Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phàm muốn niệm tụng pháp đà la ni, trước cần phải ở nơi tam muội mạn đà la, thấy Thánh chúng được quán đảnh, biết Bổn tôn, theo thầy thọ được tam muội da. Sau đó ở nơi sơn gian, nơi thanh tịnh, nơi tịnh thất, hoạ tượng Bổn tôn Tôn Thắng Đà la ni treo nơi vách phia Đông, hành giả mặt xây về Đông đối trước tượng. Nơi chỗ niệm tụng, đào một huyệt sâu nữa khuỷu, trong đất nếu có ngói gạch xương cốt lông tóc và các uế vật, cần nên bỏ đi. Nếu đất thiếu, cần lấy thêm đất đổ đầy huyệt, làm cho bằng phẳng, nếu đất dư đó là đất cát tường, dùng cù ma di hoà đất sạch thành bùn, đắp tô trên mặt cho bằng phẳng, lại dùng cù ma di hoà nước tụng Vô Năng Thắng Đà La Ni hai mốt biến gia trì cù ma di.
Vô Năng Thắng chơn ngôn:
- Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Um hổ rô hổ rô chiến noã lị ma đẳng nghi sa bà ha.
Gia trì xong, từ góc Đông Bắc, khởi đầu quanh theo bên phải mà đắp, dùng lá chè hoặc lá sen chà trên mặt cho láng đẹp, phía trên dùng bột màu trắng hoà nước, dùng giây chia ra làm chín vị. Mài bột bạch đàn hương tô trên 9 vị. Chín vị là: Trung ương Phật Tỳ lô giá na, bên phảt Bồ tát Quán tự Tại, phía sau Bồ tát Quán Tự Tại là Bồ tát Di Lặc, phía sau Phật Tỳ lô giá na là Bồ tát Hư không Tạng, bên trái Bồ tát Hư Không Tạng là Bồ tát Phổ Hiền, bên trái Phật Tỳ lô giá na là Bồ tát Kim Cang Thủ, dưới Bồ tát Kim Cang Thủ là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, bên phải Bồ tát Trừ cái chướng là Bồ tát Địa Tạng, gồm đủ chín vị. Các vị đều dùng Bạch đàn hương mà tô đắp, dùng để nghinh thỉnh các Ngài, trên treo trướng, lọng bốn phía treo phướn. Bốn mặt đạo tràng, sáng chiều dâng cúng cháo mè, trưa dâng cơm, bơ, bánh, đường, các thứ ăn uống, các thứ trái cây. Bốn cửa để bốn lư hương, bốn góc để bốn bình sạch đựng đầy nước thơm, hoặc lá nhánh cây còn tươi để cúng dường. Bốn góc đốt bốn chén đèn bằng bơ. Trước đạo tràng, trước mặt nơi chỗ ngồi của hành giả, để hai chậu nước ứ già hương thuỷ, lấy vàng bạc, đồng sứ v.v… loa (vỏ ốc tù và) hoặc lá mới sạch, các thứ khác không được. Nếu khi muốn đựng đồ ăn, cần phải rửa sạch các vật xong, để trên lư mà xông. Phía trong dùng Vô năng Thắng đà la ni gia trì nước mà rải. Ở trong đàn, theo bên phải lần lượt bố trí, sau đó trước đàn để tì cước sàng tư, cách đất nửa khuỷu (bàn để ngồi) dùng cỏ tranh trải lên, (mền nệm) để dùng làm chỗ ngồi. Hành giả cần tắm gội ( như trong Tô tất địa đã nói), hoặc dùng pháp tắm gội, quán pháp thật tướng để tắm gội, dầu tại gia, xuất gia đều giữ gìn luật nghi, không được khuyết phạm. Để làm pháp tắm gội, mỗi ngày ba thời trước Phật phát lồ sám hối, tùy hỉ, khuyến thỉnh, phát nguyện, hồi hướng hoặc dùng thanh tịnh chơn ngôn gia trì bảy biến để được thanh tịnh. Khi tắm gội, niệm tụng, thời quán tất cả pháp bản tánh vốn thanh tịnh, suy nghĩ như vậy tức tụng tắm gội chơn ngôn.
- Um ta phạ bà phạ truật đà ta phạ đạt ma sa phạ bà phạ truật độ hám.
Mỗi ngày khi vào đào tràng niệm tụng, nên định kỳ niệm tụng một thời, hai thời. Sáng sớm, hoàng hôn, nếu ba thời thì thêm giờ Ngọ hoặc bốn thời như trong Du dà nói, thêm nửa đêm. Nếu theo trong pháp Tôn thắng đà la ni kinh nầy thì mỗi tháng ngày rằm, trừ các nghiệp chướng tăng trưởng thọ mạng, cần tụng đủ ngàn biến, chứng được Xuất thế tam ma địa, được bất vong đà la ni. Trong một ngày một đêm không ăn là hết, hoặc ăn tam bạch thực (sữa, lạc, cơm nếp), hoặc ăn cháo hoặc như thường ăn bữa trưa là phẩm hạ. Phải mặc quần áo mới sạch, tâm luôn nhớ niệm gìn giữ luật nghi, chơn ngôn. Mỗi khi vào đạo tràng trì tụng, trước hai gối phải sát đất, đảnh lễ Phật tỳ Lô Giá na và tám vị Bồ Tát, phát lồ sám hối, phát năm đại nguyện: một là chúng sanh vô biện thệ nguyện độ, hai là phước trí vộ biên thệ nguyện tập, ba là pháp môn vô biên thệ nguyện học, bốn là Như Lai vô biên thệ nguyện sự, năm là Vô thượng Bồ Đề thệ nguyên thành. Ngồi kết già phu, dùng bột hương xoa tay, kết Tam Muội da ấn, tụng chơn ngôn.
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm a tam minh đế rị tam minh tam muội duệ sa bà ha.
Chắp tay lại thẳng hai ngón cái, ấn chỗ trán, vai trái, vai phải, tim, yết hầu, mỗi chỗ tụng chơn ngôn một biến, gia trì xong, xả ấn nơi đảnh.
Do oai lực của Tam Muội da ấn chơn ngôn hay tịnh Như Lai địa, ba la mật đầy đủ, hay thành tựu thế gian xuất thế gian Tất địa.
Lại kết Pháp Giới Sanh ấn chơn ngôn.
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm đạt ra ma đà da sa phạ bà phạ câu hám.
Hai tay hai ngón cái để trong lòng bàn tay, nắm lại thành quyền, thẳng hai ngón trỏ dựa bên nhau, để từ đảnh xuống, từ từ xả ấn, tụng chú ba biến, quán tự thân đồng với pháp giới, lìa các sắc tướng cũng hư không.
Lại kết Kim Cang Tát đoả Pháp luân ấn chơn ngôn.
-Nẵng mồ tam mạn đa phạ nhựt ra nẫm. Um phạ nhựt ra đạt ma câu hám.
Hai tay xoa ngược nhau, ngón cái trái để trong lòng bàn tay phải, ngón cái phải thẳng, tụng chơn ngôn ba biến, tức được tự thân như Kim Cang Tát hoả.
Lại kết Kim cang Giáp mạo ấn chơn ngôn.
-Nẵng mồ tam mãn đa phạ nhựt ra nẫm. Úm phạ nhựt ra ca phạ dã hồng.
Hai tay chắp lại bộng giữa, hai ngón trỏ để nơi lưng hai ngón giữa, hai ngón cái hợp nhau để nơi tiết giữa hai ngón giữa, gia trì năm chỗ, mỗi chỗ tụng một biến. Do sức gia trì tự thân thành Kim Cang Giáp Mạo, tất cả Thiên ma không dám gần gũi.
Lại kết Bất Động Tôn ấn chơn ngôn.
-Nẵng mồ tam mãn đà phạ nhựt ra nẫm chiến noã ma ha lô sái noã tát vãm tra da hồng đát ra tra hàm nam.
Hai tay ngón cái vịn móng ngón út và ngón vô danh, thẳng hai ngón giữa và hai ngón trỏ, tay trái là giáo. tay phải là đao , dung đao để vào trong giáo. Xoay bên trái để xua đuổi các ma trong đạo tràng làm chướng mạn; xoay bên phải tám phương trên dưới làm kết giới. Sau đó tưởng trong đạo tràng là núi Tu di, trên đảnh núi tưởng lầu các bảy báu. Ở trong lầu các, Như Lai Tỳ Lô Giá Na cùng tám mươi cu chi mười địa Bồ Tát ma ha tát làm quyến thuộc vây chung quanh. Bốn cửa bốn góc có bốn Bồ Tát và tám cúng dường, dùng làm nội ngoại cúng dường, quán tưởng dâng hiến rõ ràng phân minh.
Lại kết Phụng thỉnh Thánh chúng Như Lai Câu ấn chơn ngôn.
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm ác tát phạ đát ra bát ra để kha đế đát tha nghiệt đương cu xá mạo địa dã ra lị da bạt rị bố ra ca sa phạ ha.
Hai tay xoa bên trong, nắm lại thành quyền, ngón trỏ phải thẳng co lại như câu. Tụng ba biến, do oai lực ấn chơn ngôn, chư Phật và Thánh chúng không bỏ bổn thệ, đều lại đầy đủ.
Lại kết Phụng Hiến Toạ Ấn chơn ngôn:
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm ác.
Hai tay chắp lại trống giữa, hai ngón út, hai ngón cái hợp nhau, sáu ngón kia mở hơi co như hoa sen nở, tụng ba biến. Do oai lực ấn chơn ngôn, lưu xuất các toà báu như mây biển, dâng hiến Như Lai và Thánh chúng.
Lại kết Phụng Hiến Ứ già ấn chơn ngôn:
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm nga nga nẵng tam ma tam ma sa phạ ha.
Dùng hai tay bưng đồ đựng nước ngang nơi trán, hồ quì tụng ba biến dâng hiến ứ dà tẩy rửa Thánh chúng.
Lại kết Phụng Hiến Đồ hương ấn chơn ngôn:
-Nẵng mô tam mãn đà một đà nẫm vi du đà nghỉ độ nạp bà phạ dã sa bà ha.
Tay phải thẳng lên, lòng bàn tay hướng ra ngoài, tay trái nắm cổ tay phải, tụng ba biến. Do Ấn chơn ngôn oai lưu xuất ra hương xoa như mây biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.
Lại kết Phụng Hiến hoa man ấn chơn ngôn:
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm ma ha muội đát rị dạ tì dữu na nghiệt đế sa bà ha.
Hai tay xoa bên trong, ngữa lòng bàn tay, hai ngón trỏ dựa nhau. Tụng ba biến, do oai lực ấn và chơn ngôn lưu xuất các tràng hoa như mậy biển cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.
Lại kết Phụng Hiến Thiêu hương ấn chơn ngôn:
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm đạt ma đà đát phạ noã tì ám nghiệt đế sa bà ha.
Ngữa lòng bàn tay, ngón út, ngón vô danh, ngón giữa co lưng dựa nhau tụng ba biến. Do oai lực ấn và chơn ngôn, lưu xuất tất cả hương đốt như mây biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.
Lại kết Hiến Ẩm Thực ấn chơn ngôn:
- Nẳng mồ tam mãn đà một đà nẩm a ra ra ca ra mạt lăng nại ni mạt hê sa phạ ha.
Hai tay trống lòng chắp lại như đồ vật, tụng ba biến. Do oai lực ấn chơn ngôn, lưu xuất vô biên các món ăn uống như mây biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.
Lại kết Phụng hiến Đăng Minh ấn chơn ngôn:
-Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm đát tha nghiệt đát tát sa vỏng ra nĩnh tát
bà sa na nga nga nẵng na rị dả sa phạ ha.
Tay phải nắm thành quyền, thẳng ngón giữa, dùng ngón cái vịn tiết giữa ngón giữa, tụng ba biến. Do oai lực ấn chơn ngôn, lưu xuất ra các đèn sáng như mậy biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng. Lại như Như Lai Đại thừa kinh có nói, nên quán tưởng tràng phan, bảo cái, y phục, anh lạc, dây lụa các vật cúng dường như mây biển đầy khắp cả pháp giới, dùng kệ chân thật mà ngợi khen rằng:
Sức công đức của con,
Sức Như Lai gia trì,
Sức của pháp giới đây,
Rộng cúng dường tất cả.
Lại kết Hư Không Tạng Minh phi ấn chơn ngôn:
- Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm tát phạ tha khiếm ô na nghiệt đế sa võng ra hê man nga nga kiếm sa bà ha.
Hai tay xoa nhau chắp lại phải đè trái, tụng bảy biến. Lại tưởng nơi tâm có một vành trăng sáng rỡ tròn đầy, rõ ràng. Trong vành trăng, tưởng chư "Khiếm" màu trắng, phóng ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Tưởng thiệt tướng của chữ "Khiếm" là đồng hư không, xa lìa các sắc tướng, các chướng ngại. Ở trong nghĩa lý chân thật, tưởng tự than là Bồ Tát Kim cang Ba La Mật Phật Mẫu, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có chày Kim cang năm chia, tay phải ngữa ra, kết Ấn Thí Nguyện, đầu đội mão anh lạc, dung mạo từ bi như muốn cứu độ tất cả chúng sanh. Tưởng như vậy xong, hai tay xoa nhau, bên ngoài nắm thành quyền, thẳng hai ngón giữa, đây là Kim Cang Ba la mật ấn. Dùng ấn gia trì bốn chỗ (tim, trán, yết hầu, đảnh), ấn xong, xả ấn, tụng Kim Cang Ba La mật chơn ngôn:
- Um tát đát phạ phạ nhựt ra hồng.
Khi ấn bốn chỗ, mỗi chỗ tụng một biến, dùng ấn để nơi trán, tụng ba biến, quán đảnh xong mở ấn ra, kết Kim cang quyền để sau đầu, tụng chơn ngôn:
-Um phạ nhật la tì tiến đá.
Tụng ba biến, kết ấn Bị giáp, hai tay kết Kim Cang quyền, thẳng ngón trỏ để nơi tim như mặc giáo, để nơi sau lưng, lại để ở rún, hai đầu gối, eo, từ từ đến tim, hai vai, trên đầu, nơi cổ, trán, sau ót, hai tay đập thành ba tiếng, tụng Bị Giáp chơn ngôn:
- Úm châm.
Lại vỗ tay, tụng chơn ngôn:
- Úm phạ nhựt ra đổ da khác.
Tưởng tự thân thành Bổn tôn xong, chắp hai tay lại co hai ngón trỏ móng đụng nhau, dùng hai ngón cái đè trên đầu hai ngón trỏ, như đang khảy móng tay, lại tụng Tôn Thắng Đà La Ni:
-Nẵng mồ bà nga phạt đế đát lặc lộ chỉ dã bát ra để vĩ thỉ sắc tra dã bột đà da bà nga phạ đế đát nễ dã tha:
Um vĩ thuật dà dã tam ma tam mãn đà phạ bà sa tát pha ra noã nghiệt đế nga ha nẵng tát ra bà phạ thuật đệ, a tì tiên tả hàm tát nga đa phạ ra phạ tả nẵng mật lật đa tì lô kế a ha ra a ha ra a dục tán đà ra ni thuật đà da thuật đà da nga nga nẵng vĩ thuật đề ô sắc ni sa vĩ nhạ dã vĩ thuật đề sa ha sa ra ra thấp nhị tán tổ nhi đế tát phạ đát tha nghiệt đa địa sắc tra nẵng địa sắc sĩ đa mẫu nại lê phạ nhựt ra ca da tăng ha đát na thuật đệ tát phạ phạ ra noả thuật đệ bát ra để nễ tì đa dã a dục thuật đệ tam ma da địa sắc sĩ đế ma ni ma ni đát lân đa bộ đa cu đê bạt lị thuật đề vĩ sa bố tra bột đại thuật đệ nhạ dã nhạ dã vĩ nhạ dã vĩ nhạ dã sa ma ra sa ma ra tát phạ bột đà địa sắt sỉ đa thuật đệ phạ nhật lệ phạ nhật ra tát tì phạ nhựt vãm sa phạ đô ma ma ( tên ……) tát phạ tát đát phạ nan tả ca dã vĩ thuật đệ tát phạ nghiệt đế bạt lị thuật đệ tát phạ đát tha nghiệt đa tam ma thấp phạ sa địa sắc sỉ đế bột đà bột đà mạo đà dã mạo đà dã tam mãn đa bạt lị thuật đệ tát phạ đát tha nghiệt đa địa sắc tra nẵng địa sắc sỉ đa ma ha mẫu nại lê sa bà ha.
Khi tụng chú, không lớn không nhỏ, không mau không chậm, một lòng quán Phật Tỳ Lô Giá Na rõ ràng, tụng chú bảy biến, xong xả ấn trên đảnh, lấy xâu Bồ đề an trong lòng bàn tay, tụng Gia trì Niệm châu chơn ngôn:
- Úm vĩ lô tả nẵng ma la sa phạ ha.
Tụng bảy biến xong đem để nơi đảnh, tay trái để nơi ngực, tay phải lần hạt, sau mội chữ sa phạ ha lại lần một hạt, niệm tụng 108 lần, cho đến ngàn lần. Lại đem châu để trong lòng bàn tay, chấp tay lại đem để trên đảnh, phát các lời cầu nguyện, nguyện cho tất cả chúng sanh đều được như mình. Sau lại kết Bổn tôn ấn, tụng bảy biến hoặc ba biến. Lại kết Kim cang ba la mật ấn, lại kết Ngũ cúng dường ấn cùng tụng Ngũ cúng dường chơn ngôn để cúng dường như đã nói ở trước. Lại kết Bất Động tôn ấn, tụng một biến, dùng ấn xoay bên trái thành giải giới, bưng đồ ứ già dâng hiến cúng dường, kết Tam muội da Ấn để trên đảnh phụng tống. Tụng Tam muội Da Chú ba biến, không giải ấn, tụng Kim cang Giải thoát Chơn Ngôn:
- Úm phạ nhựt ra mộ khất xoa sam.
Phụng tống chư Phật, Thánh chúng như trên. Lễ bái, phát lộ sám hối, tuỳ hỉ, khuyến thỉnh, phát nguyện, hồi hướng xong ra khỏi đạo tràng.
Sau đó ở nơi thanh tịnh, đọc tụng kinh điển Đại thừa, quán đệ nhất nghĩa đế, dùng phước nầy hồi hướng chỗ cầu xin giúp mau thành Tất Địa.
Nếu làm pháp Tức lai, tạo đàn tròn, mặt xây về hướng Bắc, tưởng các Thánh chúng màu trắng, các vật cúng dường trong đàn đều màu trắng, mặc quần áo màu trắng, đốt trầm thuỷ hương.
Nếu làm pháp Tăng trưởng, mặt xây về hướng Đông, tưởng Bổn tôn, vật cúng dường, tự thân y phục đều màu vàng, đốt bạch đàn hương.
Nếu làm pháp Hàng phục, mặt xây về hướng Nam, tưởng Bổn tôn, vật cúng dường, y phục đều màu xanh, hoặc màu đen, thiên an tức hương.
Nếu làm pháp Kính ái, mặt xây về hướng Tây, tưởng Bổn tôn màu đỏ, đồ ẩm thực cúng dường, y phục đều màu đỏ, đốt tô hợp hương." PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI KINH
PHÁP NGHI QUĨ NIỆM TỤNG.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.12.153.19 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.