Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phàm viên thành Chánh Giác, hết bể trí dùng vô phương khắp ứng các cơ. Phá núi mê phải có đường, lời từ diễn khắp, người được nghe đạo chứng tam không, diệu nghĩa đều phân, người vào tín tâm hiểu rõ ràng tám đế. Ra đốn tiệm của 5 thừa, tiếp thánh phàm hai loại. Người biết đạo liền đến nước Thường Lạc, người mê ý chỉ đó vĩnh viễn chìm trong cõi luân hồi. Vì thế, Đức Như Lai tùy theo căn cơ trao cho pháp tu chính yếu, chỉ thẳng Tây Phương, mở pháp môn Cực Lạc hiển bày danh hiệu của A Di Đà Phật. Vì thế, người Trời cùng chiêm ngưỡng, Phàm và Thánh đồng về, vào bến chính của Tịnh Độ, chứng con đường thẳng tắt vào Niết Bàn tánh tịnh. Hành môn của Tịnh độ rất đơn giản mà công đức thậm thâm, từ xưa các bậc danh hiền đều y theo pháp môn Niệm Phật. Đại sư Huệ Trì, Huệ Viễn khi thọ chung báo có nghinh tiếp đầy cả hư không. Đại Sư Đạo Xước, Đạo Trân khi mạng chung nhạc trời đón tiếp về Tây Phương Cực Lạc. Hoặc nam hoặc nữ niệm Phật có thoại ứng không thể kể xiết, hoặc Tăng hoặc Ni niệm Phật Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn lớp lớp không cùng. Truyện ký đã ghi rõ ràng, đây không chép. Nay tấm gương soi của người niệm Phật này là chiếu sáng các vấn đề của người Niệm Phật, dứt hết các nghi. Người y theo đây tu hành chắc thoát khỏi khổ luân hồi, so sánh để dứt hết các nghi, dùng thánh giáo để minh chứng, không đâu rõ ràng bằng Kính Niệm Phật. Để người Niệm Phật hiểu rõ, tạm lập 11 chương để giải thích. Chương Một
Khuyến Tấn Niệm Phật
Phật là Đại Sư của Tam giới, từ phụ của bốn loài, người quy tín đó thì diệt tội hằng sa, người xưng niệm đó thì được phước vô lượng. Phàm muốn niệm Phật, cần phải khởi lòng tin, nếu người không tin thì không thể thu hoạch được, cho nên trong Kinh nói: Lòng tin là bước đầu vào đạo, những hàng trí giả dùng phương chước mầu nhiệm cứu kính, trước hết cũng phải dùng lòng tin rồi sau đó mới vâng làm. Nên Kinh A Di Đà nói: "Nếu có người tin cần phải phát nguyện sanh về quốc độ kia." Đây là lời khuyên tin của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Trong Kinh ấy cũng nói: "Các ông cần phải tin đây là lời khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Chư Phật trong sáu phương đều khuyên tin". Trong Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Tùy thuận theo Kinh, năng dùng lòng tin mà được vào". Luận Thập Trụ nói: "Nếu người gieo căn lành có lòng nghi thì hoa không nở, lòng tin thanh tịnh thì hoa liền nở liền được thấy Phật". Thật vậy, người không có lòng tin như bánh xe không có chốt không thể đi xa. Người có lòng tin thì lời nói có lý đúng, lý đúng là đạo thành. Triệu Pháp Sư dạy: Người không có lòng tin không thể truyền. Đại Hạnh Hòa Thượng nói: "Pháp môn niệm Phật không hỏi đạo, tục, nam, nữ, sang, hèn, giàu, nghèo chỉ có đủ lòng tin là có thể vào đạo."
Hỏi: Đã nói về lòng tin, vậy xin hỏi phải tin pháp gì?
Đáp: Người có lòng tin, y theo Kinh nói: Tin niệm Phật được sanh Tịnh Độ, tin niệm Phật chắc được diệt tội, tin niệm Phật chắc được Phật chứng, tin niệm Phật chắc được Phật gia hộ, tin niệm Phật đến khi lâm chung Phật tự đến rước. Tin niệm Phật bất cứ ai có lòng tin đều được vãng sanh, tin niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ chắc được 32 tướng tốt, tin niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ chắc được ở vị bất thối, tin niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ chắc được vui vẻ trang nghiêm, tin niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ chắc được sống lâu vô lượng, tin niệm Phật sanh Tịnh Độ cùng các Bồ Tát là bạn lữ, tin sanh về Tịnh Độ liền không rời Phật, tin sanh về Tịnh Độ hoa đài hóa sanh, tin Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp, tin sanh về Tịnh Độ không đọa tam đồ. Sở dĩ dạy Niệm Phật, vì căn cứ vào Quán Kinh, niệm Phật một niệm chắc diệt được trọng tội sanh tử 80 ức kiếp, lại được vi diệu công đức 80 ức kiếp, đây là chỗ sáu phương Chư Phật khuyên tin. Hòa Thượng Đại Hạnh dạy người niệm Phật, tâm chỉ tin Phật, Phật liền biết vì Phật có tha tâm thông, miệng xưng Phật, Phật nghe được vì Phật có thiên nhĩ thông, thân lễ kỉnh Phật, Phật liền thấy được vì Phật có thiên nhãn thông, đây là chỗ khuyên tin niệm Phật của Hòa Thượng Đại Hạnh.
Lòng tin cũng như người gieo hạt cây thật sâu, gốc cây chắc, nên gió thổi không động, cuối cùng có trái tốt giúp người hết đói khát. Người niệm Phật cũng như thế, chỉ cần có lòng tin sâu, được đến Tây Phương, thành Đẳng Chánh Giác, rộng giúp các nguy ách, nếu người không có lòng tin dù vào kho báu cũng chỉ tay không, chẳng được vật gì! Cho nên trong Kinh nói: "Bồ tát Thập Trụ khởi lòng tin niệm Phật, về sau dù gặp duyên ác phải tan thân mất mạng, thà phải chịu chết vẫn không mất lòng tin." Nên Kinh Duy Ma nói: "Tin sâu bền chắc cũng như kim cương, pháp báu chiếu khắp như mưa cam lồ, nên người niệm Phật cần phải tin sâu."
Luận Vô Thượng Thọ nói: Niệm Phật có 5 môn, vì sao gọi là năm? 1- Lễ Bái Môn là thân nghiệp chuyên lễ Phật A Di Đà. 2- Tán Thán Môn là khẩu nghiệp chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà. 3- Tác Nguyện Môn là chỗ có công đức lễ niệm chỉ muốn cầu sanh về thế giới Cực Lạc. 4- Quán Sát Môn là đi đứng ngồi nằm chỉ quán sát Phật A Di Đà mau sanh Tịnh Độ. 5- Hồi Hướng Môn là chỉ công đức niệm Phật, lễ Phật chỉ nguyện sanh Tịnh Độ, mau thành Vô Thượng Bồ Đề. Đây chính là Pháp môn Niệm Phật chính yếu trong Kinh Vô Lượng Thọ.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói: "Người niệm Phật có 4 pháp tu hành. Vì sao gọi là 4 pháp tu? 1- Trường Thời Tu là một khi phát tâm niệm Phật liên tục thẳng đến được sanh Tịnh độ thành Phật trọn không lui sụt. 2- Cung Kính Xứ Tu là chính hướng Tây Phương chuyên tưởng không dời đổi. 3- Vô Gián Tu là chỉ chuyên Niệm Phật, không có những tạp thiện khác làm gián đoạn và cũng không có tham sân si tạp ác làm gián đoạn Niệm Phật. 4- Vô Dư Tu là không có thêm các thứ tạp thiện làm gián đoạn niệm Phật. Vì sao? Vì tạp thiện tu hành nhiều kiếp khó thành vì tự lực. Còn người niệm Phật 1 ngày đến 7 ngày liền sanh về Tịnh Độ, ở vị Bất Thối, mau thành vô thượng Bồ Đề, nương theo bản nguyện lực của Phật A Di Đà nên mau được thành tựu, nên gọi là Vô Dư Tu.
Căn cứ vào Quán Kinh khuyên người niệm Phật phẩm Thượng vãng sanh có nói: "Nếu có chúng sanh nào nguyện sanh về nước kia phải phát khởi ba thứ tâm liền được vãng sanh. Vì sao gọi là ba thứ? 1- Chí Thành Tâm: Hành giả thân nghiệp chuyên lễ Phật A Di Đà, khẩu nghiệp chuyên xưng Phật A Di Đà, ý nghiệp chuyên tin Phật A Di Đà cho đến vãng sanh Tịnh Độ thành Phật, không sanh lòng thối chuyển gọi là chí thành tâm. 2- Thâm Tâm là chân thật khởi lòng tin, chuyên niệm danh hiệu Phật, thề sanh Tịnh Độ, lấy thành Phật làm kỳ, hoàn toàn không còn khởi nghi hoặc nên gọi thâm tâm." 3- Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm là chỗ có công đức lễ niệm chỉ nguyện vãng sanh Tịnh Độ, mau thành vô thượng Bồ Đề nên gọi là hồi hướng Phát Nguyện Tâm. Đây là pháp thượng phẩm vãng sanh.
Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: "Không quán tướng mạo, chuyên xưng danh hiệu là thực hành Nhất hạnh Tam muội. Muốn mau được thành Phật cũng nên thực hành nhất hạnh tam muội này. Muốn đủ Nhất Thế Chủng Trí cũng nên thực hành Nhất hạnh Tam muội này. Muốn được thấy Phật cũng nên thực hành nhất hạnh tam muội này. Muốn được sanh Tịnh Độ cũng nên thực hạnh nhất hạnh tam muội này." Đây chính Kinh Văn Thù Bát Nhã chỉ Pháp niệm Phật vãng sanh.
Kinh A Di Đà nói: "Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào nghe nói Phật A Di Đà rồi gìn giữ danh hiệu hoặc 1 ngày, hoặc 2 ngày cho đến 7 ngày một lòng không loạn, người ấy khi mạng sắp lâm chung, Phật A Di Đà cùng các thánh chúng hiện ra trước người ấy, người ấy khi lâm chung tâm không điên đảo liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà." Đây là Pháp Niệm Phật vãng sanh của Kinh A Di Đà.
Hỏi: Nếu niệm Phật 1 ngày được vãng sanh về Tịnh Độ cần gì đến 7 ngày?
Đáp: Nói một ngày cho đến 7 ngày đều là chỉ thời gian lâm chung vãng sanh tịnh độ, mau thì 1 ngày, chậm thì 7 ngày đây là phương thượng phẩm vãng sanh trong Kinh A Di Đà. Trong Quán Kinh nói: "Hạ Phẩm hạ sanh hoặc có chúng sanh tạo pháp chẳng lành như ngũ nghịch, thập ác, những người ngu này, vì ác nghiệp nên phải đọa vào ác đạo, trải qua nhiếu kiếp chịu khổ vô cùng. Người này khi mạng chung gặp thiện tri thức dạy niệm danh hiệu Phật A Di Đà mười niệm trừ tội được vãng sanh. Đây là pháp vãng sanh của người bậc hạ hạ. Kinh Vô Lượng Thọ nói cho đến một niệm liền được vãng sanh Tịnh độ. Đây là Pháp vãng sanh của Bậc Hạ.
Hỏi: Như vậy là 1 niệm đến mười niệm là Bậc Hạ, còn 1 ngày đến 7 ngày là Bậc Thượng phẩm phải không?
Đáp: Phải. Một niệm đến 10 niệm là số niệm ít nên công đức cũng ít, nên sanh về Hạ Phẩm. Một ngày đến 7 ngày số niệm nhiều công đức cũng nhiều, nên sanh về Thượng Phẩm. Lại nữa, 1 niệm đến 10 niệm là chỉ người phát tâm trể, 1 ngày đến 7 ngày là chỉ người phát tâm sớm. Dù vậy, một niệm đến 10 niệm, một ngày đến 10 ngày được vãng sanh về Tịnh Độ, đồng ở vị bất thối, thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề.
Lại nữa, người niệm Phật như tiếng khóc của con, cha mẹ nghe rồi liền mau đến cứu, đói thì cho ăn, lạnh thì cho áo ấm, đây là năng lực của cha mẹ chớ sức trẻ con không thể làm được. Người niệm Phật lại cũng như thế, chỉ cần niệm Phật, Đức Phật là Đấng Đại Bi, nghe tiếng liền đến cứu, chỗ có tội nghiệp Phật giúp diệt tội, chỗ có bệnh hoạn Phật giúp cho lành, chỗ có các chướng, Phật đều dẹp phá, cũng như cha mẹ nuôi con vậy. Kinh Pháp Hoa nói: "Tất cả chúng sanh đều là con ta, ta là cha các ông, các ông nhiều kiếp chịu khổ sở thiêu đốt, ta đều dẹp hết, dẫn ra khỏi ba cõi." Người tu theo đạo Phật phải cần niệm Phật. Kinh Duy Ma nói: "Muốn trừ phiền não phải có chánh niệm". Niệm Phật là chánh niệm hiện tiền. Chương Hai
Tự Lực và Tha Lực
Hỏi: Trong luận nói: Các pháp Phật nói ra số nhiều vô lượng, xin hỏi pháp nào là tự lực, pháp nào là tha lực?
Đáp: Đức Như Lai nói có đến 8 muôn 4 ngàn pháp môn, chỉ có một pháp môn Niệm Phật là tha lực, còn tất cả các pháp môn khác nói chung là tự lực.
Hỏi: Theo Kinh giáo thì tu tự lực bao lâu được thành? Tu tha lực bao lâu được thành?
Đáp: Căn cứ vào Kinh Phật người tu tự lực từ khi mới phát tâm phải trải qua một Đại A Tăng kỳ kiếp mới đến Sơ địa. Và trải qua một Đại A Tăng kỳ kiếp mới là Bồ Tát Bát địa. Tiến lên một Đại A Tăng kỳ kiếp mới đến Bồ tát Đẳng giác, đó là đường tu và thời gian của người thực hành tự lực.
Tha lực căn cứ vào pháp môn niệm Phật, Kinh A Di Đà nói: "Mau thì 1 ngày, chậm thì 7 ngày, niệm Phật A Di Đà, vãng sanh về Tịnh độ là Bồ tát Bát địa." Vì sao? Vì thừa bổn nguyện lực của Phật A Di Đà mà có được. Kinh A Di Đà cũng nói: "Chúng sanh nào sanh về Cực Lạc đều ở vị bất thối chuyển". Vị bất thối chuyển này chỉ có Bồ Tát Bát Địa mới có được.
Hỏi: Trạng thái người tu tự lực và tha lực thế nào?
Đáp: Xin đem một thí dụ để biện minh. Người tu tự lực như một đứa trẻ được phong quan chức phải lên kinh đô nhận lãnh, muốn đến kinh đô phải trải qua con đường ngàn dậm mà đứa trẻ chỉ mới ba tuổi, nếu đứa trẻ tự mình đi lên kinh thì không thể nào đến được, vì tuổi quá nhỏ và yếu đuối. Các pháp môn chuyên tu tự lực lại cũng như thế, vì pháp môn này phải tu nhiều kiếp mới thành, cũng như đứa trẻ tự mình đến kinh đô không làm sao đến nơi được, nếu tự dùng sức mình để đi đến.
Người tu pháp môn tha lực cũng như đứa trẻ tuy nhỏ tuổi nhưng theo cha mẹ và sức chuyên chở của xe ngựa voi, nên không lâu đến kinh đô để nhận chức quan. Vì sao? Vì đứa trẻ này nương theo tha lực mà được. Người tu niệm Phật cũng như vậy, khi sắp lâm chung nương theo nguyện lực của Phật A Di Đà, trong một niệm sanh về Tây Phương Tịnh độ, được ở vị bất thối. Như cha mẹ đem xe voi ngựa đến chở đứa trẻ con, chẳng bao lâu đến kinh đô nhận được quan chức.
Người tu pháp tự lực như người nghèo đến làm công cho một người nghèo dùng sức rất nhiều mà được tiền rất ít. Các pháp môn tu tự lực lại cũng như thế, dùng sức rất nhiều mà công đức rất ít. Người tu tha lực như người nghèo đến giúp việc cho một vị vương gia giàu có, làm việc rất ít mà được tiền rất nhiều. Vì sao? Vì nhờ vào sự giàu có của vương gia mà trả tiền rất khá. Người niệm Phật cũng vậy, vì nhờ vào nguyện lực của Phật, nên dụng công rất ít mà công đức rất nhiều, chỉ cần 1 ngày đến 7 ngày chuyên tâm niệm Phật, mau được sanh về Tịnh độ, liền chứng quả Vô thượng Bồ Đề, giống như người làm việc cho nhà vua vậy.
Tha lực như con chim nhỏ muốn lên đỉnh núi Tu Di, nương nhờ vào cánh Đại Bàng, không bao lâu đã đến đỉnh núi được nhiều khoái lạc. Phàm phu niệm Phật lại cũng như thế, nương theo nguyện lực của Phật mà mau sanh về Tịnh Độ Tây Phương, thọ các khoái lạc. Các phương pháp tu tự lực như con chim nhỏ tự lực bay lên đỉnh núi, dù cố gắng sức trọn không thể đến được.
Người tu tự lực như sức của con tôm muốn dạo khắp đại dương thật không thể thành công, người tu tha lực như con tôm nhờ con rồng lớn mang đi chẳng bao lâu đi khắp đại hải. Người tu tha lực nhờ niệm Phật mà chúng sanh đều mau đến Tịnh độ Tây Phương. Người tu tự lực như phàm phu muốn đi quanh Tứ Bộ Châu dùng chân từng bước tiến lên dù trải qua nhiều kiếp cũng khó đến, người tu tha lực như nương theo chuyển luân thánh vương bay trên hư không, chẳng mấy chốc mà vượt qua Tứ Bộ Châu dễ dàng là nhờ vào năng lực của chuyển luân thánh vương. Người tu tha lực nương theo nguyện lực của Phật, chỉ trong một niệm liền được vãng sanh Tây Phương, chứng địa vị bất thối. Người tu tự lực như người đi trên bộ, vất vả gian lao mà khó đến. Người tu tha lực như đi trên thuyền gặp nước xuôi gió thuận, khoẻ thân mà mau đến. Người tu niệm Phật cầu vãng sanh cũng thế, dùng công ít mà mau chứng Bồ đề. Pháp môn niệm Phật ứng theo sức bổn nguyện của Phật A Di Đà nên mau chóng thành Phật, vượt hẳn các pháp môn tự lực gắp trăm ngàn vạn bội. Chương Ba
Niệm Phật được lợi ích
Hỏi: Niệm Phật vãng sanh Tịnh độ được bao nhiêu lợi ích?
Đáp: Căn cứ vào Thiện Đạo Xà Lê Tập nói: "Pháp niệm Phật có 23 thứ lợi ích:
1- Diệt tội chướng nặng.
2- Ánh sáng nhiếp thọ.
3- Đại Sư hộ niệm.
4- Bồ Tát thầm gia hộ.
5- Chư Phật bảo hộ.
6- Tám bộ hộ vệ.
7- Công đức chứa nhóm.
8- Nghe nhiều trí huệ.
9- Không thối vị Bồ Đề.
10- Gặp đấng Đại hùng.
11- Cảm Phật đến rước.
12- Ánh sáng từ bi chạm thân.
13- Bạn thánh đồng khen.
14- Bạn thánh đồng tiếp.
15- Thần thông đi trên không.
16- Sắc thân thù thắng.
17- Sống lâu nhiều kiếp.
18- Được sanh về cõi thù thắng.
19- Mặt thấy Thánh chúng.
20- Thường nghe diệu pháp.
21- Chứng vô sanh pháp nhẫn.
22- Cúng dường 10 phương.
23- Trở về bổn quốc được Đà La Ni.
Hòa thượng Đại Hạnh nói niệm Phật có 10 thứ lợi ích:
1- Nương Phật lực.
2- Pháp dễ làm.
3- Công đức tối đa.
4- Mình người rất vui.
5- Mau được gặp Phật.
6- Chắc được bất thối.
7- Chắc được vãng sanh Cực Lạc.
8- Liền không rời Phật.
9- Thọ mạng dài lâu.
10-Cùng các bậc Thánh không khác.
Các kinh niệm Phật vãng sanh nói có 30 thứ lợi ích:
1- Diệt trừ các tội.
2- Công đức vô biên.
3- Được pháp thù thắng Chư Phật.
4- Chư Phật đồng chứng minh.
5- Chư Phật đồng hộ niệm.
6- Mười Phương Chư Phật đồng khuyên tin niệm.
7- Nếu có họa hoạn niệm Phật liền trừ.
8- Khi lâm chung lòng không điên đảo.
9- Niệm Phật một Pháp nhiếp nhiều Pháp.
10- Khi mạng chung Phật tự đến rước.
11- Dùng ít công đức mau sanh Tịnh độ.
12- Hóa sanh trong đài hoa.
13- Thân màu vàng ròng.
14- Thọ mạng dài lâu.
15- Sống lâu không chết.
16- Thân có ánh sáng.
17- Đủ 32 tướng.
18- Được 6 thứ thần thông.
19- Được vô sanh Pháp nhẫn.
20- Thường thấy Chư Phật.
21- Cùng với Bồ tát làm bạn.
22- Hương hoa, âm nhạc sáu thời cúng dường.
23- Cơm áo tự nhiên nhiều kiếp không hết.
24- Mặc dù tự do tiến đạo thẳng đến Bồ Đề.
25- Thường tươi trẻ không có tướng già.
26- Thường được khỏe mạnh không có bệnh tật.
27- Không bị đọa ba ác đạo.
28- Thọ sanh tự tại.
29- Ngày đêm sáu thời thường nghe Diệu Pháp.
30- Ở địa vị Bất Thối.
Kinh Niết Bàn nói: "Có năm trăm kẻ trộm cướp, trộm cướp các nơi. Vua Ba Tư Nặc bắt được truyền lệnh khoét mắt, chặt hết tay chân, đem liệng ngoài đồng. Trong số 500 người này có một người hướng theo Phật, nghe nói niệm Phật có thể cứu người khổ nạn, bèn kêu gọi những người đồng bọn hết lòng niệm Phật. Lúc bấy giờ các người giặc cướp đồng tâm phát nguyện niệm Phật. Họ chí tâm niệm Phật hoàn toàn hết khổ. Do đó biết rằng niệm Phật lợi ích không thể nghĩ bàn.
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: "Chẳng phải có thân bệnh được bình phục mà tất cả bịnh khổ đau nhức, nếu chuyên tâm niệm Phật thì bịnh khổ đều tiêu trừ. Nếu bị bệnh nặng sắp chết, đau nhức bức bách không thể trị được, niệm Phật tam muội tất cả bệnh khổ đều được tiêu trừ. Nên Hòa Thượng Đại Nhật và Hòa Thượng Thiện Đạo nói: "Người bị bệnh tật niệm Phật liền được tự trừ." Năng lực niệm Phật vô cùng to lớn, người bị bệnh khổ niệm Phật đều được lành không thể kể xiết. Gần đây có số người niệm Phật cảm được Xá lợi. Một số hạt Xá lợi vẫn còn giữ để cúng dường. Nên biết Niệm Phật lợi ích không thể nghĩ bàn. Chương Bốn
Đã được vãng sanh nhiều ít.
Hỏi: Kinh A Di Đà nói: "Hoặc đã sanh, hoặc hiện sanh, hoặc sẽ sanh, ở trước khuyên niệm Phật vãng sanh, không biết hiện nay đã vãng sanh nhiều ít?
Đáp: Căn cứ vào kinh Tịnh Độ nói: "Ở thế giới Ta Bà đã có 67 ức Bồ Tát Bất Thối, niệm Phật A Di Đà, vãng sanh các quốc độ khác lại cũng như thế. Những người vãng sanh này nhiều vô lượng vô biên”. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tỳ kheo Đức Vân niệm Phật A Di Đà vãng sanh Tịnh Độ." Kinh A Di Đà nói: "A Nan và Xá Lợi Phật, các Tỳ kheo trong hội, nghe Phật nói hoan hỉ tin nhận vâng làm liền được vãng sanh." Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Bà Vi Đề Hy cùng 500 thị nữ niệm Phật A Di Đà được vãng sanh về Tịnh Độ." Chẳng phải chỉ có Bồ tát, Thanh văn vãng sanh, mà gần đây ở Bắc đô và Tây đô (Trung Quốc) có Thiền Sư Đạo Xước, Luật sư Thiện Đạo, Pháp sư Hoài Cảnh, Hòa Thượng Đại Hạnh và có hơn một trăm vị Tăng ở Pháp hội, niệm Phật A Di Đà nguyện vãng sanh Tịnh Độ. Chẳng phải chỉ có Tăng vãng sanh, mà Ni sư, bạch y nam nữ niệm Phật A Di Đà, khi lâm chung được thoại ứng vãng sanh Tịnh độ nhiều không thể kể xiết, ở Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện có ghi rõ. Như thế, pháp môn Niệm Phật là pháp môn Chư Bồ Tát, Nhị thừa, phàm phu Tăng Tục nam nữ cùng nhau thực hành vãng sanh Cực Lạc. Chương Năm
So lường công đức niệm Phật.
Hỏi: Kinh A Di Đà nói: "Không thể dùng ít căn lành, Phước đức, nhơn duyên được sanh về nước kia." Không biết cái nào ít căn lành và cái nào nhiều căn lành?
Đáp: Đức Như Lai thuyết pháp nói ra 8 muôn bốn ngàn pháp môn. Trong tất cả pháp môn đều tu tạp thiện nên ít thiện căn, chỉ có một pháp môn niệm Phật là nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Vì sao được biết? Căn cứ vào Quán Kinh nói: "Người thuộc hạ phẩm hạ sanh, chỉ cần 10 niệm thành tựu liền sanh Tịnh độ. Một tiếng niệm Phật diệt được tội trọng 80 ức kiếp sanh tử, được 80 ức kiếp vi diệu công đức, nên biết Pháp môn niệm Phật có nhiều thiện căn. Lại nữa, người tu theo các phương pháp tạp thiện, tự mình tu hành phải trải qua nhiều kiếp mới thành, còn niệm Phật tu hành, nương theo bổn nguyện lực của Phật A Di Đà, nên mau thì 1 ngày, chậm thì 7 ngày, liền sanh về cõi Tịnh Độ, ở vị Bất thối, nên kinh A Di Đà nói: "Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào, nghe nói Phật A Di Đà, rồi gìn giữ danh hiệu hoặc 1 ngày, 2 ngày cho đến 7 ngày, một lòng không loạn, người ấy khi mạng chung, Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng, hiện trước người ấy, người ấy khi mạng chung lòng không điên đảo, vãng sanh về quốc độ Cực Lạc của Phật A Di Đà." Nên biết pháp Niệm Phật là nhiền căn lành, nhiều phước đức.
Hỏi: Niệm Phật một câu có thể diệt được tội sanh tử 80 ức kiếp, không biết bao nhiêu thời gian là 1 kiếp?
Đáp: Một kiếp không thể đếm bằng thời gian mà biết được, căn cứ vào Kinh giáo nói: "Có một cục đá vuông vức 40 dặm, ở cõi trời Đao Lợi có thiên y nhẹ chừng 3 thù (gram), lấy thiên y này mỗi năm đập vào cục đá, đập đến khi nào cục đá đó tan thành bụi gọi là 1 đại kiếp. Có người tạo nhiều tội nghiệp, hoặc sát, đạo, dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, tham, sân, tà kiến, ngũ nghịch, bất hiếu, bài báng đại thừa. Tất cả ác nghiệp đã tạo ấy phải đọa vào địa ngục 80 ức kiếp. Nếu người niệm 1 câu Phật thì tội đọa địa ngục 80 ức kiếp đó liền bị tiêu diệt, lại được 80 ức kiếp vi diệu công đức. Nên biết pháp môn niệm Phật là nhiều căn lành nhiều phước đức.
Nếu tính về số kiếp thì 10,000 kiếp thành 1 muôn kiếp, 10 muôn kiếp thành 1 ức kiếp, từ 10 ức kiếp đến 80 ức kiếp công đức. Có người một ngày niệm 10 muôn câu A Di Đà Phật. Có người một ngày niệm được hai mươi muôn câu. Căn cứ vào Kinh A Di Đà niệm liên tục từ 1 ngày đến 7 ngày công đức vô lượng vô biên, nhờ nhiều công đức nên được vãng sanh về Tịnh Độ. Được về Tịnh độ là thành Bồ tát Bát địa, do đó mà trong kinh A Di Đà, mười phương Chư Phật đồng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn. Còn những người tu tạp thiện tính được từng món công đức nên gọi là ít căn lành vì nó có thể nghĩ bàn. Công đức niệm Phật rộng lớn vô biên, không phải tâm có thể nghĩ, chẳng phải miệng có thể đếm hết, nên Kinh nói không thể nghĩ bàn. Cho nên pháp Niệm Phật là nhiều căn lành, các pháp khác không thể so sánh kịp.
So sánh công đức Niệm Phật phân làm ba bậc là so sánh 1 niệm, so sánh 10 niệm và so sánh 1 ngày đến 7 ngày. Trong Quán Kinh nói: "Niệm Phật một câu diệt được tám mươi ức kiếp tội trọng sanh tử lại được 80 ức kiếp vi diệu công đức. Chỉ có 1 kiếp công đức không thể nghĩ bàn, hà huống trăm kiếp công đức không thể nghĩ bàn, hà huống ngàn kiếp công đức không thể nghĩ bàn, hà huống vạn kiếp công đức không thể nghĩ bàn, hà huống một ức kiếp cho đến 80 ức kiếp không thể đếm số, nên gọi là công đức không thể nghĩ bàn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Người tạo tội ngũ nghịch, chê báng Kinh điển Đại Thừa, khi mạng chung niệm Nam Mô A Di Đà Phật 10 câu liền sanh về Tịnh Độ." Đây là pháp vãng sanh cho bậc hạ phẩm hạ sanh. Một niệm công đức còn vô lượng huống chi niệm 2 niệm cho đến 10 niệm.
Hỏi: Tạo tội chướng đã nhiều vì sao niệm Phật 10 niệm có thể diệt tội nhiều kiếp được?
Đáp: 10 câu hiệu Phật nhất định trừ diệt được các tội trong nhiều kiếp. Vì sao được biết? Xin đem vài thí dụ để giải thích. Có người chứa củi một ngàn ngày, chỉ cần châm một mồi lửa nhỏ thì đống củi ngàn ngày bị cháy trong nửa ngày là tiêu sạch. Tội nghiệp phiền não cũng như đống củi, niệm Phật cũng như mồi lửa, tội chướng từ vô lượng kiếp đến nay do một công đức câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật mà tất cả tội chướng đều tiêu diệt. Tội chướng cũng như ngôi nhà tối, niệm Phật cũng như đèn sáng. Nhà tối ngàn năm, đèn sáng vừa chiếu đến các bóng tối liền trừ, công đức niệm Phật lại cũng như thế. Tội chướng từ vô lượng kiếp đến nay do công đức niệm Phật A Di Đà mà tất cả tội chướng đều tiêu diệt. Nên biết niệm Phật nhất định trừ diệt được các tội trong nhiều kiếp. Quán Kinh nói: "Ông xưng danh hiệu Phật nên các tội tiêu diệt, ta nay đến rước ông.” Niệm Phật mười tiếng công đức còn vô biên, huống chi có người một ngày niệm được mười muôn danh hiệu Phật A Di Đà, hoặc 1 ngày niệm được 20 muôn câu A Di Đà Phật. Công Đức 1 ngày niệm Phật còn vô biên huống là 2 ngày đến 7 ngày công đức vô cùng.
Kinh A Di Đà nói: "Khi sắp lâm chung, mau thì 1 ngày chậm thì 7 ngày niệm Phật liền được vãng sanh Tịnh Độ. Lại nói: "Chúng sanh sanh về cõi ấy đều ở vị Bất thối." Địa vị bất thối là hàng Bồ tát Bát địa, đây là pháp vãng sanh của Thượng Phẩm Thượng Sanh. Vì sao được biết? Ví như ở thế gian người mua nhà cửa, người có nhiều tiền thì mua ngôi nhà đẹp, nếu tiền của ít thì mua ngôi nhà xấu. Niệm Phật công đức rất nhiều nên sanh về Tịnh độ dự vào Thượng Phẩm, niệm Phật ít thì sanh về Hạ Phẩm. Đức Như Lai nói các công đức lành của 8 muôn 4 ngàn pháp môn chỉ có pháp môn niệm Phật là pháp tối thượng. Đức Như Lai tuy nói các công đức lành duy có Pháp môn niệm Phật là nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nếu đem các tạp thiện mà so với niệm Phật thì ít căn lành, ít phước đức, pháp môn Niệm Phật thật chẳng phải của các môn khác có thể sánh kịp.
Lại nữa, pháp môn Niệm Phật y theo Kinh nói thì rất khó gặp. Vì sao được biết? Kinh Đại A Di Đà nói: "Thuở quá khứ có một quốc vương, phát khởi lòng tin nghĩ sẽ thực hành yếu pháp Niệm Phật liền đến gặp thiện tri thức, quyết chí cầu pháp Niệm Phật. Lúc bấy giờ thiện tri thức mới đáp rằng: Này đại vương chỗ cốt yếu của pháp Niệm Phật này, lý rốt ráo thật khó nghe. Nhà vua quyết tâm học pháp Niệm Phật nên đáp: Thưa Đại sư, xin Ngài vui lòng vì tôi mà nói pháp yếu Niệm Phật, tôi sẽ trọn đời cúng dường để ngài sai xử. Khi đó Thiện tri thức đáp: Này đại vương! Nếu ngài muốn biết pháp yếu Niệm Phật trước phải bỏ ngôi vua, ở đây phục vụ cung cấp cho ta không thối chuyển, ta sẽ vì vua mà nói pháp yếu Niệm Phật. Lúc ấy nhà vua bỏ ngôi vua theo hầu thiện tri thức cung cấp những điều cần dùng, không nề khổ cực, không sanh lòng thối chuyển. Nhà vua nghe dạy về pháp Niệm Phật Tam Muội, vua chuyên tu pháp này, sau đó gặp 2 muôn 8 ngàn Chư Phật đều vì nhà vua mà nói Niệm Phật Tam Muội. Nhà vua nghe được pháp Niệm Phật nên được thành Phật.” Huống chi ngày nay được nghe và chí thành tin niệm, đâu thể không được vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Ức ức chúng sanh bị chìm đắm trong đường ác, chẳng được thành Phật, chỉ vì không gặp được pháp môn Niệm Phật. Nên biết pháp môn Niệm Phật thật khó gặp. Chương Sáu
So sánh việc Trì Trai và làm Phước
Hỏi: Người niệm Phật phải trì trai không?
Đáp: Phải. Niệm Phật cũng cần phải trì trai. Hòa Thượng Đại Hạnh từ nhỏ đến già trì trai không khuyết.
Hỏi: Trì trai được bao nhiêu công đức?
Đáp: Kinh Đại Vân Mật Tạng nói: "Trì trai có năm thời: giờ dần trì trai được 8 muôn 4 ngàn ức năm lương thực, giờ mẹo trì trai được 8 muôn ức năm lương thực, giờ thìn trì trai được 6 muôn ức năm lương thực, giờ tỵ trì trai được 4 muôn ức năm lương thực, giờ ngọ trì trai được năm trăm ngày lương thực. Sau giờ ngọ không thành trai, mắc tội không được 1 phần công đức. Nói lương thực dư là nói dùng không cùng tận. Đời này có đủ y áo vật thực đều do đời quá khứ trì trai mà được. Hòa Thượng Đại Hạnh nói: "Người niệm Phật cần phải trì trai. Như 1 ngày được dư lương thực còn không thể nghĩ bàn huống là 10 năm, trăm năm thì phước đức không thể nghĩ bàn. Vì vậy, người niệm Phật cần phải trì trai. Chương Bảy
Nghi và bài báng niệm Phật mắc tội nặng
Hỏi: Khen ngợi niệm Phật có bao nhiêu công đức, bài báng niệm Phật có bao nhiêu tội?
Đáp: Kinh Tạp Tập nói: "Một lần chê bai, bài báng người niệm Phật bị muôn kiếp đọa vào địa ngục Nê Lê. Một lần khen ngợi người niệm Phật diệt được trăm kiếp tội cực trọng". Hòa Thượng Đại Hạnh nói: "Người không chí tâm niệm Phật lại chê báng Phật Pháp, bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ, nhận các điều khổ, không có ngày ra."
Hỏi: Trong A Tỳ Địa Ngục có những hình cụ gì?
Đáp: Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Địa Ngục A Tỳ ngang dọc rộng đến 8 muôn bốn ngàn do tuần, bảy lớp thành sắt, 7 lớp lưới sắt, 7 lớp tràng sắt, 8 muôn bốn ngàn rừng gươm, 8 muôn bốn ngàn chảo dầu sôi, chó đồng, rắn sắt, chim sắt đầy khắp trong ngục. Một người vào ngục đều thấy mình đầy ngục, nhiều người vào trong cũng không thấy có kẻ hở. Ngục này chịu khổ rất dài, không có ngày ra, không có kẻ hở trong lúc hành hình suốt 8 muôn Đại kiếp. Sau đó mới ra khỏi lại bị đọa vào súc sanh do bài báng pháp Niệm Phật nên đọa vào trong địa ngục chịu khổ không có xen hở. Nếu không hồi tâm niệm Phật không nhờ đâu mà ra khỏi. Nếu người chí tâm niệm Phật thì các tội vô gián liền bị tiêu diệt.
Kinh Pháp Hoa nói: "Thấy có người đọc tụng kinh này, khinh chê ghen ghét sân hận trong lòng liền bị đọa vào địa ngục vô gián". Huống chi chê pháp Niệm Phật, người ấy còn nặng hơn người khinh chê người chép đọc tụng kinh kia hơn muôn vạn bội phần. Vì vậy, Hòa Thượng Đại Hạnh dạy: Khi niệm Phật phải luôn luôn nhẫn nhục, dù có bị đánh mắng cũng không oán hờn vì sợ chi ác thêm tội báo cho người kia. Kinh Di Giáo nói: "Giặc cướp công sức không gì hơn lòng sân nhuế, nó là lửa dữ, cần phải phòng bị, không cho nó xâm nhập vào. Lửa dữ có thể đốt cháy hết vật quý báu ở thế gian, còn lửa sân thiêu hết thất thánh tài, cho nên người niệm Phật cần phải nhẫn nhục."
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Lòng sân khởi một niệm trăm vạn cửa chướng mở ra." Quán kinh cũng nói: "Khen ngợi tốt của người khác tự mình được công đức, dùng lời nói hung ác mắng người xấu, tự mình chịu tội báo." Vì sao biết được? Trong Báo Ân Kinh nói: "Sa Di Huân Đề vì mắng một vị Thượng Tọa tiếng nói như chó sủa. Sa Di Huân Đề do một lời nói ác đó, trong 500 đời thường làm thân chó." Nên biết mắng người, mình tự bị tội. Kinh A Hàm nói: "Có một người khen ngợi sự thắng diệu thiện sự của người tu đạo, trong 500 đời thường được tướng mạo tốt đẹp đoan chính, hơi miệng thường có mùi thơm trong sạch như Ưu Bát La hoa, dù nghịch gió đến 40 dặm vẫn còn nghe hương." Nên biết, khen ngợi người khác đều được quả báo tốt, người niệm Phật cần nên khen ngợi việc tốt của người. Kinh Pháp Hoa nói: "Không nên nói tốt xấu, ngắn dài của người khác, chỉ chuyên niệm Phật mau sanh tịnh độ, thoát khỏi trầm luân." Chương Tám
Thệ nguyện chứng nghiệm giáo pháp
Hỏi: Đã niệm Phật A Di Đà chắc sanh Tịnh độ, chắc được vô lượng công đức, không biết có gì chứng nghiệm, làm tăng trưởng lòng tin chăng?
Đáp: Có đại chứng nghiệm. Kinh A Di Đà nói: "Chư Phật trong 6 phương hằng hà sa số hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới mà nói lời thành thật, không dối chúng sanh, khuyên phải tin Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã nói, niệm Phật được vô lượng công đức, một ngày đến 7 ngày xưng danh hiệu Phật A Di Đà, chắc được vãng sanh Tịnh độ. Bất cứ người nào nói lời dạy này mà không được vãng sanh Tịnh độ, là lời nói dối, lưỡi họ sẽ bị hư hoại, không thể vào miệng. Đây là sáu phương Chư Phật lấy bản nguyện làm bằng chứng.
Kinh Đại Bảo Tích nói: Khi Phật A Di Đà lúc còn là Tỳ Kheo Pháp Tạng đã phát 48 nguyện lớn. Trong ấy nói: "Khi tôi thành Phật nhơn thiên trong 10 phương nghe danh tự tôi mà không được quả vị Bồ Tát vô sanh Pháp nhẫn, các pháp Tổng trì thì tôi không ở ngôi chánh giác." Sanh về quốc độ tôi không được 32 tướng tốt thì tôi không ở ngôi chánh giác. Người niệm mười niệm thành tựu không được sanh về nước tôi thì tôi không ở ngôi Chánh Giác. Người sanh về nước tôi nếu còn bị đọa vào địa ngục và 3 đường dữ thì tôi không ở ngôi chánh giác. Người nào sanh về nước tôi mà hình mạo không đồng nhất, có tốt xấu, thì tôi không ở ngôi chánh giác. Người sanh về nước tôi, nếu không được thiên nhãn, thiên nhĩ, lục thông tự tại, thời tôi không ở ngôi chánh giác. Chúng sanh mười phương xưng niệm danh tự tôi, không được Chư Phật trong 10 phương khen ngợi tên tôi, thời tôi không ở ngôi chánh giác. Nếu người nữ chán nhàm nữ thân, nguyện sanh về nước tôi, khi lâm chung không chuyển nữ thân thành nam tử, lại thọ nữ thân, thời tôi không ở ngôi chánh giác. Nói chánh giác chính là chỉ quả vô thượng Bồ Đề. Nếu tất cả chúng sanh nương theo nguyện lực của tôi không được những quả báo như đã kể trên, thời tôi không chứng vô thượng Bồ Đề, nếu có lời gì dối trá chúng sanh, tôi thề sẽ ở trong ác đạo, không được vô thượng Bồ Đề. Đây là chỗ lập nguyện của Phật A Di Đà. Kinh A Di Đà nói: "Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã hơn mười kiếp." Phật A Di Đà đã thành Phật lời nguyện đã tròn, người niệm Phật chắc được vãng sanh.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni trong Kinh A Di Đà nói người chuyên niệm Danh hiệu cũng là một việc khó, ta thực hành pháp niệm Phật này được vô thượng Bồ Đề. Kinh Pháp Hoa Đức Phật nói: "Ta vốn lập thệ nguyện muốn tất cả chúng sanh giống như ta không khác, như trước kia ta đã nguyện, nay đã đầy đủ hạnh nguyện độ tất cả chúng sanh, đều làm cho vào cõi Phật. Đó là điều lập nguyện của Phật Thích Ca."
Kinh Quan Âm nói: "Thệ lớn sâu như bể, nhiều kiếp không nghĩ bàn, hầu nhiều ngàn ức Phật, phát nguyện thanh tịnh lớn." Đây là chỗ phát nguyện của Đức Quan Thế Âm. Ngày xưa A Xà Lê Thiện Đạo ở trong chùa Tây Kinh cùng Pháp sư Kim Cang so sánh pháp môn Niệm Phật hơn kém. Ngài lên trên tòa cao liền phát nguyện: "Căn cứ vào các Kinh Thế Tôn đã nói về pháp môn Niệm Phật được sanh về Tịnh độ. Niệm một ngày cho đến 7 ngày, một niệm cho đến 10 niệm được sanh về Tịnh độ. Đây là lời chơn thật không dối gạt chúng sanh thì xin hai tượng trong Phật đường này đều phóng hào quang. Nếu pháp Niệm Phật này người niệm không được vãng sanh Tịnh độ, dối gạt chúng sanh, thì khiến Thiện Đạo này ở trên tòa cao rớt xuống, bị đọa vào Đại Địa ngục, chịu khổ thời gian dài vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi. Nguyện xong ngài cầm cây gậy Như ý chỉ vào trong Phật đường, hai tượng liền phóng hào quang. Đây là lập nguyện của Xà Lê Thiện Đạo.
Đại Hạnh Hòa Thượng nói: "Nếu có người y theo Kinh A Di Đà, niệm Phật không giữ tướng ngạo, lòng chỉ tin Phật, miệng chỉ xưng danh hiệu Phật, thân chỉ kỉnh lễ Phật, có việc không vừa lòng liền nhẫn nhục, mặc áo thô rách, ăn cơm thô sơ, hiếu nghĩa và nhơn từ, chuyên tâm niệm Phật, gặp duyên chẳng lui sụt, đến chết niệm Phật không thay đổi, những tạp thiện và tội ác đều không làm, chuyên tâm niệm Phật, người được như vậy, nếu y kinh niệm Phật, không sanh tịnh độ, niệm một câu Phật không diệt tội 80 ức kiếp sanh tử, không được 80 ức kiếp vi diệu công đức; mê hoặc chúng sanh, Đại Hạnh nguyện sẽ bị quả báo, sáu căn tan biến, toàn thân ghẻ lở ai cũng đều thấy, khổ đau không kể xiết, tương lai vào thẳng Địa ngục, không có ngày ra. Đây là thệ nguyện của Hòa Thượng Đại Hạnh.
Thệ nguyện như những xe báu để chở những vật quí giá để dâng tặng quốc vương. Xe chở vật báu cần phải có đủ tư dây kiên cố mới có thể đến kinh đô khỏi mất vật quí giá và khỏi bị ngã nghiêng làm hư hại, khi đến nhà vua an toàn sẽ được phong quan chức. Niệm Phật cũng thế, cần phải có thệ nguyện trước tiên mới thành tựu được công đức niệm Phật, thẳng đến tịnh độ, mau chứng Bồ Đề. Nếu người không nguyện mà tu hành, thì không thể được thành tựu. Nên Kinh A Di Đà nói: "Nếu người có lòng tin, cần phải phát nguyện, nguyện sanh về nước kia." Chương Chín
Rộng nhiếp các giáo
Pháp môn niệm Phật tổng trì biện tài vô ngại, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ và nguyện lực phương tiện trí huệ đều huệ đức đầy đủ, đều do niệm Phật. Niệm Phật như Bảo châu Như Ý, khi có trong tay, mong cầu việc gì cũng được toại nguyện. Nếu tự mình niệm Phật bố thí cho người khác. Dạy người khác niệm Phật, đây chính là đang bố thí. Do niệm Phật nên diệt trừ các tội là trì giới, ác pháp không sanh là nhẫn nhục, đi đứng ngồi nằm niệm danh hiệu Phật không rời tâm miệng là tinh tấn, tin sâu không nghi, chí thành niệm Phật, được sanh Tịnh độ, không sanh thối chuyển là thiền định; do lâu dụng công niệm Phật danh hiệu, tất cả kinh giáo văn tự lần lược hiểu rõ là trí tuệ. Nên gọi niệm Phật là thu nhiếp lục độ biện tài vô ngại.
Căn cứ vào niệm Phật thu nhiếp lục độ có được quả báo tốt ở cõi Cực Lạc, nhờ có niệm Phật vãng sanh Tịnh độ được ăn mặc tự nhiên, tiền của đầy dẫy thuộc về bố thí độ. Nhờ niệm Phật nên được vãng sanh về Cực Lạc được liên hoa thân đủ sáu thần thông thuộc trì giới độ. Nhờ niệm Phật sanh về Tịnh Độ được thân đoan chánh có đủ 32 tướng tốt, 80 cách đẹp thuộc nhẫn nhục độ. Nhờ niệm Phật được sanh về Tịnh độ được cây, nước, chim, rừng, Phật và Bồ Tát đều nói pháp, nghe tiếng ấy rồi đều tự nhiên sanh lòng niệm Phật Pháp Tăng thuộc Tinh Tấn độ. Nhờ niệm Phật nên được vãng sanh về Cực Lạc, lại không có duyên khác, thường ở trong Tam muội thuộc về Thiền Tịnh Độ. Sanh về cõi Cực Lạc tự nhiên hiểu rõ tất cả các pháp thuộc Trí Huệ Độ. Vì thế pháp môn niệm Phật thu nhiếp lục độ quả báo hơn trăm ngàn muôn ức lợi, nên kinh Niết Bàn nói: "Niệm Phật một hơi phân làm 16 phần, nếu có người bố thí chúng sanh cả thế giới trải qua 3 tháng, so với 16 phần niệm Phật chỉ bằng 1 phần công đức, 1 phần còn trội hơn công Đức Bố Thí cả thế giới kể trên. Nên biết Niệm Phật vượt hẳn tài thí trăm ngàn ức bội phần.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.27.154 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.