là phép tắc đáng làm mô phạm, cũng gọi là điều ngự, tức là hướng dẫn tâm làm điều lành. Ba-la-đề-mộc-xoa: Hoa dịch là bảo giải thoát, cũng dịch là biệt biệt giải thoát, vì nó có khả năng bảo đảm hành giả ra khỏi biển sanh tử. Hơn nữa, tùy theo sự giữ gìn không phạm giới nào đó thì ở nơi đó có sự giải thoát, tức chỉ cho 250 học xứ, và tùy luật oai nghi.
2) Ðịnh cộng giới: Ðịnh là vắng lặng, khi vào định tự nhiên điều phục tâm thiện, chận đứng các điều ác.
3) Ðạo cộng giới: Ðạo có khả năng thông suốt, sau khi chơn tâm được phát khởi, tự nó không hủy phạm, như người chứng được sơ quả, khi cày đất thì loài trùng xa lìa bốn tấc, đó là cái sức của Ðạo cộng giới.
Hai pháp giới này chỉ cho cái dụng thắng diệu trên bản tâm, chúng có khả năng phát sanh giới, hơn nữa Ðạo, Ðịnh và Luật nghi, cả ba cùng phát khởi nên gọi là cộng. Tạng Tỳ-ni này chính là nói rõ luật nghi, nhưng nhiếp cả Ðịnh và Ðạo.
Do công đức trì tịnh giới nên thiền định, trí tuệ mới phát sanh. Như vậy, Luật nghi là nhân, Ðịnh, Ðạo là quả. Hoặc do thiền định và sức của Vô lậu mà tánh nghiệp, giá nghiệp đều thanh tịnh, cho nên Mộc-xoa là quả, Ðịnh, Ðạo là duyên.
Luận Tát-bà-đa nói: Giới Ba-la-đề-mộc-xoa này nếu Phật xuất thế thì có, Phật không xuất thế thì không, nhưng Thiền giới, Vô lậu giới lúc nào cũng có. Giới Ba-la-đề-mộc-xoa từ nơi lời dạy mà có được; còn Thiền, Vô lậu giới không từ nơi lời dạy mà có được. Cho nên luận ấy nói: Giới Ba-la-đề-mộc-xoa chỉ đệ tử Phật mới có, còn Thiền giới thì ngoại đạo cũng có.
Luận rằng: khả năng duy trì Phật pháp, gồm cả bảy chúng ở thế gian, đạo quả ba thừa nối tiếp nhau không dứt đoạn, đều dùng Ba-la-đề-mộc-xoa làm căn bản. Thiền và Vô lậu giới thì không vậy. Do đó, trong ba giới nó là hơn hết.
Luận Thiện kiến cũng nói:
Tỳ-ni tạng là mạng sống của Phật pháp. Tỳ-ni tạng có mặt, Phật pháp cũng có mặt. Ðó là lược giải nghĩa tên chung.
Kế đến tên riêng chỉ cho luật Tăng kỳ, Ngũ phần, Tát-bà-đa, Thật tụng, Thiện kiến, kinh Giới nhân duyên, luận Tỳ-ni mẫu v.v... Tại sao lại dùng các bộ Luật này? Xét theo kinh Xá-lợi-phất hỏi Phật, Ðức Phật tự huyền ký rằng: Sau khi pháp diệt, cháu Vua Thâu-kha (A-dục) là Phất-sa-mật-đa-la, một vị vua đức tính hiền lương đã chấn hưng Phật pháp[2]. Khi ấy, các Tỳ-kheo tham đắm theo danh khen, rất ưa tranh luận, sao chép sửa đổi giới luật của Như Lai, thêm bớt gia giảm. Ðối với những gì ngài Ca-diếp kiết tập, họ chia làm từng phe nhóm riêng, cùng nhau nói phải nói quấy. Họ yêu cầu nhà vua phán quyết. Vua tập họp hai bộ lại, rút thăm. Số người thủ cựu nhiều gọi là Ma-ha Tăng kỳ; số người theo chủ thuyết mới thì ít, mà là bậc Thượng tọa, gọi là Tha-tỳ-la, tức Thượng tọa bộ. Về sau do sự tranh luận lại chia làm nhiều bộ, trong thời gian ba bốn trăm năm, sau khi Phật diệt độ, lần lượt phân chia thành nhiều giáo phái. Như vậy truyền mãi về sau, phải có, quấy có. Ngoài ra chỉ có 5 bộ, theo sở trường của mình, dùng sắc phục để nói lên điều đó.
a) Bộ Ma-ha Tăng kỳ, siêng học kinh điển, truyền giảng chơn nghĩa, theo chỗ ở của mình nên mặc áo màu vàng.
b) Bộ Ðàm-vô-cúc-đa-ca (tức là Ðàm-vô-đức) thông suốt ý nghĩa của giáo lý, mở bày hướng dẫn việc lợl ích, nêu lên điểm thù thắng, nên mặc áo màu đỏ.
c) Bộ Tát-bà-đa, rỗng không, mẫn đạt, dùng pháp hướng dẫn để giáo hóa, nên mặc áo màu đen.
d) Bộ Ca-diếp-di, siêng năng mạnh mẽ, nhiếp hộ chúng sanh, nên mặc áo màu lam.
e) Bộ Di-sa-tắc, tư duy thiền quán đến chỗ vi diệu, cứu xét đến chỗ tận cùng u mật, nên mặc áo màu xanh.
Ma-ha Tăng kỳ ý vị thuần chánh, còn các bộ kia cũng như trang bị thêm cam lồ. Như chư thiên khi uống thì chỉ uống cam lồ, loại bỏ nước thường, còn người đời khi uống thì cam lồ và nước đều dùng, có khi tiêu hết bệnh, có khi lại sanh bệnh. Người đọc tụng cũng như vậy, người nhiều trí huệ có khả năng thủ xả, còn kẻ ngu si không thể phân biệt được.
Lại xét, trong tập Phiên dịch danh nghĩa ghi rằng:
Ðức Thế Tôn thành đạo 38 năm, một hôm đến thành Vương Xá thọ trai, khi thọ trai xong, Ngài bảo La Vân rửa bát (La-vân là La-hầu-la, phiên dịch là phú chướng ‘ngăn che’, ở trong thai 6 năm là con của Tất-đạt-đa)[3] rủi tay làm bể cái bát thành 5 mảnh. Phật dạy: Ðó là điềm báo sau khi Ta diệt độ, trong khoảng 500 năm đầu, các Tỳ-kheo chia Tạng luật thành năm bộ. Sau quả là như vậy. Năm bộ là:
1) Ðàm-vô-đức bộ.
2) Tát-bà-đa bộ, Hoa dịch là Thuyết nhất thế hữu. Tên của luật là Thập Tụng.
3) Ca-diếp-di bộ, Hoa dịch là Trùng không quán.
Chỉ có một quyển kinh Giải thoát giới bổn truyền đến Trung Hoa mà thôi.
4) Di-sa-tắc bộ, Hoa dịch là Bất trước hữu vô quán. Tên luật là Ngũ phần.
5) Bà-ta-phú-la bộ. Hoa dịch là Ðộc tử. Bộ này không truyền đến nước Trung Hoa.
Năm bộ là biệt, Ma-ha Tăng kỳ là tổng. Chung lại là sáu bộ.
Lại xét, Nam hải ký qui truyện[4] có nói:
Sự lưu truyền của các bộ phái, sanh khởi không đồng nhau. Sự tương thừa bên Tây Vức đại cương chỉ có 4:
1) Thánh Ðại chúng bộ, chia ra thành bảy bộ.
2) Thánh Thượng tọa bộ, chia ra thành ba bộ.
3) Thánh Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ,
chia ra làm 4 bộ.
4) Thánh Chánh lượng bộ, chia ra làm 4 bộ.
Trong thời gian đó, vấn đề phân chia đã xuất hiện hay còn ẩn khuất, riêng tên gọi từng bộ không phải là một, nơi đây không phiền để thuật lại.
Hữu bộ chia ra làm ba bộ khác nhau:
1) Pháp hộ bộ.
2) Hóa địa bộ.
3) Ca-nhiếp-tì (Ca-diếp-di) bộ.
Thập tụng, Tứ phần, phần nhiều gần với kinh, và lấy đó làm đề mục, song Thập tụng chính là Căn bản hữu bộ.
Vua Tần-bà-sa-la nằm mộng thấy một thớt lụa bị xé thành 18 miếng, một cây trượng bằng vàng bị chặt thành 18 đoạn. Nhà vua sợ, đến hỏi Phật, Phật dạy: “Hơn 100 năm sau, khi Ta diệt độ, có vua A-thâu-ca, oai lực ở cõi Thiệm-bộ, khi ấy các Bí-sô đem giáo pháp của Ta chia thành 18 bộ. Nhưng pháp môn giải thoát thì chỉ có một. Ðây tức là điềm báo trước, việc đó vua chớ nên lo.” Những gì vừa trình bày đều khác nhau không đồng bởi cách Phật quá xa, cho nên sự truyền thừa có thể bị sai lạc. Nay nếu câu nệ nơi dấu vết dị đồng thì sự mâu thuẫn nảy sanh, không phải là ít. Nhưng nếu ta nắm lấy ý nghĩa thì sẽ có điều hay tốt tiện dụng. Tuy Thánh tâm khó lường nhưng sự so sánh có thể y cứ vào được. Miễn nắm được ý nghĩa thì sự việc không phải nhọc nhằn để giải quyết. Phần nguyên ủy của các Bộ đã nói xong.
III. Giải thích về sự nghĩa tập yếu
Sự là duyên khởi để chế giới.
Nghĩa là tùy theo tội phạm nặng nhẹ, kiết tội sám hối.
Yếu tức là văn của Luật nghi phần nhiều phiền phức nay chỉ lấy chỗ cốt yếu.
Tập là tuy riêng tôn luật Tứ phần, nhưng vẫn tham khảo và dụng lấy nghĩa của các Bộ phái. Tại sao chỉ riêng tôn luật Tứ phần? Vì 250 giới tướng, không thể thêm bớt được và vì đã nhiều đời lưu hành. Tại sao phải tham khảo dùng nghĩa của các bộ khác? Vì “Sự” là khi nói rõ, có khi nói lược. “Nghĩa” là có sở trường, sở đoản, nên không ngại gì việc làm sáng tỏ cho nhau.
Phần giải thích tên gọi xong.
B. TRÌNH BÀY BẢN THỂ
1) Trước hết biện minh danh từ “Vô tác”:
Ngài Thiên Thai đại sư nói: “Giới thể không phát thì thôi, phát khởi thì thuộc về tánh”. Cũng trong hướng ấy, Khánh Công giải thích “Vô tác giả sắc” như sau: “Giới thể này không phát khởi thì thôi, nếu phát khởi thì hoàn toàn thuộc về tánh”. Tánh và tu kết hợp với nhau mà thành (giới thể) chắc chắn có vô tác giả sắc. Vô tác một khi phát khởi, tự nó ngăn điều ác và làm điều lành. Cho nên sau khi phát khởi rồi không hề phát khởi lại, nên gọi là vô tác.
Nói vô tác giả sắc, là chỉ cho 11 sắc pháp, chúng có giả và thật nên pháp xứ là nơi dung nhiếp các sắc. Ở đó chỉ có định quả sắc gọi là thật sắc, còn Biểu, vô biểu sắc đều gọi là giả sắc. Hai giới thiện và ác đều có biểu và vô biểu; biểu chỉ cho tác, vô biểu chỉ cho vô tác.
Nay giải thích thiện giới: Khi quỳ gối một cách chí thành gọi là thân biểu. Ba lần nói lên sự xin giới, gọi là ngữ biểu. Chúng Tăng hòa hợp đồng nhóm họp nơi giới trường cũng gọi là thân biểu. Bạch tứ yết-ma cũng gọi là ngữ biểu. Do đây, khi tác pháp nhận được giới thể thanh tịnh của Tỳ-kheo thì đó là cảnh sở duyên của ý, tự nó hằng được hai pháp thiện “chỉ và hành”. Cho nên nói sau khi phát khởi rồi không hề phát lại, gọi đó là vô tác giả sắc vậy.
Vô tác giới thể này, khi Yết-ma lần thứ ba xong liền được. Khi ấy, đối với tất cả nam nữ được cái sắc thái không dâm. Ðối với tất cả hữu tình, phi tình được cái sắc thái không trộm cắp. Ðối với tất cả loài hữu tình được cái sắc thái không giết hại. Ðối với tất cả loài hữu tình được cái sắc thái không khi cuống. Cho đến đối với tất cả đất đai được cái sắc thái không đào bới. Ðối với tất cả cỏ cây được sắc thái không phá hoại. Ðối với tất cả rượu được cái sắc thái không uống. Như vậy 250 giới pháp mỗi mỗi đều hiện hữu khắp cả pháp giới. Cho nên trong kinh Xuất gia công đức, nói rõ công đức trì giới một ngày môt đêm không thể cùng tận. Chính là do thiện vi diệu của giới này biến khắp, và lấy pháp giới làm cảnh sở duyên.
Như vậy thì vô tác giới thể là Pháp xứ sắc, là Vô lậu sắc. Thành thật luận gọi là “phi sắc phi tâm hội tụ”, vì nó ngăn tâm không còn có đắc thất, quả không còn có bất thiện, mà chúng là hai món nạn vậy.
(Bộ Nghĩa sớ nói: Hỏi đề vô tác giả sắc, kinh luận cùng nhau thuyết minh, kẻ nói có, người nói không. Một chủ thuyết cho rằng chỉ thề không làm ác, tức gọi là thọ giới hoàn toàn không có cái sắc vô tác. Nếu trong nhân riêng có cái bất thiện, cùng nhau làm cái nhân thành Phật, thì nơi Phật địa cũng phải riêng có cái thiện này cùng làm Phật quả. Ở đây vì cái quả không có bất thiện, nên sự trở ngại đối với giới, chính là sắc pháp, vì Tiểu thừa, vọng cho vô tác là thật sắc ở ngoài tâm. Một chủ thuyết cho rằng: Kinh luận Ðại, Tiểu thừa đều có đề cập đến vô tác. Có thể dùng thắng tâm làm giới, thì khi phát tâm liền đắc giới. Nếu vậy thì tại sao có bảy thứ ngăn ngại, không thể đắc giới? Hơn nữa, nếu hoàn toàn không có vô tác, thì tại sao khi phạm trọng tội liền gọi là mất giới? Do tâm không có đắc thất nên sự trở ngại đối với giới, chính là tâm pháp. Thành thật luận lập “phi sắc phi tâm hội tụ” với mục đích là dùng hai cái này để ngăn hai nạn trên. Xưa nay, các Luật sư đều dựa vào đó mà dụng nghĩa. Nếu Ðại thừa thuyết minh giới là giả sắc, nương vào Bổn sư, một khi thọ lãnh giới pháp cho đến chứng quả Bồ-đề, tùy theo Ðịnh cộng giới, Ðạo cộng giới mà thề tu các thiện, thệ nguyện độ hàm thức (hữu tình), cũng dùng cái khả năng lớn mạnh của tâm này. Riêng phát khởi thiện giới để làm cảnh sở duyên cho hành giả, chấm dứt các điều ác.)
Thật sự là do tâm cảm mà được, nên mượn sắc để tiêu biểu thôi. Cho nên Ðại thừa nói: Yết-ma lần thứ nhất thành tựu, vì do nghiệp lực của tâm mà diệu thiện giới pháp trong mười phương, thế giới thảy đều chấn động. Yết-ma lần thứ hai thành tựu, thì diệu thiện giới pháp trong mười phương thế giới, ở giữa hư không như mây, như bảo cái (lọng báu) bao trùm trên đảnh người thọ giới. Yết-ma lần thứ ba thành tựu, thì diệu thiện giới pháp trong mười phương thế giới, từ đảnh môn của người thọ giới, trôi chảy vào trong thân tâm, sung mãn chánh báo, bao trùm cả đời vị lai, luôn luôn là hạt giống Phật. Tuy trong Tạng Tỳ-ni không nói vieäc này, nhưng cũng nói rằng: “Yết-ma thành tựu gọi là đắc xứ sở”. Nên biết hữu lậu ngũ uẩn, sắc thân là chỗ nương. Vô lậu ngũ uẩn, giới thân là chỗ nương. Hữu lậu sắc thân từ tinh cha huyết mẹ hòa hợp mà thành là sắc xứ giả sắc; còn Vô lậu giới thân từ Tam sư Thất chứng yết-ma mà được, đó là pháp xứ giả sắc. Sở dĩ, Hòa thượng gọi là lực sanh, vì chính từ cái khả năng này sanh ra giới thân, nên dùng nghĩa đó mà gọi tên vậy.
Ðược giới thân này, liền đồng với Tăng bảo, thường khiến cho Thiên long tôn phụng, quỷ thần khâm phục tuân theo. Nếu tâm không vui sống với đạo thì gọi là giới luy (giới yếu kém). Nếu hướng đến người nào nói xả giới thì gọi là hoàn giới. Nếu không có cái vô tác giới thể này, thì thiện thần dựa vào đâu mà quý kính, làm sao gọi là yếu kém, làm sao gọi là xả giới?
Hỏi: - Ðã là yếu kém, có xả lại có phá, vậy tại sao gọi là nhậm vận chỉ, hành?
Ðáp: - Thí như cầu, đò có công năng đưa người qua sông, ao giếng có công năng cho nước dùng. Nếu như phá bỏ cầu đò, lấp bằng ao giếng thì công năng kia liền mất. Nếu không như vậy, thì lúc nào cũng sử dụng được, khỏi đợi phải làm lại, cho nên gọi là vô tác.
2) Thuyết minh chỉ và hành:
Ðây là hai pháp hành.
Như Bách luận nói:
Dứt điều ác không làm gọi là chỉ, tin thọ tu tập gọi là hành.
Phật giáo tuy bao la, nhưng hai chữ “chỉ và hành” thâu nhiếp cả.
Nay nói về giới thiện, nếu không phát khởi thì thôi, còn phát khởi thì chận đứng ngay các điều ác, đó là nghĩa chữ “chỉ”. Và từ đó tiến lên thực hiện điều lành, đó là nghĩa chữ “hành”. Chận đứng điều ác từ căn Tùy phiền não, khởi lên thân, khẩu thất chi là nhân ác, trong ba đường chịu khổ khốc là quả ác.
Thập cú nghĩa sẽ giải bày đầy đủ ở sau.
Mỗi khi các Tỳ-kheo kiết giới, có khả năng khiến cho người thọ trì, khi nhân ác đã trừ, quả ác sẽ tiêu hết, đó là “phạt ác”. Tiến lên nhiếp trì các căn, không cho niệm tán loạn, thường nhất tâm tu tập các pháp lành, nhậm vận cảm được hoa báo cõi nhơn thiên, cho đến khi đạt đến thật quả xuất thế giải thoát, đó là nghĩa “tấn thú”. Phần trình bày về bản thể đã xong.
C. ÐỊNH LIỆU VẤN ÐỀ GIẢN ÐƠN:
Chia làm hai:
- Ðối với Ðại thừa thì biện chỗ được (đắc) và bỏ (xả)
- Ðứng trên giáo tướng thì biện chỗ cạn và sâu.
1) Biện chỗ được và boû:
Ðại thừa chú trọng nội nhân, Tiểu thừa chú trọng ngoại duyên. Vì chú trọng nội nhân cho nên cần phải phát tâm Bồ-đề mới có thể thọ giới được. Nếu ở trong tâm bất thiện, vô ký không phát khởi vô tác, ngàn dặm tìm thầy không có, thì cho phép đối trước Phật tượng tự thọ. Vì chú trọng ngoại duyên nên cần phải có Sư, Tăng, Giới, Pháp, mọi việc hợp lại để chế. Nếu các duyên có một cái nào không đủ thì không đắc giới, còn các duyên đầy đủ thì cả ba tâm đều đắc giới (thiện, bất thiện, vô ký đều phát khởi).
Hơn nữa, Ðại thừa sau khi được giới thẳng đến thành Phật, Tiểu thừa chỉ đắc giới trong một đời thôi.
Ðại thừa thì thượng phẩm triền, phạm thập trọng, và thối thất tâm đại Bồ-đề thì gọi là mất giới. Tiểu thừa phạm tứ trọng cấm thì gọi là mất giới. Nếu lòng không vui sống với đạo, đến trước một người để xả thì gọi là hoàn giới.
Ðại thừa sau khi mất giới, nếu thấy được hảo tướng thì cho phép thọ giới lại. Tiểu thừa mất giới rồi, dứt khoát không cho thọ giới lại. Trường hợp tuyệt đối không che giấu thì cũng chỉ có thể cho Yết-ma dữ học. (Trong pháp trị tội có thuyết minh vấn đề này). Trường hợp có xả giới mới cho phép thọ lại, còn đủ ba phen hoàn tục, thì mới không cho thọ lại.
Hỏi: - Giải thích giới thể dựa vào Ðại thừa để
trình bày chỗ được bỏ, nhưng lại phân ra có đại có tiểu, làm sao cho tông chỉ nghĩa lý của nó không trái nhau?
Ðáp: - Vì y vào Ðại thừa để giải thích vô tác nên không trái với thể pháp. Ðối với đại tiểu để trình bày chỗ được bỏ thì không làm hủy hoại pháp tướng, nếu trái với thể pháp, thì tướng không có chỗ nương tựa, làm hoại pháp tướng thì thể không do đâu hiển hiện. Cho nên sau khi khai hiển của kinh Pháp hoa, thì phần phò trì giới luật thuộc về kinh Niết-bàn. Phép tắc của Tỳ-ni không hề có thay đổi một mảy may. Chính biết nghĩa “thường” ở đây nên mới gọi là nhiệm mầu tuyệt đãi, do dó tông chỉ nghĩa lý đều thành, nghĩ suy có thể hiểu được.
Lại hỏi: - Ðại thừa đã chú trọng nội nhân, thời nay, Luật sư cho người thọ Bồ-tát giới, vậy có thể biết nội nhân của họ chơn thật không? Giả như không chơn thật thì có gọi là đắc giới hay không? Nếu không đắc giới, thì dầu có phạm thập trọng đi nữa, lại có thể dùng thập trọng để định tội kia được sao?
Ðáp: - Trong văn Di-lặc bồ-tát yết-ma, có trình bày rõ vấn đề quán sát đương cơ. Nếu không biết cái nội nhân kia, sai quấy tương truyền cho thọ thì không tránh khỏi cái tội không hiểu rõ mà làm thầy. Song người thọ giới kia trong tâm bất thiện, vô ký, tuy không phát khởi giới nhưng mà đã lạm nhận cái tên Bồ-tát, tự mình cần phải y theo luật quán xét tội kia, không đồng với không đắc giới. Rốt cuộc xếp vào hạng tặc trú vậy.
2) Biện minh chỗ cạn, sâu:
Ðây là thuộc về giáo pháp của vị “lạc” (sữa đông) trước hết hướng dẫn người phàm phu vào cõi Thánh. Nếu có thể dùng 5 vị để dung thông, cũng có thể dùng tứ giáo để giải thích.
Ðối với tất cả cấm giới, kiên cố chấp trì, hằng xa lìa hệ phược, tức là pháp của “Tạng giáo”. Nếu đạt đến tội như bệnh huyễn, giới như thuốc huyễn, trì phạm vốn không, thân tâm thanh tịnh, tức là pháp của “Thông giáo”. Nếu tin theo trung đạo, tức dùng giới này, đoạn kiến tư hoặc, kế đến nhập vào đời làm việc lợi ích cho chúng sanh, sau ngộ nhập trung đạo, tức là pháp của “Biệt giáo”. Nếu gọi giới là pháp giới thì tất cả pháp đều hướng về giới, hướng này là trụ nơi bí tàng của giới. Trong mỗi một giới thấy rõ Phật tánh, tức 1à pháp của “Viên giáo”.
Lại nữa, đức Như Lai dùng Tứ tất-đàn, để lập ra giới pháp này. Tùy thuận thế gian, bảo hộ chúng sanh, khiến cho họ hoan hỷ, tức “Thế giới tất-đàn”. Sanh thiện tức là “Vị nhơn tất-đàn”. Diệt ác tức là “Ðối trị tất-đàn”. Hay khiến cho Chánh pháp cửu trụ, tức là “Ðệ nhất nghĩa tất-đàn”.
Lại nữa, sau khi lãnh thọ, khai hiển thì giới này chỉ là Nhất thừa, không thuộc ba giáo trước. Cho nên kinh Pháp hoa nói: “Sau khi các đức Phật diệt độ, nếu người nào có tâm thiện thành tựu, hạng người như vậy đều thành Phật đạo”. Lại nói rằng: “Việc làm của các ngươi là đạo của Bồ-tát vậy”.
Lại nữa, trước khi chưa khai hiển, Tỳ-kheo Ðại thừa cũng phải đồng học. Cho nên trong kinh Bồ-tát giới bổn nói: “Nếu Bồ-tát đối với Tạng Ba-la-đề-mộc-xoa của Như Lai mà kiến lập Tỳ-ni thì ngăn được tội. Bồ-tát nên hộ trì chúng sanh khiến người chưa tin thì tin, tin rồi thì tăng trưởng đồng như Thanh văn học. Tại sao vậy? Thanh văn là tự độ, nhưng cũng không xa lìa độ tha, huống chi Bồ-tát độ sanh là đệ nhất”.
Lại nói rằng: Nếu Bồ-tát thấy như vậy, thuyết như vậy, và nói: “Bồ-tát không nghe kinh pháp của Thanh văn, không thọ, không học, nhưng tại sao Bồ-tát dùng pháp của Thanh văn mà làm”. Như vậy gọi là phạm, phạm rất nhiều, như vậy là phạm tội khởi nhiễm ô. Than ôi!
Luật này toàn văn chia làm hai, phần một giải thích đề mục rồi. PHẦN HAI CHÁNH VĂN
Chia làm ba:
- Trước hết nói về tựa của giới.
- Thứ hai là liệt kê các giới tướng.
- Thứ ba là khuyến, kết, hồi hướng.
Phần đầu chia làm bốn:
- Bài kệ khen ngợi.
- Hỏi đáp khải bạch.
- Nói tựa của giới kinh.
- Kết thúc hỏi.
Mục một lại chia làm sáu:
- Quay về với Tam Bảo.
- Bảo chúng họp để nghe.
- Thầy trò truyền thọ.
- Dùng dụ khuyên đừng phá giới.
- Trình bày giới điều đang nói.
- Khen giới là hơn hết để kết thúc. A. BÀI KỆ KHEN NGỢI
I. Nay nói về phần quy kính
Cúi đầu lễ chư Phật,
Tôn pháp Tỳ-kheo Tăng.
Trước khi tác pháp, phải lễ kính Tam bảo, để cầu sự gia bị. Cúi đầu là thân nghiệp thành kính, khi “thân” thành kính thì “miệng” xưng danh hiệu công đức, “tâm” chỉ có quán tưởng, tức là ba nghiệp cúng dường.
Phật, Pháp, Tăng gọi là Tam bảo, đáng tôn trọng.
- Phật nghĩa là giác. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, cho nên gọi là Phật.
- Pháp nghĩa là quỹ trì, là tự nó có tính chất của nó, và khi chúng ta tiếp xúc thì khái niệm về nó không nhầm cái khác. (Nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải), cho nên gọi là Pháp.
- Tỳ-kheo gồm có ba nghĩa:
1) Khất sĩ: xa lìa pháp sống tà mạng, với một chiếc bình bát nuôi thân, xả bỏ sự nhơ nhớp vì ngu si, ba huệ tự trong sáng.
2) Bố ma: khi vừa thọ giới Cụ túc, yết-ma thành tựu, chư thần liền nói lớn rằng: Nơi đây, lúc này có người con trai (con gái) lành đã thọ giới Cụ túc, sẽ làm cho chư Thiên mạnh thêm, Tu-la (A-tu-la) tổn giảm. Như vậy, các thiên thần đi giữa hư không nghe được, lần lượt lớn tiếng xướng reo, chỉ trong giây lát, thấu đến Phạm thiên, ma Ba-tuần hoảng sợ. Cho nên gọi là ma sợ (Bố ma).
3) Phá ác: là người tu Bồ-đề phần, đoạn kiến tư hoặc.
Trong khi tu hành, đầy đủ ba nghĩa, cho nên trong quả chứng, theo đó được danh hiệu Ứng cúng, Vô sanh, Sát tặc cũng gọi là A-la-hán.
Lại nữa, Tỳ-kheo là Trừ cẩn. Làm ruộng phước cho đời, mở đại pháp thí, cho nên gọi là Trừ cẩn.
Tăng, gọi đủ là Tăng-già. Trung Hoa dịch là Hòa hiệp chúng. Ðó là danh xưng dành cho bốn vị Tỳ-kheo trở lên.
Hòa hiệp có hai nghĩa:
1) Lý hòa, là đồng chứng quả Trạch diệt.
2) Sự hòa, có 6 nghĩa:
- Giới hòa đồng tu.
- Kiến hòa đồng giải.
- Thân hòa đồng trụ.
- Lợi hòa đồng quân.
- Khẩu hòa vô tránh.
- Ý hòa đồng duyệt.
Lại nữa, luật Thập tụng nói có 5 loại Tăng:
- Tăng không biết tàm quý, tức là các Tỳ-kheo phá giới.
- Tăng nhụ dương[5], là các Tỳ-kheo tập hợp ở một chỗ, không biết Bố-tát, không biết Yết-ma Bố-tát, không biết thuyết giới, không biết pháp hội.
- Tăng biệt chúng, là các Tỳ-kheo trong một cương giới, làm các pháp Yết-ma riêng rẽ.
- Tăng thanh tịnh, là các Tỳ-kheo phàm phu giữ giới và phàm phu thắng giả (thất hiền).
- Tăng chơn thật, là các Tỳ-kheo hữu học và vô học.
Trong đây nói kính lễ là kính lễ hai hạng Tăng sau. Vì chơn thật Tăng, có khả năng làm cho Chánh pháp thắng nghĩa cửu trụ. Vì Tăng thanh tịnh, có khả năng khiến cho Chánh pháp nơi thế tục cửu trụ.
Ba hạng Tăng trước có khả năng làm các Yết-ma phi pháp, khiến cho Chánh pháp bị phá hoại, cho nên không phải hạng người để ta lễ lạy.
Lại nữa, có Trụ trì Tam bảo, Nhất thiết Tam bảo. Trụ trì, tức là khi Phật tại thế, đắc đạo dưới cây thọ vuơng là Phật bảo, pháp Tứ đế là Pháp bảo, năm vị Tỳ-kheo là Tăng bảo. Sau khi Phật diệt độ, các tượng bằng kim loại, bằng gỗ, bằng đất, bằng giấy có màu sắc là Phật bảo, kinh sách ba tạng Thánh giáo là Pháp bảo, kẻ cạo đầu nhuộm áo kế thừa đạo pháp là Tăng Bảo. Ba món này không chấm dứt ở đời nên gọi là Trụ trì Tam bảo.
Song, tất cả tượng đồng với chơn thân, kinh điển hieän có tức là Pháp thân xá-lợi, phàm Tăng hiện có cũng có thể gánh vác Chánh pháp, làm ruộng phước cho đời, vì thế cũng đều nên kính lễ.
Lại nữa, các đức Phật là chỉ cho tất cả các vị Ðại sư hiện tọa đạo tràng trong mười phương. Bởi vì giác thể của vị ấy biến khắp, tuy ở phương khác, nhưng họ có thể làm người bạn lành giúp đỡ ở cõi này, tức chỉ chung cho tất cả đức Thế Tôn tuần tự xuất hiện trong ba đời. Do giác tánh thường tại, tuy ở đời quá khứ, vị lai mà có thể đối với đời hiện tại cũng dũ lòng cảm ứng. Pháp và Tăng cũng thế.
Nhất thể là dùng trí huệ thật tướng biết rõ các pháp không phải không, không phải có; cũng có cũng không, cả hai đều mất, cả hai đều chiếu soi. Ba trí viên giác gọi là Phật bảo. Giác huệ cùng với lý, sự hòa hiệp gọi là Tăng bảo.
Lại nữa, một niệm hiện tiền, vốn đủ Ba đế, vì mê không biết, chính đó là Pháp bảo. Dùng cái trí biết được Ba đế là Phật bảo. Ba đế, ba trí hiệp nhau đó là Tăng bảo. Phật, Pháp, Tăng là nêu rõ nghĩa một thể Tam bảo.
Lại nữa, nói lễ là không ngoài một thể mà có trụ trì, cũng không lìa tướng trụ trì mà có một thể. Nếu không rõ cái lý một thể mà hành lễ kính, chỉ được sự thiện, không gọi là chơn lễ. Bởi vì lễ là nghĩa của thể. Chưa đạt được cái thể Ba luân[6] là vắng lặng, không phải là nghĩa của thể vậy.
Nếu lìa tướng trụ trì mà bàn nhất thể, thì rơi vào ác thú, không gọi là đạt lý. Ðem lý đặt ra ngoài sự, chưa biết toàn sự tức là lý, chẳng phải là nghĩa “một” vậy.
Nói Phật, Pháp, Tăng chính là nêu lên điều chẳng phải một, chẳng phải ba, nhưng là ba, là một. Ðó là tôn chỉ sự lý, hành bố viên dung.
II. Bảo chúng họp để nghe
Nay diễn pháp Tỳ-ni
Ðể Chánh pháp trường tồn.
Giới như biển không bờ
Như báu cầu không chán.
Muốn hộ tài sản Thánh,
Chúng họp nghe tôi tụng.
Muốn trừ Bốn tội khí,
Và diệt tội Tăng tàn,
Ngăn Ba mươi xả đọa,
Chúng họp nghe tôi tụng.
Diễn là rao giảng cùng khắp.
Pháp Tỳ-ni là nghĩa như phần thích danh (giải tích danh từ) đã nói.
Chánh pháp là Thánh đạo xuất thế. Chánh pháp ở đời thì giáo, hạnh, quả cả ba đều đầy đủ. Luật này thì giới thân thành tựu, định, huệ phát sinh. Ðại Sa-môn quả do đây được, khiến cho Chánh pháp cửu trụ.
Nửa bài kệ này thuyết minh nghĩa nhiếp chúng sanh.
Như biển không bờ: Trong Thuyết giới Kiền-độ nói rằng: Nước biển có tám pháp đặc biệt, cho nên loài A-tu-la thích ở.
- Tất cả sông ngòi đều chảy về nơi đó.
- Thủy triều lên không mất giới hạn.
- Sông lớn nhỏ khi nhập vào bể thì mất cái tên
cũ của nó.
- Các sông và mưa lớn đều quy về biển mà không thêm bớt.
- Ðồng một vị mặn.
- Không chấp nhận thây chết.
- Sản sinh nhiều trân bảo.
- Những vật có thân hình lớn ở nơi đó.
Trong giáo pháp của Như Lai cũng có tám kỳ đặc, khiến các đệ tử một khi gặp được rồi, tự mình vui sống trong đó:
- Các đệ tử của Ta, lần lượt học giới, đều quy về pháp của Ta, ở nơi đó học các pháp lành.
- Các đệ tử của Ta, trụ ở trong giới, đến chết không phạm.
- Bốn giòng họ bỏ nhà đến ở với nhau đều xưng là Sa-môn.
- Ở trong pháp Ta, với lòng tin kiên cố, bỏ nhà học đạo, vào trong cương giới Niết-bàn, mà cõi
Niết-bàn không thêm không bớt.
- Ðồng một vị là giải thoát.
- Phạm giới ác pháp, tuy ngồi trong chúng, mà thường xa lìa Tăng chúng. Chúng Tăng cũng xa lìa kẻ đó.
- Hiện hữu nhiều Pháp bảo, như Tứ niệm xứ, cho đến tám Thánh đạo.
- Thọ hưởng thân lớn như Tứ hướng, Tứ quả.
Lại nữa, khi mới thọ giới, tức đối với khắp pháp giới được sắc thái không dâm, không trộm, không sát... Như vậy cho đến 250 giới, 3.000 oai nghi, 80.000 tế hạnh, đều thanh tịnh giới sắc, khắp cả pháp giới.
Lại nữa, từ đó trong mỗi niệm, nhậm vận thành tựu, giới pháp thiện sắc, khắp cả pháp giới, không cùng tận. Cho nên gọi là như biển không bờ vậy.
Như báu cầu không chán: Báu là vua châu Như ý. Thứ báu này ở trong mỗi niệm, có khả năng mưa đầy cõi Diêm-phù-đề, đầy đủ tất cả sự vui, mà thể của nó trọn không tổn giảm. Giới cũng như vậy, ở trong mỗi niệm, sanh tất cả niệm xứ như, Chánh cần, Như ý, Căn lực, Giác đạo, các pháp, cho đến Tam thừa và tất cả Thánh quả mà giới thể không biến đổi.
Hơn nữa, giới này càng học càng thấy cái tinh ba của nó, càng tu càng được cái thiện lợi. Cho nên nói rằng như báu cầu không chán.
Tài sản Thánh lược có 7 chủng loại: Tín, Giới, Văn, Xả, Huệ, Tàm và Quý.
Nói rộng có: Lục độ, Vạn hạnh, Thập lực, Tứ vô sở úy, Bách bát tam-muội, Thập bát bất cộng pháp v.v... Các pháp tài này do giới mà được giữ gìn. Giới như binh giỏi tướng mạnh, cũng như thành chắc, hào sâu, cũng như hiến chương, phép tắc, cũng như vua Chuyển luân có đại thần chủ kho tàng, gìn giữ biên cương không để bị xâm lược, đề phòng kẻ gian tặc, không để bị cướp trộm, chỉnh lý một cách an ổn, không cho hủy hoại. Xuất, nạp, thủ, giữ, khiến được tăng trưởng. Nghĩa chữ “hộ” là vậy.
Một bài kệ này thuyết minh nghĩa của nhiếp thiện pháp. Trừ khí, diệt tàn, ngăn xả đọa, thuyết minh nghĩa của Nhiếp luật nghi. Khí v.v... trình bày ở văn sau.
Hỏi: - Tên gọi của Ba tụ, không cộng với tiểu giáo, đâu được ước theo nơi đây mà phán định để giải thích?
Ðáp: - Khi chưa khai hiển thì có thực mà không có danh, khi đã khai hiển thì danh và thực đều có. Ba nghĩa rõ ràng đâu có chuyện ước theo nơi đây mà phán định để giải thích.
III. Thầy trò truyền thọ
Tỳ-bà-thi, Thức-khí
Tỳ-xá, Câu-lưu-tôn.
Câu-na-hàm-mâu-ni,
Ca-diếp, Thích-ca-văn[7],
Các Ðại đức Thế Tôn,
Vì tôi dạy sự này,
Tôi nay muốn nhắc rõ,
Các Ngài thảy cùng nghe.
Tỳ-bà-thi, hoặc gọi là Duy-vệ, Hoa dịch Thắng Quán. Thức-khí, hoặc gọi là Thi-khí, Hoa dịch là Hỏa. Tỳ-xá-phù, hoặc gọi là Tùy-diếp, hoặc gọi là Tùy-diếp-la, Hoa dịch là Biến Nhất Thiết Tự Tại. Ba đức Thế Tôn này xuất hiện ở nơi cuối kiếp trang nghiêm. Câu-lưu-tôn, hoặc gọi là Câu-lâu-tần, Hoa dịch là Kim Tịch, hay dịch là Kim Tiên. Ca-diếp, hoặc gọi là Ca-diếp-ba, Hoa dịch là Ẩm Quang. Thích-ca-văn hoặc gọi là Thích-ca Mâu-ni, Trung Hoa dịch là Năng Nhơn, lại dịch là Năng Nhơn Tịch Mặc. Bốn đức Như Lai này, giai đoạn đầu của Hiền kiếp, thứ tự ra đời.
Sở dĩ chỗ nào cũng nói đến bảy đức Phật này vì:
- Một là ở trong 100 tiểu kiếp, người và trời ở cõi Tịnh Cư đã từng thấy.
- Hai là Bổn sư tu nghiệp hảo tướng, bắt đầu từ khi đức Phật Tỳ-bà-thi.
Thế Tôn có 10 hiệu đầy đủ, chín cõi đều tôn ngưỡng. Ðại đức là nhân tròn quả đầy, người đời không thể bằng được.
Tỳ-kheo cũng có thể gọi chung là Ðại đức, bởi vì có quảng đại đức hạnh vậy.
“Sự này” là chỉ cho 4 trọng tội, 13 Tăng tàn, cho đến tùy luật các học xứ.
“Thiện thuyết” là nói rõ, nói đúng như pháp, và hòa hiệp.
“Thảy cùng nghe” là người mới thọ giới cho đến người 100 hạ đều tập hợp lại để nghe, từ tựa của giới cho đến kệ của kinh.
IV. Dùng dụ khuyên đừng phá giới
Ví như người què chân,
Không thể đi đâu được.
Người phá giới cũng vậy,
Không thể sanh trời, người.
Muốn được sanh lên trời,
Hoặc sanh vào cõi người,
Thường phải giữ chân giới,
Ðừng để bị thương tổn.
Như xe vào đường hiểm,
Lo hư chốt gãy trục,
Phá giới cũng như vậy
Khi chết lòng sợ hãi.
Hai bài kệ trước khuyên răn vấn đề trở ngại sanh vào cõi lành. Một bài kệ sau khuyên răn vấn đề sau khi chết đọa vào đường ác. Sanh tử dụ như đường hiểm.
Giới pháp dụ như chốt trục của xe. Hủy giới thì khi chết tướng của đường ác hiện ra, như trong đường hiểm hư chốt gãy trục. Trước sau không nhầm lẫn, sợ sệt khủng khiếp.
Phẩm Hạnh nguyện nói:
Ðóng chặt tất cả các cửa của đường ác, mở toang cửa chính vào cõi nhơn thiên, Niết-bàn. Công năng của giới thật sự là như vậy.
Song, trong luật Căn bản nói:
Hoặc an vui nơi thế gian, hoặc cầu về thiên thượng, cần phải tu phạm hạnh. Ðược sanh vào cõi người, trời tạm thọ khoái lạc, người đó sau khi mạng chung đọa vào địa ngục, cho nên cần cầu về Niết-bàn phải tu phạm hạnh. Ðừng vui cái vui của nhơn, thiên để rồi phải chịu khổ.
Luận Nhiếp nói:
Ðường hiểm có hai:
- Sanh lên cõi trời.
- Sanh vào đường ác.
Tuy sanh lên cõi trời, thọ các thứ vui đẹp, sau khi báo hết, lại đọa vào đường ác. Cho nên cõi trời, người không phải là nơi cần mong cầu.
Bài kệ thứ hai nói như vậy, lược có hai nghĩa:
a) Chân giới cần giữ gìn, không nên phá hủy. Phá hủy thì nhơn thiên còn không có phần huống là Niết-bàn.
b) Nhiếp thọ hạng người thấp kém, nói Niết-bàn thì sợ mà nói cõi trời người thì vui. Cho nên trước cần khuyến dụ, sau mới khiến cho họ vào trí Phật.
Hơn nữa, căn cứ vào sự để nói, nếu trì giới không bị phá hủy, dầu không có định huệ, quyết định cũng không mất thọ thân nơi cõi nhơn thiên.
Lại nữa, nên biết, dùng cái chân để dụ cho giới thì không nơi nào chẳng đến được. Nếu muốn siêu thoát lên phẩm trên của đài sen, hay muốn thừa sự mười phương các đức Phật, hoặc muốn nghiêm tịnh vô biên cõi Phật, hay muốn nhập vào huyền môn của pháp giới, đâu không dùng giới này làm phương tiện đầu tiên.
V. Trình bày học xứ sẽ nói
Như người tự soi kiếng
Ðẹp xấu sanh vui, buồn.
Thuyết giới cũng như vậy,
Vẹn, hỏng sanh mừng, lo.
Như hai trận xáp chiến,
Gan, nhát có tiến thối.
Thuyết giới cũng như vậy
Tịnh, nhiễm sanh vui, sợ.
Vui buồn thuộc ý, lo sợ hiện nơi thân hành. Giới được hoàn toàn sạch thì bên trong không hổ với mình, bên ngoài không thẹn với người, cho nên tâm vui là thân an. Giới bị phá hủy nhơ nhớp thì bên trong có tỳ vết đối với mình, bên ngoài bị nhớp nhúa đối với Tăng, cho nên ôm lòng lo sợ chúng vậy.
VI. Khen giới là hơn hết để kết thúc
Thế gian vua là lớn,
Sông ngòi bể rộng hơn.
Các sao, trăng sáng nhất,
Các Thánh, Phật trên hết.
Trong tất cả các luật,
Giới kinh là tối thượng.
Như Lai lập cấm giới,
Nửa tháng tụng một lần.
Thọ giới này gọi là Ðại Sa-môn. Chữ “đại” tiếng Phạn gọi là Ma-ha, gồm có ba nghĩa:
1) Lớn, lớn hơn hết trong cõi trời, người.
2) Nhiều, có nhiều phước huệ.
3) Hơn, vượt hơn các ngoại đạo.
Câu đầu dùng ngôi vị lớn để khen. Câu thứ hai dùng số nhiều để khen. Câu thứ ba dùng vấn đề trội hơn để khen. Câu thứ tư dùng ví dụ chung để khen.
Nửa bài kệ dưới, chính dùng pháp để hiệp. Chỉ có Giới kinh này là hơn, nên thọ Giới này cũng thành hơn hết.
Tất cả các Luật, nghĩa là thế gian và ngoại đạo cũng đều có luật.
Lại nữa, năm giới, tám giới, mười giới, cũng không bằng giới Tỳ-kheo. Giới Tỳ-kheo là hơn hết.
Hơn nữa, thiền giới, vô tận giới, cũng không bằng Ba-la-đề-mộc-xoa giới. Nó là cương lĩnh của Phật pháp.
Lại nữa, Tam tạng 12 bộ cũng chỉ có Giới kinh là hơn hết. Nếu không kiên trì cấm giới, dầu hiện tiền có thiền định đa trí đi nữa cũng thành nghiệp của ma. Vì vậy nên luật Căn bản nói: “Phật dạy ba tạng giáo, pháp Tỳ-nại-da là đứng đầu”.
Lại nữa, câu thứ nhất dùng dụ để khen “giáo” của kinh, chỉ có đức Như Lai tự nói. Câu thứ hai, dùng dụ để khen “hạnh” của kinh, tất cả pháp đều hướng về giới. Câu thứ ba, dùng dụ để khen “lý” của kinh, giới thể vô tác, mát mẻ như mặt trăng, nhân nơi trì phạm có đầy và khuyết, nhưng sự thật không có tăng giảm. Câu thứ tư, dùng dụ để khen “quả” của kinh, không những chỉ thành quả của Thanh văn mà còn thành tựu đạo quả của Như Lai.
Hỏi: - Vô tác giới thể từ nơi Thầy mà được. Nếu
phạm thiên ban đầu, tuy hoàn toàn không có tâm che giấu, cũng chỉ cho “dữ học” mà thôi, không dùng vào việc của Tăng. Nếu dùng cái thể của mặt trăng dụ cho thể vô tác, thì cùng với bản tánh có gì phân biệt? Nếu từ nơi Thầy thọ mà được, gọi là vô tác, như vậy có thêm bớt ư?
Ðáp: - Vô tác là cái thể của đương thể. Bản tánh thanh tịnh là cái thuộc sở y. Vô tác thuộc về tu, bản tánh thuộc về tịnh. Vô tác là sự, bản tánh là lý. Thể của vô tác là tôn, thể của bản tánh là thể. Song, tôn cùng với thể không phải một, không phải hai. Thấu triệt nơi tôn mà ngộ được thể. Ngu muội nơi thể mà mê luôn cả tôn. Nay đã dùng mặt trăng để dụ mà khen lý của kinh, chính là chỉ cái thể của vô tác giới sở y. Nên biết, được hay mất là do vấn đề đầy hay khuyết, chứ không thể gọi tánh có tăng có giảm.
Lại nữa, từ câu: “Ví như người què chân” cho đến câu “Giới kinh là tối thượng”, đầy đủ 4 loại Tất-đàn: Mở đường cõi trời người, đóng cửa nẻo thú dữ là “Thế giới tất-đàn”. Hai ví dụ soi kiếng là “vị nhân” và “đối trị” hai tất-đàn, tùy theo đó để được hai món ích lợi sanh thiện, diệt ác. Giới dụ cho cái hơn hết, tức “Ðệ nhất nghĩa tất-đàn”. Thể của giới này là tịnh Pháp thân.
Như Lai lập cấm giới: Trong cõi đại thiên, Phật là Pháp chủ. Luật do Phật chế, và chỉ có Phật chế lập, ngoài ra các vị dưới chỉ có thể y thừa. Bởi vì chỉ có hạnh quả viên mãn của đức Như Lai mới thấu triệt được nghiệp tánh nhẹ nặng của chúng sanh, còn bậc Ðẳng giác trở xuống không thể làm được.
Hỏi: - Khế kinh có thể do 5 hạng người nói[8]. Riêng Tỳ-ni thì chỉ có đức Phật mới đủ thẩm quyền nói, cũng giống như vấn đề lễ nhạc, chinh phạt... chỉ có thiên tử ra lệnh chư hầu mới vòng tay cúi đầu nghe theo. Nay Ðại minh luật do thiên tử chế, văn võ bá quan đều được xem. Vậy thì, tại sao Pháp của Tỳ-kheo, chỉ cho Tỳ-kheo học tập, mà không cho Sa-di, bạch y xem?
Ðáp: - Luật chỉ do Phật chế, là để trình bày cái pháp tôn quý của đạo. Song không phải chỉ có pháp của Tăng mới gọi là luật, mà năm giới, mười giới, Bồ-tát giới đều gọi là luật cả. Những thứ luật đó, phổ biến cho cả 7 chúng, cũng như đại luật, ban hành chung cho thiên hạ. Còn đối với giới pháp của Tỳ-kheo, cũng như sách bí mật trong nội phủ, chỉ dành các quan có trọng trách mới được xem. Chẳng phải thứ dân được phép dự vào để nghe.
Câu “nửa tháng tụng một lần” là chỉ cho hai phần của tháng có trăng và không trăng, tiêu biểu cho hai nghiệp thiện và ác. Bạch là muốn cho trắng trong, hắc là muốn cho hết tội.
Lại nữa, bạch là tiêu biểu cho Trí đức, hắc là tiêu biểu cho Ðoạn đức. Trong khi thuyết giới tự mỗi người xét lấy.
Cho nên luật Thập tụng nói rằng:
Pháp Bố-tát vào nửa tháng, nửa tháng các Tỳ-kheo hòa hợp một chỗ, tự cân nhắc lấy mình, ngày làm tội gì, đêm làm tội gì, từ ngày thuyết giới trước đến nay, có làm tội gì không? Nếu có tội phải đến người đồng tâm, Tỳ-kheo tịnh giới, như pháp sám hối. Nếu không gặp được Tỳ-kheo tịnh giới, nên nghĩ, sau này ta gặp, sẽ như pháp sám hối. Nhờ vậy an trụ trong thiện pháp, xa lìa pháp bất thiện.
Căn bản tạp sự nói:
Ta bảo các thầy mỗi nửa tháng, nói Ba-la-đề-mộc-xoa. Nên biết đây là Ðại sư của các thầy, là chỗ nương tựa của các thầy. Nếu Ta ở đời, không có khác vậy.
PHU:
Phần thứ tư[9] nói có 5 pháp gọi là trì luật:
1) Biết phạm.
2) Biết không phạm.
3) Biết tội nhẹ
4) Biết tội nặng.
5) Rộng tụng 2 bộ luật.
Lại có 5 pháp, 4 pháp trước như trên, pháp thứ
5 là: trụ nơi Tỳ-ni, không bị lay động.
Lại có 5 pháp, 4 pháp trước như trên, pháp thứ
5 là: Sự tranh cải khởi lên có thể diệt trừ.
Người trì Luật có 5 công đức:
1) Giới phần bền vững.
2) Nhiếp phục được oán thù.
3) Ở trong chúng, quyết đoán không sợ sệt.
4) Nếu có nghi hối, có thể khai giải.
5) Khiến Chánh pháp bền vững.
Lại nói rằng có 5 pháp khiến Chánh pháp mau hoại diệt:
1) Không lắng nghe thọ tụng, ưa quên nhầm lẫn. Văn không đầy đủ mà dạy người khác. Văn đã không đủ nghĩa lý phải khuyết.
2) Là người hơn hết, bậc Thượng tọa trong Tăng, cả nước tôn trọng, mà không trì giới, chỉ tu các pháp không lành, buông lung xả bỏ giới hạnh, không siêng năng tinh tấn. Khiến cho các Tỳ-kheo niên thiếu hậu sanh, bắt chước cái hạnh đó.
3) Ða văn trì pháp, trì luật, trì ma-di, mà không dùng những gì mình biết để dạy cho chúng, để rồi ôm nó qua đời.
(Trì pháp là biết Tu-đa-la-tạng, như A-nan... Trì Luật là biết tạng Tỳ-ni, như Ưu-ba-ly... Trì-ma-di nghĩa là khéo léo vấn đề dạy dỗ, đứng đầu về trách nhiệm huyền cơ, như Ma-ha Ca-diếp...).[10]
4) Có hạng Tỳ-kheo khó có thể giáo dục, không nhận lời hay, không thể nhẫn nhục, các thiện Tỳ-kheo khác liền bỏ không dạy họ.
5) Ưa đấu tranh, mắng chửi lẫn nhau, hai bên tranh nhau bằng lời nói, buông lời ra như gươm như kiếm, tranh cãi hơn thua.
Nếu ngược lại 5 điều trên thì khiến cho Chánh pháp được lâu bền.
Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu Tỳ-kheo không kính Phật, Pháp, Tăng và giới định thì Chánh pháp mau tiêu diệt. Hoặc xuất gia trong pháp luật, không hết lòng vì người nói pháp, không hết lòng vì người nghe pháp nhớ giữ. Dù có kiên trì, không hay tư duy nghĩa thú, không biết nghĩa, cũng không thể tu hành như pháp. Không tự lợi, cũng không lợi cho ai. Vì nhân duyên như vậy, khiến Chánh pháp mau tiêu diệt.
Ngược lại những điều trên, Chánh pháp được lâu bền.
Luật Ma-ha Tăng kỳ nói:
Nếu có kẻ Thiện nam tử nào giàu lòng tin, muốn được 5 việc lợi ích, nên tận tâm thọ trì luật này. Năm điều lợi ích là:
1) Kiến lập Phật pháp.
2) Khiến Chánh pháp lâu bền.
3) Không có nghi hối, thỉnh vấn người khác.
4) Có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm tội sợ sệt,
làm chỗ nương tựa an ủi cho họ.
5) Ði du hóa khắp nơi không hề bị trở ngại.
Tất cả đều phải hết mình thọ trì luật này.
Lại nữa, ngài Ðại Ca-diếp bảo các Tỳ-kheo rằng: “Vấn đề phân chia xá-lợi của Thế Tôn chẳng phải việc làm của chúng ta. Quốc vương, Trưởng giả, Bà-la-môn, chúng cư sĩ, người cầu phước tự họ sẽ lo việc phân chia xá-lợi để cúng dường. Việc của chúng ta là kiết tập Pháp tạng, đừng để cho pháp của Phật mau tiêu diệt”.
Luật Thập tụng nói:
Nếu Tỳ-kheo nào biết Bố-tát, biết Yết-ma Bố-tát, biết thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, biết nhóm họp, thì nên cung cấp cúng dường cho họ. Tại sao vậy? Vì khi không có Phật, người này thay thế vậy.
Lại nói, tùy theo các Tỳ-kheo thanh tịnh không phá hoại Chánh pháp, khi thuyết giới, gọi là pháp trụ thế.
Lại nói: Trì luật có 5 điều lợi:
1) Biết pháp xuất gia.
2) Biết Yết-ma.
3) Biết oai nghi.
4) Biết y chỉ.
5) Biết trở ngại đạo hay không.
Căn bản ni-đà-na nói:
Có Bỉnh pháp Yết-ma, có như pháp thi hành thì gọi là Chánh pháp trụ thế. Không như vậy, thì gọi là Chánh pháp hoại diệt.
Phật Bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy nếu dùng lòng tin, xuất gia, tinh cầu Niết-bàn, tu tịnh hạnh, các Bí-sô như vậy mặc y phục đáng giá ức kim tiền, phòng xá nghỉ ngơi, giá đáng 500 kim tiền, ăn uống đầy đủ 100 món mỹ vị, các việc như vậy Như Lai đều cho phép thọ dụng, các vị ấy đều kham năng thọ dụng được.
Nếu có Bí-sô phá hủy trọng giới, ở trong trú xứ của Tăng cho đến một miếng ăn cũng không tiêu được. Trong đất Già-lam không có một chỗ để bước một bàn chân, cho một Tỳ-kheo phá giới.
Các ông nên biết người phá giới có 10 điều mất mát tội lỗi:
1) Tự biết mình là người ác phá giới.
2) Người khác cũng biết mình như vậy.
3) Thiên thần không lui tới giúp đỡ.
4) Bậc đồng phạm hạnh, người lành biết pháp đều khinh rẻ.
5) Tiếng vang tội ác nghe khắp bốn phương.
6) Ðiều chưa chứng không chứng được.
7) Pháp đã chứng, thảy đều thối thất.
8) Những gì đã nghe đều bị quên hết.
9) Sau khi mạng chung tâm sanh hối hận vì không yên tâm, hoang mang lo sợ.
10) Sau khi boû mạng sống này sanh vào địa ngục.
Lại các Bí-sô, nên biết có 5 loại thọ dụng:
1) Như chủ thọ dụng, tức là vị A-la-hán, trừ hết ba độc.
2) Như thọ dụng của cha mẹ, tức là các học nhơn, còn có các hoặc nghiệp.
3) Ðược phép thọ dụng, tức là bậc thuần thiện dị sanh, thanh tịnh giới, siêng tu thiền tụng, không hề biếng nhác.
4) Thọ dụng như người mắc nợ. Nghĩa là tuy có phòng cấm giới mà không siêng tu giác phẩm thiện pháp.
5) Thọ dụng như kẻ trộm. Nghĩa là đối với 4 trọng cấm, tùy phạm một tội nào.
Cho nên các thầy nên tu học.
Thiện kiến tỳ-bà-sa nói:
Thiện nam tử hảo tâm xuất gia, Luật tạng là cha mẹ. Tại sao vậy? Bởi Luật tạng cho người xuất gia được giới Cụ túc, dạy học oai nghi, y chỉ nơi Luật tạng.
Tự thân trì giới có khả năng đoạn nghi hoặc cho người, nếu vào trong Tăng không có sợ sệt. Nếu có phạm tội y luật quán xét, khiến cho Chánh pháp cửu trụ.
Người trì giới luật tức là nguồn gốc của công đức. Nhân nơi cội gốc cho nên nhiếp lãnh các pháp lành.
Bộ Nam hải ký qui nói:
Luật Ðại thừa, Tiểu thừa không khác[11], đều chế Năm thiên, thông tu Bốn đế. Nếu lễ Bố-tát, đọc kinh Ðại thừa gọi là đại. Không thực hành điều này gọi là tiểu. Có chỗ nói: Ðại thừa không ra ngoài hai thứ: Trung quán, Du-già.
Trung quán thì Tục đế có, Chơn đế không, thể của nó như huyễn.
Du-già thì bên ngoài không, bên trong có, mọi việc đều Duy thức. Ðây đều tuân theo Phật chế, phải, quấy đều hợp với Niết-bàn, đâu có chơn, đâu có ngụy. Chủ ý là ở chỗ đoạn hết các phiền não, tế độ chúng sanh. Ðâu phải muốn rộng để đến nỗi phân vân, lại thêm nhũng tạp về vấn đề kiết chế. Y theo đó mà tu hành thì đủ điều kiện đến bờ bên kia. Ngược lại đều phải đắm chìm nơi bến sanh tử.
Bên Tây Trúc đều song hành, lý không chống trái... Lại nói: Phao nổi không bị lủng là bổn tâm của Bồ-tát. Ðừng khinh cái lỗi nhỏ, để rồi lại phải có tiếng kêu cứu sau cùng. Lý hiệp cả đại lẫn tiểu để tu, mới thuận theo lời dạy của đức Từ Tôn.
Ngừa cái lỗi nhỏ, quán đại không, nhiếp vật, lắng lòng, như vậy làm gì có lỗi. Chỉ sợ tự mình mê, rồi lại mê người, theo giáo lý tạm trình bày ở một khía cạnh đối với pháp Không rồi tin Luật điển quá ư trống rỗng (cho là không có) thì sao thấy được sự phóng túng, biếng nhác của mình!
Tri môn cảnh huấn nói:
Luật chế Tỳ-kheo, năm hạ về trước, chuyên tinh Luật bộ, nếu đạt được vấn đề trì phạm, biện bạch được việc của Tỳ-kheo, thì sau đó mới học tập kinh luận.
Thời nay, vượt thứ lớp mà học, việc làm đã mất thứ tự làm sao vào đạo được? Ðại Thánh quở trách, trọn không phải là đệ tử của Phật vậy.
Vả lại, vừa mới thấm nhuần giới phẩm, liền cho nghe Thánh giáo, tham thiền. Nếp sống của Tỳ-kheo không hề hiểu biết. Huống chi khinh khi giới luật, hủy báng Tỳ-ni, biếm nhẻ kẻ học luật cho là Tiểu thừa, nói người trì giới là chấp tướng. Cứ mãi buông lung theo trần tục, phóng túng theo thói ngu ác ham ăn ngon mặc đẹp, tự gọi là thức thời, hành dâm nộ khí lại xưng là đạt đạo, chưa hiểu được tôn chỉ của Thánh, ngộ nhập chơn thừa.
Vả lại, nếu giới đã khinh, tại sao ông đăng đàn thọ giới? Luật ắt hủy báng, tại sao lại cạo tóc nhuộm y? Như vậy, khinh giới tức là tự khinh, hủy luật lại thành tự hủy. Vọng tình dễ quen, chí đạo khó học. Vấn đề bạt tục siêu quần, vạn phần không có một. Xin rõ lời Thánh dạy, sao lại không theo?
Lại nói: Phật pháp - Hai bảo đều nhờ Tăng hoằng, Tăng bảo tồn tại là nương vào giới, ngoài giới ra không biết lấy gì để thành lập. Cho nên trong kinh Hoa nghiêm nói: “Thọ trì đầy đủ oai nghi, giáo pháp, khiến cho ngôi Tam bảo không bị đứt đoạn”.
Qui Sơn cảnh sách nói:
Pháp tịch Tỳ-ni chưa từng bước đến, liễu nghĩa Thượng thừa đâu hay phân biệt.
BIỆN MINH:
Hỏi: - Hạng người ham thịt rượu, hành dâm nộ
khí, không đủ để bàn đến, nếu như không phạm trọng cấm, căn bản không sứt mẻ. Từ đây nghe giáo pháp, tham thiền, chuyên cầu Thượng thừa lại có lỗi gì? Ðâu cần phải đợi đến sự tướng vụn vặt mới hiệp với lời dạy của Phật? Hạng người bỏ đại hướng tiểu, không tập học Phật cùng các giới điều của Phật, vậy thông ở chỗ nào?
Ðáp: - Nếu là kẻ thượng căn lợi trí có khả năng đạt được pháp nghĩa thì Luật nghi là giáo là thiền, đâu thể coi là sự tướng vụn vặt mà riêng tìm cầu Thượng thừa. Nếu là hạng trung và hạ, sự tướng còn chưa biết, làm sao có khả năng xa cầu thiền giáo? “Củi không thấy mà mong tìm sợi lông tơ”[12] là đây vậy.
Kẻ bỏ đại theo tiểu, lòng mong cầu tự lợi, không tập học theo Phật, gọi là kẻ thối mất tâm Bồ-đề; năm đức của Sa-di còn nói: “Chỉ cầu Ðại thừa vì độ người vậy”, huống là giới pháp của Tỳ-kheo đâu phải là Tiểu thừa mà cho là không tập học theo Phật ư?
Phần đầu trình bày về bài kệ khen ngợi xong. TRÙNG TRỊ TỲ-NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU
HẾT QUYỂN THỨ NHẤT Chú thích:
2 Ðoạn này ngài Trí Húc viết gọn lại theo ý riêng (Trùng trị tỳ-ni sự nghĩa tập yếu 1, tr. 351b01, Vạn ‘Tục tạng’ 40n719). Trong nguyên văn có chút sai khác, xem “Xá-lợi-phất vấn kinh”, tr. 900a15, Ðại (Ðại Chánh) 24n1465.
3 Phiên dịch danh nghĩa tập 1, tr. 1064a05, Ðại 54n2131.
4 Nam hải ký qui nội pháp truyện 1, tr.205a25, Ðại 54n2125.
5 Nhụ dương 羺..羊?: Kẻ phàm phu độn căn, không có trí tuệ, như loài dê câm.
6 Ba luân: người lễ, đối tượng được lễ, và sự lễ.
7 Thích-ca-văn: tên gọi tắt nhưng không đúng của Thích-ca Mâu-ni.
8 5 hạng người nói: Phật pháp có thể có 5 hạng người nói được: 1. Từ miệng Phật nói; 2. Ðệ tử của Phật nói; 3. Tiên nhơn nói; 4. Chư thiên nói; 5. Hóa người nói.
9 Tứ phần luật 59, phần thứ tư Tỳ-ni tăng nhất (phần năm pháp), tr. 1004b17, Ðại 22n1428.
10 Ðoạn trong ngoặc này nguyên chánh văn Tứ phần luật không có, ngài Trí Húc phụ chú thêm. Tứ phần luật 59, phần thứ tư Tỳ-ni tăng nhất, tr. 1006b26, Ðại 22n1428.
11 Ðoạn này ngài Trí Húc lược bớt (Trùng trị tỳ-ni sự nghĩa tập yếu 1, tr. 356c28, Vạn 40n719). Nam hải ký qui nội pháp truyện 1, tr. 205c10, Ðại 54n2125: Nguyên văn “Ðại tiểu thừa tạp hành, khảo kỳ trí dã tắc luật kiểm bất thù 大i小乘雜行,考其致渎也則律撿不殊瞖2 ...” pháp hành của Ðại thừa và tiểu thừa xen lại, nhưng khảo xét hai bộ phái đó thì về luật kiểm chứng không khác...
12 Hán: Tân bất kiến nhi dục sát thu hào 薪不見而欲婝察秋毫. “Thu hào”: Có một loài chim lông cánh của chúng đến mùa thu mới mọc, do lông nhỏ và mịn nên gọi là thu hào. Nghĩa bóng câu này: Việc dễ chưa làm được sao làm được việc khó.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.188.174.218 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.