Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
GIẢI THÍCH TIỀN PHƯƠNG TIỆN THIỀN BA LA MẬT
NỘI PHƯƠNG TIỆN
(Có hai phần chủ yếu giải thích về Nội Phương Tiện. Phần Một thuyết minh Nhân tu pháp Chỉ, nội ngoại thiện căn được khai phát. Trong đó nói tổng quát về các loại thiền thuộc sự và lý và các hiện tượng khi chánh định thiện căn bắt đầu phát. Nêu lên Nhân tu tập của hành giả có căn tính bất đồng, cho nên khi chứng thiền định, phát thiền cũng có sự khác nhau, nếu luận sau khi Sơ thiền khai phát thì cảnh giới thiền định thuộc sự lý thâm sâu vi diệu đều được nói đại khái trong phần tu chứng của chương.)
Nội phương tiện chia làm năm phần chính:
*1 Thuyết minh Chỉ môn
*2 Nghiệm căn tính thiện ác
*3 Pháp an tâm
*4 Pháp trị bệnh
*5 Biết ma sự
Cả năm phần này, gọi chung là Nội phương tiện, nhân vì khi mới phát tâm tu thiền định, nội tâm yên lặng và niệm vi tế, cần phải vận dụng năm pháp thiện xảo này, thủ xả thích hợp, về sau mới có thể chứng nhập thiền định thâm sâu, nên gọi là phương tiện.
Nay đối với Nội phương tiện, lấy pháp Chỉ làm cửa đầu tiên, tất cả công đức của thiền định do kềm chế tâm tán loạn mà phát, nên trong kinh có nói “Chế tâm nhất xứ vạn sự bất biện” pháp Chỉ là cửa ban đầu, ý tại chỗ này vậy.
HỎI: Phần trước giải thích trong năm pháp Ngoại phương tiện, có luận về Nhất tâm, vì sao ở đây giải thích lập lại nữa?
ĐÁP: Chẳng phải như thế, phần trước chỉ luận chung về nhất tâm, chưa phân tích đầy đủ, tu pháp Chỉ này rất vi tế, nay vì muốn cho người tu hành biết pháp an tâm căn bản, nên mới nói rõ tướng trạng nhập định từ thô đến tế, từ cạn đến sâu, cũng đâu có lỗi.
HỎI: Trong kinh có nói về pháp quán bất tịnh và pháp quán Sổ tức, là hai pháp môn cam lồ, không nói pháp tu Chỉ là cửa ban đầu, vì sao ở đây lại nói như thế?
ĐÁP: Chẳng phải, ở trong các thiền định, pháp tu Chỉ gồm chung các môn, chung thâu nhiếp riêng nhưng riêng không thể thâu nhiếp chung, cho nên trước tiên dạy tu pháp Chỉ. Nếu sau khi tu Chỉ nhập vào các thiền khác, thì có lợi ích chung. Nếu nương vào các môn khác thì có lỗi trái ngược, không lợi ích, pháp đối trị phiền não cũng như thế.
Lại nữa, minh sư có hai hạng:
1. Vị thầy đã được Đạo nhãn (sáng đạo) xét biết căn cơ của người học, để cho phương pháp đối trị, phù hợp pháp môn tu tập. Như ngài Xá Lợi Phất(1) nói pháp cho hai đệ tử, do không biết căn cơ đệ tử, nên Ngài dạy người thợ rèn tu pháp quán bất tịnh, người đệ tử làm nghề giặt y phục thì dạy pháp tu Sổ tức. Do trái với pháp tu nên không thành tựu mà còn khởi tà kiến. Sau khi được Phật dạy chuyển đổi phương pháp quán, cả hai người đều ngộ đạo.
2. Vị thầy không có Tha tâm trí(2) chưa được đạo nhãn, không biết căn cơ người học. Nếu họ đến tham học tọa thiền, trước tiên cần phải dạy pháp tu Chỉ, sau khi họ tu pháp Chỉ, tâm được an định, các căn tính thiện hay ác liền hiện ra. Nếu nhân nơi tâm an tĩnh mà phát các thiền định, vị thầy phải xem pháp thiền nào phù hợp với căn cơ của họ để dạy họ tu tập. Nếu thấy pháp môn đó, người học tu tập mà không khai phát thiền định, thậm chí còn sinh khởi các phiền não tham, sân, si v.v... Lúc này vị thầy xem xét người học tùy theo thứ độc nào nhiều, khéo dạy họ pháp tu đối trị để phá trừ, sau khi phá trừ các bệnh chướng ngại, thiền định liền khai phát.
Hiện nay trước tiên là thuyết minh về phương pháp tu Chỉ, chính là ý của hai vị thầy trao dạy pháp tu. Nếu nói khác ở đây, thì căn duyên thiện ác của người học rất khó phân biệt, nếu không biết rõ căn cơ của họ, trao sai pháp tu, nhất định có lỗi không hợp căn cơ. *1. THUYẾT MINH CHỈ MÔN
Chia làm bốn phần:
I- Phân biệt Chỉ môn bất đồng
II- Đại ý lập pháp tu Chỉ
III- Phương pháp tu Chỉ
IV- Tướng chứng pháp Chỉ I- PHÂN BIỆT CHỈ MÔN BẤT ĐỒNG
Có hai ý:
1. Luận thực hành
2. Luận ý nghĩa
1. Luận thực hành
Có rất nhiều phương pháp, nay chỉ nêu ra ba pháp:
a) Hệ duyên chỉ b) Chế tâm chỉ c) Thể chân chỉ
Sở dĩ gọi chung là Chỉ, cũng gọi Chế chỉ, tức là kềm chế dừng dứt. Kềm hãm không cho tâm dong ruỗi, nên gọi là Chế. Chuyên chú tâm nơi một việc, dứt các loạn tưởng, gọi là Chỉ.
a) Hệ duyên Chỉ: buộc tâm nơi chóp mũi, hay giữa rốn v.v… không cho tâm chạy rong,
b) Chế tâm Chỉ: nếu tâm khởi giác quán (vọng tưởng), liền chế ngự không cho dấy khởi.
c) Thể chân Chỉ: thể ngộ các pháp là Không, dứt các vọng tưởng, lo nghĩ.
2. Luận ý nghĩa
Cũng có rất nhiều thứ, nay dẫn ra ba ý:
a) Tùy duyên Chỉ b) Nhập định Chỉ c) Chân tính Chỉ
a) Tùy duyên Chỉ: khi tùy theo tâm khởi, nhất định có Tam-ma-đề (định). Nên trong Kinh Niết Bàn nói: “Định trong Thập đại địa (tâm sở), gọi là định bậc hạ”.
b) Nhập định Chỉ: khi chứng thiền định, do pháp định trì giữ tâm nên tâm được dừng trụ.
c) Chân tính Chỉ: lý của tâm tính, thường tự chẳng động, nên gọi là Chỉ. Kinh Tư Ích nói: “Tất cả chúng sinh, tức là Diệt tận định”.
Nay dùng ba ý nghĩa này, để nói ba pháp tu Chỉ trên:
- Tùy theo nhân duyên tự tính mà được thiền định, nên nói Hệ duyên chỉ.
- Tùy theo quả báo mà có pháp thiền định, nên nói Chế tâm chỉ.
- Do đầy đủ tính bất động, nên nói Thể chân chỉ. II- ĐẠI Ý LẬP PHÁP TU CHỈ
Có bốn phần:
1. Phân biệt tướng sâu cạn chẳng đồng của ba pháp tu
Chỉ
2. Giải thích đối trị tướng phá của ba pháp tu Chỉ
3. Tùy tâm tham muốn
4. Tùy căn cơ thích hợp
1. Phân biệt tướng sâu cạn chẳng đồng của ba pháp tu Chỉ
Nhân nơi thô nhập vào tế, thì ý nghĩa có sâu cạn. Hệ duyên Chỉ và Chế tâm Chỉ là tu trên sự tướng nên thuộc về tướng thô cạn. Thể chân Chỉ rất vi tế nên thuộc về sâu kín, vi tế.
2. Giải thích đối trị tướng phá của ba pháp tu Chỉ
Có hai thứ:
a) Dùng sâu phá cạn b) Hồi hỗ tướng phá
a) Dùng sâu phá cạn
Phá trừ tâm tán loạn chạy theo duyên ngoài, nên thành lập Hệ duyên Chỉ.
Chế tâm Chỉ dùng để phá trừ Hệ duyên Chỉ, vì tâm chẳng thuộc về sắc pháp thì làm sao đem tâm buộc trên chóp mũi hay dưới rốn? Do đó muốn tâm vắng lặng, cần phải dứt các duyên chạy theo ngoại cảnh, kềm chế tâm an định một chỗ. Thể chân Chỉ là dùng để phá trừ Chế tâm Chỉ, vì tâm không hình tướng, tự tính không thể được, thì làm sao kềm chế? Do hiểu tâm chẳng phải tâm, nên không khởi vọng niệm, dừng trụ mà không chỗ dừng trụ, nên gọi là Chỉ. Nếu có chỗ dừng trụ, là do nương nơi vọng tưởng phát sinh, nên không gọi là Chỉ. Trên đây là dùng sâu để phá cạn, trở về nguồn gốc, nên lập ra ba pháp tu Chỉ này.
b) Hồi hỗ tướng phá
Trong lúc tu Chỉ, nếu có một niệm tri kiến phát sinh, liền dùng một pháp tu Chỉ để đối trị phá trừ, chỉ cần suy xét kỹ sẽ hiểu.
3. Tùy tâm tham muốn
Có người thích an tâm nơi các cảnh giới, có người thích tu pháp Chế tâm Chỉ, hay Thể chân Chỉ. Nên vị thầy tùy theo sở thích của họ để dạy, thì người học hoan hỷ thực hành. Nếu trái sở thích của họ thì tâm họ không vui vẻ thực hành.
4. Tùy căn cơ thích hợp
Trường hợp này không nhất định phải dạy theo sở thích của người học, như người thích tu pháp Chế tâm Chỉ, mà không muốn nhập định, nếu tạm thời buộc tâm trụ nơi cảnh, liền phát các thiền định, cho nên phải tùy theo phương tiện thích nghi mà trao dạy pháp tu. III- PHƯƠNG PHÁP TU CHỈ
Có ba ý:
1. Tu Hệ duyên Chỉ
2. Tu Chế tâm Chỉ
3. Tu Thể chân Chỉ
1. Tu Hệ duyên Chỉ
Đem tâm dừng trụ nơi năm địa điểm: Trên đỉnh đầu, giữa chặng mày, chóp mũi, dưới rốn và dưới chân.
HỎI: Toàn thân đều có thể trụ tâm, vì sao chỉ nói năm chỗ?
ĐÁP: Năm địa điểm này làm phương tiện dụng tâm dễ an định hơn chỗ khác, như hai bên sườn đều nghiên lệch nên không nói. Như đầu tròn đối với trời, chân vuông là đối với đất, rún là hơi khí của biển, mũi là cửa của gió, trán là chỗ để tu quán xương trắng.
Nay trụ tâm trên đỉnh đầu để đối trị tâm hôn trầm, ngủ nhiều. Nếu trụ lâu ở đây thì có cảm giác bồng bềnh như bệnh phong, hoặc tương tự như được thần thông muốn bay lên, do hay phát sinh những bệnh này nên không được áp dụng thường.
Nếu đem tâm trụ trên mé tóc, chỗ này tóc đen, thịt trắng, tâm dễ an trụ. Hoặc quán xương trắng lâu ngày thì bệnh phát sinh, ví như mắt cứ nhìn lên hoặc có thể thấy các màu sắc xanh, vàng, đỏ v.v... hình tướng như hoa đốm, như mây, khiến tâm sinh vọng lự điên đảo.
Nếu buộc tâm trụ nơi chóp mũi, do mũi là cửa ra vào của hơi thở, hành giả quán sát liên tục không dừng, thì dễ dàng ngộ được lý vô thường. Cũng dùng để tu pháp Sổ tức, nếu tâm an định có thể khai phát thiền định.
Nếu trụ tâm phía dưới rốn là huyệt Khí hải, cũng gọi là Trung cung, trụ tâm nơi đó có thể trừ các chứng bệnh, hoặc quán thấy 36 vật trong nội tạng, từ đó có thể khai phát các thiền định như: Thập lục đặc thắng v.v...
Nếu trụ tâm dưới chân, đây là chỗ thấp nhất, hơi theo tâm xuống dưới, Tứ đại được điều hòa. Những người tu tập pháp quán bất tịnh, phần nhiều quán từ dưới lên, do pháp trụ tâm này, có thể khai phát pháp môn quán bất tịnh của đời trước.
Dùng năm địa điểm này làm duyên an trụ tâm, khiến tâm không tán loạn, để luận về pháp tu Hệ duyên Chỉ, là ý tại ở đây. Ví như khỉ vượn leo cây, nhảy nhót lăng xăng, nếu xích nó lại một chỗ, lâu dần nó tự yên, pháp điều hòa tâm cũng như thế. Nếu tâm dừng trụ, trước khi nhập định, lại có tâm vắng lặng dừng trụ này, gọi là Ngưng tâm Chỉ. Nếu khi được nhập định, thân tâm tự nhiên rỗng rang vắng lặng, gọi là Nhập định Chỉ.
2. Tu Chế tâm Chỉ
Tâm vốn không có hình sắc, cũng không có chỗ cố định, làm sao trụ tâm nơi cảnh? Chẳng qua chỉ chế phục vọng tưởng duyên lự mà thôi. Nếu tâm đã yên lặng dừng trụ thì không cần kềm chế, chỉ dứt tâm vọng tưởng tán loạn, tức là tu Chỉ.
HỎI: Tâm chẳng phải trên, chẳng phải dưới, hoặc có khi Khoan, Cấp, Phù, Trầm, vậy phương pháp điều hòa cho thích hợp như thế nào?
ĐÁP: Tâm tuy chẳng phải là trên hay dưới, vì đối trị các bệnh phù, trầm, cho nên phải đưa tâm an trụ lên trên hay ở dưới, đối với việc tu hành không có lỗi. Nếu tâm phù động, có thể tác ý an tâm trụ xuống dưới. Nếu tâm hôn trầm có thể đưa tâm an trụ lên trên.
Lại nữa, nếu đem tâm an trụ xuống dưới, có rất nhiều lợi ích, nay chỉ nói sơ lược hai thứ:
Tâm dễ được định. Các bệnh không sinh.
3. Tu Thể chân Chỉ
Dùng trí tuệ quán chiếu, thể ngộ tất cả các pháp nhân quả trong Tam giới, như Thập nhị nhân duyên, Cửu thập bát sử(3) Tam độc, Ấm, Giới, Nhập
v.v... tất cả đều là Không, là tịch lặng. Như trong Kinh Đại Phẩm ghi: “Tức sắc là không, chẳng phải sắc diệt hết mới gọi là không, tự tính của sắc vốn là không. Không tức là sắc, sắc tức là không, lìa sắc thì chẳng có không, lìa không thì chẳng có sắc. Tất cả các pháp: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như thế”.
Vì cớ sao? Vì hiện nay thấy các pháp: Ấm, Giới, Nhập v.v... tự tính chẳng có, thì làm sao có thể sinh các thứ điên đảo nhân ngã, chúng sinh, thọ mạng v.v...
Làm sao biết các pháp là Không? Như quá khứ khởi tạo các hạnh nghiệp phiền não làm nhân, hiện tại nương nơi thân phần của cha mẹ làm duyên, do nhân duyên hợp thì có quả báo, đã có quả báo thì có các pháp ấm, giới, nhập v.v... nghiệp này là pháp gì mà có thể làm quả báo, tạo nhân ấm, giới, nhập? Nếu nói tâm thiện của quá khứ chính là nghiệp, nhưng tâm quá khứ tạo việc thiện và tâm số pháp đều đã diệt hết, làm sao có thể tạo nhân ấm, giới, nhập v.v... và quả báo hiện tại?
Nếu nói tâm chẳng phải là nghiệp, nhân khi khởi tạo nghiệp, nghiệp tùy theo tâm đến; tâm chuyển diệt nên nghiệp cũng phải theo tâm mà
chuyển diệt; nếu nghiệp chuyển diệt, thì đâu thể cảm được quả báo đời này và các pháp ấm, giới, nhập v.v... Nếu nghiệp chuyển diệt, nên biết rằng nghiệp không thể đến. Vì sao nghiệp không đến? Nếu nghiệp không đến mà người thọ quả báo, báo này không thể gọi là quả báo. Vì sao? Vì không tạo nghiệp thì có chỗ nào đền trả quả báo.
Nếu nói tâm quá khứ tuy đã diệt hết rồi, mà tâm kế tiếp tục sinh khởi, cho nên nghiệp tiếp tục theo tâm mà đến, như nói nghiệp quá khứ tuy diệt hết, nghiệp kế lại tiếp tục sinh khởi, nên đến được nhân hiện tại, nói như thế thật là sai lầm lớn. Vì sao? Vì có khi tâm thiện của quá khứ diệt hết mà tâm ác tiếp tục sinh, nay cũng nghiệp thiện của quá khứ diệt mà nghiệp ác tiếp tục sinh, như thế phải cảm quả báo ác, nhưng vì sao lại cảm quả báo thiện được? Nếu nói nghiệp đến mà không theo tâm, thì nghiệp này phải tự có sẵn quả báo, lìa tâm mà thọ quả báo, thật ra ở đây chẳng phải thế.
Lại nữa, nếu nghiệp có hình tướng, nghiệp đó thuộc về pháp hữu vi. Nếu là pháp hữu vi, nhất định phải theo ba tướng: sinh, trụ, diệt; nếu rơi vào ba tướng tức là thuộc tướng sinh diệt; nếu đã sinh diệt thì nghiệp không đến hiện tại; quá khứ đã diệt, nên biết nghiệp cũ cũng diệt, vậy ai cảm quả báo này? Không thể nói là bắt đầu phát sinh nghiệp mới có thể cảm quả báo đời này, nếu nói nghiệp có hình tướng, nghĩa này không đúng. Nếu nói nghiệp không có hình tướng mà có thể cảm quả báo, đây cũng không đúng. Vì sao? Vì pháp không hình tướng, tức là pháp vô vi, mà vô vi tức là không có nghiệp, làm sao cảm được quả báo?
Lại nữa, pháp không hình tướng, chính là nghĩa Không. Không thì chẳng sinh diệt, đâu thể gọi là nghiệp? Nếu nói Không là chẳng có hình tướng có thể cảm quả báo, thì 3 Pháp vô vi(4) cũng phải cảm được quả báo, đã không phải như thế, làm sao nói nghiệp là vô tướng mà có thể sinh quả báo? Do những nhân duyên trên đây, thì nghiệp vốn không thể được, nên biết không có nghiệp này. Nếu nghiệp không thể được, vì sao lại nói tất cả các pháp ấm, giới, nhập đều do nghiệp ở trong phát sinh? Cũng không phải do từ duyên ngoài phát sinh, nếu từ duyên ở ngoài phát sinh quả báo, thì khi các âm dương kết hợp, đều phải có quả báo và các pháp ấm, giới, nhập v.v... như vậy thì chẳng cần đợi nghiệp giữ thần thức đến mới có sinh. Nên biết phát sinh quả báo, chẳng phải do duyên bên ngoài.
Nếu bảo rằng do nhân duyên hòa hợp, nên có sinh quả báo và các pháp ấm, giới, nhập v.v... Nếu trong nhân và duyên mỗi thứ đều có thể sinh, khi hợp lại phải có hai cái sinh ra. Nếu mỗi cái không sinh, khi hợp làm sao mà có sinh? Nếu nói lìa nhân và ngoại duyên mà có sinh, việc này không đúng.
Từ nhân duyên mà có sinh, còn không thể được, huống gì không nhân duyên mà có sinh sao? Nếu không nhân duyên mà có sinh, thì nghĩa lý nhân quả bị hoại vậy, như vậy người làm việc thiện ở thế gian, phải chịu quả báo ác, người làm việc ác được quả báo thiện. Cũng chẳng cần tu đạo làm gì, đây chính là phá đạo lý nhân quả thiện ác thế gian, gọi là đại tà kiến vậy.
Nên biết các pháp ấm, giới, nhập, chẳng phải từ nhân ở trong mà có, chẳng phải do duyên ngoài mà có, cũng không do nhân duyên hòa hợp mà có, cũng chẳng phải do không nhân duyên hòa hợp mà có.
Nếu chẳng Có tức là Không. Nếu trong chỗ Không mà chấp thật Có, đây là vô minh điên đảo, vọng chấp là có. Nếu biết các pháp chấp sai lầm ấy đều là hư dối, giống như mộng huyễn, chỉ có danh tự suông. Những pháp danh tự cũng không thể được, thì ngôn ngữ đều dứt bặt, tâm hành cũng diệt hết. Rốt ráo rỗng không và vắng lặng, giống như hư không.
Nếu hành giả thể ngộ được các pháp rỗng rang như hư không, không chấp cũng không xả, không nương gá, bám chấp, nếu tâm không thủ, không xả, không trụ, không chấp, thì những vọng tưởng điên đảo, nghiệp quả sinh tử thảy đều dừng dứt. Vô vi, vô dục, vô niệm, vô hành, chẳng tạo tác, không cạnh tranh, thị phi, rỗng rang thanh tịnh. Như cảnh giới Đại Niết-bàn, đây gọi là Chân chỉ.
Đây là dừng mà không chỗ dừng trụ, không dừng trụ mà dứt bặt, đây gọi là Thể chân chỉ.
Như bài kệ trong kinh
Trong tất cả các pháp
Nhân duyên sinh không chủ, Dứt niệm đạt nguồn tâm. Nên hiệu là Sa-môn. IV- TƯỚNG CHỨNG PHÁP CHỈ
Có hai kiến giải chẳng đồng
Có thầy cho rằng: Tu Chỉ không chứng gì khác, chỉ là tiền phương tiện của các thiền; nếu có sở chứng, cũng thuộc về các thiền khác. Ý nghĩa này đến chương “Giải thích thiện căn khai phát”, sẽ nói việc này.
Có thầy nói: Pháp tu Chỉ chẳng những có thể khai phát các thiền định, mà có khả năng chứng được Ngũ Luân thiền. Vì sao? Vì các pháp môn khác đều có pháp tu tập riêng để an tâm, về sau mới thứ tự khai phát các thiền định chẳng đồng.
Hiện nay giải thích pháp tu Chỉ này, tức là cần kiềm chế tâm một chỗ, thì Ngũ luân thiền tự nhiên khai phát. Ví như nước trong lặng không có sóng, thì muôn cảnh tượng đều hiện rõ, tu Chỉ cũng như thế.
Nay giải thích do tu Chỉ, chứng Ngũ luân thiền. Ngũ luân gồm có: Địa luân, Thủy luân, Phong luân, Kim sa luân, Kim cang luân. Năm pháp môn này, đều dùng thí dụ để đặt tên, gọi chung là luân. Luân nghĩa là vận chuyển vậy. Như bánh xe nếu chuyển động, từ chỗ này đến chỗ kia, trong thiền định giải thích chữ Luân cũng như thế.
Tầng định của Địa luân, nghĩa là do lìa tâm tán loạn, tu từ bậc thấp lên đến cảnh giới cao hơn, nên gọi là Luân. Cho đến ý nghĩa của định Kim cương luân cũng như thế, đây là từ cảnh giới thấp chuyển đến quả vị vô học cùng tột vậy.
1. Địa luân
Địa (đất) có hai nghĩa: Trụ trì bất động và sản sinh muôn vật.
Hành giả do tu Chỉ mà chứng định Vị đáo địa, tự nhiên nội tâm lắng lặng, tự biết thân tâm như tướng hư không, lặng lẽ nhập định. Do sức thiền định trì giữ tâm không dao động, nên gọi là Trụ trì. Nhân nơi định Vị đáo địa mà phát sinh các thứ công đức của Sơ thiền, ví như đất sinh ra muôn vật vậy.
2. Thủy luân
Thủy (nước) có hai nghĩa: Tưới tẩm muôn vật được sinh trưởng và thể tính nhu nhuyến, mềm mại.
Hành giả trụ trong định Địa luân, nếu chứng Thủy luân tam-muội, thì những công đức của các thiền định phát. Do nước thiền định tưới tẩm cho ruộng tâm, hành giả tự biết thiện căn trong nội tâm tăng trưởng, chính là ý nghĩa tưới ướt của nước vậy.
Do được thiền định, nên thân tâm hành giả dịu dàng, hàng phục chặt đứt tâm ngã mạn, tùy thuận theo pháp lành, đây là ý nghĩa nhu nhuyến, thấm ướt, nên gọi là Thủy luân.
3. Phong luân
Phong (gió) có ba nghĩa: Dạo trong hư không vô ngại, có thể phá hoại và đánh động muôn vật.
Khi hành giả khai phát Phong luân tam-muội cũng như thế. Hoặc nhân nơi thiền định phát Trí tuệ phương tiện vô ngại, ví như gió bay trong hư không, thảy đều vô ngại.
Đánh động: Nghĩa là hành giả dùng phương tiện, có thể kích phát những thứ công đức thiện căn xuất thế gian, được tăng trưởng.
Phá hoại: Nghĩa là trí tuệ phương tiện có khả năng phá trừ các tri kiến, phiền não.
Nếu hàng Nhị thừa chứng được Phong luân tam-muội này, tức là 5 phương tiện Tương tự vô lậu.(5) Nếu hàng Bồ-tát chứng pháp này, tức là nhập Thiết luân thập tín, gọi là Phong luân.
4. Kim sa luân
“Kim” nghĩa là vàng, dụ cho trí chân thật, “Sa” nghĩa là cát, dụ cho tâm không bám chấp.
Nếu hành giả khai trí tuệ thấy biết chân thật, không nhiễm không chấp, chứng được Tam quả (quả dự lưu, quả bất lai, quả bất hoàn). Nếu hàng Bồ-tát chứng Tam-muội này, tức là nhập vào địa vị Tam hiền(6) Thập địa(7) có khả năng phá trừ Trần sa phiền não(8). Đây gọi là Kim sa luân.
5. Kim cương luân
Tức là tầng thiền thứ chín (Cửu Vô ngại đạo) (9) gọi là Kim cương tam-muội. Ví dụ như thể chất cứng chắc của Kim cương, tác dụng rất sắc bén, có khả năng hủy hoại các vật. Sức định của Kim cương luân cũng như thế, không bị những phiền não hư vọng xâm phạm, có công năng diệt trừ các kiết sử phiền não, thành tựu quả A-la-hán. Nếu định này thuộc về tâm của Bồ-tát, tức là Kim cương bát-nhã, có khả năng phá trừ vô minh vi tế, chứng Nhất thiết chủng trí, định Kim cương này, cũng còn gọi là Thanh tịnh thiền. Bồ-tát nương nơi định này, nên chứng được quả đại Bồ-đề.
Ý nghĩa chữ Luân, ví dụ như bánh xe, nếu không có trâu kéo, bánh xe không thể tự lăn, thiền định của Ngũ luân cũng như thế. Tuy nơi mỗi tầng thiền đều có công đức vi diệu, nếu không dùng pháp tu Thể Chân Chỉ để dẫn đường và huân tu tâm buông xả, thì mỗi tầng thiền đều có chướng ngại, trái với ý nghĩa chữ Luân. Nếu hành giả khéo tu tập pháp vô chấp của Thể Chân Chỉ, có thể tu từ sơ tâm cho đến chứng quả Niết-bàn thì dùng chữ Luân mới đúng ý nghĩa.
Trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Chúng sinh mỗi chỗ đều dính mắc, nên cần dẫn dắt họ được giải thoát”. Nên biết hành giả khéo tu pháp Chỉ, thì có đầy đủ năm thứ thiền định, chứng được quả Thánh của tam thừa. Chú thích Quyển 3:
(1) Xá Lợi Phất: Trí Tuệ đệ nhất là 1 trong 10 Đại đệ tử Phật
(2) Tha tâm trí (Tha tâm thông): năng lực biết được tướng sai biệt trong tâm người khác, là 1 trong 10 trí, cũng là 1 trong Lục thông.
(3) Cửu thập bát sử (Cửu thập bát tùy miên): tức là 98 loại tùy miên, Kiến hoặc có (88 tùy miên) và Tư hoặc có (10 tùy miên) trong 3 cõi do Tông Câu Xá lập. Tùy miên là tên gọi khác của phiền não. Vì phiền não thường theo đuổi người nên gọi là tùy, thể trạng của nó vi tế sâu kín khó biết như bệnh ngủ nên gọi là Miên. Sở dĩ có 98 loại này là do phối hợp 10 tùy miên: [tham, sân, si, mạn, nghi, thân, biên, tà, thủ, giới cộng với 5 bộ (Kiến đạo khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế và tu đạo) trong 3 cõi] Cõi dục, “kiến khổ sở đoạn” có 10 thứ; “kiến tập sở đoạn” có 7 thứ; “kiến diệt sở đoạn” có 7 thứ; “kiến đạo sở đoạn” có 8 thứ và 4 thứ “Tu hoặc sở đoạn”, cộng chung là 36 thứ. Ngoài ra cõi Sắc và Vô sắc trong 5 bộ, mỗi cõi có 31 thứ hợp lại là 98 thứ.
(4) Ba pháp vô vi (Tam vô vi): ba pháp vô vi y cứ theo sự phân loại của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.
1/ Hư không vô vi: hư không tức vô ngại. Nghĩa là lý chân không không bị phiền não làm chướng ngại, tức là lấy vô ngại làm tính, dung chứa vạn vật và trùm khắp mọi nơi.
2/ Trạch diệt vô vi: hàng Thanh văn dùng trí phân tích xa lìa sự trói buộc của Kiến, Tư hoặc, chứng lý tịch diệt chân không.
3/ Phi trạch diệt vô vi: hàng Thanh văn sau khi chứng quả, các “Hoặc” không còn khởi nữa, tự nhiên khế ngộ lý tịch diệt chân không, không nhờ trạch diệt.
(5) Tương tự Vô lậu: Tỳ Bà Sa 5 có nói Thế đệ nhất pháp tương tự với Kiến đạo vô lậu, vì Thế đệ nhất pháp là chán ghét hữu lậu, thú hướng vô lậu, gần với Kiến đạo, nên gọi là Tương tự vô lậu.
(6) Tam hiền: 3 giai vị tu hành các thiện căn để hàng phục các phiền não, khiến tâm được điều hòa. Tam hiền có Tiểu thừa và Đại thừa khác nhau.
a) Tiểu thừa tam hiền vị: giai vị tu các thiện căn Hữu lậu, có 3 giai vị:
1/ Ngũ đình tâm quán: quán tâm để dứt năm món: tham, sân v.v…
2/ Biệt tướng niệm trụ: quán tự tướng: thân thọ tâm; cộng tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã.
3/ Tổng tướng niệm trụ vị: giai vị quán chung các cộng tướng. Ba giai vị tu hành chuẩn bị nhập Kiến đạo.
b) Đại thừa Tam hiền vị: giai vị tu hành của hàng Bồ-tát, có 3 lớp:
1/ Thập trụ: tâm hội được lý, an trụ bất động gọi là Trụ.
2/ Thập hạnh: thực hành 10 hạnh này thì sẽ được tiến tới quả vị nên gọi là hạnh.
3/ Thập hồi hướng: hồi nhân hướng quả gọi là hồi hướng, có 10 thứ.
(7) Thập địa: mười giai vị trong quá trình tu hành của đệ tử Phật. Địa nghĩa là trụ xứ, trụ trì, sinh thành. Tức là an trụ nơi giai vị ấy và lấy đó làm nhà, đồng thời giữ gìn pháp, trưởng dưỡng pháp, khiến cho sinh quả. Danh từ Thập địa mà các kinh luận nêu gồm có 4 loại:
1/ Tam Thừa Cộng Thập Địa hoặc là Cộng Thập Địa, hay Cộng Địa, Tông Thiên Thai gọi là Thông Giáo Thập Địa: tức là 10 địa chung cho cả 3 thừa được ghi trong kinh Đại Phẩm Bát Nhã.
2/ Mười giai vị Bồ-tát được nói trong Kinh Hoa
Nghiêm 23 (cựu dịch) 34 (bản tân dịch).
3/ Mười giai vị tu hành của hàng Thanh văn.
4/ Bích chi Phật thập địa, Duyên giác thập địa, Chi Phật thập địa, Độc giác thập địa, tức là 10 giai vị tu hành của Bích chi Phật.
(8) Trần sa phiền não (Trần sa hoặc): “Trần sa”: cát bụi, dụ cho số lượng rất nhiều. “Hoặc” là phiền não, hoặc này có mặt khắp trong ngoài 3 cõi, muốn phá trừ phải dùng “giả quán” trong 3 quán. Vì hoặc này nhiều vô số nên ví dụ như cát sông Hằng.
(9) Cửu Vô ngại đạo (Cửu vô gián đạo): 9 loại Vô lậu ở giai vị đang đoạn phiền não. Gián nghĩa là ngăn ngại, gián cách, tức là khi hành giả quán lý chân trí chẳng bị hoặc lậu làm chướng ngại. Tuy phiền não vẫn còn, nhưng niệm sau chứng được lý trạch diệt nên giữa phiền não và trạch diệt không có khoảng cách, gọi là vô gián. Từ quả vị này mà tu tập đạt đến Niết-bàn, gọi là Đạo. Ba cõi chia làm 9 địa, mỗi địa đều có Tư hoặc, Kiến hoặc. Tư hoặc của 1 địa lại chia làm 9 phẩm đoạn hoặc. Mỗi lần đoạn 1 phẩm hoặc đều có Vô gián đạo và Giải thoát đạo, giai vị đoạn phiền não này gọi là Vô gián đạo, còn trí tuệ đạt được sau khi đoạn hoặc gọi là Giải thoát đạo. Tu hoặc ở mỗi địa có 9 phẩm, cho nên đạo (phương pháp) đối trị cũng có 9 bậc, gọi là Cửu vô gián đạo, hay Cửu giải thoát đạo. Ngoài ra, bậc thánh vô học trong lúc tu luyện căn, chuyển chủng tính cũng có Cửu vô gián đạo hay Cửu giải thoát đạo. *2. NGHIỆM CĂN TÍNH THIỆN ÁC
Hành giả đã khéo léo tu Chỉ, dừng dứt các loạn tưởng, thì nội tâm ngưng lặng. Do tâm ngưng lặng, nên những thiện căn từ đời trước tự nhiên khai phát. Nếu không có thiện căn thì sẽ phát những căn tính xấu ác, nên trong kinh có nói: “Trước tiên dùng thiền định dừng tâm động, sau mới dùng trí tuệ chặt đứt”. Tu pháp Chỉ là cửa ban đầu, trong hai thứ thiện và ác này, nhất định có một thứ phát ra.
Hành giả cần biết rõ tướng trạng của nó để thủ hay xả, mà không trái với chánh đạo, cho nên phải phân tích. Nay trong căn tính thiện ác chia làm hai phần để giải thích:
A. Thể nghiệm căn tính Thiện
B. Thể nghiệm căn tính Ác
Nhưng luận về phát sinh căn tính thiện ác thì có trước sau, mỗi loại tùy theo mỗi người chứ không nhất định phải thiện trước ác sau vậy. A. THỂ NGHIỆM CĂN TÍNH THIỆN
Chia làm bốn phần:
I- Pháp thiện
II- Thiện căn phát tướng
III- Nghiệm biết thiền thật giả
IV- Tổng kết phát thiền bất định I- PHÁP THIỆN
Có hai thứ:
1. Ngoại thiện
2. Nội thiện
1. Ngoại thiện
Có rất nhiều thứ, nay nói sơ lược có năm thứ: Bố thí, trì giới, hiếu thuận cha mẹ và sư trưởng, kính tin Tam bảo, siêng năng cúng dường, đọc tụng nghe pháp. Năm thứ thiện căn này, thuộc về phần ngoài, nên tướng phát thiện căn chẳng đồng. Sở dĩ đều thuộc thiện căn ở ngoài, là do nguồn gốc hành vi tạo tác và tu tập trong khi tâm còn loạn động, chưa thể ra khỏi Dục giới, khai phát thiền định vô lậu, nên gọi là Ngoại thiện.
2. Nội thiện
Tức là năm pháp môn thiền: A-na-ban-na (Sổ tức), Quán bất tịnh, Quán tâm từ, Quán nhân duyên, Niệm Phật tam-muội. Năm pháp môn này, thâu nhiếp tất cả các môn thiền định, khai phát thiền vô lậu, nên gọi là Nội thiện.
HỎI: Nội thiện có vô luợng, vì sao chỉ nói năm môn?
ĐÁP: Năm môn tuy ít, mà bao hàm các môn thiền.
Vì sao?
1. Quán sổ tức: Có khả năng thông đạt các thiền định như: Tứ thiền, Thập lục đặc thắng, Thông minh thiền v.v…
2. Quán bất tịnh: Có khả năng thông đạt các thiền tam-muội như: Cửu tưởng, Bát bối xả, Siêu việt tam-muội v.v…
3. Quán từ bi: Có khả năng thông đạt các thiền tam-muội như: Tứ vô lượng tâm, v.v…
4. Quán nhân duyên: Có khả năng thông đạt các thiền tam-muội như: Thập nhị nhân duyên, Tứ đế v.v...
5. Niệm Phật: Có khả năng thông đạt đến Cửu chủng thiền và 108 tam-muội(1).
Đồng thời pháp quán hơi thở, cũng chính là pháp tu thiền định của phàm phu thế gian. Quán bất tịnh tức là thiền xuất thế gian của hàng Thanh văn hành. Quán tâm từ, dù hàng phàm phu hay Thánh nhân cũng đều tu, vì pháp quán này phước đức rất lớn, cho nên tu quán tâm từ để thâm nhập Tứ vô lượng tâm. Kế là quán nhân duyên tức là pháp hành của Bích chi Phật, niệm Phật tam-muội tức là pháp hành của hàng Bồ-tát vì có công đức rộng lớn.
Trên đây đã giải thích thứ tự tướng trạng sâu cạn của năm môn thiền. Năm môn thiền này đối trị bốn phần phiền não, bốn phần phiền não phát sinh (84000) tám vạn bốn ngàn trần lao, thì năm môn thiền này có thể phát sinh (84000) tám vạn bốn ngàn phương pháp để dùng đối trị.
Nói tóm lại, chỉ nêu ra năm môn thiền này đã bao hàm đầy đủ tất cả thiện ở trong. Theo thuyết của Tát-bà-đa bộ, giải thích môn Ngũ đình tâm quán(2) của bậc Sơ hiền, so với năm pháp môn thiền này cũng có chỗ tương quan. II- THIỆN CĂN PHÁT TƯỚNG
Có hai phần:
1. Ngoại thiện căn phát
2. Nội thiện căn phát
1. Ngoại thiện căn phát
Vì thiện ở bên ngoài có rất nhiều tướng trạng, nay y theo các môn ở chương trước chia ra năm thứ:
- Trong khi hành giả ngồi tĩnh tọa, bỗng nhiên trong thiền định thấy xuất hiện các thứ y phục, ngọa cụ, thức ăn mỹ vị, ruộng vườn, ao hồ, xe ngựa v.v... hoặc do tâm hành giả vắng lặng, tự mình có thể xả bỏ tham lam, keo kiệt, tâm thực hành bố thí, không luyến tiếc. Nên biết đây là hai tướng thiện căn khai phát do quả báo tu tập bố thí từ quá khứ và đời này.
- Khi hành giả ngồi tĩnh tọa, bỗng nhiên trong thiền định thấy xuất hiện các thứ như thân tướng đoan nghiêm, thân khoác y phục thanh tịnh như pháp, tắm rửa sạch sẽ, nhận được những vật tốt đẹp v.v... Hoặc khi tâm hành giả vắng lặng nên phát sinh tâm trì giới, nhẫn nhục, tự biết rõ các giới khinh, giới trọng, cho đến những tội nhỏ cũng sinh lòng lo sợ và khiêm tốn nhẫn nhục. Nên biết đây là hai thứ thiện căn phát tướng do quả báo tu tập trì giới, nhẫn nhục của đời trước và đời này.
- Khi hành giả ngồi tĩnh tọa, trong định bỗng thấy cha mẹ, sư tăng, bà con quyến thuộc, mặc y phục trang nghiêm thanh tịnh, tinh thần hoan hỷ vui mừng; Hoặc trong khi tâm hành giả vắng lặng nên phát sinh lòng từ bi, nhân ái, thương kính huynh đệ. Nên biết đây là hai thứ thiện căn khai phát, do quả báo tu tập tâm tôn kính hiếu thuận của đời trước và đời này vậy.
- Khi hành giả ngồi tĩnh tọa, trong định bỗng thấy cúng dường trang nghiêm các chùa tháp, kinh sách, hình tượng, chư tăng vân tập nơi pháp hội v.v... Hoặc trong khi tâm hành giả vắng lặng, phát sinh tâm tin kính Tam bảo, ưa thích cúng dường, tinh tấn dũng mãnh không mệt mỏi. Nên biết đây chính là hai thứ thiện căn khai phát, do quả báo tu tập tâm tin kính Tam bảo, siêng năng tinh tấn cúng dường của đời trước và đời nay vậy.
- Khi hành giả ngồi tĩnh tọa, do tâm ngưng lặng, hoặc thấy giải thích Tam tạng kinh điển, hoặc thấy bốn chúng xuất gia và chúng tại gia có đức hạnh đang đọc tụng, nghe kinh điển Đại thừa v.v... Hoặc do tâm hành giả vắng lặng nên đọc tụng kinh điển Đại thừa tự nhiên thâm nhập, tùy theo chỗ thấy nghe mà liễu ngộ. Hoặc tự nhiên thấu hiểu nghĩa lý Tam tạng kinh điển Đại thừa phân tích không ngăn ngại. Nên biết đây là hai thứ thiện căn phát, do quả báo tu tập nghe pháp, đọc tụng kinh điển của đời trước và đời này vậy.
Hành giả thấy các hiện tượng tốt và phát những tâm thiện như thế, chẳng phải do thiền định, mà phần nhiều là nhân đời trước và đời này tu tập các công đức trong khi tâm còn loạn động. Nay do tâm vắng lặng mà phát ra những hiện tượng như thế.
Thấy các hiện tượng ấy, đều thuộc về Nhân và Quả báo của tâm thiện khai phát, cũng do Nhân tu tập tâm thiện mà phát sinh vậy. Những tướng như thế rất nhiều không thể nói hết, hiện nay chỉ nêu sơ lược đại ý mà thôi.
Lại nữa, nguyên nhân phát sinh quả báo và tu tập có hai hạng căn tính chẳng đồng. Có người chỉ phát sinh hiện tượng do Quả báo mà không phát Nhân tu tập tâm thiện. Có người chỉ khai phát do Nhân tu tập tâm thiện mà không phát sinh hiện tượng do Quả báo.
Có người tu tập phát sinh đầy đủ cả hai thứ, có người tu tập mà cả hai thứ đều không khai phát. Những nguyên nhân như thế rất khó hiểu, đâu được sai lầm.
HỎI: Thiện căn đã là tâm tán loạn thì làm sao xuất hiện trong tâm tĩnh lặng được?
ĐÁP: Trong thiền định còn thấy được những nghiệp ác phiền não của quá khứ và đời nay sinh khởi, huống chi lý thể trợ giúp cho thiện căn mà không thấy sao?
HỎI: Khi thấy các hiện tượng ấy, có thể do thiên ma làm chăng?
ĐÁP: Cũng có trường hợp do ma giả hiện, ma còn gọi là Sát. Nếu muốn phân biệt, thì khi các hiện tượng ấy phát sinh, có thể khiến tâm thức của hành giả động loạn, hoặc các phiền não càng tăng, tâm cảm thấy bức bách chướng ngại rất nhiều, không lợi ích cho định tâm, thì đều thuộc về ma giả tạo.
Khi khai phát những thiện căn ấy, hành giả tự nhận biết tướng này rồi, tuy chưa chứng được thiền định, mà thân tâm sáng suốt, các căn thanh tịnh, khí sắc tươi nhuần, thể lực dồi dào, nên làm việc gì cũng tốt lành và lợi ích, những niệm thiện khai phát; từ đây về sau, tâm hành giả tự giác dễ thâu nhiếp, thân tâm yên ổn, không có những lỗi lầm, tai họa, nên biết đây là tướng thiện căn khai phát.
Lại nữa, nếu những hiện tượng của thiện căn khai phát này, là tướng của Báo nhân thì chỉ tạm thời xuất hiện rồi hết; hiện tượng Tập nhân của tâm thiện, thì xuất hiện liên tục không đoạn dứt. Nếu tướng ma giả hiện, thì cảnh xuất hiện rất lâu không diệt hết, tuy hết rồi lại đến não loạn hành giả; còn tâm thiện thì tạm thời phát rồi lại diệt, nhưng có khi biến thành niệm ác, nên biết đó là tà vậy.
Những hiện tượng tà hay chánh rất khó phân biệt, nếu tự mình không gần gũi bậc minh sư, thì không thể vọng chấp.
HỎI: Những thiện căn này nhất định phải khai phát trước khi chứng thiền định, hay trong khi chứng các thiền định, hay khi nhập sâu thiền định?
ĐÁP: Việc này không nhất định là phải khai phát trước thiền định, do thiện ở ngoài thuộc về tướng thô, nên giải thích trước mà thôi.
2. Nội thiện căn phát
Hiện nay rút từ trong năm môn thiền để luận về thiện căn ở trong khai phát. Trong năm môn này mỗi môn chia làm ba, cộng chung cả năm môn thành mười lăm thứ thiện căn khai phát.
a) Giải thích pháp quán hơi thở
Có ba thứ thiện căn khai phát chẳng đồng:
a.1. Thiện căn của Sổ tức phát a.2. Thiện căn của Tùy tức phát
a.3. Thiện căn của Quán hơi thở phát
a.1. Thiện căn của Sổ tức phát
Hành giả khéo tu ba pháp Chỉ (Hệ duyên Chỉ, Chế tâm Chỉ, Thể chân Chỉ) để thân tâm được đều hòa, nên khai phát các Định dục giới và Vị đáo địa v.v... thân tâm rỗng rang vắng lặng, tâm an ổn yên định. Sau khi trải qua thời gian từ một ngày đến một tuần, một tháng, một năm, thân tâm được điều hòa tốt, tâm an định không thối chuyển. Lúc này trong thiền định, bỗng có cảm giác chuyển động cả thân tâm, phát khởi tám thứ xúc (đau, ngứa, nóng, lạnh, trơn, rít v.v...), đây là hiện tượng thiện căn của Sơ thiền khai phát. Trong định này, phát sinh cảm giác tâm thiện an ổn, hỷ lạc không gì có thể diễn tả được.
Sau khi phát Sơ thiền, tiến đến Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Tứ không v.v...
a.2. Thiện căn của Tùy tức phát
Cũng ngay trong khi tâm an định tĩnh lặng của Định dục giới, Vị đáo địa, bỗng nhiên nhận biết hơi thở ra vào dài ngắn và khắp lỗ chân lông trên thân đều rỗng. Hành giả dùng tâm sáng suốt nhìn thấy ba mươi sáu vật trong thân, như mở nhà chứa đậu mè, lúa v.v... đều thấy rõ ràng. Tâm hành giả rất vui mừng, an ổn, vắng lặng, thư thái, thân không còn tạo các nghiệp thiện ác và có cảm giác hỷ, lạc v.v... đây là hiện tượng khai phát thiện căn của Thập lục đặc thắng.
a.3. Thiện căn của Quán hơi thở phát
Hành giả đang trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm vắng lặng vi tế, bỗng thấy hơi thở ra vào khắp các lỗ chân lông trên thân thể không chướng ngại, tâm hành giả từ từ sáng suốt nhạy bén, quán thấy xương cốt, thịt v.v... trong thân, giống như thấy những thứ lúa, đậu v.v... ở trong màng lưới mỏng, cũng nhìn thấy 84.000 loài vi trùng dài, ngắn, lớn nhỏ, trong thân thể và ngôn ngữ âm thanh của chúng rất rõ ràng. Lúc này tâm hành giả yên định an lạc, hoan hỷ gấp mấy lần cảm giác của thiền định ở trên.
Hoặc hành giả thấy thân thể của mình, như thân cây chuối, như bọt nước, như mây nổi, như bóng, như hình v.v... đây là hiện tượng khai phát thiện căn của Thông minh thiền.
b) Giải thích pháp quán bất tịnh
Gồm có ba thứ thiện căn khai phát chẳng đồng:
b.1. Thiện căn của Cửu tưởng phát b.2. Thiện căn của Bát bối xả phát
b.3. Thiện căn của Quán bất tịnh phát
b.1. Thiện căn của Cửu tưởng phát
Hành giả trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm ngưng lặng, bỗng thấy xác chết sình trương của nam và nữ, lúc này tâm hành giả giác ngộ vô thường, thương xót thân mình từ lâu nay chịu mê lầm, nên nhàm chán tham ái ngũ dục và muốn vĩnh viễn đoạn dứt. Hoặc thấy xác chết tím bầm, máu mủ, rục rã, chim chóc rúc rỉa, xương trắng tan hoại, rã rời nằm ngổn ngang v.v... Đây là thiện căn của Cửu tưởng khai phát.
b.2. Thiện căn của Bát bối xả phát
Hành giả trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm tĩnh lặng, bỗng thấy những thứ bất tịnh trong thân thể của mình, trương sình nhơ nhớp, hoặc thấy xương trắng trong thân thể, từ đầu đến chân, từng đốt nối liền nhau, thành một đống xương phát sáng. Lúc này tâm hành giả an định, nhàm chán ngũ dục, không còn ái chấp thân mình và thân của người khác. Đây là tướng thiện căn của Bát bối xả khai phát.
b.3. Thiện căn của Quán bất tịnh phát
Hành giả trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, thấy trong thân và ngoài thân, những loài cầm thú bay nhảy, hoặc y phục, thức ăn uống, núi rừng cây cối v.v... thảy đều bất tịnh. Hoặc thấy nhà cửa xóm làng, cả nuớc, cho đến mười phương thế giới thảy đều bất tịnh. Hoặc thấy đống xương trắng, cho đến thấy xương trắng trong thân của chính mình phát sáng. Đây là tướng thiện căn của Quán bất tịnh khai phát.
Khi hành giả quán thấy những cảnh tượng này, có thể phá trừ tất cả tâm bám chấp, dính mắc.
c) Giải thích pháp quán tâm từ
Có ba thứ thiện căn khai phát chẳng đồng:
c.1. Thiện căn Chúng sinh duyên từ phát c.2. Thiện căn Pháp duyên từ phát
c.3. Thiện căn Vô duyên từ phát
c.1. Thiện căn Chúng sinh duyên Từ phát
Hành giả trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm tĩnh lặng, bỗng nhiên khởi lòng thương nhớ chúng sinh. Trước tiên là thấy bà con quyến thuộc của mình được vui sướng, cho đến những người quen và kẻ oán, cũng đều được vui vẻ, an lạc. Do đó nội tâm được an định, khoái lạc. Tâm hành giả không còn sân hận, không oán không phiền não, lòng từ ái quảng đại vô lượng, trùm khắp cả mười phương. Đây là tướng thiện căn của Chúng sinh duyên Từ khai phát. Tướng khai phát thiện căn của Chúng sinh duyên Bi, cho đến Hỷ và Xả cũng như thế.
c.2. Thiện căn Pháp duyên Từ khai phát
Hành giả trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm an định, bỗng nhận biết tất cả các pháp năm ấm, mười hai nhập trong và ngoài thân thể sinh khởi, chỉ thấy các pháp sinh khởi, và các pháp diệt, không thấy chúng sinh và ngã, ngã sở, chỉ có năm ấm mà thôi, ở trong năm ấm có những cảm thọ khoái lạc. Hành giả nhận biết như thế rồi liền duyên theo cảm thọ khoái lạc này, nên định tâm từ phát sinh. Trong thiền định nội tâm hành giả không còn sân hận, tâm từ rộng lớn vô lượng, trùm khắp cả mười phương. Đây là Pháp duyên Từ.
Hoặc thiện căn của Pháp duyên Bi, cho đến, Hỷ, Xả, cũng khai phát giống như tướng thiện căn của Pháp duyên Từ vậy.
c.3. Tướng thiện căn Vô duyên từ khai phát
Hành giả cũng an trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm tĩnh lặng, bỗng giác ngộ các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, không thấy hai bên. Nghĩ rằng chúng sinh nhưng chẳng phải là chúng sinh, hoặc pháp chẳng phải là pháp, tất cả đều không, nên tâm không có chỗ phan duyên. Do không chỗ để tâm phan duyên nên các vọng tưởng điên đảo dừng dứt, nội tâm vắng lặng, an lạc cùng sức định của tâm Từ tương ưng. Quán tất cả chúng sinh đều được pháp an lạc này. Trong thiền định này tâm hành giả không sân hận, không oán, không phiền não, lòng từ rộng lớn vô lượng, trùm khắp cả mười phương thế giới. Đây là tướng thiện căn của tâm từ khai phát. Hoặc hành giả phát định Vô duyên Bi, cho đến Hỷ, Xả cũng như thế.
d) Giải thích pháp quán nhân duyên
Gồm có ba thứ thiện căn phát chẳng đồng:
d.1. Thiện căn của Tam thế thập nhị nhân duyên khai phát d.2. Thiện căn của Quả báo thập nhị nhân duyên khai phát d.3. Thiện căn của Nhất niệm thập nhị nhân duyên khai phát
d.1. Thiện căn của Tam thế thập nhị nhân duyên khai phát
Tâm hành giả cũng đang an trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, bỗng tâm giác ngộ phát sinh, do quán sát suy xét nguyên nhân vô minh của quá khứ trong ba đời đến nay, nhưng không thấy vô minh của ta và người v.v... tuy chẳng thấy nhưng các pháp cũng không thường và không đoạn, do đó hành giả có thể phá trừ 62 thứ tà kiến(3). Nên nội tâm được chánh định, an ổn, vắng lặng, trí tuệ quán chiếu sáng suốt, thông đạt vô ngại, nghiệp thân và khẩu thanh tịnh, hạnh tu chân chánh được thành tựu. Đây là tướng thiện căn khai phát trí tuệ quán chiếu mười hai nhân duyên của cả ba đời.
d.2. Thiện căn của quả báo thập nhị nhân duyên khai phát
Tâm hành giả cũng đang an trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, bỗng nhận biết tâm thức sáng suốt, nhạy bén, liền tự suy nghĩ, khi ta mới sinh ra, là do tinh huyết của cha mẹ hòa hợp mà có, tinh huyết hợp lại ấy gọi là Ca-la-la, cũng gọi là vô minh. Nhân duyên thì có hành, thức, cho đến lão tử v.v... gọi chung là Thập nhị nhân duyên (12 nhân duyên). Nếu trong thời gian mới thọ thai chỉ có vô minh, hành, thức, hòa hợp, khi ấy không có ta và không có người, thì vô minh, hành, thức cũng chẳng có thật, 12 nhân này y cứ vào chỗ nào? Nếu không thấy các pháp nhân duyên, nên chấp là Không, vậy là tà sao? Khi hành giả nghĩ như thế, liền phá chấp Có và Không, tâm quay về chánh đạo tương ứng với chánh định, khai phát Tuệ giải(4), xa lìa hạnh tà. Đây là tướng thiện căn khai phát trí tuệ quán chiếu quả báo của 12 nhân duyên. Trong Kinh Đại Tập có giải thích Thập nhị nhân duyên này rất rõ ràng. Tướng khai phát của 12 nhân duyên này đồng với Khổ, Tập trong Tứ đế và cũng có thể giải thích tướng thiện căn khai phát Tứ đế giống như Thập nhị nhân duyên vậy.
d.3. Thiện căn của Nhất niệm thập nhị nhân duyên khai phát
Hành giả cũng đang an trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm tĩnh lặng, bỗng nhiên tự nhận biết từng sát-na trong tâm, không có nhân, không có ngã, tự tính vốn không thật, vì cớ sao? Vì khi một niệm đầu dấy khởi, nhất định phải nhờ nhân duyên. Nhân duyên chính là đầy đủ cả 12 nhân duyên, nhưng nhân duyên thì không có tự tính, nên một niệm đâu nhất định phải có thật? Nếu một niệm không có thật, thì phá trừ tính tà chấp thật có của thế gian.
Lúc này tâm hành giả cùng chánh định tương ưng, trí tuệ liền khai phát, giống như tia nuớc vọt ra không dừng; nghiệp thân và khẩu của hành giả được thanh tịnh, xa lìa các tà hạnh. Đây là tướng khai phát thiện căn của nhất niệm 12 nhân duyên. Trong Kinh Đại Tập cũng giải thích 12 nhân duyên này rất rõ ràng, cũng có thể giải thích tướng thiện căn khai phát, một niệm đầy đủ Tứ đế, cũng giống như 12 nhân duyên này vậy.
e) Giải thích pháp niệm Phật
Gồm có ba thứ thiện căn khai phát chẳng đồng:
e.1. Niệm ứng thân Phật
e.2. Niệm báo thân Phật e.3. Niệm pháp thân Phật
Ba ý nghĩa niệm Phật, trong Kinh Lăng Già
phân tích rất rộng.
e.1. Niệm ứng thân Phật
Hành giả an trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm vắng lặng, bỗng nhiên nhớ những công đức của Phật, nghĩ rằng: Như lai trong nhiều A-tăng-kỳ kiếp về trước, vì chúng sinh mà tu đầy đủ hạnh Ba-la-mật, do các công đức trí tuệ, nên có được thân tướng hảo quang minh và tâm có trí tuệ chiếu sáng, hàng phục ma oán, chứng được Vô sư trí(5); tự giác, giác tha, vận chuyển bánh xe chánh pháp, thuyết pháp rộng độ tất cả chúng sinh; cho đến sau khi nhập Niết-bàn, để lại vô số xá lợi và kinh điển, làm lợi ích tất cả chúng sinh, những công đức như thế nhiều vô lượng, vô biên.
Khi hành giả nhớ nghĩ như thế, nội tâm phát sinh cung kính ái mộ chư Phật, thì tam-muội liền khai phát, an lạc nhập thiền định. Hoặc trong thiền định thấy thân tướng của Phật, nên tâm thiện khai phát; hoặc nghe Phật thuyết pháp, nội tâm được thanh tịnh, tin tưởng thấu hiểu nghĩa lý.
Những cảnh giới lành thù thắng như thế rất nhiều, đây gọi là tướng thiện căn niệm Phật khai phát.
e.2. Niệm báo thân Phật
Hành giả an trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm tĩnh lặng rất vi tế, chợt nhớ Báo thân chân thật viên mãn của chư Phật, vắng lặng thường trụ ở khắp mười phương. Sắc và tâm thanh tịnh, vi diệu tịch diệt, công đức trí tuệ sung mãn khắp pháp giới, bất sinh, bất diệt, vô tác, vô vi, thì lẽ nào lại có sinh ra nơi cung vua sao? Cũng không có nhập diệt nơi rừng cây Sa-la ở nước Ấn Độ. Chỉ vì muốn hóa độ chúng sinh, mà ứng hiện có sinh diệt khắp cõi Phật ở mười phương. Những công đức ấy vô lượng, vô biên, không thể suy lường. Khi nghĩ như thế nội tâm liền an định, yên ổn, tam-muội khai phát, trí tuệ lý giải phân minh. Hoặc trong thiền định hành giả thấy cảnh giới Phật pháp không thể nghĩ bàn, do đó phát sinh vô lượng hạnh nguyện, vô lượng công đức, vô lượng pháp môn trí tuệ tam- muội. Đây là tướng thiện căn của niệm Báo thân Phật khai phát.
e.3. Niệm Pháp thân Phật
Hành giả an trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, nội tâm vắng lặng. Chợt nhớ thật tướng Pháp
thân của chư Phật khắp mười phương, giống như hư không, nên liền giác ngộ các pháp vốn tự không sinh, nay không diệt. Chẳng có, chẳng không, không đến, không đi, không tăng, không giảm, không trí, không có cảnh giới, không nhân, không quả, chẳng thường, chẳng đoạn, không ràng buộc cũng không giải thoát, không sinh tử, chẳng Niết- bàn, chỉ thanh tịnh vắng lặng. Dù có Phật hay không có Phật, tính và tướng vẫn thường hằng. Chúng sinh và chư Phật đồng một thật tướng, đây chính là Pháp thân Phật vậy.
Trong Kinh Đại Niết Bàn có nói: “Chư pháp như thật tướng, chư pháp như thật tức thị Phật”. Ngoài đây ra thì không có Phật nào khác. Khi hành giả nghĩ nhớ như thế, tam-muội hiện tiền, trí tuệ chân thật liền khai phát, thông đạt thấu suốt vô lượng pháp môn, trong thiền định, lặng lẽ bất động, những cảnh giới không thể nghĩ bàn đều xuất hiện. Cảnh giới chứng đạt Lục căn thanh tịnh(6) có diễn tả rất nhiều trong Kinh Pháp Hoa. Đây là tướng thiện căn niệm Pháp thân Phật khai phát.
Những thiện căn nói ở trên là do tu pháp Chỉ, khai phát mười lăm môn thiền, đều hoàn toàn từ Sơ thiền, mới bắt đầu xuất hiện các cảnh giới vô hình hay hữu hình ấy. Kỳ thật tất cả tướng chứng thiền định, không thể dùng văn tự mà diễn tả đầy đủ được. Ở đây nói do tu Chỉ mà xuất hiện các cảnh giới ấy, là nói về nguyên nhân tu tập từ quá khứ của hành giả không đồng nhau, nên thiền định khai phát cũng khác nhau. Vì thế muốn bàn luận đầy đủ cả mười lăm pháp môn thiền này thật là nan giải vì sự và lý trong đó rất rộng, cảnh giới rất sâu xa. Đến phần giải thích tu chứng trong chương 7, sẽ nói rõ từ đầu tới cuối, phân biệt từng phần nhỏ.
Lại nữa, nếu hành giả trụ trong Định dục giới, Vị đáo địa, thân tâm trong lặng, hoặc khai phát quán tưởng vô thường, vô ngã, bất tịnh, nhàm chán thế gian, thức ăn bất tịnh, tử, đoạn, ly, tận v.v... hoặc khai phát nhớ nghĩ Phật, Pháp, Tăng, Giới, Xả, Thiên v.v...
Hoặc khai phát pháp quán Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo(7) v.v... Hoặc khai phát pháp Quán không, Vô tướng, Vô tác, Tứ đế, Thập lục hạnh v.v... hoặc phát những công đức hạnh nguyện, Lục ba-la-mật, Tứ nhiếp pháp, Tứ vô ngại biện v.v... hoặc phát Lục thần thông như Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông v.v... hoặc phát mười tám thứ Không (18 Không); hoặc khai phát các môn Tam-muội như: Tự tính thiền, Thập lực chủng tính, Tam-ma-bát-đề, Thủ Lăng Nghiêm, Sư tử phấn tấn v.v... hoặc khai phát tất cả các môn Đà-la-ni như: Diên đà-la-ni, Bách thiên vạn ức Diên đà-la-ni, Pháp âm phương tiện Đà-la-ni(8) v.v...
Những cảnh giới Thiền tam-muội khác nhau như thế, tướng trạng rất nhiều. Đến chương 7 nói về tu chứng, sẽ phân biệt đầy đủ các tướng cảnh giới sâu hay cạn của Thiền tam-muội. III- NGHIỆM BIẾT THIỀN THẬT GIẢ
Có hai ý:
1. Kiểm nghiệm thiền định thật giả
2. Phân biệt ma hay không phải ma
1. Kiểm nghiệm thiền định thật giả
Hành giả an trụ trong định, phát thiện căn của các thiền, trong đó thật hoặc giả không thể chọn lựa sai lầm. Vì sao? Nếu khi các thiền tam- muội khai phát, tâm không phân biệt rõ, hoặc lầm nhận ma định, cho là thiện căn phát, sinh tâm chấp trước cảnh giới ấy, do chấp lầm tà định nên phát sinh bịnh cuồng loạn.
Hoặc lúc thiện căn khai phát, cho là Ma định, do sinh tâm nghi ngờ, xả bỏ cảnh giới thiện căn, kết quả những lợi ích của thiện căn khai phát lại để thoái mất.
Những cảnh giới thật giả đó rất khó phân biệt rõ, nếu muốn biết rõ, phải y theo hai phương pháp kiểm nghiệm này, liền biết thật hay giả:
a) Xét cảnh giới để nghiệm biết b) Dùng pháp để nghiệm biết
a) Xét cảnh giới để nghiệm biết
Có hai thứ:
a.1. Cảnh giới Tà
a.2. Tướng Chánh thiền phát
a.1. Cảnh giới Tà:
Trong thiền căn bản, khi các Xúc phát sinh, chỉ cần có một Xúc nào sinh tà pháp, tức là cảnh giới tà. Tà pháp rất nhiều, hiện nay chỉ rút gọn một thứ là Động xúc thuộc trong tám xúc, để giải thích cảnh giới Tà. Đại khái có mười cặp tà pháp:
1/ Xúc thể Tăng - Diệt
2/ Định - Loạn
3/ Không - Hữu
4/ Minh - Ám
5/ Ưu - Hỷ
6/ Khổ - Lạc
7/ Thiện - Ác
8/ Ngu - Trí
9/ Phược - Thoát
10/ Cương - Nhu
Các loại cảnh giới tà này, dù hành giả đã trải qua hoặc chưa gặp cũng cần nên biết rõ.
1/ Xúc thể Tăng - Diệt: Tăng: nghĩa là khi Động xúc phát sinh, hành giả cảm giác thân thể dao động và tay chân cũng động theo, nhưng người ở ngoài nhìn thấy hành giả ngồi ngơ ngơ như ngủ. Hoặc khua tay chân như quỷ. Hoặc khi ngồi hành giả thấy các cảnh kỳ dị, đây là tướng Tăng.
Diệt: nghĩa là khi Động xúc mới bắt đầu phát sinh, hoặc phần trên hoặc dưới thân, chưa được khắp toàn thân, thì cảnh giới diệt từ từ. Do cảnh giới đã diệt mất cho nên lúc hành giả ngồi tĩnh tọa cảm thấy buồn tẻ, vì thân không thể trì giữ, đây là tướng Diệt.
2/ Định - Loạn: Định là khi Động xúc phát, thân và tâm thức bị thiền định trói buộc, không được tự do, tự tại, hoặc nhân đó nhập tà định, có thể ngồi đến bảy ngày không xuất định.
Loạn là khi Động xúc phát, tâm ý nghĩ tưởng rối loạn, chạy theo duyên không thể dừng trụ.
3/ Không - Hữu: Không là khi Động xúc phát, hành giả không thấy thân thể, tự cho là đã chứng định Hư không.
Hữu là khi Động xúc phát sinh, hành giả cảm thấy thân thể cứng đơ như cây như đá.
4/ Minh - Ám: Minh là khi Động xúc phát sinh, hành giả thấy các thứ ánh sáng phía ngoài, cho đến ánh sáng mặt trăng, mặt trời, sao mai và những màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng v.v...
Ám là khi Động xúc phát sinh, hành giả thấy tâm mờ mịt, như đi vào trong nhà tối.
5/ Ưu - Hỷ: Ưu là khi Động xúc phát sinh, nội tâm bứt rứt phiền não, tiều tuỵ không vui.
Hỷ là khi Động xúc phát sinh, tâm rất vui vẻ, phấn khởi không thể yên định.
6/ Khổ - Lạc: Khổ là khi Động xúc phát sinh, khắp thân thể rất đau đớn khổ não.
Lạc là khi Động xúc phát sinh, hành giả cảm thấy khoái lạc, sinh tâm tham đắm bám chấp.
7/ Thiện - Ác: Thiện là khi Động xúc phát sinh, tâm hành giả nhớ nghĩ cảnh thiện giác quán ở ngoài, phá hoại chánh định,
Ác là khi Động xúc phát, tâm sinh khởi các điều ác không biết xấu hổ.
8/ Trí - Ngu: Trí là khi Động xúc phát sinh, nội tâm khởi kiết sử, tà tri kiến phá hoại chánh định.
Ngu là khi Động xúc phát, tâm thức ngu ngơ, phiền não, mê mờ điên đảo.
9/ Phược - Thoát: Phược là khi Động xúc phát sinh, năm ấm và các phiền não che đậy tâm thức.
Thoát là khi Động xúc phát sinh, hành giả tự cho là chứng các thiền định: Vô tưởng, Không, là đã đoạn trừ sạch kiết sử, chứng đắc đạo quả, được giải thoát, nên khởi tâm tăng thượng mạn.
10/ Cương - Nhu: Cương là khi Động xúc phát sinh, nội tâm chấp cứng, thiền định xuất nhập không được tự tại, giống như gạch đá, khó có thể xoay chuyển biến đổi thuận theo thiện đạo.
Nhu là khi Động xúc phát sinh, ý chí nội tâm mềm yếu, dễ dàng bại hoại, như bùn nhão, không thể nắn làm đồ dùng.
Các loại tà pháp không tốt này, nhiễu loạn nội tâm khi tọa thiền, phá hoại công phu thiền định, khiến tâm hành giả chấp theo tà kiến. Đây là tướng tà định phát.
Lại nữa, hai mươi thứ tà pháp này tùy theo hiện tượng phát sinh, nếu hành giả không phân biệt được tà nguỵ, sinh tâm tham ái đắm chấp, do đó dẫn đến mất tâm, phát sinh cuồng loạn, hoặc ca hát, khóc lóc, cười la, hoặc có khi kinh hãi chạy cuồng loạn, hoặc phát bệnh đến nỗi phải chết, có khi muốn tự sát nhảy từ núi cao xuống hoặc nhảy vào lửa, v.v... Những chướng ngại phiền não như thế rất nhiều.
Lại nữa, trong hai mươi thứ tà này, chỉ cần phát sinh một tà pháp, nếu cùng tương ưng với một pháp thuộc trong chín mươi sáu pháp quỷ thần (Cửu thập lục chủng đạo(9)) của ngoại đạo, mà hành giả không nhận biết, liền tiếp tục tu, đối với pháp chứng được, quỷ thần liền theo nhập vào tâm niệm hành giả, nhân đây hành giả chứng nhập pháp môn của quỷ thần. Lúc này quỷ thần trợ thêm thế lực cho hành giả, hoặc khiến hành giả phát những tà định sâu và trí biện tài, có năng lực biết trước những việc kiết hung thế gian, thần thông kỳ dị, biến hiện những việc hy hữu, làm cảm động chúng sinh, truyền bá giáo hóa hạnh tà. Hoặc làm nhiều việc đại ác, phá hoại căn lành của họ. Hoặc có khi tuy làm việc thiện, nhưng ẩn dấu điều hư dối. Người thế gian không có trí tuệ, chỉ thấy những sự kỳ đặc của vị ấy, cho đó là bậc Thánh nhân, hết lòng tin phục.
Nhưng trên thực tế thì nội tâm người này điên đảo, chuyên hành pháp ma, thường đem pháp ma để dạy người, cho người tin làm theo, thì phá giới luật, phá chánh tri kiến, phá oai nghi, phá cuộc sống thanh tịnh. Hoặc có khi ăn phân dơ, hay trần truồng không hổ thẹn, không tin kính Tam bảo, cha mẹ, sư trưởng. Hoặc đập phá hủy hoại kinh tượng, chùa tháp, tạo tội ngũ nghịch, đoạn diệt thiện căn. Hoặc hiện tướng bình đẳng, hoặc tự tán thán mình hành hạnh bình đẳng, dù trái đạo nhưng không chướng ngại, nó chê bai người tu pháp thiện, chẳng phải chánh đạo. Hoặc nói không có nhân quả, hoặc nói những đạo lý nhân quả tà, họ nói những tà pháp như thế để phá hoại chánh pháp. Những người nghe tin theo tu hành, bị tà pháp nhiễm tâm, chứng được tà thiền tam- muội và những pháp môn Trí đức, Đoạn đức tà, vì thế bên ngoài thì họ biện tài vô tận, hóa độ chúng sinh rất oai phong. Do nổi danh tiếng nên có tín đồ tán thán cung kính cúng dường những thứ tiền của. Thế nên Kinh Cửu Thập Lục Chủng Đạo ghi: “Khi người này thuyết pháp, được quỷ thần trợ lực, thì tất cả người nghe pháp, không ai mà không tín phục thọ nhận, những người nhìn thấy sinh lòng ái mộ kính mến”. Do có những việc như thế, nên thâm tâm hành giả đắm chấp không chịu hồi chuyển, tiếp tục làm rất nhiều thứ tà hạnh điên đảo.
Những người như thế, nên biết họ là những người xa lìa chánh pháp, khi thân hoại mạng chung đọa vào trong ba đường ác. Những sự việc này trong Kinh Đại Phẩm và Luận Ma Ha Diễn có giải thích rất rộng. Nếu muốn nghiên cứu những hiện tượng do quỷ thần, hành giả nên tìm xem trong Kinh Cửu Thập Lục Chủng Đạo, lắng tâm phân biệt so sánh những sự việc trên sẽ hiểu rõ.
HỎI: Người làm việc ác tương ứng với tà pháp, tội lỗi hiện tại đã làm như thế, sau khi mạng chung sẽ sinh vào ba đường ác. Nhưng có người tâm tà mà làm điều thiện, hiện tại lỗi như thế nào khi chết sinh vào chỗ nào?
ĐÁP: Người này tuy thân, khẩu, ý làm điều thiện, tuy ngoài thì thấy như Phật pháp, nhưng nội tâm kiến giải sai lầm, nếu không biết sửa đổi, sẽ gây chướng ngại khai phát quả vô lậu của Tam thừa. Tuy họ không thể hội Phật pháp chân chánh, nhưng đối với tâm điên đảo, có khi họ cũng chấn hưng xiển dương Tam bảo, khuyên mọi người tu thiện. Loại người này khi mạng chung không nhất định phải đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, mà tùy theo pháp được tương ứng với quỷ thần, cùng loài quỷ thần kia mà thác sinh vào một chỗ, làm bà con quyến thuộc của nó, hoặc có khi sinh vào cõi trời, cõi người. Nên trong Kinh Cửu Thập Lục Chủng Đạo ghi: “Có sáu mươi thứ ngoại đạo bậc thượng, tội chướng tà kiến điên đảo rất nặng, nên phải dùng những câu thần chú để đối trị nó. Có hơn hai mươi thứ ngoại đạo bậc hạ, tội chướng mê lầm ít và nhẹ, chỉ cần trực tâm nhận biết thì nó tự diệt”. Vả lại người này tuy sinh vào cõi trời, người, nhưng trong thầm kín ẩn mật vẫn lệ thuộc đạo của tà ma, ưa thích thân cận tà sư, thích nghe tà pháp, thích hành tà đạo, thích tán thán khen ngợi người tu tập hạnh tà. Hoặc thấy người nào tu học theo chánh pháp Tam thừa, không thích thân cận gần gũi, thậm chí còn đến nhiễu loạn người tu chánh pháp. Nên Kinh Pháp Hoa ghi: “Hoặc ma vương, hoặc ma con, ma dân, nếu bị đắm chấp nơi ma kia”. Kinh Đại Phẩm ghi: “Hoặc ma thiên, hoặc ma cõi người”. Nên biết tuy người này sinh vào cõi trời, người, vẫn còn bị ma trói buộc, thường khởi làm những nghiệp ma, thậm chí dù được xuất gia, mà vẫn tạo những ma nghiệp. Nên Kinh Niết Bàn có ghi: “Sau khi Phật nhập Niết-bàn trong khoảng năm trăm năm, đạo của ma từ từ hưng khởi. Ma xuất gia làm Tỳ-kheo, phá hoại rối loạn Phật pháp”. Cũng như trong Kinh Đại Tập luận về tướng của ma nghiệp, trong đó hành giả nên phân biệt rộng.
Như giải thích ở phần trên, chỉ trong một tướng Động xúc phát hai mươi tướng tà ma như thế, thì trong bảy thứ xúc còn lại cũng có đầy đủ các tướng ấy. Những tà tướng xuất hiện nơi thiền căn bản như thế, thì trong các thiền khác và mười bốn môn thiền còn lại, dù sự hoặc lý cũng đều có những pháp tà hư dối đó. Những sự việc tà rất nhiều nên không thể nói đầy đủ vậy.
HỎI: Khi một tà xúc phát sinh thì toàn bộ hai mươi thứ ấy đều phát đầy đủ hay không nhất định đầy đủ?
ĐÁP: Có khi đầy đủ, có khi không đủ, vì không cố định, nếu khi xúc phát sinh, chỉ cần có một tà pháp mà không lập tức trừ bỏ, liền đọa vào tà định, huống gì phát sinh cả hai mươi thứ tà pháp. Vì cớ sao? Thí dụ như hai mươi người cùng đi, nếu một người là kẻ giặc, thì cả mười chín người kia đều bị nguy hiểm đến tính mạng. Trong thiền định cũng như thế, nếu có một pháp ác phát sinh sẽ phá hoại các pháp thiện, không thể gọi là Chánh định, huống gì là có nhiều pháp tà hay sao? Nói tóm lại tướng một Tà xúc như thế, thì bảy tướng Tà xúc còn lại cũng vậy.
Lại nữa, có những tà pháp của các môn thiền khác, trong lúc hành giả nhập định cũng cần nên biết, sở dĩ nói cảnh giới tà pháp của các môn thiền khác, thí dụ như thiền Quán bất tịnh, khi nhập vào định này, cũng có hai mươi thứ tà pháp phát sinh, đến thâm nhập vào định này, mười bốn môn thiền còn lại cũng như thế, hành giả phải nhất định phân biệt mỗi thứ tà pháp rõ ràng.
Nếu hành giả chứng được thiền pháp, cần khéo biết tà pháp, dùng phương tiện trí tuệ soi chiếu không mê đắm cảnh giới tà định, thì tà pháp tự diệt.
a.2. Tướng Chánh thiền phát
Nếu khi Xúc phát sinh nhưng không có hai mươi thứ tà pháp trên, mà đầy đủ mười thứ thiện pháp, đó là tướng chân chánh.
Mười thứ thiện pháp là:
1/ Xúc như pháp
2/ Định như pháp
3/ Không như pháp
4/ Minh như pháp
5/ Hỷ như pháp
6/ Lạc như pháp
7/ Thiện như pháp
8/ Trí như pháp
9/ Giải thoát như pháp
10/ Tâm Nhu hòa như pháp
Thế nào gọi là Như pháp?
Đó là pháp trái ngược với hai mươi tướng bất thiện, ví như hành giả cảm thấy tâm an ổn, thanh tịnh điều hòa v.v... gọi là Như pháp, cũng gọi là Chánh tướng. Sự việc này đến Chương 7 phần giải thích sở chứng giác chi của Căn bản thiền, sẽ rõ việc này.
Tướng trạng của Động xúc chân chánh phát sinh thế nào, thì bảy thứ Xúc còn lại đối chiếu sẽ biết rõ.
HỎI: Trên đây đều giải thích theo sự tướng, nếu nơi tướng mà phân biệt là tà, là chánh, là thật, là giả, nên thủ nên xả v.v... đâu chẳng phải rơi vào tà niệm điên đảo hay sao?
ĐÁP: Chân chánh có hai loại:
- Chân chánh pháp thế gian
- Chân chánh pháp xuất thế gian
Nếu theo tướng thiện pháp thế gian mà giải thích, gọi là tướng chánh pháp thế gian. Nếu giải thích theo tướng xuất thế gian giải thoát, gọi là tướng chân chánh xuất thế gian.
Hiện nay giải thích về hiện tượng phát Xúc của thiền căn bản, xuất hiện mười thứ tướng chân chánh, tức là Biên thế gian chánh tướng. Như trong Luận Ma Ha Diễn ghi: “Do có chánh tri kiến của thế gian mới có khả năng chứng được chánh tri kiến xuất thế gian. Nếu phá chánh tri kiến thế gian, tức là phá chánh tri kiến xuất thế gian”. Cho nên nay nói chánh pháp xuất thế gian, cần phải giải thích chánh pháp thế gian trước, vì muốn nhân nơi sự mà hiển bày lý, nương nơi gần để nói xa vậy.
Trước tiên giải thích cảnh giới Động xúc của thiền căn bản, để nêu rõ cảnh giới chân chánh.
Nếu khi Động xúc phát sinh, hoặc thấy ba mươi hai vật trong thân thể, hoặc phát tâm từ, quán nhân duyên, chánh trí niệm Phật cùng các công đức thiền định v.v... Lúc này hành giả thấy tâm an ổn như pháp, cảm thọ khoái lạc của xúc khai phát. Đây cũng là hiện tượng khai phát thiện căn của đời trước, trong mỗi thứ có mười cảnh giới đều là chánh định, nhưng hành giả muốn tu thành tựu được thiền căn bản, hoàn toàn không nên chấp cảnh giới này, vì cảnh giới này dù diệt hay không diệt, đối với thiền căn bản không có gì chướng ngại. Nhưng vào thời kỳ mạt pháp, người tu hành do thiện căn cạn mỏng, cho nên khi thiền định những cảnh giới Động xúc phát sinh, đa số họ không phát Sự thiện và Lý thiện nào khác. Hiện nay vì sợ cảnh giới khai phát mà hành giả không biết, cho nên mới nói thêm ý này. Mười bốn môn thiền còn lại, khi chánh tướng khai phát cũng phân biệt rộng như thế.
b) Dùng pháp để nghiệm biết
Do cảnh giới tà thiền rất vi tế và khó phân biệt, cảnh giới tà cùng cảnh giới chánh tương tợ như nhau, vì thế cần dùng ba phương pháp để nghiệm biết.
b.1. Định tâm nghiên cứu b.2. Dùng pháp tu cũ đối trị b.3. Dùng trí tuệ quán sát
b.1. Định tâm nghiên cứu
Như trong Kinh Niết Bàn ghi: “Muốn biết vàng thật hay giả phải dùng ba phương pháp thử nghiệm, đó là đốt, đập, gọt mài”. Người tu hành cũng như thế, nếu muốn biết người tu thật hay tu giả cũng có ba pháp thử nghiệm.
- Nên cùng làm việc chung với họ.
- Nếu cùng cộng sự với họ mà không biết, thì phải sống chung với nhau thời gian thật lâu.
- Nếu ở lâu mà cũng không hiểu họ, phải dùng trí tuệ quán xét.
Nay dùng phương pháp này để giải thích cảnh giới tà chánh trong thiền định. Như khi phát một thứ Xúc, nếu chưa rõ tà hay chánh, hành giả phải cần nhập định, đối với cảnh giới không thủ, không xả, an tịnh dừng trụ nơi thiền định, nếu đúng chánh pháp thì định lực càng thâm sâu, thiện căn tăng trưởng, nếu do ma đến nhiễu loạn thì không bao lâu cảnh giới ấy tự hoại diệt.
b.2. Dùng pháp tu cũ đối trị
Nếu như trước kia hành giả tu quán bất tịnh được khai phát, thì nên tiếp tục tu pháp quán bất tịnh, khi tu thiền định, thấy cảnh giới tiến bộ tăng trưởng rõ ràng, đây là Chánh pháp. Nếu dùng pháp tu cũ để đối trị mà thiền định từ từ hoại diệt, đây chính là Tà pháp.
b.3. Dùng trí tuệ quán sát
Hành giả quán sát hiện tượng phát sinh, truy tìm nghiên cứu tận nguồn gốc của nó, không thấy chỗ phát sinh, biết là nó vốn rỗng lặng, thì tâm không bám chấp, cảnh giới tà sẽ tự diệt mất, tướng chân chánh tự hiện tiền. Như vàng thật càng đốt càng phát sáng, nếu vàng giả thì càng đốt càng đen và hủy hoại.
Dùng ba pháp kiểm nghiệm có thể biết rõ tà hay chánh:
Sức định: Dụ cho phương pháp mài gọt.
Tu trị: Dụ cho phương pháp đập gõ.
Trí tuệ quán sát: Dụ cho phương pháp đốt bằng lửa.
Lại nữa, sống chung là dụ cho mài gọt, làm việc với nhau thời gian dài là ví dụ cho đập gõ, trí tuệ quán sát là ví dụ cho dùng lửa để thử vàng. Những thiền định khác cũng thử nghiệm như thế thì tà chánh sẽ rõ.
2. Phân biệt ma hay không phải ma
Có hai thứ:
a) Cảnh giới ma
b) Không phải do ma
a) Cảnh giới Ma
Cũng có hai thứ bất đồng:
a.1. Thiền chứng được chẳng phải do ma tạo
Như hành giả trụ trong chánh định, thiền định được khai phát, ác ma sợ đạo hạnh của hành giả cao thâm, nên đến làm não loạn, nhập vào thiền định. Nếu hành giả khởi tâm tham đắm chấp trước cảnh giới này, hoặc nhân đây mà sinh ưu sầu lo sợ, ác ma liền có cơ hội thuận lợi hành động. Nếu hành giả dùng những phương pháp như trên để đối trị, ma tà pháp liền tự tiêu diệt, như mặt trời bị mây che phủ khi mây tan thì ánh sáng mặt trời tự hiển hiện, nếu tâm hành giả an định thì nội tâm được thanh tịnh sáng suốt.
a.2. Thiền định chứng được do ma tạo
Hành giả bị ma lừa dối mê hoặc, nếu hành giả biết cảnh giới này là hư giả chẳng thật, liền dùng phương pháp để đối trị nó, sau khi ma thoái lui thì không còn một chút pháp thiền nào cả.
b) Cảnh giới không phải do ma
Cũng có hai trường hợp:
- Do tội lỗi và nghiệp chướng ngăn che thiền định cũng tương tự như ma làm, nhưng thật tế thì không phải vì rất khó phân biệt, nếu hành giả dùng những phương pháp đối trị ở trước mà vẫn không đi, lúc này cần siêng năng tu sám hối, khi tội đã diệt thì tự nhiên thiền định khai phát sáng suốt.
- Khi hành giả nhập định, do không có phương tiện khéo léo, kết quả cảnh giới không được như pháp. Nếu khéo điều hòa thích hợp thì sở chứng thiền định được thanh tịnh sáng suốt, nên biết đây không phải là do ma tạo vậy. IV- TỔNG KẾT PHÁT THIỀN BẤT ĐỊNH
Gồm có năm ý:
1. Tu cả sự và lý phát thiền bất định
2. Nguyên nhân phát các thiền
3. Thiền định phát nhiều hay ít
4. Thiện căn đời trước phát hết hay không hết
5. Giải thích hữu lậu và vô lậu
1. Tu cả sự và lý phát thiền bất định
HỎI: Trong ba pháp tu Chỉ đã nói ở trước, Hệ duyên chỉ và Chế tâm chỉ, hai pháp tu Chỉ này thuộc về sự tướng, nên chỉ phát thiền định trong sự tướng. Riêng về Thể chân chỉ thuộc về lý, nên phát thiền định trong lý. Hiện nay tại sao cả ba pháp tu Chỉ này đều phát các thiền định trong sự và lý, thì ở đây lẫn lộn nhân quả không thể phân biệt hay sao?
ĐÁP: Không phải như thế, hiện nay giải thích hai thứ tu về sự và lý, đều tùy theo căn duyên người tu, mà có phát sinh phương pháp khác nhau, không nhất định phải có phân chia? Như ba pháp tu Chỉ đã giải thích ở trên, nếu nói tóm lược, thì phải như chỗ ông hỏi là chỉ có hai thứ tu sự và lý. Nếu phân tích đầy đủ, phải chia làm bốn pháp tu.
Trong bốn pháp này, chia làm hai thứ: theo Chỉ môn và Quán môn.
a) Theo Chỉ môn giải thích về bốn pháp tu
a.1. Tu Chỉ trên sự tướng: Hệ duyên chỉ và chế tâm chỉ, thuộc về Sự
a.2. Tu Chỉ trên lý thể: Thể chân chỉ, thuộc về Lý
a.3. Tu Chỉ trên sự và lý: Thể chân chỉ và nhân duyên tục đế thuộc về Sự và Lý
a.4. Tu Chỉ không sự không lý: Dứt bỏ phân biệt hai bên, thuộc về Không sự, Không lý (phi sự, phi lý). b) Theo Quán môn giải thích về bốn pháp tu
b.1. Tu Quán trên sự tướng: tức là pháp tu Sổ tức và Quán bất tịnh, thuộc về Sự.
b.2. Tu Quán trên lý thể: tức là pháp Quán không, Vô tướng v.v... thuộc về Lý.
b.3. Tu Quán trên sự và lý: tức là pháp tu Quán nhị đế (tục đế và chân đế), thuộc về Lý và Sự.
b.4. Tu Quán phi sự, phi lý: tức là pháp quán
Trung đạo chánh quán, thuộc về Phi sự, Phi lý.
Nay vì muốn giải thích ý nghĩa tu Chỉ môn phát thiền bất định ở trên, chỉ lấy bốn pháp tu Chỉ để giải thích pháp tu, trong mỗi cái đều có bốn trường hợp phát thiền bất định, cho nên cả bốnthứ hợp lại thành mười sáu trường hợp phát thiền bất định. Hành giả khéo léo nhận biết các tướng này, tự nhiên hiểu rõ hai pháp tu thuộc về Sự, Lý và thông suốt tất cả các Thiền tam-muội khai phát, tâm không còn nghi ngờ sai lầm.
Vì sao gọi là trong bốn pháp tu Chỉ mỗi thứ đều có bốn trường hợp phát thiền bất định? 1/ TU SỰ PHÁT THIỀN BẤT ĐỊNH
Hiện nay trước tiên giải thích trường hợp tu trên Sự tướng có bốn thứ phát thiền bất đồng.
- Có hành giả tu Chỉ trên sự tướng, tức là an tâm nơi Hệ duyên Chỉ và Chế tâm Chỉ, nhưng lại phát thiền định trên Sự tướng, nghĩa là các thiền tam-muội như: Tứ thiền căn bản, Tứ vô lượng tâm, Tứ vô sắc định và Cửu tưởng, Bát bối xả, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ v.v…
- Có hành giả tu Chỉ trên sự tướng để an tâm, mà chỉ phát thiền định thuộc về Lý, nghĩa là các thiền tam-muội trong tuệ hành, lý hành như: Không, Vô tướng, Vô tác, Tam thập thất phẩm, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên v.v….
- Có hành giả tu Chỉ trên sự tướng để an tâm mà phát thiền định đầy đủ cả Sự và Lý, đó là các thiền tam-muội về sự tướng như: Tứ thiền căn bản, Tứ vô lượng tâm, Tứ vô sắc định, Cửu tưởng, Bối xả, Đặc Thắng, Nhất thiết xứ và các thiền tam-muội thuộc về lý hành trí tuệ như: Không, Vô tướng, Vô tác, Tam thập thất phẩm, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên v.v... cho đến Thập lục đặc thắng, Thông minh thiền, tất cả thiền định đều thuộc về Lý và Sự.
- Có hành giả tu Chỉ trên sự tướng để an tâm, bèn phát thiền định thuộc về phi sự phi lý, đó là: Tự tính thiền, Nhất thiết thiền, Pháp hoa tam- muội và các thiền tam-muội thuộc về trung đạo như: Nhất hạnh tam-muội. Thủ Lăng Nghiêm, Sư tử hống v.v…cho đến Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng.
HỎI: Nếu hành giả tu sự Chỉ, thì phải phát thiền định thuộc Sự tướng, vì sao lại phát thiền tam-muội và các pháp bất cộng thuộc về Phi sự phi lý?
ĐÁP: Nguyên nhân phát thiền định có hai thứ: Do đời này dùng phương tiện mà chứng được và do căn lành đời trước được khai phát.
Nếu tu về sự tướng mà phát thiền định thuộc về sự tướng là do đời này tu được. Nếu tu Sự mà lại phát thiền định tam-muội thuộc về Lý và Phi sự phi lý, tất cả đều do thiện căn thiền định của đời trước khai phát vậy.
Theo thuyết của Số nhân (Số luận sư), luận về nghĩa này có hai thứ: Tu đắc và Hạnh tu.
Tu Đắc: nghĩa là đời trước tu chưa chứng được. Hạnh tu: do đời trước đã từng tu chứng được. Lại nữa hiện nay chỉ nói về nội phương tiện, luận nguyên nhân tu Chỉ khai phát thiện căn đời trước, tuy giải thích về hiện tượng phát thiền tam muội thuộc về Sự và Lý rất sơ sài. Nếu luận về sự tu tập thành tựu, nhân quả tương ưng từ đầu đến cuối, thì cảnh giới Sự và Lý thâm sâu trong các thiền tam-muội, phải đến chương 7 mới phân biệt giải thích đầy đủ.
HỎI: Nếu tu về Sự tướng liền phát các thiền tam- muội và mười tám pháp bất cộng thuộc về Phi sự phi lý, là do nhân tu tập đời trước mà được. Thì tất cả tùy theo sự tướng tu hành đều phải chứng được các thiền tam-muội: Thập bát bất cộng, Thủ Lăng Nghiêm v.v... Như vậy, vì sao tất cả mười phương chư Phật, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật, nếu như hành giả có nghe Bát- nhã Ba-la-mật liền đầy đủ tất cả Phật pháp?
ĐÁP: Nghi vấn của ông chính là điều tôi đang cần nói, vì sao? Nếu đời quá khứ của hành giả từng gặp vô lượng chư Phật, ở chỗ chư Phật nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật và theo chỗ nghe tu hành thì đời này dù hành giả bất luận tu theo hạnh gì, cũng tự nhiên được khai phát các thiền tam-muội như: Mười tám pháp bất cộng thuộc về phi sự phi lý v.v...
Nếu đời quá khứ hành giả chưa từng nghe đến Bát-nhã, chẳng tu Bát-nhã, dù đời này tuy có nghe, có tu, nhưng lại không thể khai phát các thiền tam-muội, mười tám pháp bất cộng, huống gì chưa từng nghe Bát-nhã chưa từng tu Bát-nhã mà có thể được khai phát hay sao?
Lại nữa, tuy đời này có nghe giảng Bát-nhã, có tu Bát-nhã, nhưng thiền định không phát, đến đời sau nếu gặp được chư Phật, Bồ-tát, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật, y theo đó tu hành, thì tất cả thiền tam-muội của Đại thừa, mười tám pháp bất cộng thảy đều được khai phát. Nên biết tất cả đều do nghe thuyết Bát-nhã, theo đó tu hành mới có thể khai phát tất cả thiền tam-muội v.v... không phải là không có nhân duyên vậy. Vì thế tất cả mười phương chư Phật, đều siêng năng tán thán Bát-nhã ba-la-mật, nếu có người nghe Bát-nhã và y theo đó tu hành, thì được đầy đủ tất cả Phật pháp, chính là ý nghĩa này vậy.
Lại nữa hành giả dùng sức phương tiện của Bát-nhã ba-la-mật, đối với tu trong sự tướng, tức là tu đầy đủ cả phi sự phi lý, nếu dũng mãnh tinh tấn tu tập không dừng nghỉ, thì có thể khai phát các thiền tam-muội và mười tám pháp bất cộng thuộc về Phi sự phi lý vậy.
HỎI: Chỗ này so với phần giải thích trước có gì sai khác?
ĐÁP: Trong nầy phải chia làm bốn trường hợp để giải thích.
- Nhân mạnh duyên yếu: nghĩa là do đời trước nhân tu hành mạnh mà duyên tu của đời này yếu, nhưng cũng có thể khai phát Mười tám pháp bất cộng và các thiền tam-muội thuộc về Phi sự phi lý như đã nói ở trước.
- Nhân yếu duyên mạnh: có thể khai phát pháp bất cộng và các thiền tam-muội thuộc về tu Phi sự phi lý, như hiện nay đang giải thích.
- Nhân duyên đều mạnh: cũng có thể khai phát Mười tám pháp bất cộng và các thiền tam- muội thuộc về tu Phi sự phi lý, bao gồm cả đời trước và đời này, nếu gặp trường hợp này hành giả sẽ chứng được pháp thiền rất thù thắng.
- Nhân duyên đều yếu: thì đời này tu có thể phát, hoặc không phát thiền định, giả sử nếu có phát thiền định thì cũng yếu cạn, không được kiên cố bền chắc, phần nhiều rất dễ thoái thất lui sụt. Đến thời tượng pháp và mạt pháp, người hành cao lắm chỉ được như thế. Trong ba thứ nhân duyên nói trên vào thời mạt pháp, vạn người không có một. 2/ TU LÝ PHÁT THIỀN BẤT ĐỊNH
Có bốn trường hợp bất đồng:
- Có hành giả chuyên tâm tu Thể Chân Chỉ thuộc về Lý lại phát thiền định trong lý thể, đó là các thiền tam-muội: Không, Vô tướng, v.v...
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ thuộc về Lý, mà chỉ phát các thiền tam-muội trên sự tướng, đó là Căn bản thiền, Bát bối xả.
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc về Lý, mà thiền định phát đầy đủ cả sự và lý, đó là các thiền tam-muội như: Căn bản thiền, Bối xả, Không, Vô tướng v.v...
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc về Lý nhưng lại phát thiền định thuộc về Phi sự phi lý, đó là Tự tính thiền và các thiền tam-muội, Mười tám pháp bất cộng thuộc Trung đạo, nếu phân biệt rộng tướng các thiền tam-muội và ý nghĩa tu hành được khai phát, cũng đại khái như giải thích trong câu đầu tiên. 3/ TU SỰ LÝ PHÁT THIỀN BẤT ĐỊNH
Cũng có bốn thứ bất đồng:
- Có hành giả chuyên tâm tu Thể chân chỉ, duyên tục đế thuộc Sự và Lý, lại phát thiền định trong sự tướng, đó là các thiền tam-muội như: Căn bản thiền, Bối xả, Không, Vô tướng v.v..
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc Sự và Lý, mà chỉ phát thiền định trong sự tướng, đó là các thiền tam-muội như: Căn bản thiền, Bối xả v.v...
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc Sự và Lý, mà chỉ phát thiền định trong lý thể, đó là các thiền tam-muội như: Không, Vô tướng, v.v...
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc Sự và Lý, bèn phát thiền định Phi sự phi lý, đó là Tự tính thiền và tất cả các thiền tam-muội và Pháp bất cộng thuộc về Trung đạo v.v…
Phân biệt tướng các thiền và ý nghĩa tu hành được khai phát này, cũng giải thích đại khái như các câu đầu tiên. 4/ TU PHI SỰ, PHI LÝ PHÁT THIỀN BẤT ĐỊNH
Cũng có bốn thứ bất đồng:
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc về Phi sự phi lý, lại phát thiền định phi sự phi lý, đó là Tự tính thiền, các thiền tam-muội và Bất cộng pháp của Trung đạo.
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc về Phi sự phi lý, mà chỉ phát thiền định trên sự tướng, đó là các thiền tam-muội như: Căn bản thiền, Bát bối xả v.v…
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc về Phi sự phi lý, mà chỉ phát thiền định thuộc về lý, đó là các thiền tam-muội như: Không, Vô tướng v.v...
- Có hành giả chuyên tâm tu Chỉ, thuộc về Phi sự phi lý, mà phát đầy đủ các thiền định thuộc về sự và lý, đó là các thiền tam-muội như: Căn bản thiền, Bát bối xả, Không, Vô tướng v.v...
Phân biệt tướng các thiền và ý nghĩa tu phát cũng như giải thích ở trước.
Nay lấy bốn pháp tu trong Chỉ môn để phân chia, thì gồm có mười sáu (16) trường hợp phát thiền bất định. Nếu đem bốn pháp tu trong Quán môn để phân chia, cũng có mười sáu trường hợp phát thiền bất định. Cộng chung cả hai trường hợp này thì có ba mươi hai (32) trường hợp phát thiền bất định.
Ba mươi hai trường hợp phát thiền này là pháp mà người tu dùng để phân chia, nếu hành giả nghe pháp môn Chỉ Quán tin nhận thực hành, kết quả phát thiền ngộ đạo không cố định, trong đó cũng có ba mươi hai trường hợp, những việc như thế ở đây không nói đủ.
Nếu luận chung tất cả thì bao gồm sáu mươi bốn (64) thứ. Nếu phân chia theo căn tính Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, thì có một trăm chín mươi hai (192) trường hợp khai phát thiền định khác nhau. Nếu phân tích chia chẻ tỷ mỉ các thiền và luận về phát sinh hiện tượng Tà, Chánh thì có nhiều vô lượng.
Hiện nay phân chia như thế đều từ trong tâm hành giả, không phải lời nói hư dối, hay giả thiết. Nên biết trường hợp khai phát thiền định không thể nghĩ lường, đây là cảnh giới của chư Phật và Bồ-tát, bậc Thánh nhị thừa còn không thể suy lường đến, huống gì hạng phàm phu có thể lường tính được sao? Nếu hành giả muốn tự tu và dạy cho người khác, cần biết rõ vài trường hợp khai phát của thiền định. Nếu tự sai lầm mà chấp cho là đúng, thì tổn mình và tổn hại người khác, kể cả pháp đối trị mình đang tu, vì không có trí tuệ nên không được lợi ích vậy.
2. Nguyên nhân phát các thiền
Có hai thứ kiến giải bất đồng:
- Có thầy nói: “Chỉ cần nhập định tu pháp Chỉ thì các thiền tự phát, không cần phải nhọc công tu pháp nào khác”. Vị thầy này xưa nay thường dạy người tu pháp Chỉ, cũng giống như thầy thuốc chuyên dùng một loại thuốc sữa. Nay ở đây không đồng ý luận điểm này. Vì sao? Vì chỉ tu riêng một pháp, thì chỉ khai phát một thứ thiền pháp; hành giả đã nhân nơi tu Chỉ mà thiền định khai phát bất đồng, làm sao lại chấp là do tu pháp Chỉ? Đây không những chỉ lầm lẫn đối với lý mà còn trái với giáo pháp của Phật.
- Có thầy nói: “Do thiện căn đời trước đã từng tu tập các thứ thiền làm Nhân, đời nay tu Chỉ chứng được thiền định làm Duyên”. Cho nên chỗ khai phát thiền định của hành giả mỗi mỗi chẳng đồng chính là nguyên nhân này vậy. Thí dụ như trên mặt đất tuy các thứ cỏ thuốc, cây cối, rừng núi v.v... có chủng loại và tên gọi, hình sắc khác nhau. Nếu mưa không thấm ướt tất cả thì làm sao mỗi chủng loại có thể tự sinh trưởng khác nhau? Đây cũng như thế. Nếu y theo trong Đại thừa nói về ý nghĩa của: Bảy báu, giếng, chậu bình, nhà tối, thì lại luận khác.
3. Thiền định phát nhiều hay ít
Trên đây tuy nói do tu Chỉ mà phát tất cả các thiền tam-muội, nhưng vì căn tính của người tu lại chẳng đồng nên thiền định khai phát nhiều hay ít, cũng có chỗ chẳng đồng.
Có người chỉ phát một môn thiền, có người phát hai môn, ba, bốn, năm môn. Hoặc có hạng người phát cả mười lăm môn và tất cả các thiền tam-muội, không thể nhất định.
Sở dĩ có những sự khác nhau là đều do Nhân tu tập đời trước của hành giả có sâu cạn, viên mãn cũng có khác nhau, cũng do đời này tu tinh tấn hay giải đãi và có trí tuệ phương tiện hay không trí tuệ phương tiện khác nhau, mà thiền định khai phát hơn kém bất đồng, trong đó có muôn vàn phẩm loại sai khác. Trên đây đã giải thích tóm lược về tướng trạng khai phát nhiều ít của thiền định.
4. Thiện căn đời trước phát hết hay không hết
Trước tiên đưa ra một pháp quán trong môn
quán bất tịnh để làm thí dụ cho dễ hiểu. Như có hành giả do đời trước đã từng tu tập chứng được pháp quán bất tịnh, thấy xương trắng phát sáng, đời này trong khi tu Chỉ, nhưng chỉ phát pháp Thiền quán bất tịnh mà chưa chứng được tướng xương trắng phát sáng, đây gọi là chưa hết. Nếu khai phát đầy đủ gọi là hết.
Nếu duyên tu tập đời trước của hành giả đã hết, tuy đời này lại tiếp tục tu Chỉ, thì không tăng tiến. Nhưng nếu tiếp tục chuyên tâm quán chiếu xương trắng, luyện tập không dừng, tâm liền tùy theo cảnh giới quán chiếu từ từ khai phát, các thiền như Bát bối xả, Quán, Luyện, Huân, Tu v.v... thảy đều thành tựu đầy đủ. Đây là do đời này khéo dùng phương tiện khéo léo tinh cần tu tập mà thành tựu, không quan hệ đến sự khai phát Nhân tu tập thiện căn của đời trước.
HỎI: Cảnh giới tu Chỉ môn không được tiến bộ, đâu phải nhất định là do nhân tu tập đời trước đã hết? Hoặc do tội chướng, chướng ngại thiện căn đời trước không được tăng trưởng khai phát?
ĐÁP: Ông nói chẳng sai, không phải vì duyên thiện căn đã hết làm trở ngại, và không liên quan đến tội chướng, cho nên đời này cần phải dùng phương pháp quán chiếu, tu tập đúng như pháp mới được thành tựu.
Trong đó cũng chia ra năm hạng căn tính để giải thích:
1/ Gặp duyên xấu liền lui sụt sở đắc.
2/ Đối với chỗ chứng đắc lại thêm giữ gìn.
3/ Hay an trụ nơi sở đắc.
4/ Hay tinh tiến tu hành chứng đắc.
5/ Hay tu luyện thông đạt đến cứu cánh. Những thứ như thế rất nhiều, hiện nay không ghi chép đủ. Ngoài ra còn có mười bốn thứ thiền
định, trường hợp phát hết hay không hết, nếu suy xét có thể hiểu.
5. Giải thích hữu lậu và vô lậu
HỎI: Phần trước nói rõ mười lăm môn và tướng trạng khai phát của các thiền tam-muội, trong đó có hữu lậu và vô lậu. Pháp thiện của hữu lậu đời trước đã chứng được, có thể nhờ Nhân tu tập mà thiện căn phát. Nhưng cũng có thể đời trước chưa từng tu chứng pháp vô lậu, đời này có thể phát thiện căn vô lậu không?
ĐÁP: Vô lậu có hai thứ :
a) Hạnh hành vô lậu b) Tuệ hành vô lậu
a) Hạnh hành vô lậu: là Pháp đối trị thuộc
về sự tướng, vì không duyên nơi chân tính tu hành, cho nên có Nhân tu tập thiện căn đời trước phát. Tuệ hành vô lậu là duyên nơi chân tính làm Nhân tu tập, cho nên không thể nói nhất định phải có Nhân tu tập thiện căn đời trước mới phát.
b) Tuệ hành vô lậu lại có hai thứ:
- Duyên lý tu tập để giải thích Tuệ hành
- Phát tuệ kiến lý là duyên nơi chân tính để giải thích Tuệ hành
- Duyên lý tu tập thì có khai phát Nhân tu tập thiện căn.
- Phát tuệ kiến lý dù duyên nơi chân tính tu tập, lại không phát Nhân tu tập thiẹn căn.
“Phát tuệ kiến chân” lại có hai thứ:
- Phát trí tuệ tương tự thì có phát Nhân thiện căn tu tập đời trước.
- Phát trí tuệ chân thật thì không phát Nhân thiện căn tu tập đời trước.
“Phát chân thật tuệ” lại có hai thứ:
- Kiến đế vô lậu: tức là khai phát khổ nhẫn v.v...
- Tam giới tư duy vô lậu: tức là khai phát giải thoát vô ngại v.v...
Nếu theo “Kiến đế vô lậu” khai phát khổ, nhẫn v.v... thì thông thường chẳng nói có tập nhân thiện căn phát; nếu “Tư duy vô lậu” khai phát thì do bất đồng giáo phái mà có mỗi thuyết bất đồng.
Nếu theo Luận Tát Bà Đa bộ giải thích: Nếu hàng thoái pháp Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán khi bị lui sụt trở lại trong Sơ quả Tu-đà-hoàn, nhưng sau do nỗ lực tiến tu mà chứng quả, thì có trường hợp Nhân tu tập thiện căn phát. Nếu hàng Tam quả Bất thoái pháp(10), đương nhiên không có trường hợp thiện căn phát lại lần nữa. Cho nên không nói có Nhân tu tập thiện căn phát.
Theo thuyết của Đàm Vô Đức giải thích: Hàng Tứ quả khi phát Chân vô lậu(11), đều không có trường hợp phát Nhân tu tập thiện căn của đời trước.
HỎI: Như theo Luận A Tỳ Đàm: “Chỉ khi bắt đầu phát sinh vô lậu mới là không có gieo nhân”, vì sao hiện nay lại nói Chân vô lậu mà hàng Tứ quả phát, đều không phát Nhân tu tập thiện căn đời trước?
ĐÁP: Nay giải thích Nhân tu tập phát thiền tam-muội, ý nghĩa chẳng đồng là căn cứ theo thiện căn của đời trước đã từng chứng được, nhưng trải qua mấy đời nên bị lui sụt hay mất hẳn. Đời nay nhân tu Chỉ mà được khai phát là để nói về Tập nhân thiện căn phát. Hàng Tứ quả phát Chân vô lậu, không phải do đời trước từng tu chứng được, bởi vì trong khoảng giữa đã bị mất và lui sụt, nhưng do đời này tu Chỉ mà được khai phát lại, đối với phần trước chẳng đồng.
Nếu luận chung thì tâm “Vô lậu chân giải” của Sơ phẩm, tức là lấy tâm vô lậu của Nhị phẩm làm nhân, cứ xoay vần như thế cho đến Cửu phẩm. Ở đây giải thích Nhân tu tập thiện, thì chỗ phát vô lậu của hàng Tứ quả đều nói là do Nhân tu tập thiện của đời trước khai phát vậy. Nay đã không theo quan điểm này để giải thích trường hợp khai phát Nhân tu tập thiện căn, nên mới nói: Chỗ chứng Tứ quả không phải do phát Nhân tu tập thiện của đời trước vậy.
Lại nữa, đời quá khứ hành giả từng tu tập các thiền tam-muội thuộc về sự lý, dù chưa chứng được quả vị, nhưng do đã từng tu tập qua, nên khi thiện căn đời này thuần thục, nhờ tu pháp Chỉ để làm duyên nên đều được khai phát, đây cũng gọi là khai phát Nhân tu tập thiện căn vậy.
Thời Phật còn tại thế, người cầu xuất gia Phật nói: “Thiện lai Tỳ-kheo” liền lập tức phát vô lậu, đồng thời chứng đầy đủ Tam minh, Bát giải thoát.
Phần giải thích tổng kết về Cũng hữu lậu cũng vô lậu, cho đến Phi hữu lậu phi vô lậu, nếu đối chiếu thì biết rõ. Chú thích Quyển 3:
(1) 108 loại tam-muội (Bách bát tam-muội.) tđphhq t. 208) theo phẩm Tướng Hạnh trong Kinh Đại Phẩm Bát Nhã 3, Phẩm Vấn Thừa trong Kinh Đại Phẩm Bát Nhã 5, Kinh Đại Phẩm Bát Nhã 414, Luận Đại Trí Độ 43, 47.
Một trăm lẻ tám loại tam-muội như sau:
1/ Thủ lăng nghiêm tam-muội: khi Bồ-tát trụ tam-muội này, biết rõ cảnh giới sâu cạn của các tam-muội khác, nên tất cả ma phiền não không thể phá hoại được.
2/ Bảo ấn tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát có năng lực ấn chứng tất cả tam-muội, trong các món quý báu thì Pháp bảo là hơn hết, Bảo ấn tam-muội có công năng làm lợi ích cho đời này và đời sau cho đến chứng Niết bàn.
3/ Sư tử du hý tam-muội: khi trụ tam-muội này Bồ-tát có thể xuất nhập các tam-muội dù nhanh hay chậm. Có công năng độ chúng sinh và phá kiến chấp ngoại đạo.
4/ Diệu nguyệt tam-muội: khi trụ tam-muội này Bồ-tát có năng lực diệt trừ các tà kiến vô minh.
5/ Nguyệt tràng tướng tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này Bồ-tát thông đạt các pháp, có thể chuyển các pháp thuận theo mình.
6/ Xuất chư pháp tam-muội: Khi Bồ-tát trụ tam- muội này có năng lực phát sinh và làm tăng trưởng các tam-muội.
7/ Quán đảnh tam-muội: Bồ-tát trụ tam-muội này có năng lực thấy khắp tất cả tam-muội.
8/Tất pháp tính tam-muội: Bồ-tát trụ tam-muội này có năng lực biết rõ tính các pháp và được định như hư không, không ai có thể trụ được, nhưng người được Thần túc thông thì có thể an trụ.
9/ Tất tràng tướng tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam-muội này có công năng nắm chắc các pháp tràng tam-muội, vì tam-muội này cao hơn các tam-muội.
10/ Kim cương tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam- muội này có năng lực và trí tuệ bền chắc như Kim cương.
11/ Nhập pháp ấn tam-muội: khi Bồ-tát trụ tam-muội này có năng lực nhập vào thật tướng các pháp.
12/ Tam-muội vương an lập tam-muội: khi trụ tam-muội này Bồ-tát an lập được tất cả tam-muội khác.
13/ Phóng quang tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam-muội này có năng lực phóng các thứ ánh sáng, chiếu soi tất các tam-muội.
14/ Lực tấn tam-muội: khi Bồ-tát trụ tam-muội này có sức tinh tấn tự tại đối với tam-muội, thường có thần thông hóa độ chúng sinh.
15/ Cao xuất tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát tăng tưởng tất cả phước đức trí tuệ; từ tâm Bồ-tát lưu xuất ra tính các tam-muội
16/ Tất nhập biện tài tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát có năng lực thuyết giảng tất cả các tam-muội, phân biệt thứ lớp ngôn ngữ của chúng sinh và tên kinh sách một cách vô ngại.
17/ Thích danh tự tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực giải thích danh từ các tam- muội và các pháp nghĩa giúp cho người hiểu được.
18/ Quán phương tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam-muội này có công năng xuất nhập các tam- muội khác một cách vô ngại tự tại, cho nên Bồ-tát dùng tâm thương xót bình đẳng quán xét căn cơ chúng sinh khắp 10 phương để cứu độ.
19/ Đà-la-ni ấn tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam-muội này có năng lực trì các tam-muội ấn, phân biệt các tam-muội.
20/ Vô cuống tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam- muội này không sanh các tà kiến vô minh: ái, sân... đều nhận biết rõ ràng các tam-muội khác.
21/ Nhiếp chư pháp hải tam-muội: khi Bồ-tát trụ tam-muội này thâu nhiếp các pháp Tam thừa đều vào trong tam-muội.
22/ Biến phú hư không tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát có thể dùng sức tam-muội khiến việc làm của mình trùm khắp hư không, như phóng ánh sáng hoặc phát âm thanh.
23/ Kim cương luân tam-muội: Bồ-tát trụ nơi tam-muội này có thể trì các tam-muội, đối với các pháp không ngăn ngại.
24/ Bảo đoạn tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam- muội này có năng lực đoạn trừ các cấu uế phiền não của các tam-muội.
25/ Năng chiếu tam-muội: khi Bồ-tát trụ nơi tam-muội này, có năng lực dùng trí tuệ chiếu soi các pháp.
26/ Bất cầu tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chiếu soi các pháp như huyễn hóa, ái dục trong 3 cõi thảy đều đoạn trừ, không còn mong cầu gì nữa.
27/ Vô trụ tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chiếu soi thấy rõ các pháp thay đổi liên tục không dừng trụ.
28/ Vô tâm tam-muội: khi Bồ-tát an trụ trong tam-muội này thì tâm vương và tâm sở không sinh khởi tác dụng.
29/ Tịnh đăng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực xa lìa các phiền não cấu uế, nhờ ngọn đèn trí tuệ chiếu soi.
30/ Vô biên minh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi rõ biết vô lượng pháp và căn cơ của chúng sinh khắp 10 phương vô biên thế giới.
31/ Năng tác minh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chiếu soi thấy rõ các pháp.
32/ Phổ chiếu minh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chiếu khắp các pháp môn và các tam-muội.
33/ Kiên tịnh chư tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực làm cho các tam-muội thanh tịnh bền chắc, không bị tất cả các pháp cấu uế làm nhiễm ô hư hoại.
34/ Vô cấu minh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực, gột sạch phá trừ các cấu nhiễm làm chướng ngăn tất cả các tam-muội
35/ Hoan hỷ tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát có năng lực phát sinh vô lượng vô biên pháp lạc.
36/ Điện quang tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát khôi phục lại được Bồ-đề đạo (chân tâm) đã bị quên mất từ lâu, như ánh chớp lóe lên để dẫn lối cho hành giả.
37/ Vô tận tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát đoạn được tình chấp về tướng vô thường v.v… của các pháp, liền nhập được lý chân thật bất sinh bất diệt.
38/ Oai đức tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát được vô lượng oai đức, tự tại trang nghiêm.
39/ Ly tận tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ- tát thấy được các tam-muội không có cùng tận và rõ suốt lý tương ưng với các thứ công đức quả báo trong vô lượng A-tăng-kì kiếp và xa lìa tất cả kiến chấp đoạn diệt.
40/ Bất động tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát biết được thật tướng các pháp một cách rốt ráo rỗng lặng. Khi ấy trí tuệ tương ưng với tam-muội, đối với tất cả tam-muội và các pháp đều có năng lực thụ dụng chứ không hý luận (nói suông).
41/ Bất thoái tam-muội: khi Bồ-tát trụ tam-muội này, thường không thoái chuyển.
42/ Nhật đăng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chiếu soi các pháp môn và các tam-muội.
43/ Nguyệt tịnh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát dùng trí tuệ thanh tịnh làm lợi ích chúng sinh, lại có năng lực phá tan các vô minh làm chướng ngăn các tam-muội.
44/ Tịnh minh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chiếu rõ các pháp không còn chướng ngại.
45/ Năng tác tam-muội: khi trụ tam-muội này, thì tương ưng với trí Bát-nhã, có năng lực chiếu suốt rõ ràng các pháp môn tam-muội.
46/ Tác hành tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực phát khởi các tam-muội trước kia đã được.
47/ Trí tướng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát thấy trong tất cả các tam-muội có tướng trí tuệ chân thật.
48/ Như kim cương tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực phá trừ tất cả phiền não, kiết sử.
49/ Tâm trụ tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực nhiếp phục các sự tán loạn, tâm không động chuyển.
50/ Phổ minh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát thấy rõ sự tướng của các pháp, không còn bị mê lầm tăm tối, dùng sức thần thông chiếu khắp thế gian rõ ràng không ngăn ngại.
51/ An lập tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát an lập tất cả các công đức thiện pháp một cách vững vàng.
52/ Bảo tụ tam-muội: khi trụ nơi tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chuyển tất cả quốc độ của mình đều thành bảy báu.
53/ Diệu pháp tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát được các tam-muội pháp ấn thuộc công đức trí tuệ sâu xa nhiệm mầu của chư Phật, Bồ-tát.
54/ Pháp đẳng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực thấy rõ chúng sinh và tất cả các pháp thảy đều bình đẳng.
55/ Đoạn hỷ tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực xét các tướng: khổ, không, vô thường, vô ngã, bất tịnh, đối với tất cả thế gian tâm sinh nhàm chán, không khởi tư tưởng đắm trước.
56/ Đáo pháp đảnh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực dùng sức phương tiện Bát- nhã đạt đến đỉnh núi pháp.
57/ Năng tán tam-muội: khi trụ tam-muội này, liền tương ưng với không tuệ, có năng lực phá tan các pháp.
58/ Phân biệt chư pháp cú tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực phân biệt lời lẽ, câu văn đối với tất cả các pháp, vì chúng sinh diễn nói, ngôn từ không bị ngăn trệ.
59/ Tự đẳng tướng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát quán xét ngôn ngữ văn tự thảy đều bình đẳng, đối với những lời la mắng, khen ngợi không có ưa ghét.
60/ Ly tự tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ- tát rõ suốt nghĩa chân như của các pháp mà không bị văn tự luận bàn làm chướng ngại, cho nên trong biển chữ nghĩa, tự nó không có sự tồn tại của văn tự vọng kiến; tức là trong văn tự kinh sách cũng có năng lực thấy ngay nghĩa chân thật để xa lìa sự chấp trước văn tự danh tướng.
61/ Đoạn duyên tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực ở trong cảnh vui cũng không khởi niệm vui mừng, trong cảnh khổ cũng không niệm oán hận, trong cảnh không khổ, không vui cũng đều xả bỏ dễ dàng, do xa lìa ba thọ, không còn đắm trước nên tâm diệt duyên đoạn.
62/ Bất hoại tam-muội khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực rõ biết tính các pháp rốt ráo rỗng lặng, hý luận không thể phá, vô thường cũng không thể chuyển.
63/ Vô chủng tướng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát rõ biết thật tướng các pháp mà không thấy có tướng để chấp lấy.
64/ Vô xứ hành tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực biết lửa của tam độc thiêu đốt chúng sinh trong 3 cõi, cho nên tâm không nương vào đó, biết Niết-bàn rốt ráo là không, cho nên tâm cũng không nương vào đó.
65/ Ly ám tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ- tát có năng lực phá trừ hết các vô minh vi tế ngăn che các tam-muội.
66/ Vô khứ tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát không thấy tướng đến đi của tất cả các pháp.
67/ Bất biến dịch tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực quán sát tất cả các pháp tam-muội đều không thấy có tướng biến dịch.
68/ Độ duyên tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát đối với các duyên phiền não trong 6 trần thảy đều diệt hết, có năng lực vượt qua biển lớn 6 trần, cũng là trí tuệ vượt qua tất cả các tam-muội duyên sanh.
69/ Tập nhất thiết công đức tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát tinh tấn tu tập tất cả thiện căn công đức, đầu đêm, cuối đêm không hề ngủ nghỉ.
70/ Trụ vô tâm tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát chỉ nương trí tuệ chân thật an trụ nơi thật tướng các pháp mà không theo vọng tâm.
71/ Tịnh diệu hoa tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực ở trong các tam-muội làm cho đóa hoa công đức bừng nở để trang nghiêm một cách tự tại.
72/ Giác ý tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ- tát làm cho các tam-muội hữu lậu biến thành vô lậu.
73/ Vô lượng biện tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát được vô lượng biện tài, giảng ý nghĩa một câu hoặc một danh từ, dù trải qua vô lượng kiếp cũng không hết.
74/ Vô đẳng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát quán chúng sinh và Phật bình đẳng, quán tất cả các pháp đều đồng với pháp Phật.
75/ Độ chư pháp tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực nhập vào 3 môn giải thoát, ra khỏi 3 cõi, hóa độ chúng sinh trong Tam thừa.
76/ Phân biệt chư pháp tam-muội: khi trụ tam- muội này, Bồ-tát có năng lực phân biệt các tướng trạng của các pháp: bất thiện, thiện, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi v.v…
77/ Tán nghi võng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực phá được lưới nghi và thấy rõ thật tướng của các pháp.
78/ Vô trụ xứ tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát thông đạt các pháp mà không bám chấp, không mắc kẹt bởi phép tắc tiêu chuẩn nhất định nào.
79/ Nhất tướng trang nghiêm tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực thấy rõ các pháp đều là một thể, không luận có tướng, không tướng hoặc tất cả pháp không, biết rõ lý “tất cả tức là một” và dùng trí tuệ nhất tướng để trang nghiêm tam- muội này.
80/ Sinh hạnh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực quán các tướng: hành, nhập, trụ, xuất thảy đều là không.
81/ Nhất hạnh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát chuyên một hạnh tương ưng với cái Không rốt ráo, không còn hành hạnh thứ lớp nào khác.
82/ Bất nhất hạnh tam-muội: khi trụ tam-muội này, không thấy tướng riêng biệt của các tam-muội, từ nơi tam-muội này có thể tu hành các pháp quán khác.
83/ Diệu hạnh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát không còn thấy hành tướng phức tạp của các tam-muội khác mà chỉ có một tam-muội tương ưng với Không rốt ráo, cho nên các hý luận đều không thể phá được tam-muội này.
84/ Đạt nhất thiết hữu để tán tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực dùng trí tuệ vô lậu thông đạt 3 cõi, cho đến tận cùng cõi Phi hữu tưởng phi vô tưởng, khiến tất cả các cõi có phiền não đều bị tan hoại.
85/ Nhập danh ngữ tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực biết rõ tên của tất cả chúng sinh, tất cả vật, tất cả pháp và tất cả ngôn ngữ.
86/ Ly âm thanh tự ngữ tam-muội: khi trụ tam- muội này, Bồ-tát quán các pháp thường vắng lặng không có âm thanh ngôn ngữ.
87/ Nhiên cự tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có thể dùng đèn trí tuệ chiếu sáng tất cả pháp, không còn mảy may lầm lạc lẫn lộn.
88/ Tịnh tướng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực thanh tịnh đầy đủ, trang nghiêm 32 tướng, lại có năng lực quán tướng chung và riêng của các pháp một cách đúng như thật và cũng có khả năng quán thật tướng thanh tịnh của các pháp.
89/ Phá tướng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát không thấy tướng tất cả pháp và cũng không thấy tướng các tam-muội.
90/ Nhất thiết chủng diệu túc tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực dùng các công đức trang nghiêm thiền định, khiến được thanh tịnh và đầy đủ diệu tướng.
91/ Bất hỷ khổ lạc tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có khả năng quán sự vui của thế gian gây nhiều lỗi lầm, nhiều tai họa, điên đảo hư vọng, không đáng ưa thích, quán nỗi khổ của thế gian như bệnh hoạn, như bị mũi tên cắm vào thân, nên tâm không ưa thích. Vì biết rõ các pháp vốn là hư dối nên đối với khổ vui đều không vướng mắc.
92/ Vô tận tưởng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực quán các pháp không đoạn không thường, không hoại, không tận.
93/ Đà la-ni tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực trì các tam-muội và các Đà-la-ni đều tự nhiên mà được.
94/ Nhiếp chư tà chánh tướng tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát đối với chúng sinh nhập chánh định tụ, tà định tụ, bất định tụ thảy đều không bỏ, một lòng nhiếp thấy họ mà không thấy có các tướng tà, chánh.
95/ Diệt tắng ái tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có thể diệt trừ các sự yêu ghét, đối với cảnh đáng vui cũng không yêu thích, cảnh ghét cũng không khởi tâm sân giận.
96/ Nghịch thuận tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực tự tại với đối với các pháp thuận nghịch, có năng lực phá tan các chúng sinh tà nghịch và có năng lực thuận theo tất cả chúng sinh có thể hóa độ, nhưng lại không bám chấp tướng thuận nghịch.
97/ Tịnh quang tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát đối với các tam-muội quang minh thanh tịnh và các phiền não cấu nhiễm đều không đắm chấp.
98/ Kiên cố tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ- tát đối với các pháp thật tướng tương ưng với trí tuệ thảy đều bền chắc như hư không, không thể phá hoại.
99/ Mãn nguyệt tịnh quang tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát được tịnh trí quang minh đầy đủ, diệt trừ lửa vô minh như : ái, sân giận v.v… công đức trong sạch làm lợi ích chúng sinh.
100/ Đại trang nghiêm tam-muội: khi trụ tam- muội này, Bồ-tát thành tựu đại trang nghiêm, thấy 10 thế giới nhiều như cát sông Hằng, dùng hoa hương 7 báu trang nghiêm cõi Phật. Tuy có những thứ công đức như thế tâm vẫn không đắm chấp.
101/ Năng chiếu nhất thiết thế tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực chiếu soi tất cả các pháp như: chúng sinh, trụ xứ, ngũ chúng….
102/ Tam-muội đẳng tam-muội: khi trụ tam- muội này, Bồ-tát có năng lực quán các tam-muội một cách bình đẳng, không thấy có sự cao thấp, quán tất cả pháp hữu vi đều là nhân duyên sanh, đều là bình đẳng với tướng tam-muội.
103/ Vô tránh hạnh tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát có năng lực đối với các pháp, thông đạt vô ngại, không chấp mỗi pháp có tướng nhất định, đối với chúng sinh cũng không tranh luận đẹp xấu, tùy theo tâm hạnh của họ mà nhiếp thọ cứu độ.
104/ Vô trụ xứ tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát không thích trụ thế gian, vì thế gian là vô thường; cũng không trụ phi thế gian, vì chẳng chấp Không.
105/ Quyết định an trụ Chân như tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát biết tướng như thật của tất cả các pháp, không thấy có pháp nào hơn pháp nào.
106/ Hoại thân tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát dùng sức trí tuệ phá trừ sắc thân, các tướng suy nhờ đó tự nhiên hoại diệt.
107/ Hoại ngữ như hư không tam-muội: khi trụ tam-muội này, Bồ-tát thấy rõ các ngôn ngữ đều nương âm thanh mà có, như hư không, như huyễn hóa, do đó không khởi niệm yêu ghét,
108/ Ly trước hư không bất nhiễm tam-muội: Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật, quán các pháp rốt ráo là Không, không sanh, không diệt, giống như hư không; tuy chứng được tam-muội nhưng không đắm nhiễm tướng hư không của nó.
Theo Luận Đại Trí Độ 5 (108 tam-muội. Ở đây chỉ trích tóm lược trong tđphhq t.208)
(2) Ngũ đình tâm quán: năm pháp quán để trừ phiền não mê lầm. 1/ Quán bất tịnh. 2/ Quán từ bi. 3/ Quán duyên khởi (12 nhân duyên). 4/ Quán vô ngã (quán 18 giới do hòa hợp để phá trừ ngã chấp). 5/ Quán sổ tức.
(3) 62 thứ tà kiến: sáu mươi hai kiến giải sai lầm mà các phái ngoại đạo ở Ấn Độ thời xưa chấp trước. Có nhiều thuyết khác nhau.
Theo Kinh Niết-bàn 23 (bản nam) từ 5 kiến sinh ra 62 kiến. Đại Bát Niết Bàn, Kinh Hội Sớ 23 của ngài Quán Đảnh giải thích: ngã kiến có 56 kiến: gồm 5 uẩn ở cõi dục, mỗi uẩn có 4 kiến, cộng thành 20 kiến; 5 uẩn ở cõi sắc cũng có 20 kiến, 4 tâm ở cõi vô sắc, 1 tâm đều có 4 kiến cộng thành 16 kiến. Biên kiến có 6, tức là cả 3 cõi mỗi cõi đều có chấp đoạn và thường. Tổng cộng ngã kiến và biên kiến thành 62 kiến.
Theo Tạng giáo của Tông Thiên Thai các Sư giải thích là đối với Ngã kiến có 20 loại thành 62 kiến: 5 uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) x 4 câu: (chấp Sắc là ngã; Lìa sắc mà có ngã; Sắc là đại, ngã là tiểu, ngã trụ trong sắc; Ngã là đại, sắc là tiểu, sắc trụ trong ngã). Cộng thành 20 kiến x 3 đời: (quá khứ, hiện tại, vị lai) = 60 kiến + 2 kiến (Đoạn và Thường) = 62 kiến.
(4) Tuệ giải: trí tuệ vô lậu có năng lực đoạn trừ phiền não chướng và sở tri chướng.
(5) Vô sư trí: trí tuệ sẵn có, do tự tu mà được khai phát, không nhờ người khác dạy dỗ.
(6) Lục căn thanh tịnh: 6 căn trong sạch sáng suốt, không bị vọng niệm ô nhiễm. Tông Thiên Thai nói Giai vị Thập tín trong Biệt giáo là Lục căn thanh tịnh.
(7) Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo (37 phẩm trợ đạo)
(8) Bách thiên vạn ức Diên đà-la-ni, Pháp âm phương tiện Đà-la-ni và Triền đà-la-ni: trong phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát trong Kinh Pháp Hoa, ba loại này phối hợp với ba quán Không, Giả, Trung. Đà-la-ni còn gọi là Tổng trì, Năng trì, Năng giá. Nghĩa là năng lực của trí tuệ tóm thâu, gìn giữ vô lượng Phật pháp không để quên sót. Ngoài ra Đà- la-ni còn có năng lực giữ gìn các pháp thiện, ngăn chặn pháp ác. Vì Bồ-tát lấy hạnh lợi tha làm đầu, muốn giáo hóa người khác cần phải chứng được Đà-la-ni, chứng đắc Đà-la-ni thì không quên mất vô lượng Phật pháp, từ đó ở giữa đông người không e sợ mà còn có khả năng thuyết pháp giáo hóa một cách tự tại.
(9) Chín mươi sáu pháp quỷ thần: 96 phái ngoại đạo xuất hiện ở Ấn Độ trước và sau khi Phật tại thế. Về số lượng phái ngoại đạo, tuy có nhiều thuyết khác nhau nhưng chỉ có 2 thuyết nêu lên 96 hay 95 phái là được đề cập nhiều nhất. Trong các kinh luận có một số thuyết nói: Lục sư ngoại đạo: Phú-lan-na ca-diếp, Mạt-già-lê câu-xa-lê-tử, San-xà-dạ tỳ-la- chi-tử, A-kỳ-đa-si-xá khâm-bà-la. Ca-la-cưu-đà ca- chiên-diên, Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử. Mỗi vị có 15 đệ tử, cộng chung là 96 người. Vì 6 phái này có 16 pháp sở học; trong đó 1 pháp tự học, còn 15 pháp kia mỗi pháp dạy cho 1 đệ tử, thầy và trò cộng lại là 96 pháp. Năm ngoại đạo lớn: Số luận, Thắng luận, Ly hệ, Thú xuất và Biến xuất. Mỗi chi phái có 18 bộ, tổng cộng là 95 phái.
(10) Bất thoái pháp: không thoái chuyển. Chỉ sự tu hành không lui sụt cho đến khi thành Phật. Còn hàng thoái pháp tức là chỉ cho sự lui sụt rơi vào đường ác hoặc Nhị thừa. Bất thoái vị còn gọi là bất thoái chuyển địa. Trong giai vị Tứ thiện căn của Hữu bộ, đến Nhẫn vị thì không còn rơi vào đường ác, được xếp vào Bất thoái vị.
(11) Chân vô lậu (Chân vô lậu trí): Trí vô lậu của Phật và Bồ-tát. Trí vô lậu của hàng Nhị thừa chưa được gọi là Chân vô lậu, vì trí này chưa đoạn được pháp chấp và sở tri chướng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.239.235 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.