Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Chư Kinh Yếu Tập [諸經要集] »» Bản Việt dịch quyển số 14 »»

Chư Kinh Yếu Tập [諸經要集] »» Bản Việt dịch quyển số 14

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.99 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.19 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thiện Ác Nghiệp Báo

Kinh này có 20 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
Việt dịch: Chúc Giải - Huệ Hạnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Chủ biên: Thích Nguyên Chơn
XXIII. MƯỜI VIỆC ÁC
Gồm mười phần: Sát sinh, Trộm cướp, Tà dâm, Nói dối, Nói lời hung ác, Nói lưỡi đôi chiều, Nói thêu dệt, Tham lam, Giận dữ, Nhận thức sai lầm.
XXIII.1. Sát sinh
Thụ thân trong sáu nẻo[29], loài nào cũng tham sống; nhận hình của trời đất thì tất cả đều sợ chết. Mặc dù, chúng sinh sinh lên thác xuống trong muôn loài; trí, ngu đổi thay nghìn mối, nhưng cuối cùng cũng không ngoài hai việc lánh khổ cầu vui. [128b] Điều này có gì lạ!
Vì thế, con chim do sợ hãi lao xuống bàn, cầu xin vua Ngụy[30] tha mạng. Con thú cùng đường chạy vào nhà tranh mong được họ Âu cứu sống. Hán vương cung cấp thức ăn mà được đền đáp bằng minh châu[31]. Dương Bảo cúng hoa mà được báo đáp vòng ngọc[32]. Thậm chí, một vị sa-di cứu đàn kiến giữa dòng nước chảy mà được phúc báo tuổi thọ kéo dài. Người tạo dòng nước cứu đàn cá lại được đáp trả trời mưa trân bảo[33]… Những việc tương tự như vậy, đâu thể kể hết!
Như thế đâu thể buông lung giết hại chúng sinh để dưỡng thân mình, làm cho các loài phải chịu khổ, ôm hận mà chết? Đến nỗi, đất tuy rộng thênh thang, nhưng chúng không có chỗ để trốn tránh, trời dù cao lồng lộng mà chẳng biết cùng ai giải bày.
Thế nên, kinh ghi: “Tất cả chúng sinh đều sợ dao, gậy và tham tiếc sự sống. Do đó, tha thứ cho chúng sinh là như tha thứ chính mình, chớ giết, chớ đánh”. Kẻ phàm phu điên đảo, nhận thức sai lầm nên có người hoặc vì việc tốt, việc xấu, việc riêng, việc chung hay vì cúng tế, đãi khách mà phải nhóm bếp nổi lửa, cắt nấu các loài vật để làm thức ăn. Hoặc có người một tháng trọn năm công tư rảnh rỗi, buổi sáng mờ mịt sương rơi, đến ban trưa hừng hực nắng cháy; họ cưỡi con ngựa truy phong, thả con chim ưng bay nhanh như điện chớp; cầm cây kiếm cự khuyết[34], can tương[35]; mang cây cung ô hiệu[36], phồn nhược[37], bắt hết các loài nơi ao đầm, bắn trọn chim non nơi rừng núi, phá nát tổ chim, đào bới hang thú, giăng lưới đầy đồng khắp núi, rồi phía trước ngăn, phía sau chặn, bên trái đón, bên phải vây. Vó ngựa tung bụi mù che khuất mặt trời, hun khói lửa mù mịt bốc đến tận mây; làm cho chim lạc đàn bay tán loạn, thú rời bầy chạy thoát thân; chim nhạn đang bay nghe tiếng dây cung khiếp vía sa thân, đàn vượn ôm cây hú lên ai oán. Tất cả bị dồn vào hang hiểm mà kêu gào thảm thiết, trọn nhìn rừng xanh mà cất tiếng kêu tuyệt vọng.
Thế là, cung chẳng uổng buông, tên chẳng sai đích. Sau đó xỏ lưng, xâu ngực, chặt đầu khoét óc. Hoặc có kẻ buông câu nước đục, quăng mồi vào đầm lắng, hay câu cá chép ở bến sông, bắn cá diếc nơi ao giếng. Một khi, vảy hồng đã treo lên thì mãi mãi không còn khả năng truyền tín[38]; thịt trắng đã móc thì vĩnh viễn mất điềm lọt vào thuyền, bằm nát thịt xương đưa vào mâm mà phân tán. Hoặc vì bộ tộc Hiễm Duẫn[39] tà ác nên phải ra tay đánh dẹp; do quân giặc nhiễu loạn biên cương mà phải nhờ đến uy vũ. Dù là bậc vua hiền, nhưng vẫn khởi chiến tranh, là đấng minh quân mà còn phải chinh phạt. Vì thế, nhờ chiến dịch bay lên núi Nhi[40] mới được nổi tiếng, đại thắng nơi Mục Dã[41] mà được khen là đức cao. Trong những người đó, có kẻ mang trăm vạn quân binh tung hoành ngang dọc; có người đưa năm nghìn quân mà âm thầm tiến đánh phá quân Tào Tháo ở trận Xích Bích[42]; đánh bại Hạng đế tại Ô Giang[43], bêu đầu Vương Mãng[44] trên đài cao, ném thây Đổng Trác[45] nơi đô thị. Tất cả đều là bậc anh hùng, [128c] một thời uy vũ. Những người như thế nhiều không thể ghi chép hết, nhưng họ cùng tạo nghiệp xương chất thành núi, máu chảy thành sông.
Nay quân triều đình khí thế như sấm, ra uy quyết sạch phản nghịch, bày binh bố trận gìn giữ biên cương. Đã dự quân tiên phong, lại tham gia quân đoạn hậu. Dưới vân kỳ[46] đâu dám tự an, trước đao bén, thật lắm nguy hiểm. Vì thế, bao kẻ phải khấu đầu trước mũi gươm, xin tha mạng dưới ngọn giáo. Những tội như thế không thể nói hết. Chúng sinh xâm hại lẫn nhau, hoặc là do oán thù, hoặc là do hiềm khích, hoặc là vì tạo nhân yểu thọ, nên phải chuốc lấy quả báo bệnh nhiều… Xin nguyện từ nay, mãi mãi đoạn tuyệt, cho đến vị lai cùng là quyến thuộc bồ-đề, chẳng hoại duyên lành, tất cả trở thành bạn pháp.
Kinh Chính pháp niệm ghi: “Thế nào là không giết hại? Nếu trong ngũ cốc như lúa, đậu, sinh côn trùng nhỏ nhít thì không được xay, không được giã. Biết trong đó có côn trùng, phải bảo vệ, không được giao cho người khác, cũng không được giết chúng. Hoặc trâu, ngựa, lừa, lạc đà vì chuyên chở nên trên cổ, lưng bị lở loét sinh trùng, lúc tẩy rửa vết thương không được dùng thuốc để giết chúng trùng ghẻ mà trước nên dùng lông chim bắt lấy rồi đặt chúng trong một miếng thịt thối khác, để chúng không bị chết. Như vậy, vừa bảo vệ cho trâu, lừa… mạnh khoẻ lại vừa giữ được sinh mạng các loài trùng kiến. Phải luôn luôn cẩn thận, chớ khởi tâm giết hại. Nếu chúng sinh muốn ăn thịt côn trùng, phải đem thức ăn của mình đổi mạng chúng, để chúng được toàn mạng”.
Kinh Tỳ-nại-da ghi: “Xưa Đức Phật còn tại thế, trong nước Xá-vệ có một bà-la-môn, thường cúng dường tì-kheo Ca-lưu-đà-di đã chứng A-la-hán. Bà-la-môn ấy chỉ có một người con và đã lập gia đình. Lúc sắp chết, bà-la-môn dặn con: ‘Sau khi ta chết, con phải kính trọng cúng dường tôn giả Ca-lưu-đà-di như ta ngày nay, chớ để ngài thiếu thốn’.
Cha mẹ qua đời, người con vâng theo lời cha mẹ dặn, cúng dường tôn giả Ca-lưu-đà-di như khi cha mẹ còn sống.
Một hôm, người con có việc đi xa nhà, ông dặn vợ ở nhà cúng dường cho Ca-lưu-đà-di. Ngày ấy lại có năm trăm tên cướp đến, trong số đó có một tên cướp tướng mạo khôi ngô, người vợ từ xa trông thấy tên cướp này, liền sai người gọi đến rồi tư thông với hắn. Tôn giả Ca-lưu-đà-di nhiều lần đến bắt gặp họ quan hệ bất chính. Sợ tôn giả tiết lộ việc này ra ngoài nên người vợ của con bà-là-môn cùng với tên cướp lập mưu giết tôn giả. Vì nhớ thương tôn giả, vua Ba-tư-nặc nghe tin Ca-lưu-đà-di bị giặc cướp giết, nên nổi giận, [129a] ra lệnh giết cả nhà bà-la-môn và hơn mười tám nhà xung quanh; bắt năm trăm tên cuớp, chặt đầu, chặt chân ném xuống rãnh.
Các vị tì-kheo thấy vậy trở về bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ca-lưu-đà-di xưa đã tạo nghiệp ác gì mà nay bị vợ của bà-la-môn kia giết hại?
Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Vào thuở xưa, Ca-lưu-đà-di là vị chủ miếu thờ trời. Bấy giờ, có năm trăm người khiên một con dê đã chặt bốn chân đến tế trời và cùng nhau khấn nguyện, vị chủ miếu liền giết con dê ấy. Vì ông ta giết dê nên đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng. Vị chủ miếu thuở xưa, nay chính là Ca-lưu-đà-di, tuy tôn giả đã chứng quả A-la-hán nhưng do ác nghiệp đời trước chưa hết nên nay phải chịu quả báo này. Con dê lúc ấy, nay chính là người vợ của vị bà-la-môn; năm trăm người chặt chân dê khi xưa, nay là năm trăm tên cướp bị vua chặt chân.
Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Nếu người giết hại sẽ bị quả báo, không bao giờ mất”.
Kinh Hiền ngu ghi: “Xưa Phật còn tại thế, trong thành Xá-vệ có một trưởng giả tên là Lưu-kì-di. Ông có bảy người con, tất cả đều đã lập gia đình. Vợ của người con út tên Tì-xá-li, bà là người có đủ tài đức và thông thạo mọi việc. Lưu-kì-di đem cả gia nghiệp của mình giao phó cho con dâu. Do có tài đức nên Tì-xá-li được vua Ba-tư-nặc ái mộ và cùng nàng kết nghĩa anh em.
Sau đó, nàng mang thai, đến ngày khai hoa nở nhụy thì sinh ra ba mươi hai trứng, mỗi một trứng nở ra một người con trai. Lớn lên những người con của nàng tướng mạo xinh đẹp, sức mạnh phi thường, một mình có thể địch cả nghìn người. Khi đến tuổi lập gia thất, họ đều cưới con gái của gia đình hiền lương, giàu sang trong nước.
Một hôm, Tì-xá-li thỉnh Phật và chúng tăng về nhà cúng dường. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, cả nhà đều chứng quả Tu-đà-hoàn, chỉ còn người con út vẫn chưa chứng đắc.
Ngày nọ, người con út cưỡi voi dạo chơi, gặp con của thừa tướng đang đi trên cầu, nó liền bắt lấy người ấy ném xuống dưới cầu khiến toàn thân bị thương tích. Người con thừa tướng trở về báo với cha, thừa tướng nói với con: “Người này không những cường tráng, lại kết thân với vua, chúng ta khó dùng sức thắng được họ, phải dùng mưu để báo thù”.
Ông liền lấy bảy báu làm ba mươi hai cái roi ngựa, lại dùng thép rèn thành dao bén lồng vào trong roi rồi tặng cho ba mươi hai người con của Tì-xá-li mỗi người một chiếc roi. Con của nàng đều rất thích, vui vẻ đón nhận mà không chút nghi ngờ. Họ thường mang bên mình kể cả mỗi khi ra vào chầu vua.
Theo phép nước, người đến gặp vua, không được mang theo vũ khí. Vốn đã lập mưu, nay cơ hội đã đến, thừa tướng thấy họ cầm roi, liền sàm tấu với vua:
- Tâu bệ hạ! Những người con của Tỳ-xá-li, tuổi vừa thành niên, lại cường tráng, một người địch lại nghìn người. Nay họ lại mưu tính ám sát vua nên mỗi người đều cầm đao dấu trong roi ngựa, xin vua xác minh.
Vua liền sai người khám xét, quả đúng như lời khai báo. Tin là thật, vua ra lịnh giết tất cả người con của Tì-xá-li rồi [129b] sai đem ba mươi hai cái đầu đặt vào một trong thùng, niêm phong, đóng dấu của vua mang tặng cho người em kết nghĩa.
Cùng ngày hôm ấy, Tỳ-xá-li thỉnh Đức Phật và chúng tăng về nhà để cúng dường, thấy vua đem tặng một thùng, bà thầm nghĩ: ‘Có lẽ nhà vua ban cho đồ cúng dường Đức Phật và chúng tăng’. Nghĩ vậy, bà định mở xem nhưng Phật ngăn lại và bảo:
- Hãy đợi chúng tăng thọ thực xong rồi mở.
Thọ thực xong, Đức Phật thuyết pháp về khổ, vô thường v.v… cho Tỳ-xá-li khiến bà chứng quả A-na-hàm.
Sau khi Đức Phật ra về, Tỳ-xá-ly mở thùng ra xem thì thấy ba mươi hai cái đầu con của mình, nhưng nhờ đã đoạn ái dục, nên bà không còn sầu não mà chỉ than: ‘Đau đớn thay! Con người sinh ra rồi phải chết đâu được sống mãi, trôi nổi trong năm đường, khổ như thế sao?’.
Vợ của ba mươi hai chàng trai cùng họ hàng thân thích biết được việc này đều căm phẫn thét: ‘Vua vô đạo lầm giết người lương thiện’. Thế rồi, họ tập hợp binh mã kéo đến báo thù. Vua hay tin hoảng sợ chạy đến chỗ Phật, họ lại đem binh bao vây tinh xá Kì-hoàn.
A-nan thấy vua giết ba mươi hai người con của Tì-xá-li, khiến cho họ hàng thân thích của họ kéo đến báo thù liền chắp tay bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì, ba mươi hai người con của Tì-xá-li bị vua giết?
Đức Phật bảo A-nan:
- Vào thời quá khứ, có ba mươi hai người trộm một con trâu rồi dẫn đến nhà một bà lão cùng nhau giết ăn, bà lão vui vẻ mang dụng cụ ra để giết. Khi sắp hạ dao, con trâu quỳ xuống xin tha mạng, nhưng mọi người quyết định giết. Trâu liền thề: ‘Các ngươi nay giết ta, đời sau ta sẽ không tha cho các ngươi’.
Họ giết rồi cùng nhau nấu ăn. Bà lão ăn no nê, vui vẻ nói: ‘Từ trước tới nay ta đi ăn cỗ, chưa có khi nào ăn ngon như hôm nay’.
Đức Phật bảo A-nan:
- Con trâu lúc ấy, nay là vua Ba-tư-nặc. Những người trộm trâu, nay chính là ba mươi hai người con của Tì-xá-li. Bà lão thuở nọ nay là Tì-xá-li. Vì giết trâu nên những người này trong năm trăm đời thường bị người giết. Vì vui theo nên trong năm trăm đời bà lão thường làm mẹ của những người kia và khi con bị giết lòng mẹ đau buồn vô hạn. Nay người mẹ ấy nhờ gặp được Ta, nên chứng quả A-na-hàm.
Vợ và người thân của ba mươi hai người kia nghe Đức Phật nói như thế, trong lòng không còn oán hận, mỗi người tự nói: ‘Những người này, do đời trước gieo nhân, nay phải gặt quả. Vì giết một con trâu, mà nay phải chịu quả báo như thế, huống gì giết nhiều sinh mạng. Ba-tư-nặc là vua của chúng ta, vì sao chúng ta lại oán giận muốn giết ngài?’.
Thế rồi, họ liền quỳ trước vua xin ăn năn xin chịu tội. Qua câu chuyện vua cũng vui vẻ bỏ qua, không bắt tội.
A-nan bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Những người con của bà Tỳ-xá-li nhờ tu phúc lành gì mà nay được khoẻ mạnh giàu sang lại được gặp Phật và chứng quả?
Đức Phật dạy:
- Quá khứ, thời Phật Ca-diếp có một bà lão, dùng các loại hương hòa với dầu rồi đem đi sơn tháp. Trên đường đi, bà gặp ba mươi hai người, bà khuyên họ cùng đến sơn tháp. [129c] Sơn tháp xong, họ đồng phát nguyện: ‘Nguyện chúng tôi đời đời sinh ra nơi nào cũng được giàu sang quyền quí, thường làm mẹ con với nhau và được gặp Đức Phật đắc đạo’. Vì thế, từ đó đến nay trải qua năm trăm đời họ thường sinh vào dòng dõi tôn quý, luôn luôn làm mẹ con với nhau. Ngày nay gặp Đức Phật, họ đều chứng đắc đạo quả”.
Bài kệ về chính báo:
Giết vật lòng dạ vui,
Vào ngục sầu than khóc,
Nước dơ rưới xuống thân,
Đồng sôi rót vào miệng,
Núi dao hầm lửa lớn,
Phanh thây xương thịt tan,
Triệu năm vạn mối sầu,
Đau lòng không kể hết.
Bài kệ về tập báo:
Sát sinh đọa bốn đường[47],
Chịu khổ ba nẻo ác,
Rồi được sinh làm người,
Ốm đau lại yểu số,
Tật bịnh nhiều khốn khổ,
Mạng sống rất mong manh,
Nếu là người có trí,
Chớ buông lung giết hại.
XXIII.2. Trộm cướp tài vật.
Chúng sinh thụ thân trong sáu đường đều lấy tham dục làm nguồn; nhận khí chất âm dương thảy do luyến ái làm gốc. Tuy người và vật không đồng, nhưng sự tham tiếc chẳng khác. Thế nên, gặp của cải mà lấy một cách bất chính thì chẳng phải là hiền nhân; kẻ thấy lợi quên nghĩa chẳng thành người quân tử.
Vả lại, tiền tài, vàng ngọc, vải lụa, vật cần dùng của người đời; phan, lọng, hoa, quả là vật cúng cho tăng chúng. Mình dù nghèo cùng lẽ ra cũng nên vui theo sự giàu sang của người, đâu vì mình nghèo mà tham muốn đoạt lấy của người khác? Điều-đạt hái hoa, nhân đó mà đọa lạc. Kiều-phạm ngắt lúa trở lại làm thân trâu. Ca-diếp xin bánh bị người chê cười. Tì-kheo ngửi hương hoa, bị thần giữ hồ quở trách. Vì vậy ta nên biết tội trộm cướp rất nặng.
Thế nên, có người ban ngày không có chỗ ăn, ban đêm không có nơi ngủ; sống lây lất như chim đậu, nai dừng, thân hình lõa lồ co cuộn, ngủ bên lề đường, xin ăn từng nhà. Đến nỗi, mẹ phải theo chim giá cô đi về hướng nam; con thì theo ngựa hồ ngược lên phương bắc. Chồng như bóng mặt trời ngã về tây, vợ tợ dòng sông chảy xiết về đông. Họ đều nghĩ đến quê xưa mà lòng đau như đứt ruột, nhớ nơi sinh cất tiếng kêu gào; lệ chảy khiến thành lệ máu, tâm uất ức đọng nơi bờ mi.
Những khổ như thế đều do đời trước không biết bố thí, lại do trộm cướp mà ra. Cho nên kinh ghi: Muốn biết nhân quá khứ, nên xem quả hiện tại; muốn biết quả vị lai thì xét nhân hiện tại. [130a] Do đó, khuyên những người tu hành thường phải tự răn dè chớ khởi tâm trộm cướp, cho đến của rơi cũng không tham đắm, huống gì lấy vật của người khác. Trộm cướp có trường hợp:
XXIII.2.1. Trộm vật cúng Phật
Như kinh Niết-bàn ghi: “Xây chùa, thờ Phật, cúng dường tràng hoa, người chưa xin mà vội lấy, dù có người biết hay chẳng biết, người lấy đều mắc tội trộm cướp”.
Luận Tỳ-nại-da ghi: “Nếu trộm phướn, hoa trong tháp của thanh văn và Phật đều bị tội nặng, vì làm mất phúc của thí chủ”.
Luật Thập tụng ghi: “Nếu trộm vật trong tháp thờ Phật, đồ cúng dường trong tinh xá có người giữ thì phạm tội nặng”.
Như trong luật Thập tụng thuật chuyện một người trộm xá-lợi; luận Tát-bà-đa nói về việc có người trộm tượng Phật. Trong hai trường hợp, người trộm có lòng thành phụng thờ, cúng dường. Người ấy nghĩ: “Họ là đệ tử, ta cũng là đệ tử”. Người như vậy, tuy không xin mà lấy, nhưng chỉ vì muốn cúng dường nên không phạm tội (Trường hợp này thí chủ thông cảm cho người trộm thì không phạm tội, nếu không thông cảm thì phạm tội nặng).
Luận Ma-đức-lặc-già ghi: “Nếu trộm xá-lợi, tượng Phật đem bán để sinh sống thì phạm tội rất nặng” (Pháp vật này, căn cứ theo Phật mới biết, nên văn sau của luật Tứ phần có dẫn câu chuyện: “Bấy giờ, có người trộm quyển kinh của người khác, Phật dạy: Lời của Phật là vô giá, nên căn cứ giấy mực, tính đủ năm tiền thì phạm tội nặng”)
XXIII.2.2. Trộm vật của tăng
Luật Ngũ phần ghi: “Mượn vật của tăng mà không trả lại, tính theo giá trị của vật ấy mà định tội”.
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Trộm tăng man vật[48], tội còn nặng hơn giết hại tám vạn bốn nghìn cha mẹ”.
Kinh Bảo lương ghi: “Thà ăn thịt mình, nhất định không được dùng vật của tam bảo”.
Kinh Phương đẳng ghi: “Bồ-tát Hoa Tụ nói: ‘Năm tội nghịch[49] và bốn tội nặng[50] ta còn có thể cứu, tội trộm vật của tăng ta không thể cứu’”.
Phẩm Tế long kinh Đại tập ghi: “Khi ấy, có những con rồng đạt được túc mệnh thông, chúng nhớ lại nghiệp quá khứ của mình buồn khóc như mưa, đi đến trước Đức Phật, mỗi con tự thưa:
- Nhớ đời quá khứ, con làm người, có nhân duyên gần gũi Phật pháp, lại được nghe pháp, có lòng tin, phát tâm cúng dường nhiều hoa quả, thức ăn uống rồi cùng với các tì-kheo tuần tự ăn.
Con rồng khác nói:
- Con từng ăn những thức ăn uống và hoa quả của tăng bốn phương.
Lại có con rồng nói:
- Con đã đến chùa, cúng dường và lễ bái chúng tăng. Do cúng dường như thế từ thời bảy Đức Phật tới nay, con đã từng làm người có lòng tin, cúng dường tam bảo các thứ hoa quả, nhiều thức ăn uống. Các tì-kheo nhận rồi cho lại, con liền ăn. Do nghiệp duyên đó, con phải ở trong địa ngục trải qua vô lượng kiếp, bị thiêu đốt, nung nấu trên ngọn lửa dữ hoặc uống nước đồng sôi hay ngậm hoàn sắt nóng. Khi ra khỏi địa ngục, con lại sinh vào loài súc sinh; bỏ thân súc sinh sinh vào loài ngạ quỉ. Cứ như thế, chúng con chịu rất nhiều đắng cay.
[130b] Đức Phật bảo:
- Những nghiệp ác như thế giống với việc trộm vật cúng Phật. Tội của nghiệp ngũ nghịch chỉ bằng một nửa tội này. Quả báo của tội này rất khó thoát. Trong kiếp Hiền[51], kẻ ấy gặp vị Phật cuối cùng hiệu là Lâu-chí, mới hết tội này.
Hỏi: Vì sao trộm và dùng vật của tăng bị tội rất nặng?
Đáp: Trộm bất kỳ vật nào của tăng đều liên quan tới thánh, phàm mười phương, trên từ chư Phật, dưới đến phàm tăng. Vì cảnh giới vô biên nên tội cũng vô biên. Vi trần còn có thể đếm biết, quả báo của người mắc tội này không thể suy lường. Vì sao? Vì thí chủ kia đã bỏ ra một chút phẩm vật, dù nhỏ bằng sợi lông, một hột gạo để cúng dường các bậc phàm, thánh xuất gia trong mười phương để quí ngài thụ dụng, ngày đêm tu đạo, chứ không cung cấp cho người thế tục. Vì thế, khi nghe tiếng chuông vang lên chư tăng gần xa cùng thụ thực; phàm, thánh thụ dụng đều thành đạo nghiệp, thầm giúp cho thí chủ được lợi ích vô biên. Cảm phúc đã nhiều thì thụ tội cũng không ít. Nay thấy chúng sinh mê mờ lầm lạc không phân biệt sang hèn, đều không tin tam bảo. Có người tham vật cúng dường, đem làm vật của riêng mình, dùng thức ăn, hoa quả, cưỡi các súc vật, dụng nô bộc của tăng; mượn vật của tăng lâu ngày không trả, bị tăng đòi nhiều lần thì trở lại mắng chửi; ỷ quan quyền, cậy thế lực, xét tìm lỗi của chúng tăng… Các việc làm hại tăng như thế khó mà liệt kê cho hết. Tĩnh tâm nghĩ đến lỗi này, sao chẳng đau lòng!
Nay chư tăng chẳng cho người, không phải là keo kiệt, không có nhân ái mà vì từ bi thương xót hàng bạch y, lo sợ họ nhận lãnh rồi phải chịu khổ. Nếu đem vật của tăng cho người, chẳng những trực tiếp làm tổn hại người thế tục mà vị tri sự cũng mang tội; cả hai đều phải chịu quả khổ ở đời sau. Cho nên kinh Phật bản hạnh ghi là một niệm ác có thể đưa đến năm điều chẳng lành:
1. Thiêu cháy căn lành của con người.
2. Phát sinh niệm ác khác.
3. Bị thánh nhân quở trách.
4. Đạo quả bị lui sụt.
5. Khi chết sinh vào nẻo ác.
Đã biết quả báo của tội trộm không thể nào thay đổi, nên tôi thành thật khuyên răn mọi người, sau này lấy dùng vật của chúng tăng cần phải xét mình.
XXIII.2.3. Trộm và sử dụng vật lẫn lộn
Kinh Bảo ấn ghi: “Vật thuộc về Phật và pháp không được sử dụng lẫn lộn. Vì không ai có thể làm chủ vật của Phật và pháp, cũng không có người để thưa hỏi. Vật của Phật và pháp không giống với vật của tăng, vật của tăng thường trụ và tăng chiêu-đề[52] đều có người để thưa hỏi.
Nếu dùng vật của tăng để tu sửa tháp Phật thì phải như pháp đã quy định, tăng đồng ý mới được lấy dụng. Nếu tăng không chấp nhận thì khuyến khích người tại gia tu sửa. Nếu tháp Phật có vật dụng, hoặc có từ một tiền trở lên do thí chủ thành tâm cúng dường, chư thiên và mọi người phải nghĩ những vật ấy thuộc về Phật và tháp,[130c] dù cho gió thổi, hư hoại cũng không được đem bán đổi lấy vật cúng dường. Vì vật thuộc về tháp Như-lai không ai có thể định giá”.
Luật Thập tụng ghi: “Đức Phật cho phép phạm vi sinh hoạt của tăng, trong chùa được nuôi người giúp việc, voi, ngựa, trâu, dê v.v… nhưng vì chúng đều có chủ nên không được sử dụng lẫn lộn”.
Luật Tăng -kì ghi: “Nếu vật cúng dường thuộc về Phật tồn dư nhiều thì cho phép đổi, bán mua hương, đèn. Sở dĩ được phép làm như vậy là vì số vật dụng tồn dư nhiều nên dù có đổi bán cũng vẫn còn để sử dụng”.
Ngũ bách vấn sự khẩu quyết ghi: “Trường hợp cờ phướn cúng Phật dư nhiều, muốn dùng làm vào việc Phật khác, nếu thí chủ bằng lòng thì được phép dùng; ngược lại, nếu thí chủ không chấp nhận thì không được dùng sai việc”.
Luật Tứ phần ghi: “Thức ăn cúng dường ở tháp Phật, người trông coi tháp được phép dùng”.
Luận Thiện kiến ghi: “Thức ăn dâng cúng Phật, tì-kheo hầu Phật được dùng. Nếu không có tì-kheo, người cư sĩ hầu Phật cũng được dùng”.
Kinh Tội phúc quyết nghi ghi: “Trước khi cư sĩ dâng cúng cho Phật, các bậc thượng, trung và hạ toạ phải dạy họ cúng Phật rồi mới cúng tăng. Dâng cúng thức ăn cho Phật rồi theo thứ tự cúng cho tăng thì không phạm. Nếu không thực hành đúng như vậy, dùng thức ăn của Phật sẽ bị đọa địa ngục A-tì trải qua nghìn ức năm. Đàn-việt không nghe lời chỉ dạy của tăng cũng chuốc lấy quả báo như trước. Nếu được làm người thì bị sinh vào nơi hạ tiện trải qua chín trăm vạn năm. Vì sao? Vì vật thuộc về Phật thì không ai có thể xác định được giá”.
(Hoặc nói rộng ra, trong hai bữa ăn thường ngày của cư sĩ và tăng, ngoài những thức ăn đã dâng cúng Phật và thánh tăng, những thứ không thuộc về Phật và tăng thì không cần phải mua lại; những thức ăn ấy sau khi xướng dư thực, tất cả mọi người đều được ăn. Nếu ý đã trình bày rõ chỉ cúng thức ăn cho Phật và tăng, không có phần của người tại gia thì phải mua lại mới được lấy dùng).
Nếu thí chủ đã dự định cúng dường để tạc tượng Phật Thích-ca mà đổi lại tạc tượng Phật A-di-đà; đã định cúng in Đại phẩm mà đổi lại sung vào in kinh Niết-bàn; đã cúng để xây dựng phòng cho tăng lại đổi thành cúng thức ăn cho tăng; đã cúng cho hai chúng nhưng đổi lại chỉ cúng cho một chúng; đã cúng cho thập phương tăng nhưng lại sung vào cúng hiện tiền tăng; đã cúng cho đại chúng nhưng lại chỉ cúng riêng cho một người; đã cúng cho chúng tăng nhưng lại đem cho cư sĩ … trái với ý muốn của người cúng. Những trường hợp như vậy nên quy giá trị thành tiền, nếu đủ năm tiền trở lên thì phạm tội nặng, nếu dưới năm tiền thì phạm tội nhẹ.
Luật Tứ phần ghi: “Nếu đã hứa cúng cho trú xứ này, nhưng lại đem cúng cho trú xứ kia thì phạm tội” ( Định tội nặng hay nhẹ thì trước phải thăm dò ý của người cúng).
Căn cứ vào ý trên: nếu tô sửa tượng Phật còn dư vật liệu cũng không được dùng làm hình tượng bồ-tát, thánh tăng v.v… vì địa vị thầy và trò khác nhau, nên không thể sử dụng lẫn lộn được. Nếu tô điểm các vật dụng khác rồi đem cúng dường Phật thì không phạm. Nếu thí chủ bằng lòng sau khi tô vẽ tượng Phật, tùy ý trang sức loại hình tượng tăng, tục, thánh, phàm cùng tô điểm các phẩm vật cúng dường khác như: danh hoa, cỏ cây, núi, hồ, chim, thú v.v…những vật ấy tuy không thuộc tượng Phật, nhưng sử dụng lẫn lộn mà không có tội.
Ngũ bách vấn sự ghi: “Dùng sơn để tô vẽ tượng Phật, mà đem vẽ hình chim, thú thì phạm tội. Trừ khi làm hình chim, thú để cúng dường Phật thì không phạm” (Từng nghe kẻ tăng, người tục sống ở vùng biên giới xa xôi không giữ giới luật, dù dốc lòng lo lắng tam bảo [131a] nhưng lại theo ý kiến riêng của mình sử dụng lẫn lộn vật của tam bảo. Cho đến tiền cúng dường thánh tăng, hoặc lấy dùng riêng cho mình, hoặc sung vào vật của thường trụ tăng, hoặc dùng làm tượng Phật, hoặc đắp, vẽ hình tượng tôn giả A-nan-da, Ca-diếp v.v… tất cả đều không được. Nếu sử dụng thì phạm tội. Những việc này như đã nói đầy đủ trong thiên Thụ thỉnh).
Hỏi: Thời nay trong các buổi thọ trai, thí chủ thường dâng tiền cúng, không biết tiền đó sử dụng vào việc gì?
Đáp: Nếu người cúng muốn dùng để tạo tượng thì theo ý nghĩa của đoạn văn trước đã trình bày mà thực hiện, chỉ được dùng để tạo tượng Phật chứ không được sử dụng vào các mục đích khác.
Thời nay, nếu có thí chủ sau khi cúng thức ăn cho tăng đem tiền cúng chung cho Phật và tăng. Nếu thí chủ không nói rõ từng phần thì nên mua hương, mua dầu, làm phan, tu sửa điện Phật, tất cả dùng để cúng dường Phật đều được, nhưng không được nhập vào của tăng hay cá nhân dùng.
Từ trước đến đây tuy là trình bày sơ lược, nhưng tất cả đều căn cứ theo kinh, luật mà xét chứ chẳng phải ý kiến của một người. Nếu không thực hành đúng theo luật, theo pháp thì kết tội chẳng học, không hiểu biết. Ngoài những việc này ra, còn nhiều việc khác không sao kể hết, trong bộ Luật Sao mười quyển của tăng ni đã trình bày đầy đủ. Cho nên, trông coi công việc tam bảo là một trọng trách, chẳng nên xem thường. Tự mình không hiểu rõ giới luật thì phải tin sâu nhân quả, dụng tâm cẩn thận, lo sợ nghiệp đạo, luôn cảnh giác, không chiều ý người. Như thế mới xứng đáng trở thành một vị tri sự gương mẫu. Không được như vậy thì không nên làm.
Kinh Bảo lương ghi: “Đức Phật bảo Ca-diếp:
- Ta cho phép hai hạng tì-kheo xứng đáng được trông coi việc của tăng. Đó là tì-kheo trì giới thanh tịnh và tì-kheo biết lo sợ quả báo đời sau. Vì hai hạng đó tâm kiên định giống như kim cương. Lại có hai hạng tì-kheo, một là biết được nghiệp báo, hai là biết hổ thẹn và sám hối. Có hai hạng khác là tì-kheo chứng A-la-hán và tì-kheo thường tu Bát bội xả[53]. Hai hạng tì-kheo như thế ta cho phép điều hành việc của tăng. Vì chính những vị ấy không lầm lỗi, có thể giúp đỡ cho những tì-kheo khác vào đạo.
Ý Đức Phật cho việc này là khó nên bảo ngài Ca-diếp như vậy.
Trong Phật pháp có nhiều hạng xuất gia. Họ thuộc dòng họ khác nhau, tâm nguyện sai khác, tu theo nhiều pháp môn và việc đoạn kết sử cũng khác nhau. Như có tì-kheo ở a-lan-nhã[54], có vị đi khất thực, có vị thích chốn núi rừng, hay có người ưa ở gần thôn xóm, nhưng trì giới thanh tịnh. Lại có vị lìa được tứ ách[55], có vị siêng tu đa văn, có người giỏi luận thuyết các pháp, hoặc có vị khéo trì giới luật, có vị khéo giữ oai nghi, lại có vị đi khắp đó đây để thuyết pháp. Có các hạng tì-kheo như thế, nên tì-kheo tri sự phải khéo biết được tâm hạnh của từng người.
Thế nên trong kinh có ghi: “Vị tì-kheo tri sự cần phải phân biệt rõ, vật của tăng thường trụ không được cho tăng chiêu-đề và ngược lại”. Vật của tăng thường trụ và vật của tăng chiêu-đề không được để lẫn lộn với vật của Phật (vật của Phật cũng không được để lẫn lộn với vật của hai hạng tăng trên). Nếu vật của tăng thường trụ nhiều mà tăng chiêu-đề cần dùng thì vị tri sự phải nhóm tăng, phát thẻ[56], yết-ma; tăng hòa hợp thì mới lấy vật của tăng thường trụ chia cho tăng chiêu-đề. Như tháp Phật cần tu sửa hay sắp bị hư, nếu vật của tăng thường trụ hay vật của tăng chiêu-đề có nhiều thì vị tri sự nên nhóm tăng, phát thẻ lấy ý kiến và bạch:
- Nay tháp Phật bị hư cần tu sửa, vật của tăng thường trụ và tăng chiêu-đề có nhiều, nên họp chúng yết-ma (bạch rằng) ‘Đại đức tăng lắng nghe! Nếu tăng đúng thời mà đến, xin nghe cho! [131b] Nay tăng không tiếc vật được cúng dường, hoặc là vật của tăng thường trụ hay vật của tăng chiêu-đề, tôi nay đem dùng để tu sửa tháp Phật’.
Nếu tăng không đồng ý thì vị tri sự nên khuyến hóa người tại gia cúng dường tài vật để tu sửa tháp Phật. Vật của Phật nhiều, không được chia cho tăng thường trụ và tăng chiêu-đề. Vì sao? Vì đối với vật đó nên nghĩ tưởng là của Đức Phật. Vật của Phật cho đến một sợi chỉ đều là vật của thí chủ tín tâm cúng Phật, nên trời, người đối với những vật đó phải nghĩ là của tháp Phật, huống là những vật báu. Vật ở trong tháp Phật, thà để gió táp, mưa chan làm rách nát, không nên dùng vật cúng Phật để trao đổi dù là vật báu. Vì sao ? Vì vật của Như Lai không ai có quyền định giá cả, hơn nữa Phật không cần phải dùng gì mà cần đến sự trao đổi.
Như thế, vị tri sự đối với vật của tam bảo không nên dùng lẫn lộn. Nếu tự ý dùng lẫn lộn bị mắc quả báo lớn, phải chịu khổ một kiếp hay nhiều kiếp.
Kinh Bảo lương ghi: “Đức Phật dạy:
- Tì-kheo tri sự nếu sinh tâm giận, tùy tiện sai bảo vị đại đức trì giới thanh tịnh chấp lao phục dịch, nhân việc làm này vị tri sự phải chịu khổ báo ở địa ngục. Nếu được làm người thì làm kẻ tôi tớ bị chủ đánh đập hành hạ khổ sở.
Lại nữa, nếu vị tri sự tự ý chế lại những điều lệ vượt ra ngoài phép tắc thông thường của tăng để trách phạt tì-kheo, sai làm việc không hợp thời, sau khi chết vị tri sự phải đọa vào địa ngục đóng đinh, bị trăm nghìn cây đinh đâm đóng vào thân, khiến thân bừng cháy như đống lửa lớn.
Lại nữa, vị tì-kheo tri sự vì tâm sân hận, nên đem những việc nặng giao cho đại đức trì giới thanh tịnh khiến vị ấy khiếp sợ. Vị tri sự ấy phải chịu tội đọa vào địa ngục. Nơi ấy lưỡi tự dài ra năm trăm do tuần rồi bị trăm nghìn đinh đóng lên trên lưỡi. Mỗi một cây đinh đều phát ra tia lửa dữ.
Lại nữa, vị tri sự nhiều lần nhận vật của tăng, nhưng vì bỏn sẻn nên cứ bo bo cất giữ, hoặc cho tăng không đúng lúc, hoặc cực chẳng đã mới cho, hoặc vì bắt buộc phải cho, nên cho, hoặc cho ít hay không cho, hoặc cho người này không cho người kia… Vì nghiệp bất thiện đó nên vị tri sự này sau khi chết sẽ sinh vào loài quỉ đói thường ăn phân hay trong trăm nghìn năm không được ăn hoặc khi ăn, thức ăn thường biến thành phân tiểu, máu mủ. Thế nên Ca-diếp! Vị tì-kheo tri sự thà tự ăn thịt thân mình, nhất định không dùng lẫn lộn vật của tam bảo như y, bát, thức ăn uống v.v…”
XXIII.2.4. Trộm vật của người
Luận Thiện kiến ghi: “Người cất giữ hộ tài sản cho người khác hoặc cho tam bảo, [131c] giữ gìn cẩn thận, khóa chặt kho lẫm, nhưng kẻ trộm theo lỗ hổng vào nhà lén lấy hết tài sản, hoặc chúng cưỡng bức để lấy tài sản mà người giữ không thể ngăn cản. Trường hợp này, nếu cứ y theo việc người chủ mất vật mà kết tội cất giữ thì hoàn toàn không hợp lý. Nhưng nếu người giữ lơ là, không giữ gìn cẩn thận để kẻ trộm lấy cắp thì người giữ phải bồi thường. Đây là căn cứ vào trách nhiệm người giữ mà kết tội”.
Luật Thập tụng ghi: “Nếu người nhận chuyển hộ vật dụng cho người ở xa, trên đường đi vật bị hư hỏng, như người chuyển có tâm tốt, song vì sơ ý bị hư thì không bồi thường. Nếu có tâm xấu khiến cho đồ vật bị hư hỏng thì người chuyển phải bồi thường. Mượn vật của người, bất luận là tâm tốt hay tâm xấu, nếu làm hư thì nhất định phải bồi thường”.
Luật Thập tụng ghi: “Có kẻ trộm vật mang đến, họ thật lòng cúng dường, hay vì bị người rượt đuổi lo sợ mà cúng thì tì-kheo được phép nhận. Bởi hiện tại chính kẻ trộm là chủ nhân của vật. Nếu kẻ trộm tự cúng dường thì được phép nhận, nhưng không được xin. Nếu những vật ấy đã được nhuộm màu khác mà người chủ trước kia nhận ra thì cũng nên trả lại cho họ”.
Luận Ma-đắc-lặc-già ghi: “Có người loạn trí mang vật đến cúng, nếu không biết cha mẹ hay người thân của người đó thì được phép nhận. Nếu biết người ấy có cha mẹ mà không được chính tay cha mẹ người ấy cúng thì không được nhận”.
Luật Thập tụng ghi: “Nếu lấy thịt ăn dư của hổ thì phạm tội nhỏ, vì hổ chưa bỏ thức ăn dư ấy. Nếu lấy thịt ăn dư của sư tử thì không phạm, vì sư tử đã bỏ thức ăn ấy”.
Luận Tát-bà-đa ghi: “Trộm thức ăn dư của tất cả loài chim, thú thì phạm tội nhẹ”. (Ngày nay gặp năm mất mùa, đói kém, nhiều người đào bới hang chuột để lấy những thứ hạt, trái mà chúng đã tha về trữ như: hạt giẻ, trái hồ đào v.v…, căn cứ theo văn trên đã nói thì phạm tội).
Luật Tứ phần ghi: “Hoặc có người vì nghĩ cho mình rồi lấy, hoặc nghĩ mình có phần rồi lấy, hoặc nghĩ vải cũ rách, xấu tệ rồi lấy, hoặc nghĩ mượn dùng tạm rồi lấy, hoặc nghĩ là của bạn thân rồi lấy v.v… Những trường hợp vừa nêu nếu lấy đều không phạm”.
Thế nào là bạn thân? Theo luật thì phải có đủ bảy điều kiện sau mới được gọi là bạn thân.
1. Làm được việc khó làm.
2. Cho được cái khó cho.
3. Nhẫn được việc khó nhẫn.
4. Nói cho nhau nghe chuyện riêng.
5. Đùm bọc lẫn nhau.
6. Không bỏ nhau lúc khó khăn.
7. Không chê nghèo khổ.
Người nào có thể thực hiện đủ bảy điều kiện trên thì gọi là người thân. Lấy vật của bạn như thế thì không phạm”.
Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Phật dạy các tì-kheo:
- Kẻ trộm vật của người, bị chủ bắt được, trói đem giao cho vua trị tội. Vua liền sai người giam vào ngục; hoặc chặt tay chân; hoặc cắt tai, mũi; hoặc lột da; hoặc rút gân; hoặc treo ngược; hoặc cưa xẻ; hoặc dùng lửa đốt; hoặc nấu dầu; hoặc dùng da sống quấn quanh đầu người ấy; hoặc lấy nước đồng sôi xối lên thân thể; hoặc dùng chỉa ba đâm vào hông bụng; hoặc thả voi dữ giẫm đạp; hoặc mổ bụng, rút ruột rồi nhét cỏ vào; hoặc trói ngược; [132a] hoặc đánh trống chát chúa; hoặc đem treo giữa chợ chém đầu; hoặc cắt bỏ từng bộ phận trên cơ thể; hoặc dùng dao cắt; hoặc bắn tên… bị giết bằng nhiều cách tàn khốc như thế. Vì ác nghiệp trộm cướp này, nên sau khi chết liền đọa vào địa ngục, bị lửa dữ đốt thân, nước đồng sôi rót vào miệng, vạc nước sôi, lò lửa đỏ, núi dao, rừng kiếm, lò than, phân nhơ, xay giả… chịu đủ tất cả những nỗi khổ như thế. Người tội đau đớn, khổ sở thấu tim gan không sao kể xiết, trải qua trăm nghìn vạn năm không biết bao giờ thoát khỏi. Khi chịu tội ở địa ngục xong, họ lại sinh vào loài súc sinh làm thân voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, chó v.v… trải qua trăm nghìn năm để trả nợ cũ cho người. Sau khi chịu tội trong đường súc sinh xong, người tội lại sinh làm loài quỉ đói, chịu đói khát khổ sở không sao kể xiết, thậm chí không nghe đến tiếng cơm nước, trải qua trăm nghìn năm chịu đủ các sự khổ sở như thế. Khi tội khổ trong đường ác hết được sinh lại làm người, nhưng khi được làm người họ lại mắc hai loại quả báo là nghèo khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc và thường bị năm nạn như nạn vua, nạn giặc, nạn nước, nạn lửa và bị kẻ cướp”.
Kinh Chính niệm ghi:
Hỏi: Thế nào gọi là trộm?
Đáp : Như có người luôn khởi niệm ác: “Ta muốn tất cả các loại ngũ cốc như lúa, thóc v.v… chỉ thuộc về mình ta, còn mọi người đều bị mất mùa”. Một thời gian sau, do chúng sinh phúc mỏng nên đều bị mất mùa. Người ác ấy thấy mất mùa, mọi người bị đói khát thì lòng vui mừng nói: ‘Quả nhiên đúng như ta mong muốn!’, đem lúa thóc ra chợ rao bán với giá rẻ nhưng tâm gian dối, lòng lọc lừa, cân, đong lúa thóc dối gạt người, tạo thành nghiệp trộm” .
Nếu lòng suy nghĩ thì gọi là nghiệp tư duy. Khi dối gạt người gọi là nghiệp dối gạt. Sau khi lừa dối thì đã thành nghiệp trộm.
XXIII.2.5. Trộm vật rơi
Kinh Chính niệm ghi: “Nếu thấy vật rơi bên đường như vàng, bạc hay các loại vật báu khác, người nhặt được phải rao lớn : ‘Vật này của ai?’
Nếu có người nói : ‘Vật ấy của tôi’ thì phải hỏi họ hình dáng vật ấy thế nào; nếu nói đúng thì trả lại cho họ.
Nếu không có ai nhận lại thì trong bảy ngày, mỗi ngày phải mang vật ấy đi rao lớn lên cho mọi người biết. Nếu vẫn không ai nhận thì nên đem vật báu ấy giao cho vua, quan lớn hay người đứng đầu châu, quận ở đó. Nếu vua, quan lớn, người đứng đầu châu quận thấy người kia có phúc đức, không nhận lấy vật ấy thì nên đem vật ấy dùng vào việc của tam bảo. Như thế mới không gọi là trộm”.
Luật Tăng-kì ghi: “Nếu thấy y, vật rơi phải nói cho mọi người biết để người đánh rơi được nhận lại. Nếu không có ai nhận nên treo một nơi cao và trống trải để mọi người nhìn thấy. Nếu có người nhận đó là vật của tôi, thì phải hỏi: ‘Vật của anh mất ở đâu?’ Nếu người kia trả lời đúng thì trao cho họ. Nếu không có người nhận thì nên giữ. Qua ba tháng, nếu vật ấy trước kia nhặt được trong tháp thì dùng cho những việc thuộc về tháp. [132b] Nếu vật ấy nhặt được trong vườn của tăng thì chia cho bốn phương tăng.
Nếu là những vật quý giá như vàng, bạc, chuỗi ngọc thì không nên tùy tiện trưng bày, rao báo rộng rãi mà người nhặt được phải xem đi, xét lại cho thật kĩ hình dạng của nó như thế nào, rồi sau đó mới rao xướng. Nếu người đến nhận nói đúng thì trả lại cho họ, nhưng khi trả phải có nhiều người chứng kiến và không được trao trả ở nơi che khuất. Nhân đây, vị ấy cũng nên khuyên người được nhận lại của bị rơi thọ tam quy và nói : ‘Nếu Phật không chế giới thì ông không thể thấy lại được các vật này’.
Nếu không có người đến nhận thì giữ lại ba năm, rồi như trước mà giải quyết. Vật thuộc phạm vi nào thì sử dụng cho phạm vi đó. Nếu tu sửa tháp, nhặt được tài bảo thì dùng vào việc của tháp. Nếu nhặt được vật trong phạm vi sinh hoạt của tăng thì dùng vào việc của tăng”.
Luận Thành thật [57]ghi: “Nếu kho tàng trong lòng đất tự nhiên xuất hiện, lấy dùng thì không có tội. Khi Phật còn ở đời, trưởng giả Cấp Cô Độc là thánh nhân mà còn lấy những vật ấy, cho nên biết là không có tội. Nếu tình cờ nhặt được vật cũng không gọi là trộm”.
Luật Tăng-kì ghi: “Tì-kheo khi vào trong thôn làng thấy vật rơi, không được nhặt lấy nhưng có người nhặt cúng cho được phép nhận, vì người ấy chính là thí chủ. Y phục của người khác bị gió cuốn bay trong làng xóm, tì-kheo không được nghĩ đó là y phấn tảo[58] rồi nhặt lấy, nếu trên đường hoang vắng không có người thì được lấy”.
Luật Ngũ phần ghi: “Nếu cất hộ y cho người trải qua mười hai năm, người ấy không quay lại lấy thì nên nhóm tăng định giá, rồi chia cho tăng bốn phương sử dụng. Nếu sau đó người kia trở lại thì lấy vật của tăng bồi thường cho người đó. Nếu người đó không nhận thì tốt”.
Bài kệ tụng Chính báo:
Cướp vật cúng cho người,
Sẽ rơi vào địa ngục,
Bị chim mỏ cứng mổ,
Tan nát cả tim gan,
Đồng sôi rót vào miệng,
Gậy sắt đập vào thân,
Hoảng hốt chạy thất kinh,
Lạc vào rừng gươm, giáo.
Bài kệ tụng Tập báo:
Trộm cướp bị quả báo,
Địa ngục đốt thân hình,
Tội hết sinh làm người,
Đói khổ đến trọn kiếp,
Của tiền bị người giữ,
Khác chi kẻ nghèo hèn,
Mấy lời xin ghi nhớ,
Suy nghĩ nhân khốn cùng.
XXIII.3. Tà dâm
Tiếng dâm hại đức là điều mà người trí không làm; tướng dục mê tâm là chỗ mà bậc thánh xa lánh. Vì thế Châu U Vương mất nước bởi lỗi của Bao Tự[59]; Tấn Hiến Đế mất ngôi là tội của Lệ Cơ[60]. Độc Giác tiên[61] trên núi chẳng biết nỗi nhục bị cưỡi cổ; Thuật-già-bà[62] hẹn tại miếu đường nào hay cảnh đau đớn bị đốt thân.
Như thế, tất cả đều do chúng sinh trong Dục giới không tu quán giải[63], [132c] bị phiền não trói buộc chẳng thể phục, đoạn[64]. Vả lại, địa thủy hỏa phong, đâu là chủ tể? Thân, thụ, tâm, pháp bản tính vốn không. Da dày, da mỏng đều là bất tịnh; sinh tạng, thục tạng dơ thối khó bàn, luôn đưa đẩy con người rơi vào ba đường ác. Thế nên, bậc đại bồ-tát, thường tu quán hạnh[65], thấy toàn thân chảy đầy chất dơ uế. Lục trần[66] là sáu giặc thường xúc não; năm ấm như chiên-đà-la[67] khó thân cận.
Phàm phu điên đảo đam mê hình sắc, thấy dáng yêu kiều, đắm đuối dung nhan. Răng trắng, môi hồng, mi dài, tóc bối, lắc người, uốn thân càng tăng thêm vẻ mĩ miều. Thế nên, mĩ nữ cởi ngọc nơi Lạc Xuyên[68] khiến Trần Vương[69] phải hạ giá; người đẹp chơi cầu ở Hán Khúc[70] cảm Giao Phủ[71] phải lưu tình. Trên đỉnh Vu sơn mượn mây mưa để đến đi[72]; bên suối Thư Cô nương dòng nước mà qua lại. Còn có kẻ sai đốt hương mà nhớ tưởng áo ngắn của Hàn Thọ[73]; gảy khúc đàn cầm để thầm nhận tình ý của Tương Như[74]. Hoặc có người nhân dâng gối chợt thành thân; hoặc nhờ treo mũ trở nên gần. Họ đâu biết rằng hình hài như bọt nổi; thể chất tựa mây trôi, trong ngoài đều không, khoảnh khắc tan biến. Toàn thân bất tịnh, khắp thể vô thường, vừa mới quăng xuống ngòi rãnh đã thành mồi ngon cho trùng kiến.
Chúng sinh thường mang thói tà dâm, trái ngược với hạnh thanh tịnh, chướng ngăn tâm bồ-đề, gây nhân bốn thú, gặt quả ba đường. Nên biết, gốc của ba cõi chính do nghiệp dâm; quả báo sáu nẻo thật vì ái nhiễm, khiến cho nhuận nghiệp càng thêm sâu nặng. Vì thế Đức Phật chế giới không được tà dâm.
XXIII.3.1. Quở trách dục gây nhiều khổ
Kinh Niết-bàn ghi:
Nếu hay sầu muộn,
Thì khổ càng tăng.
Như người thích ngủ,
Thì ngủ càng mê,
Tham dâm thích rượu,
Cũng lại như thế.
Kinh Chính niệm ghi:
Như lửa thêm củi khô,
Thì lại càng cháy mạnh,
Cũng như người thích ái,
Lửa ái càng tăng thêm.
Củi khô tuy cháy dữ,
Nhưng người có thể ra,
Còn lửa ái thiêu đốt,
Mãi mãi không thoát được.
Luận Đại trí độ ghi:
Người đời ngu si,
Tham mê năm dục,
Đến chết không chừa,
Mãi đến đời sau,
Chịu vô lượng khổ.
Thí như người ngu,
Ham thích quả ngọt,
Trèo lên cây hái,
Mà không chịu xuống,
Chợt người đến đốn,
Cây liền đổ ra,
Thân đầy thương tích,
Chết trong đau đớn,
Được, có chút vui,
Mất, muôn vạn sầu.
Như dao thoa mật,
Người thích liếm vào,
Lưỡi liền bị đứt,
Đau khổ vô cùng.
Luận Thành thật ghi:
Tham dục là khổ,
Chúng sinh điên đảo,
Vọng là ý vui,
Người khôn thấy rõ,
Thì khổ không còn.
Ái dục không chừa,
Như uống nước mặn,
Khát càng thêm khát,
Vì làm tăng khát,
Thì có vui đâu.
Giống như con chó,
Gặm cục xương khô,
Chảy tràn nước dãi,
Tưởng được món ngon.
Tham dục cũng vậy,
Bên trong không vị,
Nhưng vì đảo điên,
Cho là vị ngon.
Nên biết sắc dục,
Là khổ không vui,
Nếu không tham cầu,
Mới thật là vui.
XXIII.3.2. Quán thấy người nữ nhơ uế
Ở đây chỉ đơn cử người nữ bên ngoài dáng vẻ yêu kiều, nhưng bên trong chứa toàn đồ hôi thối. Người mê muội thì say đắm hình tướng bên ngoài, không biết sự tạm bợ giả dối đó, chỉ có người trí mới biết được sự thật, đáng nhàm chán xa lìa .
Kinh Thiền bí yếu ghi: “Trưởng lão Mục-kiền-liên đã chứng quả A-la-hán, nhưng người vợ cũ cứ đeo đuổi, cô ta trang điểm lộng lẫy theo quấy phá ngài. Bấy giờ, tôn giả Mục-kiền-liên nói kệ cảnh tỉnh người vợ cũ:
Thân như đống xương khô,
Thịt da gá nương thành,
Trong toàn chất hôi tanh,
Không có gì tốt đẹp.
Chỉ là túi phân dơ,
Chín chỗ thường rỉ chảy,
Gướm ghê như loài quỉ,
Đâu có gì đáng quí.
Thân giống như hầm xí,
Lớp da mỏng bọc ngoài,
Người khôn đã nhàm lìa,
Như xa rời hố phẩn.
Nếu ngươi biết như vậy,
Thứ mà ta chán chường,
Thảy đều chẳng vấn vương,
Như người tránh hầm phẩn.
Còn ngươi cứ trau chuốt,
Hương hoa cùng chuỗi báu,
Thứ phàm phu tham đắm,
Người trí không bị mê.
Thân ngươi vốn không sạch,
Ô uế chất chồng thôi!
Trang điểm nhà xí rồi,
Người ngu cho là đẹp.
Xương sườn và xương sống,
Như kèo cột nương nhau,
Ngũ tạng ở trong đó,
Hôi dơ tợ hố phân.
Thân ngươi như hầm phẩn,
Ngu si cho là quí,
Trang sức chuỗi ngọc châu,
Ngoài đẹp như bình vẽ.
Nếu người không còn dục,
Trọn đời không dính mắc,
Nay ngươi đến nhiễu ta,
Khác gì con thiêu thân.
Tất cả các độc dục,
Nay ta đã diệt rồi,
Và xa lìa năm dục,
Lưới ma cũng xé rách,
Tâm ta như hư không,
Không còn gì nhiễm trước,
Dù dục cõi trời đến,
Cũng không động lòng ta.
Kinh Tăng nhất A-hàm ghi: “Thà đốt cho thanh sắt cháy đỏ rồi đâm vào mắt, chẳng nên vì nhìn sắc mà làm cho tư tưởng rối loạn”.
Kinh Chính niệm ghi: “Bản tính của người nữ là hay ganh ghét. Do đó nên sau khi chết phần nhiều sinh vào trong loài quỉ đói. Dù họ luôn nói lời ngọt ngào, dịu dàng, nhưng trong lòng thì thâm độc vô cùng. Đặc biệt, người nữ rất giỏi về các mánh khóe, những trò lừa dối, mê hoặc mọi người”.
XXIII.3.3. Người nữ khó gần đáng chán
Kinh Ưu-điền vương có bài kệ:
Người nữ thật là ác,
Khó kết giao trọn đời,
Dây ân ái trói buộc,
Đẩy người vào cửa tội.
Họ không chỉ kéo người,
Sa vào con đường ác,
Mà còn mê hoặc trời,
Khiến phải bị đọa lạc.
Kinh Chính pháp niệm có bài kệ:
Ràng buộc trong cõi trời,
Không gì qua nữ sắc,
Người nữ trói chư thiên,
Dẫn đến ba đường ác.
Luận Đại trí độ ghi: “Bồ-tát quán sát các dục thấy tất cả đều bất tịnh, trong tất cả các tai hại thì sự tai hại từ người nữ là nguy hiểm nhất. Các thứ như: lửa, dao, sấm sét, kẻ thù, rắn độc còn có thể tạm gần gũi, nhưng tuyệt đối không nên gần gũi người nữ. Vì người nữ có tính keo kiệt, ganh ghét, giận dữ, nịnh nọt, lẳng lơ, xấu xa, tranh cãi, tham lam.
[133c] Đức Phật nói bài kệ:
Thà dùng sắt nóng,
Đâm thẳng vào mắt,
Tâm chớ buông lung,
Đắm nhìn người nữ,
Mỉm cười làm dáng,
Kiêu mạn, thẹn thùng,
Quay mặt, liếc mắt,
Lời hay, ganh ghét,
Bước đi yểu điệu,
Mê hoặc lòng người.
Lưới dâm giăng bủa,
Khiến người sa vào,
Đi, đứng, nằm ngồi,
Liếc mắt làm duyên,
Kẻ ngu vô trí,
Say mê điên đảo.
Chiến đấu với địch,
Còn có thể thắng,
Giặc nữ hại người,
Đành phải chịu thua.
Rắn ngậm nọc độc,
Tay vẫn bắt được,
Người nữ mê hoặc,
Không thể chạm vào.
Kinh Tăng nhất A-hàm có bài kệ:
Chớ thân với người nữ,
Cũng không nên chuyện trò,
Nếu ai xa lìa được,
Sẽ dứt trừ tám nạn.
Kinh Tát-già Ni-kiền-tử ghi: Ni-kiền-tử có bài kệ:
Vợ mình chưa đủ sao?
Còn ham thích vợ người,
Người này không xấu hổ,
Nên thường khổ không vui,
Đời này và đời sau,
Bị nổi khổ đánh đập,
Chết rồi vào địa ngục,
Khổ đau mãi không thôi.
Kinh Tạp thí dụ ghi: “Khi Đức Phật còn ở đời, có một người thuộc dòng dõi Bà-la-môn sinh được hai người con gái, cả hai đều rất xinh đẹp. Ông ta treo một giải thưởng và nói: ‘Trong vòng chín mươi ngày, nếu có ai tìm và chỉ ra điểm xấu của hai con gái ta thì giải thưởng này thuộc về người đó’, nhưng cuối cùng không có người nào tìm ra điểm xấu của hai cô gái. Người bà-la-môn dẫn hai con mình đến chỗ Phật, Đức Phật vừa thấy liền quở :
- Hai cô gái này đều xấu xí, chẳng có gì xinh đẹp.
Tôn giả A-nan Bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Hai cô gái này rất đẹp, nhưng Ngài lại nói không, vậy có gì không đẹp?
Đức Phật nói:
- Mắt không nhìn sắc mới gọi là mắt đẹp. Tai, mũi và lưỡi cũng như thế. Thân không ham thích sự mịn màng, trơn láng, đó mới gọi là thân đẹp. Tay không lấy tài sản của người, đó mới gọi là bàn tay đẹp. Nay Ta xem xét biết hai người con gái này mắt nhìn sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, thân thích sự mềm mại, trơn láng, tay muốn lấy tài sản của người. Những người như thế đều không phải là người đẹp”.
Kinh Phật bát-nê-hoàn ghi: “Đức Phật bảo Nại nữ:
- Người ham thích quan hệ trai gái bất chính thì có năm điều tự hại:
1. Tiếng tăm không tốt.
2. Phạm vào pháp luật quốc gia.
3. Lòng nhiều nghi ngờ.
4. Chết rồi bị đọa vào địa ngục.
5. Khi tội ở địa ngục hết tiếp tục sinh vào loài súc sinh.
Năm điều trên đây, đều do tội tham dâm mà dẫn đến kết quả như vậy”.
Người không quan hệ bất chính thì có năm điều làm tăng trưởng phúc thiện.
[134a] 1. Được nhiều người khen ngợi.
2. Không sợ quan quyền.
3. Thân được an ổn.
4. Sau khi chết được sinh lên cõi trời.
5. Tâm thanh tịnh nên đắc đạo Niết-hoàn”.
XXIII.3.4. Người nữ gian trá
Như kinh Cựu tạp dụ ghi: “Thuở xưa, có một thanh niên đẹp trai con của một gia đình giàu sang. Người ấy đúc một tượng người nữ bằng vàng rồi thưa với cha mẹ: ‘Nếu có người con gái nào giống như tượng này con mới cưới làm vợ’.
Bấy giờ, ở một nước khác cũng có một người con gái xinh đẹp không kém gì chàng thanh niên kia. Cô gái cũng đúc một tượng người nam bằng vàng rồi thưa với cha mẹ: ‘Nếu có người con trai nào giống như tượng này con mới chịu cưới làm chồng’.
Cha mẹ hai bên nghe tin như vậy mới tìm đến nhau và tác thành cho đôi trai gái này.
Bấy giờ, nhà vua cầm gương soi và hỏi các cận thần:
- Trong thiên hạ có ai đẹp như ta không?
Các cận thần tâu:
- Chúng thần nghe, ở nước kia có một người thanh niên rất đẹp không ai sánh bằng.
Vua nghe vậy liền sai sứ giả đến mời chàng trai ấy. Sứ giả tìm đến nhà chàng trai truyền lệnh:
- Nhà vua muốn gặp hiền giả.
Vâng lệnh vua, chàng thanh niên lập tức chuẩn bị xe ngựa để vào cung. Trên đường đi anh ta nghĩ: ‘Nhà vua cho ta là người hiểu biết, thông thạo mọi mặt nên mới cho người đến mời ta’. Nghĩ như vậy rồi, anh ta quay trở về nhà lấy sách, tình cờ bắt gặp người vợ đang tư thông với người ở. Anh ta vừa buồn vừa giận, vì thế trong lòng u uất, làm cho nhan sắc tiều tụy.
Sứ thần thấy thế liền nghĩ: ‘Chắc vì đi đường xa khiến anh ta bị gầy ốm’ nên đã để chàng trai tạm nghỉ lại trong tàu ngựa. Đêm đến, chàng trai bắt gặp đại phu nhân của vua tư thông với người đánh ngựa. Chứng kiến việc ấy, tâm chàng trai bừng tỉnh tự nhủ: ‘Đại phu nhân của nhà vua mà còn làm như vậy, huống chi người khác!’. Mọi ấm ức được giải tỏa, tinh thần nhẹ nhõm và cũng vì thế mà nhan sắc hồi phục như cũ.
Sau khi nhan sắc hồi phục, chàng trai vào cung yết kết vua.
Vua hỏi:
- Vì sao khanh ở lại ngoài cung ba ngày?
Chàng trai tâu:
- Trên đường thần vào cung bỗng sực nhớ để quên mấy cuốn sách, rồi quay về lấy thì tình cờ bắt gặp vợ thần đang tư thông với người ở. Thần nổi giận vì thế làm cho nhan sắc tiều tụy nên thần ở lại trong tàu ngựa ngoài cung ba ngày. Đêm qua, thần bắt gặp chính phu nhân của bệ hạ đến tư thông với người đánh ngựa. Thần cho rằng phu nhân còn như thế, huống gì người khác. Vì chứng kiến việc đó, lòng thần nhẹ nhõm, nhan sắc mới hồi phục như cũ.
Nhà vua thốt lên:
- Phu nhân của ta còn như thế, huống chi những người nữ bình thường khác?
Nói rồi, hai người bỏ tất cả cùng nhau đi vào rừng, cắt tóc làm sa-môn. Họ suy nghĩ người nữ không đáng để chúng ta kết thân rồi nỗ lực tinh tiến tu hành, cuối cùng cả hai đều chứng quả Bích-chi Phật”.
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Thuở xưa, có một phụ nữ sinh được cô gái xinh đẹp không ai bằng. Năm lên ba tuổi, nhà vua tuyển chọn cô con gái ấy vào cung rồi gọi đạo nhân đến xem tướng.
Nhà vua hỏi:
- Sau này cô gái có thể làm phu nhân của ta không?
Người xem tướng tâu:
- Người con gái này có một người chồng rồi mới làm phu nhân của bệ hạ sau.
Vua suy nghĩ:
- Ta phải đem nó đến một nơi kín đáo, nuôi giữ cẩn mật, như thế lẽ nào lại đến sau?
Nghĩ như vậy rồi, vua liền gọi chim hạc đến và hỏi:
- Ngươi sống ở đâu?
Chim hạc tâu:
- Thần sống trên một cây lớn ở lưng chừng sườn núi Thái. Chỗ ấy, người và vật không qua lại được, bên dưới có dòng nước chảy, thuyền bè chẳng thể lưu thông.
Vua nói:
- Nay ta gởi cô gái này cho ngươi đem về nuôi.
[134b] Chim hạc liền mang cô gái về chỗ mình. Ngày ngày, nó đến cung vua lấy thức ăn về nuôi cô gái.
Trải qua một thời gian rất lâu, trên đỉnh núi Thái có một ngôi làng, bỗng nhiên một hôm bị nước lũ cuốn trôi. Trên dòng nước xuất hiện một cây lạ theo dòng trôi xuống. Một chàng trai bám được cây ấy nhưng do rơi vào dòng xoáy nên cứ bị xoay quanh. Có một cây bồ đào từ dòng suối mọc thẳng, cao vút tựa vào sườn núi, chàng trai bám theo cây bồ đào lần tìm đến được cây mà chim hạc ở rồi tư thông với cô gái ấy. Cô gái đem giấu chàng trai. Chim hạc biết thân thể của cô gái này ngày càng nặng hơn, nên đi khắp núi tìm kiếm và bắt giết chàng trai. Sau đó, chim hạc đem việc này tâu lên vua.
Vua nói:
- Trước đây đạo nhân đã xem tướng, người đoán thật đúng!”
Luận rằng: “Người có oán nghiệp đời trước, không thể dùng sức cưỡng lại, gặp lại liền thành. Loài súc sinh cũng giống như vậy”.
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Thuở xưa, có một vị vua nọ giữ các phu nhân thể nữ rất nghiêm. Một hôm, chính phu nhân của vua nói với thái tử:
- Từ khi sinh con ra đến nay mẹ chưa được một lần nhìn ngắm giang sơn, mẹ muốn ra ngoài đi dạo một lần. Con có thể xin vua cha giúp mẹ không?
Phu nhân thúc giục thái tử nhiều lần như thế. Thái tử tâu với vua cha, nhà vua liền đồng ý. Thái tử đánh xe đưa mẹ đi. Quần thần hai bên đường nghinh đón, vái chào. Phu nhân đưa tay vén tấm màn, cố ý để mọi người nhìn thấy nhan sắc của mình. Thái tử thấy mẹ mình làm như thế, liền giả vờ đau bụng rồi đánh xe trở về. Phu nhân than:
- Còn nhiều người chưa biết vẻ đẹp của ta!
Thái tử thầm nghĩ: ‘Mẹ của ta còn như thế, huống gì những người khác!’
Nghĩ rồi, đêm đó thái tử rời hoàng cung, vào rừng ngao du sơn thủy. Trên đường đi, tình cờ thái tử thấy bên đường có một cây lớn, phía dưới có con suối. Thái tử trèo lên cây nhìn thấy một vị Phạm-chí lội xuống suối tắm rửa, rồi lên ăn cơm. Sau đó, Phạm chí lại làm phép nhả ra một bình hồ lô, trong bình ấy có một người nữ, rồi họ cùng nhau vui vẻ trong một phòng kín. Khi Phạm chí đi ngủ, người nữ kia cũng nhả ra một bình hồ lô giống như vậy, bên trong hồ lô lại có một chàng trai và người nữ lại ăn nằm với chàng trai đó. Nằm xong, cô ta nuốt bình hồ lô trở lại. Khi Phạm chí thức dậy, đem người phụ nữ đặt trong bình hồ lô rồi nuốt vào bụng, chống gậy đi.
Thái tử trở về nước xin vua cho mời Phạm chí và các vị cận thần đến. Lại sai người làm một bữa cơm cho ba người ăn, rồi để qua một bên. Phạm chí đi đến thấy mâm cơm có ba phần ăn liền nói:
- Tôi chỉ đến một mình.
Thái tử nói:
- Này Phạm chí! Ông hãy gọi vợ mình ra cùng ăn. Phạm chí bất đắc dĩ phải đem vợ ra.
Thái tử lại nói với người vợ của Phạm chí:
- Bà cũng nên gọi chồng mình ra để cùng ăn.
Thái tử bảo ba lần như thế, bất đắc dĩ bà ta mới mang chàng trai ra để ăn chung. Ba người ăn xong liền bỏ đi.
Vua hỏi thái tử:
- Vì sao con biết được chuyện này?
Thái tử tâu:
- Khi trước, con đánh xe đưa mẹ đi dạo trong nước, mẹ đã vén tấm màn, cố ý để cho mọi người nhìn thấy mẹ. Lúc ấy, con chợt nghĩ người nữ phần nhiều thích dâm dục. Vì thế, con đã giả vờ đau bụng và đánh xe về. Sau đó, vì chán nản con bỏ vào núi đi dạo thì tình cờ thấy được việc Phạm chí giấu người phụ nữ trong bụng. Người nữ là như thế đó, họ dâm dục không bao giờ dừng. Cúi xin đại vương trả tự do cho tất cả cung nữ để họ tùy ý muốn đi đâu thì đi.
Vua chấp nhận thỉnh cầu của thái tử, ra lệnh cho hậu cung:
- Người nào muốn đi thì cứ tùy ý!”
[134c] Luận nói: “Người không đáng tin trong thiên hạ chính là người nữ!”
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Thuở xưa, có một người nhà giàu nọ, thường giữ kín vợ mình không cho bất cứ ai trông thấy. Người vợ mới sai người hầu đào một đường hầm rồi tư thông với người thợ bạc. Sau đó, bà bị người chồng phát hiện, người vợ nói:
- Đời thiếp chưa bao giờ quan hệ bất chính, chàng chớ đổ oan cho thiếp!
Người chồng nói:
- Ta không tin nàng, ta sẽ đưa nàng đến chỗ cây thần để nàng thề.
Người vợ nói:
- Được thôi!
Sau đó, người chồng trì trai bảy ngày. Khi chồng mới vào thất, người vợ liền lén nói với người thợ bạc: ‘Chàng hãy giả làm một người điên ra chợ xin ăn, khi gặp thiếp ở giữa đám đông chàng làm bộ ôm chầm, lôi kéo và vuốt ve, đùa giỡn’.
Người chồng trì trai bảy ngày xong, liền dẫn người vợ đi đến chỗ cây thần.
Người vợ nói:
- Từ hồi nào tới giờ thiếp chưa biết chợ, chàng có thể dẫn thiếp đi ngang qua chợ một lần không? Người chồng chiều ý vợ dẫn cô ta đi ngang qua chợ. Như kế hoạch đã định, vừa thấy cô ta người thợ bạc liền đến ôm chầm, vuốt ve và giả điên nằm lăn ra trên đất. Người vợ liền trách chồng:
- Tại sao chàng lại để người này ôm lấy thiếp?
Người chồng nói:
- Đó là người điên, nàng đừng để bụng!
Rồi hai vợ chồng dẫn nhau đến chỗ cây thần. Người vợ cúi đầu thề:
- Đời tôi chưa bao giờ làm chuyện gì xấu, nhưng nay lại bị người điên kia ôm.
Nhờ thế mà người vợ được thoát tội. Người chồng thì chỉ biết im lặng, lấy làm xấu hổ.
Đức Phật nói:
- Nên biết, tất cả người nữ gian trá như thế, thật không đáng tin”.
Luật Thập tụng ghi: “Đức Phật ở nước Xá-vệ, bấy giờ có người thuộc dòng dõi bà-la-môn sinh được một người con gái rất xinh đẹp, đặt tên là Diệu Quang.
Thầy tướng nói: ‘Đứa bé này về sau sẽ hành dâm với năm trăm người nam’. Chuyện này mọi người đều biết.
Năm đứa bé mười hai tuổi, nhưng vẫn chưa có ai xin hỏi cưới. Bấy giờ, có một người lái buôn gần nhà vị bà-la-môn kia, người lái buôn này thường ra biển tìm châu báu, ít khi ở nhà. Một hôm, ông đang ở trên lầu, từ xa trông thấy cô gái lập tức lòng dục nổi lên, ông hỏi những người xung quanh:
- Cô gái kia con ai ?
Mọi người đáp:
- Là con gái của người bà-là-môn đó.
Người lái buôn hỏi tiếp:
- Cô ấy có chồng chưa?
Đáp: Chưa.
Người lái buôn lại hỏi:
- Có ai cầu hôn chưa?
Đáp: Chưa có ai cầu hôn.
Người lái buôn ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao không ai chịu cầu hôn?
Mọi người đồng thanh nói:
- Thầy tướng tiên đoán: ‘Cô gái này về sau thế nào cũng sẽ hành dâm với năm trăm người đàn ông’. Vì thế mãi cho đến nay vẫn không có ai dám cầu hôn với cô ta.
Lúc ấy, người lái buôn liền nghĩ: ‘Nhà ta ngoài hàng sa-môn Thích tử ra không có ai đến’. Nghĩ vậy rồi, ông liền đến nhà người bà-la-môn xin cưới cô gái ấy. Cô gái về nhà chồng chưa bao lâu thì người lái buôn lại cùng các thương buôn khác chuẩn bị đi biển. Trước khi đi, ông gọi người giữ cửa đến và dặn:
- Ta sắp đi biển, ngươi chớ để bất cứ người nam nào vào nhà tùy tiện, trừ hàng sa-môn Thích tử. Vì hàng sa-môn Thích tử không bao giờ làm điều sai trái.
Người giữ cửa thưa:
- Xin vâng!
Người lái buôn đi rồi, cũng như thường lệ các tì-kheo vẫn đến nhà ấy khất thực. Vợ của người lái buôn thấy các vị sa-môn liền nói:
- Hãy quan hệ với tôi!
Các tì-kheo không biết vì sao cô ta lại nói như vậy, mới đem việc ấy hỏi Phật.
Đức Phật dạy:
- Nhà ấy chắc chắn có người bất chính, các ông chớ đến đó nữa.
Vợ của người lái buôn về sau mắc bệnh và đã qua đời vào lúc nửa đêm. [135a] Người trong nhà đem tất cả đồ trang sức của cô bỏ cùng với tử thi rồi khiêng ra bãi tha ma.
Bấy giờ, có năm trăm tên cướp đi ngang qua nơi ấy, họ trông thấy thi thể cô gái chợt lòng dục nổi lên, rồi họ thay nhau hành lạc trên xác chết cô gái.
Do người nữ đó trước kia mời các sa-môn, bà-la-môn hành dâm với mình, nên nay bị đọa vào đường ác. Cô ta đã sinh đến phương bắc của nước ấy làm con rồng cái tên là Tì-ma-đạt-đa”.
Bài kệ Chính báo:
Tà dâm chịu ngục hình,
Lên núi đao, rừng kiếm,
Sắt nung đóng vào miệng,
Đồng sôi rót vào tim,
Rồng độc nghiền xương tủy,
Chuột sắt cắn thân hình,
Ôm cột đồng lên xuống,
Nằm giường sắt tối tăm.
Bài tụng về Tập báo:
Tham dâm loạn thân tâm,
Chịu khổ trong lẫn ngoài,
Nếu còn được làm người,
Thì vợ thường phản bội,
Luôn nghi ngờ lẫn nhau,
Không ai chịu nhường ai,
Người có chút tính linh,
Sao chẳng biết hổ thẹn.
XXIII.4. Nói lời giả dối
Người sinh ra trong cõi đời, gặp phải thời ô trược; đã mang thân giả tạm, còn ở trong thế giới phù hư. Vì thế, ý nghĩ không thật, đặt điều vu khống, lòng đầy dẫy mê hoặc, điên đảo nghịch lòng; trái lý, lời nói giả dối, mê hoặc mọi người, làm cho họ hiểu sai, dẫn đến muôn khổ bủa vây, trăm lo dằn vặt. Nếu người gieo nhân hư dối thì gặt quả hèn hạ, địa ngục đã quá khổ lại thêm nước sôi, tro nóng. Do nói dối phải gặp quả báo không hiểu chính pháp, chẳng biết giả-thật.
Bài kệ kinh Chính pháp niệm ghi:
Người nói năng dối trá,
Làm khổ não chúng sinh,
Họ là người ngu si,
Dù sống cũng như chết.
Dao lời tự cắt lưỡi,
Làm sao lưỡi khỏi rơi!
Luôn nói lời dối trá,
Thì mất hết công đức,
Người nói lời giả dối,
Trong miệng có rắn độc.
Dao ở ngay trong miệng,
Thêm lửa dữ cháy bừng,
Độc trong miệng thật độc,
Độc của rắn chẳng bằng.
Miệng độc, hại chúng sinh,
Chết rồi đọa địa ngục,
Người nói lời dối trá,
Trong miệng mủ tuôn hoài.
Lưỡi khác gì bùn dơ,
Cũng giống như lửa dữ,
Nếu ai nói xấu người,
Thì hay bị khinh chê,
Người tốt thường lánh xa,
Trời cũng không ủng hộ,
Thường ganh tị với người,
Cũng ghét bỏ chúng sinh,
Rồi tìm cách não loạn,
Nhân đó vào địa ngục.
Kinh Ưu-bà-tắc giới ghi:
Nếu lại có người,
Thường hay nói dối,
Sẽ bị quả báo,
Răng thưa miệng méo.
Dù có nói thật,
Người cũng không tin,
Ai cũng oán ghét,
Thấy mặt chẳng ưa,
Là quả hiện tại.
Đã gây nghiệp ác,
Sau khi chết rồi,
Rơi vào địa ngục,
Chịu vô lượng khổ,
Đói khát, nóng bức,
Là quả vị lai.
Đã gây nghiệp ác,
Nếu được làm người,
Miệng bị méo lệch,
Tuy có nói thật,
Người cũng không tin,
Người không thích nhìn.
Hoặc nói chính pháp,
Cũng không ai nghe,
Người làm việc ác,
Do sức nghiệp duyên,
Tất cả vật dụng,
Đều bị thiếu thốn.
Qua đây, chúng ta biết rằng người nói dối nhất định phải chịu quả khổ trong ba đời.
Kinh Thiền bí yếu ghi: “Bốn chúng đệ tử của Phật, người nào vì lợi dưỡng tham cầu không biết chán, vì thích tiếng tăm mà giả dối làm ác, thật chẳng tu hành, thân miệng phóng túng, hành động tùy tiện, vì tham cầu lợi dưỡng mà nói ta tọa thiền… thì người ấy phạm Thâu-lan-giá. Nếu tì-kheo có tội mà không chịu phát lồ, cũng không tự mình sửa đổi, dù chỉ che giấu chốc lát cũng đã phạm tội tăng tàn[75]. Nếu che dấu một ngày đến hai ngày, phải biết tì-kheo này chính là giặc, là la-sát trong loài người, sau này nhất định đọa vào đường ác và phạm tội nặng.
Nếu tì-kheo, tì-kheo ni thật chẳng thành tựu được phép quán xương trắng mà tự cho mình đã thành tựu, cho đến nói thành tựu được phép quán sổ tức thì người này đã dối gạt mê hoặc trời, rồng, quỉ thần v.v… Bọn người ác ấy là dòng họ ma Ba-tuần[76], vì đã nói dối. Nếu họ nói: ‘Ta chứng đắc được phép quán bất tịnh[77], cho đến phép quán đỉnh [78], [135c] thì sau khi chết, họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Ở trong địa ngục trải qua một kiếp, ra khỏi địa ngục rơi vào ngạ quỉ, trải qua thời gian tám trăm năm phải nuốt hoàn sắt nóng. Chịu khổ trong ngạ quỉ xong, lại đọa vào súc sinh, thân thường mang nặng chở nhiều, khi chết bị lột da xẻ thịt, trải năm trăm đời rồi mới được sinh lại làm người. Khi làm người thân thường mắc bệnh đui mù, câm ngọng, tàn tật đủ điều, chịu tất cả khổ như thế không thể kể xiết”.
Kinh Chính pháp niệm ghi:
Cam lộ hay độc dược,
Đều từ lưỡi mà ra,
Cam lộ là lời thật,
Độc dược là lời gian.
Nếu người cầu cam lộ,
Thì nên nói lời thật.
Nếu ai muốn độc dược,
Thì cứ nói chua ngoa.
Thuốc độc không giết người,
Nói dối ắt sẽ chết,
Như người luôn nói dối,
Thì giống như người chết.
Nói dối không lợi mình,
Lại càng không lợi người,
Mình và người không vui,
Cớ sao phải gian dối.
Nếu thật là người ác,
Thích nói lời dối gian,
Sẽ rơi trên đao lửa,
Khổ não vô cùng tận.
Độc hại tuy rất ghê,
Nhưng chỉ hại một thân,
Nghiệp ác của vọng ngữ,
Sẽ hại trăm nghìn đời.
Kinh Phật thuyết Tu-lại[79] ghi: “Đức Phật dạy: Nói dối không những tự lừa dối chính mình mà còn dối người. Người nói dối mắc quả báo thân thể hôi hám, lời nói và tâm ý của họ trái ngược nhau, làm cho tâm luôn bất an. Người nói dối lại mắc quả báo miệng hôi hám, thân hình xấu xí, thiên thần xa lánh. Người nói dối là tự đánh mất tất cả các thiện căn, bản thân mê muội quên mất đường lành. Vì thế, người nói dối là gốc của tất cả các việc ác, đoạn dứt hạnh lành và cuộc sống tĩnh lặng”.
Kinh Chính pháp niệm ghi: “Vua Diêm-la nói kệ quở trách tội nhân:
Lời thật được an vui,
Lời thật được niết-bàn,
Lời dối sẽ khổ đau,
Đời này và đời sau.
Nếu không bỏ nói dối,
Thì sẽ bị khổ đau.
Lời thật không cần mua,
Thật dễ được, chẳng khó,
Cũng không từ đâu đến,
Lại chẳng cầu xin ai,
Cớ sao phải xa lìa,
Ưa thích lời dối trá.
Người nói lời không thật,
Ấy là nhân địa ngục.
Nhân xưa vốn đã làm,
Than van có ích chi.
Lửa vọng ngữ mạnh nhất,
Thiêu đốt cả biển khơi,
Huống là đốt kẻ dối,
Giống như đốt cỏ cây.
Nếu người không nói thật,
Mà luôn nói dối gian,
Người ngu si như thế,
Bỏ ngọc ngà, ôm đá.
Nếu người không thương mình,
Mà thích vào địa ngục,
Lửa vọng ngữ nơi thân,
Lập tức đốt cháy hình,
Lời thật rất dễ được,
Trang nghiêm cho mọi người,
Mà lại bỏ lời thật,
Vì ngu, đến chỗ này.
Luận Đại trí độ ghi:
Lời thật là bậc nhất,
Là nấc thang lên trời,
Lớn nhỏ đều như nhau,
Nói dối địa ngục vào.
Luận Tát-bà-đa ghi: “Người không nói dối, khi thuyết pháp, luận nghị, dẫn giải nếu gặp những vấn đề không phân định được là phải hay trái thì không được tự cho mình là đúng mà phải chí thành học người, như vậy mới không mắc lỗi. Còn không thì cũng giống như búa nằm trong miệng”.
Luật Thập tụng ghi: “Như người cao sang quý phái, mà cho là hạng bần cùng hèn hạ, như người hai mắt cho là một mắt… tất cả những cách nói như thế đều gọi là vọng ngữ. Hoặc nói với người một mắt: ‘Ngươi là kẻ mù’… đều mắc tội khinh thường xúc phạm người khác”.
Chính báo tụng ghi:
Nói dối gạt gẫm người,
Địa ngục chịu tội khổ,
Cưa nóng xé thân hình,
Sắt đỏ cày trên lưỡi,
Đồng sôi lại rưới vào,
Chùy sắt nghiến tan thây,
Xương cốt nát đớn đau,
Kêu rên mãi chẳng ngừng.
Tập báo tụng ghi:
Nói dối đọa ba đường,
Chịu tội nơi ấy rồi,
Nghiệp còn, sinh làm người,
Bị chê bai buồn khổ,
Lại còn bị dối gạt,
Nóng giận như lửa đốt,
Người trí chẳng trách ai,
Vì biết rõ nhân quả.
XXIII.5. Nói lời hung ác
Ngọn lửa giận hờn của hàng phàm phu lúc nào cũng hừng hực, hễ gặp điều kiện liền bùng cháy, vấp phải nghịch cảnh liền nổi giận. Vì thế, chúng sinh hễ buông lời liền giận dữ, mở miệng đốt cháy lòng, làm tổn thương người khác, đau đớn hơn dao cắt. Người nào nói ra những lời lẽ như thế thì trái với thiện tâm của bồ-tát, ngược với lời dạy từ ái của Đức Phật.
Kinh Nghiệp báo sai biệt[80] có bài kệ:
Lời nói xúc não người,
Bới móc chuyện riêng tư,
Ngang bướng khó điều phục,
Làm quỉ đói ngậm lửa.
Luận Đại trí độ ghi: “Có một con quỉ đói, đời trước nó làm người, thường nói năng thô lỗ và hay dùng lời ác mắng nhiếc chúng sinh. Chúng sinh oán ghét người này, xem như kẻ thù. Vì nghiệp nói lời thô ác ấy nên sau khi chết người ấy bị đọa vào trong loài quỉ đói này”.
Kinh Pháp cú[81] ghi: “Dù làm sa-môn nhưng nếu không giữ thân, miệng mà cứ nói lời thô lỗ, làm tổn thương nhiều người, người ấy chẳng những không được mọi người kính mến mà những bậc có trí tuệ cũng không thương xót. Sau khi chết thần thức người ấy quanh quẩn mãi trong ba đường, sinh rồi chết, chết rồi sinh, chịu khổ vô cùng. Lại cũng chẳng được Phật và các bậc hiền thánh thương xót. Nếu chúng sinh dù thân không có lỗi, nhưng do không giữ gìn cẩn thận khẩu nghiệp thì cũng bị đọa vào đường ác”.
Luận ghi: “Bấy giờ có một con quỉ, đầu của nó giống như đầu heo, dòi từ trong miệng bò ra nhưng toàn thân lại có ánh sáng sắc vàng rực rỡ. Con quỉ này đời trước là một tì-kheo, vì dùng lời lẽ thô ác mắng nhiếc tì-kheo khác nên mắc quả báo bị trùng từ trong miệng bò ra, lại nhờ giữ giới nên thân có ánh sáng sắc vàng rực rỡ”.
Kinh Tăng nhất A-hàm ghi: “Thà dùng kiếm bén cắt đứt lưỡi mình, chớ đừng bao giờ nói lời thô lỗ mắng chửi, để phải bị đọa vào ba đường”.
Kinh Hộ khẩu ghi: “Vào thời quá khứ, có Đức Phật Ca-diếp xuất hiện ở đời, giảng nói giáo pháp. Khi việc giáo hóa đã hoàn mãn, Ngài vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, có một vị tam tạng tì-kheo, tên là Hoàng Đầu. Chúng tăng nói với Hoàng Đầu: ‘Tất cả các việc vụn vặt thầy khỏi phải làm, chỉ xin thầy lo giảng dạy diệu pháp cho hàng hậu học’.
Bấy giờ, tì-kheo Tam Tạng trong lòng khinh miệt nhưng không thể làm trái mệnh lệnh của tăng, bất đắc dĩ Hoàng Đầu phải diễn giảng nghĩa kinh cho hàng hậu học, nhưng trong lúc giảng kinh, ông lại gọi người học: ‘Kẻ đầu voi kia hãy tiến nhanh về phía trước!’. Cứ như thế lần lượt ông gọi người khác là đầu ngựa, đầu lạc đà, đầu heo, đầu dê, đầu sư tử, đầu hổ. Ông gọi những người nghe pháp bằng tên các loài thú như thế nhiều không sao kể hết.
Tuy Hoàng Đầu giảng dạy kinh điển, nhưng ông cũng không khỏi tội ấy. Sau khi qua đời, ông bị đọa vào địa ngục, [136c] trải qua mấy nghìn vạn kiếp chịu khổ vô cùng. Tội báo chưa hết nên từ địa ngục sinh vào trong biển lớn mang thân của loài ở nước. Một thân có một trăm đầu, hình thể to lớn vô cùng. Các loài khác trông thấy nó đều tránh xa”.
Kinh Xuất diệu[82] ghi: “Thuở xưa khi Đức Phật còn ở đời, tôn giả Mãn Túc đi vào cảnh giới ngạ quỉ, gặp một con quỉ hình thù xấu xí, ai thấy cũng phải rợn người kinh hãi. Thân nó tự nhiên bốc cháy phừng phừng giống như một đống lửa lớn, dòi trong miệng bò ra, máu mủ chảy tràn ra ngoài, hôi thối không sao đến gần được. Hoặc miệng nó phát ra lửa phun xa mười mấy trượng hoặc mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và các chi phóng ra lửa dữ xa mười mấy trượng. Môi miệng của nó lòng thòng giống như lợn rừng, thân lại dài rộng một do tuần. Nó lấy tay tát vào mặt rồi gào khóc thảm thiết, chạy rảo từ đông sang tây.
Tôn giả Mãn Túc thấy thế mới hỏi:
- Ngươi đã gây ra tội nghiệp gì mà nay phải chịu quả khổ này?
Quỉ đói thưa:
- Xưa kia tôi xuất gia, vì luyến tiếc phòng ốc, tham lam không xả bỏ; ỷ mình thuộc dòng dõi quý tộc nói năng thô lỗ, độc ác. Nếu thấy tì-kheo giữ giới, nỗ lực tu hành thì lại nhục mạ, hoặc trề môi, nheo mắt, hoặc nói ngược, nói xuôi, vì những nguyên nhân đó mà phải chịu quả báo khổ sở này.
Thế nên, thà lấy dao bén tự cắt đứt lưỡi mình trải qua nhiều kiếp chịu khổ, chớ đừng bao giờ mắng chửi, chê bai tì-kheo nỗ lực tu hành, giữ giới nghiêm mật.
Quỉ đói lại thưa với ngài Mãn Túc:
- Khi tôn giả trở về nhân gian nên đem hình ảnh của tôi mà răn nhắc các tì-kheo, khuyên mọi người nên giữ gìn lỗi lầm của miệng, chớ nói lời hư dối. Nếu thấy có người giữ giới thì nên khen ngợi công đức của người đó. Từ khi tôi mang thân quỉ đói này đến nay đã trải qua mấy nghìn vạn năm, luôn luôn chịu khổ sở như thế này. Vừa bỏ thân này thì ngay lập tức đọa vào địa ngục.
Quỉ đói nói như vậy rồi gào khóc thảm thiết và gieo mình xuống đất như núi Thái sụp đổ, như trời long đất lở”.
Những quả báo như thế đều do lỗi của miệng gây ra!
Kinh Bách duyên ghi: “Có người vợ của một ông trưởng giả, khi mang thai thân thể hôi hám không ai có thể đến gần. Đến kỳ khai hoa nở nhụy bà sinh ra một bé trai giống như bộ xương, gầy còm không ai dám nhìn; phân tiểu chảy ra khắp thân. Đứa bé mỗi ngày một lớn, nhưng nó không muốn ở nhà chỉ thích ăn phân nhơ, không cách nào bỏ được. Cha mẹ và những người thân đều chán ghét không muốn thấy nó nên cho nó ở riêng trong một ngôi nhà cách họ rất xa. Được tự do ở bên ngoài, đứa bé tha hồ mà ăn phân. Mọi người thấy vậy, gọi nó là Đạm-bà-la. Sau đó, đứa bé gặp được Phật xuất gia, tu hành chứng quả A-la-hán.
Nhân duyên là vào thời Phật Câu-lưu-tôn, đứa bé xuất gia, trụ trì một ngôi chùa. Bấy giờ, có Phật tử tại gia cúng dầu thơm để chúng tăng xoa thân sau khi tắm rửa. Trong chúng tăng có một vị đã chứng quả A-la-hán, vị trụ trì thấy vậy liền nổi giận mắng vị a-la-hán: ‘Ông là người xuất gia mà còn dùng dầu thơm xoa thân thể, [137a] thì chẳng khác gì dùng phân người bôi lên thân’.
A-la-hán cảm thương vị trụ trì nên thị hiện thần thông. Vị trụ trì thấy thế liền thành khẩn sám hối, mong trừ diệt được tội chướng.
Vì tạo nghiệp ác mắng chửi như thế nên vị trụ trì phải mắc quả báo trải qua năm trăm đời thân thường bị hôi thối, không ai dám gần gũi, nhưng nhờ thuở xưa xuất gia và đã tha thiết sám hối với vị a-la-hán nên nay được gặp Phật xuất gia chứng đắc đạo quả. Vì thế chúng sinh nên giữ gìn khẩu nghiệp, chớ có mắng chửi, nhục mạ người”.
Kinh Hiền ngu ghi: “Khi Phật còn tại thế, có lần Ngài cùng với các tì-kheo trên đường đi về thành Tì-xá-li, đến sông Lê-việt, Ngài thấy những ngư phủ bắt được một con cá có một trăm cái đầu và có tới năm trăm người cùng nhau kéo con cá lên bờ nhưng không sao kéo đựơc. Bấy giờ, có năm trăm người chăn bò bên bờ sông, họ đều thả bò và cùng nhau phụ kéo. Nhờ sức của một nghìn người hợp lại mới kéo được con cá lên bờ. Thấy con cá quái lạ, mọi người tranh nhau đến xem. Phật và các tì-kheo cũng đến. Đức Phật liền hỏi:
- Ngươi có phải là Ca-tì-lê không?
Con cá đáp:
- Thưa phải.
Ngài lại hỏi:
- Thầy của ngươi hiện đang ở đâu?
Con cá đáp:
- Thầy tôi đã bị đọa vào địa ngục A-tì rồi.
Lúc ấy, tôn giả A-nan chứng kiến và nghe qua câu chuyện, lấy làm lạ mới thưa Phật :
- Bạch Thế Tôn! Chuyện này là thế nào?
Phật bảo A-nan:
- Thuở xưa khi Phật Ca-diếp ra đời, có một người dòng dõi bà-la-môn, người này sinh được một người con trai, đặt tên là Ca-tì-lê. Ca-tì-lê thông minh, học rộng, nghe nhiều bậc nhất. Sau khi cha Ca-tì-lê qua đời, người mẹ hỏi:
- Nay con đã là bậc cao minh, thế gian này có ai biện luận thắng con không?
Người con thưa:
- Hàng sa-môn rất giỏi, con có nghi ngờ gì đến hỏi họ, họ đều giải thích cho con hiểu rõ. Ngược lại, nếu họ hỏi con, con không sao trả lời được.
Người mẹ hỏi con:
- Làm thế nào con có thể học được pháp của họ?
Người con thưa:
- Nếu muốn học pháp của họ thì phải là sa-môn. Chúng ta là hàng bạch y làm sao có thể học được?
Người mẹ bảo con:
- Nay con tạm giả làm sa-môn để học pháp của họ, khi nào học thành sẽ trở về nhà.
Người con nghe theo lời mẹ dạy giả làm tì-kheo. Trải qua một thời gian ngắn, người con học thông cả tam tạng và hoàn tục trở về nhà.
Người mẹ lại hỏi:
- Bây giờ con biện luận thắng họ chưa?
Người con thưa:
- Vẫn chưa thắng được họ.
Người mẹ lại bảo con:
- Từ nay trở về sau, mỗi khi đàm luận với họ, nếu không thắng thì con quay sang chửi mắng, làm như thế con sẽ thắng được họ. Người con nghe theo lời mẹ dặn. Sau đó, người con đàm luận với các tì-kheo bị thua, nhớ lời mẹ dặn, liền quay sang mắng các tì-kheo: ‘Các ông là những sa-môn ngu đần, không hiểu biết, đầu các ông như đầu thú’. Thế rồi, người con dùng đến cả trăm đầu thú để so sánh mắng chửi các tì-kheo. Do trước kia người con mắng nhiếc các tì-kheo như vậy nên nay mắc quả báo phải mang thân cá, một thân có một trăm đầu, đủ tất cả các loại đầu của các loại cầm thú như: đầu lạc đà, đầu lừa, đầu bò, đầu ngựa, đầu heo, đầu dê, đầu chó v.v…
Tôn giả A-nan hỏi Phật:
- Đến khi nào người con kia mới thoát khỏi thân cá này?
[137b] Đức Phật bảo A-nan:
- Trong kiếp Hiền, khi một nghìn Đức Phật xuất hiện và nhập diệt hết rồi kẻ ấy vẫn không thoát khỏi thân cá này.
Thế nên, mọi người phải hết sức thận trọng đối với ba nghiệp thân, khẩu và ý”.
Truyện về hành trình của Vương Huyền Sách ghi: “Khi còn ở đời, có lần Đức Phật đi đến thành Tì-da-lê, Ngài quán sát thấy tất cả chúng sinh chịu nhiều khổ não nên muốn cứu độ. Ngài lại thấy trong nước kia có hai nhóm Kê-việt-trá[83], tổng cộng năm trăm người đánh được một con cá lớn Ma-kiệt ở sông Bà-la-câu-mạt-để. Con cá có một trăm linh tám đầu, ba mươi sáu con mắt. Nó có nhiều đầu, hình thù giống với đầu của nhiều loại thú khác nhau như đoạn trước đã mô tả. Đức Phật nói pháp cho con cá nghe, cá liền xả báo thân ngay lúc đó và được sinh lên trời làm thiên tử. Sau đó, cá quán sát biết thân trước mình là một con cá lớn, nhờ nghe Phật thuyết pháp mà được sinh lên trời, nó mang tất cả các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, châu báu cõi trời trở lại nhân gian, đến cúng dường Phật. Bấy giờ, hai nhóm Kê-việt-tra chứng kiến đều sám hối lỗi lầm. Họ cùng nhau tiến về hướng bắc cách sông Bà-la-câu-mạt-để hơn một trăm bước đốt lưới, thiêu cá, lại dùng bình bằng đồng đựng hết tro tàn và chôn cất kĩ lưỡng. Đồng thời, họ xây dựng một ngôi bảo tháp ngay trên chỗ đức Phật đã nói pháp và dựng một bức tượng cao lớn cho đến nay vẫn còn. Tháp ấy được xây dựng đúng như pháp cho nên ai thấy cũng hài lòng”.
Kinh Bách duyên ghi: “Khi Đức Phật còn tại thế, bấy giờ vợ của vua Ba-tư-nặc là hoàng hậu Mạt-lợi phu nhân sinh được một công chúa tên là Kim Cương. Kim Cương vô cùng xấu xí, da dẻ sần sùi như da rắn; đầu tóc thô cứng như đuôi ngựa. Vua thấy vậy không vui, ra lệnh giam ở thâm cung không cho ra ngoài. Công chúa ngày một lớn và đã đến tuổi lấy chồng. Vì thế, vua sai một đại thần: ‘Khanh hãy đi tìm một người trước đây vốn thuộc dòng họ giàu có nhưng nay bị nghèo thiếu rồi dẫn người đó đến gặp trẫm’. Vị đại thần vâng lệnh vua tìm được một người như thế liền dẫn đến gặp vua.
Vua đưa người ấy đến chỗ vắng rồi nói nhỏ:
- Trẫm nghe khanh sinh ra trong dòng họ giàu có nhưng nay lâm vào cảnh nghèo thiếu, trẫm có một đứa con gái rất xấu xí, nếu khanh bằng lòng cưới nó làm vợ trẫm sẽ cung cấp tiền bạc châu báu cho khanh.
Người nghèo khổ liền quỳ xuống tâu vua:
- Giả sử đại vương ban cho thần một con chó, thần còn không dám trái ý, huống chi được đại vương ban cho thần con gái cưng của phu nhân Mạt-lợi!
Vua liền cử hành lễ cưới cho anh ta. Đồng thời cho xây dựng ngôi nhà có bảy lớp cửa và dặn người con rể: ‘Con phải giữ khoá cửa, khi ra lúc vào nhớ khoá thật kĩ, chớ để người khác trông thấy con gái trẫm’. Nhà Vua lại xuất tiền tài, vật báu cung cấp cho con rể, không để cho nó thiếu thốn thứ gì và phong cho làm đại thần.
Một thời gian sau, các nhà giàu có trong nước cùng nhau tổ chức yến tiệc. Theo quy định khi tham dự đại hội mỗi người phải dắt vợ đi cùng, nên tất cả mọi người ai cũng dắt vợ theo, riêng vị đại thần kia chỉ đến một mình. Mọi người lấy làm lạ và cho rằng: ‘Vợ của anh ta, hoặc là rất đẹp, hoặc là quá xấu, nên không dám xuất hiện trước mọi người vì thế chẳng đến dự hội’.
Đại hội hoàn mãn, mọi người cùng nhau phục rượu vị đại thần kia đến say, lăn ra ngủ. Họ tìm lấy chìa khoá cửa trong người anh ta rồi cử năm người đến nhà vị ấy xem thực hư thế nào. Khi năm người đến mở cửa nhà vị đại thần, người vợ đoán biết không phải chồng mình, [137c] nàng tự trách, buồn bã thầm nghĩ: ‘Đời trước ta tạo tội gì mà bị chồng giam cầm không thấy mặt trời, mặt trăng thế này?’. Nghĩ như vậy rồi, cô ta liền vọng hướng về Phật chí tâm đỉnh lễ và nguyện: ‘Xin Phật từ bi đến chỗ con, cứu giúp khổ nạn cho con!’. Phật biết ý nguyện của công chúa, Ngài bỗng từ dưới đất hiện ra trước công chúa. Ngài hiện tóc xanh, công chúa ngẩng đầu nhìn thấy đầu tóc của Phật sinh lòng tôn kính, vui mừng, vì thế, tóc của công chúa tự nhiên xanh óng. Dần dần Phật cho công chúa thấy mặt, công chúa càng vui vẻ hơn, nhờ vậy mặt mũi của công chúa tự nhiên xinh đẹp lạ thường; làn da sần sùi cũng tự nhiên biến mất. Cuối cùng Phật hiện toàn thân, công chúa nhìn thấy vui mừng vô cùng, vì thế mà thân thể trở nên đẹp, không khác gì tiên nữ.
Bấy giờ, Đức Phật nói các pháp yếu cho công chúa nghe. Nghe xong, công chúa liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Sau khi Đức Phật đi, năm người kia mở cửa vào nhà trông thấy một cô gái xinh đẹp tuyệt trần. Xem xong họ khóa cửa lại, trở về và để chìa khoá vào chỗ cũ.
Sau khi tỉnh rượu, người chồng trở về nhà, trông thấy vợ mình tự nhiên đẹp đẽ lạ thường. Anh ta vô cùng vui vẻ và hỏi vợ:
- Nàng là ai?
Người vợ trả lời:
- Thiếp là vợ của chàng đây.
Người chồng nói:
- Trước kia nàng xấu xí, vì sao nay lại đẹp đẽ thế này?
Người vợ trình bày lại mọi việc đã xảy ra cho chồng biết, rồi nói với chồng:
- Thiếp muốn gặp vua cha. Chàng hãy giúp thiếp thưa với phụ vương.
Người chồng vào cung tâu với vua:
- Nay công chúa muốn đến ra mắt bệ hạ.
Vua nói với con rể:
- Đừng bao giờ đề cập đến việc này! Hãy mau mau giam vợ ngươi lại, chớ để nó ra ngoài.
Người con rể tâu với vua cha:
- Nương tử của con nhờ oai thần của Phật mà nay được đẹp đẽ chẳng khác gì tiên nữ.
Vua nghe như thế liền sai người đến đón con gái mình về cung. Thấy con xinh đẹp lạ thường, vua vui sướng vô cùng.
Sau đó, vua dẫn công chúa đến gặp Phật và bạch:
- Không biết công chúa đời trước gieo trồng phúc đức gì mà được sinh vào dòng họ giàu sang, nhưng lại xấu xí như thế?
Đức Phật nói:
- Vào thời quá khứ, ở nước Ba-la-nại có một trưởng giả thường cúng dường cho một vị bích-chi phật nhưng vị bích-chi phật này có thân hình rất xấu xí. Con gái của trưởng giả thấy vị bích-chi phật xấu xí, cô cười chê: ‘Người gì đâu mà da dẻ sần sùi xấu xí thế này!’. Vì khinh chê vị bích-chi phật nên nay công chúa mắc phải quả báo như vậy.
Khi sắp nhập niết-bàn, bích-chi phật liền hiện mười tám món thần biến. Người con gái thấy rồi tự trách mình, khẩn thiết cầu xin sám hối. Vì thuở xưa chê cười bích-chi phật nên cô gái thường bị quả báo thân hình xấu xí. Do biết ăn năn sám hối kịp thời nên nay thân hình đẹp đẽ trở lại. Do cô gái có tâm cúng dường nên dù sinh ở đâu cũng được làm người tôn quý, giàu có, vui sướng”.
Kinh Hưng khởi hạnh ghi: “Thuở quá khứ, Đức Thích-ca vì dùng lời ác mắng Đức Ca-diếp: ‘Sa-môn đầu trọc ngu đần ấy làm gì có Phật đạo’. Vì thế nên kiếp sau cùng, trong sáu năm, mỗi ngày Ngài chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo hay hạt đậu lớn. Khổ hạnh như thế”.
[138a] Kinh Tu hành đạo địa[84] có bài kệ ghi:
Tính ngông hay nói càn,
Thô tháo không mềm mại,
Đến đây lại nói kia,
Chẳng nghĩ lợi cho người.
Lời nói không rõ ràng,
Trong tâm nghĩ kế độc,
Như lửa dưới tro tàn,
Người đạp sẽ phỏng chân.
Hay nói lời nhỏ nhẹ,
Thuận theo ý của người,
Nói, làm luôn đi đôi,
Không tổn hại người khác,
Như hoa đẹp trên cây,
Ắt sẽ cho trái ngọt.
Như lời dạy của Phật,
Tâm miệng thường hợp nhau.
Kinh Bách duyên ghi: “Lúc Đức Phật còn ở đời, bấy giờ trong thành Vương Xá có một trưởng giả giàu có, tiền tài của báu nhiều không sao tính kể. Vợ trưởng giả mang thai đủ mười tháng, đến ngày khai hoa nở nhụy, bà chuyển bụng, nhưng không sinh được.
Sau đó, vợ trưởng giả lại mang thai, đủ mười tháng, sinh được một người con nhưng thai nhi mang lần đầu tiên vẫn còn nằm bên hông phải. Theo thứ tự như thế, bà mang chín lần, lần nào cũng tròn mười tháng là sinh con. Chỉ riêng thai nhi đầu tiên cứ nằm hoài trong bụng mẹ.
Một hôm, vợ trưởng giả bị bệnh nặng, mặc dù đã dùng nhiều loại thuốc để chữa trị nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm. Biết là hết cách, bà dặn người nhà: ‘Đứa con trong bụng tôi vẫn còn sống. Nếu tôi qua đời, mọi người nhất định phải mổ bụng tôi để cứu lấy đứa con và nuôi dưỡng nó’.
Bấy giờ, người mẹ không thể vượt qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo và đã qua đời. Thế là những người thân đem thi thể của bà bỏ ngoài bãi tha ma, và mời thầy thuốc Kỳ-bà mổ bụng ra xem. Quả nhiên họ thấy có một bé trai, thân hình rất nhỏ mà râu tóc bạc phơ. Nó lom khom bước đi, ngoái nhìn bốn phía và nói với những người thân: ‘Các người biết không! Vì đời trước tôi dùng lời độc ác mắng nhiếc, nhục mạ chúng tăng nên nay mắc quả báo ở trong bào thai, trải qua sáu mươi năm chịu khổ sở như thế, khó có thể nói cho hết được’.
Những người thân nghe đứa bé nói, tất cả đều khóc, nghẹn ngào không nói nên lời.
Bấy giờ, Đức Phật từ xa biết được đứa bé này thiện căn đã thuần thục. Ngài cùng các tì-kheo đi đến chỗ tử thi và hỏi đứa bé:
- Ngươi có phải là trưởng lão tì-kheo không?
Đứa bé thưa:
- Dạ phải.
Đức Phật hỏi lần thứ hai, thứ ba, đứa bé vẫn nói ‘Phải’.
Các tì-kheo đi theo Đức Phật, chứng kiến cuộc đối đáp như vậy, lấy làm lạ, liền bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Đứa bé này đời trước tạo nghiệp gì mà nay phải chịu quả báo ở trong bụng mẹ, đầu tóc bạc phơ, lom khom bước đi, lại cùng với Như Lai đối đáp như thế?
Đức Phật nói với các tì-kheo:
- Trong kiếp Hiền, có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp.[138b] Bấy giờ vào mùa hạ, chúng tăng an cư. Mọi người đều nhất trí sai một vị tì-kheo già làm duy-na cho tăng. Đồng thời đặt ra quy định: ‘Trong mùa an cư, người nào đắc đạo mới cho phép cùng chúng tăng tự tứ; nếu ai chưa đắc đạo thì không cho phép tự tứ’. Lúc ấy, chỉ có một mình thầy duy-na kia không đắc đạo, nên tăng không cho phép bố-tát, tự tứ. Vì đó, lòng ông ta buồn bã, bực tức nói: ‘Tôi trông coi công việc của tăng để các ông an ổn tu hành, vậy mà nay trở mặt không cho tôi tham dự tự tứ, bố-tát, yết-ma’.
Thế là, vị duy-na nổi giận mắng chửi chúng tăng. Chúng tăng liền bắt ông giam vào trong phòng tối. Ông càng bực tức mắng: ‘Tôi sẽ làm cho bọn các ông ở trong chỗ tối tăm, mù mịt không thấy ánh sáng, giống như nay các ông giam tôi trong nhà tối!’.
Nói xong ông tự kết liễu đời mình. Sau khi chết liền bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng, mãi đến nay mới thoát khỏi, nhưng vẫn phải mắc quả báo ở trong bào thai chịu khổ như thế.
Chúng tăng nghe Đức Phật dạy rồi, mọi người tự giữ gìn ba nghiệp, nhàm chán đường sinh tử. Có người chứng được bốn quả Sa-môn; có người phát tâm cầu chứng quả Bích-chi Phật; có người phát tâm cầu chứng quả Vô thượng bồ-đề.
Thế rồi, trưởng giả đem đứa bé về nhà nuôi dưỡng. Đứa bé ngày một lớn khôn, họ cho đứa bé theo Phật xuất gia, tu tập và chứng quả A-la-hán.
Phật bảo các tì-kheo:
- Vì trong quá khứ người ấy từng cúng dường chúng tăng và làm duy-na trông coi công việc của tăng nên nay mới được gặp Phật, xuất gia, chứng quả.
Các tì-kheo nghe Đức Phật dạy rồi, vui vẻ làm theo”.
Bài kệ tụng về chính báo ghi:
Lời ác như tên độc,
Người trúng bị tổn thương,
Cửa ngục mở đang chờ,
Rơi vào chảo nước sôi,
Cắt lưỡi buộc phải ăn,
Đau khổ không kể xiết.
Nếu không có lợi ích,
Sao chẳng phòng lời nói?
Bài kệ tụng về Tập báo ghi:
Lời ác xúc phạm người,
Bị địa ngục thiêu đốt,
Nếu sinh lại làm người,
Thường nghe lời đay nghiến.
Giả như có luận bàn,
Bị người thêm hờn oán,
Cam tâm chịu quả báo,
Bỏ ác thiện tự nhiên.


Chú thích:
[29] Sáu nẻo (lục đạo 六道): theo đạo Phật, chúng sinh tùy theo nghiệp thiện hay ác của mình mà luân chuyển trong sáu đường như trời, người, a-tu-la, ngạ quỉ, súc sinh, địa ngục.
[30] Vua Ngụy (ngụy quân 魏君): tức Ngụy Văn Hầu, vị vua khai quốc vào thời Chiến quốc.
[31] Minh châu 明珠: viên ngọc sáng.
[32] Vòng ngọc (bạch hoàn 白環): vòng ngọc màu trắng.
[33] Trân bảo 珍寶: chỉ chung cho ngọc ngà, đá quí.
[34] Cự khuyết 巨闕: tên của một thanh kiếm thời xưa.
[35] Can tương 干將: tên một thanh kiếm. Vào thời Xuân Thu, thời nhà Ngô có người đúc kiếm rất giỏi, tên là Can Tương, nên người ta lấy tên ông đặt cho tên kiếm.
[36] Ô hiệu 烏號: cây cung. Thuở xưa có một loại cây tên là cây tang, cây chá rất cứng chắc, chim đậu trên đó, mỗi khi sắp bay, cành cây nhún xuống, nhưng không gãy, người ta thường chặt cành cây này để làm cung. Nhân đó gọi là cung ô hiệu.
[37] Phồn nhược 繁弱: tên của một cây cung tốt thời xưa.
[38] Truyền tín (nguyên âm: đãi tín 待信): chờ đợi tin tức một người nào, hay một việc gì.
[39] Hiễm Duẫn 獫狁: tên của một dân tộc ít người ở phương bắc thời cổ đại nước Trung Quốc.
[40] Nhi 陑: tên một ngọn núi thời cổ, nay thuộc huyện Vĩnh Tề, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.
[41] Mục Dã 牧野: là nơi nhà Thương và đồng minh nhà Chu đánh nhau vào năm 1045 trước CN. Nhân lúc chính trị nhà Thương rối loạn, nhà Chu và một số đồng minh tiến đánh tiêu diệt. Họ đánh thắng và bắt giết vua nhà Thương ở trận Mục Dã.
5 Xích Bích 赤壁: là một trận đánh lịch sử thời Tam Quốc, một trận đấu có sự quyết định đến vận mệnh của cả hai nước Đông Ngô và Tây Thục.
[43] Ô Giang 烏江: tên một con sông ở phía đông bắc huyện Hòa, tỉnh An Huy, Trung Quốc. Hạng Vũ đóng quân ở Cai Hạ, bị quân Hán bao vây, ông khẳng khái hát một bài ca, rồi nhảy xuống sông tự vận.
[44] Vương Mãng 王莽(45BC-23CN): Vương Mãng tự là Cự Quân, người thành Nguyên, là Đại tư mã, phò tá Bình đế nhà Hán. Đến năm Ất Sửu niên hiệu Khai Thỉ thứ 5, Bình đế băng, Mãng lập cháu bốn đời của Tuyên đế lên ngôi hiệu là Nhụ Tử, Mãng làm thừa tướng ba năm, đến năm thứ 17, Mãng bị cháu bảy đời của Cảnh đế tên là Lưu Huyền tự là Thánh Công giết.
[45] Đổng Trác 董卓: một vị quan nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, sống cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc. Đổng Trác tên chữ là Trọng Dĩnh, người huyện Lâm Thao, quận Lũng Tây (nay là huyện Mân, tỉnh Cam Túc).
[46] Vân kỳ 雲旗: lá cờ lớn có vẽ các đồ hình gấu và cọp.
[47] Bốn đường (tứ thú 四趣): bốn nơi khổ não mà chúng sinh tạo nghiệp ác phải sinh về. Đó là a-tu-la, súc sinh, ngạ quỉ, địa ngục.
[48] Tăng-man vật 僧鬘物: chỉ cho vật cúng trực tiếp. Xưa cho “tăng-man vật” là hoa quả.
[49] Năm tội nghịch (ngũ nghịch 五逆): giết cha, giết mẹ, giết a-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng.
[50] Bốn tội nặng (tứ trọng 四重): sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ.
[51] Kiếp Hiền (Hiền kiếp 賢刧): trong kì kiếp này, có rất nhiều vị thánh, hiền ra đời. Vì vậy nên gọi là kiếp Hiền.
[52] Chiêu-đề tăng 招提僧 (S: catur-diśa): những vị tăng nay đây mai đó, hoằng hóa bốn phương không ở một nơi cố định.
[53] Bát bội xả 八背捨 (S: aṣṭau vimokṣāḥ; Cg: bát giải thoát): tám pháp môn thực hành thiền quán từ cạn vào sâu, nương vào tám môn thiền định này có thể đoạn được phiền não trong tam giới, chứng quả giải thoát nên gọi là bát giải thoát. Gọi là bát bội xả vì nương vào tám môn thiền định này có thể xả bỏ cảnh ngũ dục và xa rời tâm chấp trước nên có tên này.
[54] A-lan-nhã 阿蘭若 (S: araṇya): nơi núi rừng u tịch, hay đồng ruộng hoang vắng; hoặc nơi sông đầm tĩnh mịch, cách li thôn ấp, thành thị một câu-lư-xá hay nửa câu-lư-xá.
[55] Tứ ách 四扼 (S: Catvāro yogāḥ): chỉ cho bốn thứ phiền não trói buộc chúng sinh trong ba cõi mà không thể thoát li. Một, dục ách: chỉ cho thứ phiền não khiến chúng sinh thường phải chịu khổ trong cõi dục; hai, hữu ách: chỉ cho phiền não thường khiến chúng hữu tình phải chịu khổ trong hai cõi Sắc và Vô sắc; ba, kiến ách: chỉ cho phiền não kiến, thường khiến cho chúng sinh phải chịu khổ trong ba cõi; bốn, vô minh ách: chỉ cho phiền não si, khiến cho chúng sinh phải chịu khổ trong ba cõi.
[56] Phát thẻ (hành trù 行籌): phát thẻ đếm số thứ tự để biết số lượng của chư tăng trong buổi họp.
[57] Luận Thành thật (Thành thật Luận 成實論; S: Satyasiddhi-śāstra): luận, mười sáu quyển hoặc hai mươi quyển, do ngài Ha-lê-bạt-ma soạn, ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào khoảng năm 411-412 đời Diêu Tần, được xếp vào Đại chính tạng, tập 32. Đây là kinh điển căn bản của tông Thành Thật.
[58] Y phấn tảo (phấn tảo y 糞掃衣; S: su-kūla): là loại áo rách, vải vụn mà người ta vứt bỏ ở bãi rác, nghĩa địa…, được đem về giặt sạch may thành.
[59] Bao Tự 褒姒: người đẹp Trung Quốc thời nhà Chu.
[60] Lệ Cơ 麗姬: mĩ nhân của Trung quốc, sắc đẹp của bà đã làm say đắm Tấn Hiến công đến nỗi phải bị mất nước.
[61] Độc giác 獨角: vị tiên một sừng có pháp thuật làm hạn hán, đã bị một kỹ nữ lập mưu cưỡi cổ dẫn về triều đình.
[62] Thuật-già-bà 述伽婆: câu chuyện về chàng trai đánh cá.
[63] Quán giải 觀解: quán sát tư duy về chân lí mà được tỏ ngộ. Đại thừa Nghĩa chương ghi: “Khởi sự thực tập quán giải có thể chế phục phiền não”
[64] Phục đoạn 伏 斷: chế phục hoặc nghiệp, khiến tạm thời không khởi gọi là phục hoặc; Đoạn tuyệt nhân hoặc khiến cho mãi mãi không sinh gọi là đoạn hoặc.
[65] Quán hạnh 觀行: thực hành theo sự quán chiếu của tâm gọi là quán hạnh. Tức tâm quán lý còn thân thì như lý ấy mà thực hành.
[66] Lục trần 六塵: chỉ cho sáu cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Sáu cảnh này thâm nhập vào tâm thông qua sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý làm cho ô nhiễm nên gọi là trần, nó thường cướp mất thiện tâm của chúng sinh nên còn gọi là giặc.
[67] Chiên-đà-la 旃陀羅 (S: caṇḍāla): giai cấp thấp hèn nhất trong bốn giai cấp của Ấn Độ. Ở đây ý nói thân ngũ ấm thật nhơ bẩn thấp hèn không nên thương yêu chiều chuộng mà nên phát tâm chán xa.
[68] Lạc Xuyên 洛川: tên một con sông, nay thuộc tỉnh Hà Nam.
[69] Trần Vương 陳王 (Cđ: Trần Tư Vương): con thứ hai của Tào Tháo, rất giỏi về văn thơ. Khi đi qua sông Lạc, ông gặp mĩ nhân, nên phải dừng chân lại.
[70] Hán Khúc 漢曲: vùng có khúc quanh ở núi Hán Cao. Núi này ở Hồ Bắc, phía tây bắc Nhương Dương.
[71] Giao Phủ 交甫: Trịnh Giao Phủ, lúc dạo chơi dưới khúc quanh của núi Hán Cao, ông gặp hai mĩ nhân rồi cùng nhau du sơn ngoạn thủy và được hai mĩ nhân này tặng đồ trang sức.
[72] Trên đỉnh Vu sơn mượn mây mưa để đến đi (Vu sơn đài thượng thác vân vũ dĩ khứ lai 巫山臺託雲雨以去來): trong bài tựa “Cao đường phú” của Tống Ngọc thời Chiến Quốc ghi: ”Thưở xưa, tiên vương thường dạo chơi ở Cao Đường, đêm mộng thấy người con gái đẹp đến nói: ‘Thiếp là con gái của núi Vu, là khách của cao đường, nghe bệ hạ dạo chơi ở đây, nên đến cùng nhau chăn gối’. Tỉnh mộng, vua rất vui mừng, trở về ghi lại giấc mộng thành thơ”.
[73] Hàn Thọ 韓壽 (Cg: Lưu Nghĩa Khánh): người đời Tống, rất khôi ngô tuấn tú. Khi ông tư thông với người phụ nữ tên là Giả Sung, bà ta có mùi hương lạ, mùi hương này dính trên người ông, trải qua một tháng vẫn còn. Con gái của bà ta lén trộm mùi hương và đến với Hàn Thọ. Giả Sung ngửi được mùi hương ấy, liền tìm hiểu sự việc. Thế là Giả Sung gả con gái cho ông ta. Nhân đó người đời lấy từ “Giả Sung hương” để biểu hiện hương tình giữa nam và nữ.
[74] Tương Như 相如 (Gđ: Tư Mã Tương Như): một nhà văn nổi tiếng đời nhà Hán.
[75] Tăng tàn 僧殘 (S: saṃghāvaśeṣa): tội nặng thứ hai trong năm thiên bảy tụ. Vị tăng phạm tội này thì pháp mạng sắp hết, chỉ còn sót lại ít, như người bị chém sắp chết, chỉ còn hơi thở thoi thóp.
[76] Ma ba-tuần 魔波旬 (S: Màrapapiyan): tên gọi khác của Ma vương.
[77] Quán bất tịnh (bất tịnh quán 不淨觀; S: a-śubhā-smṛti): phép quán bất tịnh là một trong năm phép quán của “Ngũ đình tâm quán”. Bất tịnh quán có hai cách: quán sự bất tịnh ngay trên thân mình; quán sự bất tịnh trên thân người khác.
[78] Đỉnh pháp 頂法 (Cg: đỉnh vị; S: mūrdhāna): một trong bốn thiện căn. Hai thiện căn noãn và đỉnh trong bốn thiện căn gọi là động thiện. Hai thiện căn nhẫn và thế đệ nhất gọi là bất động thiện. Ngôi này cao nhất trong động thiện, ví như đỉnh đầu là cao nhất trong con người nên gọi là đỉnh pháp.
[79] kinh Phật Thuyết Tu-lại (Phật thuyết Tu-lại kinh 佛說須賴經; S: Sūrata-paripṛcchā): kinh, một quyển, do ngài Bạch Diên người nước Ngụy, sống vào đời Tam Quốc dịch; được xếp vào Đại Chính tạng, tập 12. Nội dung kinh này thuật chuyện trong thành Xá-vệ của Ấn Độ cổ có một người bần cùng tên Tu-lại, đức hạnh ưu việt, giữ gìn giới luật kiên cố và tu pháp Thập thiện.
[80] Kinh Nghiệp báo sai biệt (Nghiệp báo sai biệt kinh 業報差別經): kinh, một quyển, do ngài Cù Đàm Pháp Trí đời Tùy dịch. Nội dung nói về việc Đức Phật đã giảng cho trưởng giả Thủ-ca biết tất cả chúng sinh đều bị trói buộc vào nghiệp, đều nương theo nghiệp, tùytheo nghiệp mà chuyển vần .
[81] Kinh Pháp Cú (Pháp cú kinh 法句 經, S: Dhammapada): kinh, hai quyển, ba mươi chín phẩm, bảy trăm năm mươi hai bài tụng, do ngài Pháp Cứu, người Ấn Độ soạn, ngài Duy-kì-nan nước Ngô dịch vào thời Tam Quốc, được xếp vào Đại Chính tạng, tập 4. Nội dung gom góp những bài kệ do Đức Phật nói trong các kinh mà biên tập thành.
[82] Kinh Xuất diệu (Xuất diệu kinh 出曜經): kinh, ba mươi quyển, tôn giả Pháp Cứu soạn, Trúc Phật Niệm dịch vào đời Diêu Tần.
[83] Kê-việt-trá 鷄越吒: (Cg: Li-xa-bì; S: Licchavi, Lecchavi): chủng tộc Sát-đế-lợi ở thành Tì-xá-li thuộc miền Trung Ấn Độ, là một bộ phận của chủng tộc Bạt-kì.
[84] Kinh Tu hành đạo địa (Tu hành đạo địa kinh 修行道地經): kinh, bảy quyển, ba mươi phẩm, do sa-môn Chúng Hộ soạn, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch. Nội dung nêu rõ pháp tướng của ngũ ấm và hành pháp tam thừa.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 20 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Đại Bát Niết-bàn - Tập 2


Kinh Di giáo


Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ


Rộng mở tâm hồn và phát triển trí tuệ

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.128.31.194 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập