Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận [念佛三昧寶王論] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận [念佛三昧寶王論] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận

Kinh này có 3 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 |
Việt dịch: Định Huệ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Có một vị khách đức tin rất cao đến chỗ tôi, làm lễ thưa hỏi, lời lẽ rất thanh bai cởi mở.
Khách hỏi tôi: Người tu tâm, nếu luận về con đường thẳng tắt thành Phật thì hạnh Bất Khinh Pháp Hoa tam-muội và tông Bát-chu Niệm Phật tam-muội đều là môn thiền thâm diệu vô thượng. Tôi xin được nghe ý nghĩa đó.
Đáp: Tôi từ lâu chỉ chắp tay ngồi yên trên dãy núi Cửu Hoa lo việc khác với thế gian. Tôi lại nhận được chiếu chỉ của nhà vua ban, từ chùa Thảo Đường ở núi Tử Các đến trông nom đạo tràng Pháp Hoa ở Thiên Phước gần ba mươi năm nay, những người đến hỏi đạo chưa có ai đặt câu hỏi như ông. Ông là kẻ muốn qua bờ Vô Sanh, lại muốn cất cánh bằng qua phương Nam. Tôi chẳng phải là người tài ba, thông suốt, nên chỉ thử bàn luận xem sao! Tôi xin được trình bày hai mươi môn để thuyết minh tông chỉ này.
MÔN THỨ 1
NIỆM PHẬT VỊ LAI CHÓNG THÀNH TAM-MUỘI

Luận về tâm, thấy tâm có hai, vì sanh vọng tưởng, các vọng tưởng đều hư giả, người mê lầm vẫn thường vướng mắc không cởi mở được, đó là lý do chư Thánh phải lo âu.
Lời diệu được tuyên bày nhưng vẫn là vô thuyết, pháp thân tuy không mà vẫn đầy đủ tướng tốt. Những tướng kia nếu chẳng được hiển bày và lời nói kia nếu không viên mãn thì ý chỉ nhất vị đầy đủ các tướng và con đường tuyệt ngôn của vô thuyết đâu có thể biết được chỗ quy hướng ở nơi nào?
Tông tam-muội là muốn làm cho kẻ thiếu khí lực biết rằng pháp môn bất nhị thu nhiếp cả nói năng và nín lặng, không những bao hàm cái im lặng của ngài Tịnh Danh mà cả lời xưng tán của đức Văn-thù nữa. Sao vậy? Vì lưới báu chưa giăng thì đâu thấy được ngàn viên ngọc quý, khi giềng lưới cất lên thì muôn mắt lưới đều mở bày. Một người tắm trong biển lớn thì đã dùng hết đủ nước của trăm sông, người niệm danh hiệu Phật nhất quyết sẽ thành tựu tam-muội. Một lời nói bao trùm hết cả là ở đây vậy. Cũng dụ như đem viên thanh thủy châu ném vào nước đục, nước đục không thể nào chẳng trong, tâm tưởng Phật để vào tâm loạn thì tâm loạn không thể không Phật. Sau khi đã khế hợp rồi thì tâm, Phật cả hai đều quên (song vong). Song vong là định, song chiếu là huệ. Ngay lúc định huệ đồng đều thì tâm nào chẳng phải là Phật, Phật nào chẳng phải là tâm. Tâm, Phật đã vậy thì tất cả mọi cảnh, mọi duyên đều là tam-muội.
Nhưng ở thế gian, người ta thường niệm khuôn mặt như trăng rằm của Phật Thích-ca trong quá khứ, quán tưởng mắt biếc như biển trong của Phật A-di-đà, giống như nhổ tên độc, lên cung vui, tôi cũng cho là chí giáo, mà từ lâu tôi chưa thấy ai niệm tới Phật vị lai. Sao vậy? Bởi vì chúng ta không biết đức Như Lai vì đối với cái thô của chúng sanh mà nói cái diệu của chư Phật, do đó, tưởng đâu có chúng sanh ở ngoài cách xa chư Phật, cho nên chúng ta không nghe nói đến niệm Phật vị lai, vì có ai chịu niệm đâu!
Trong kinh Tịnh Danh có ghi: Người ngửi hoa chiêm-bặc thì không nghe những mùi thơm khác, cùng câu chuyện hoa dính và không dính trên thân. Đó là pháp ức dương của Đại thừa: Ức Tiểu thừa ở chỗ bỏ bát vì mờ mịt, dương Đại thừa là ở chỗ cùng dạo chơi nơi pháp môn Bất nhị. Kinh Pháp Hoa là vua trong các kinh giải quyết xong pháp Thanh Văn, thể hiện ý chỉ tất cả hương đều là chiêm-bặc, Đại, Tiểu đều chẳng dính thật rõ ràng.
Nếu chẳng phải là bậc lợi căn thì sẽ cho rằng chư Phật là đấng Chí Tôn, còn chúng sanh là bọn hèn kém thì sinh ra sự cao thấp, khởi vọng phân biệt, một khi sự cung kính và ngạo mạn dựng lên thì đạo nhất chân bị ẩn mất. Như thế trước mặt kẻ đó muôn loài như cỏ rác, thiên hạ nhẹ như truy thù([1]), dựng cờ ngạo mạn vòi vọi nhiều tầng, mắt dõi theo cánh chim hồng, tâm dạo cõi trời xa, không thể điều phục được. Tâm hạnh như vậy trái với lời dạy “cung kính tất cả là pháp cúng dường tối thắng” trong kinh Duy-ma.
Lại nữa, chẳng tin kinh Lăng-già nói: “Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh, chuyển ba mươi hai tướng vào trong tâm của tất cả chúng sanh như viên ngọc báu vô giá quấn trong cái áo bẩn”, thì đâu thấy được người hành khất hạ tiện nhất trong thành cùng với đức Nan Thắng Như Lai như nhau không khác. Nếu niệm cả chư Phật ba đời, quán khắp mười phương các đức Thế Tôn thì chắc chắn phù hợp với văn kinh Lý Thú Bát-nhã: “Tất cả hữu tình đều có Như Lai tạng, tự thể Bồ-tát Phổ Hiền trùm khắp”. Nếu thấy rõ được cái ý nghĩa cô gái nghèo mang thai vua, gạo ở trong trấu cám thì đâu mắc phải lời chê trách về tám thứ kiêu mạn([2]). Người ta ai cũng đều xem thường Phật vị lai, mà không dám xem thường Phật quá khứ, hiện tại. Họ chẳng biết đó là nguồn gốc của tội lỗi, vì chẳng nhận ra ngay chúng sanh này đương lai là Phật. Chúng ta biết người mẹ nhờ đứa con mà sang, hạt gạo lấy ra từ trấu cám, nếu sự tu tập khế hợp với tâm Bất Khinh của kinh Pháp Hoa thì niệm Phật tam-muội không bao lâu sẽ thành tựu.
Hỏi: Pháp Hoa là pháp, niệm Phật là Phật, đâu được lấy pháp làm Phật, lấy Phật làm pháp hỗn loạn như thế?
Đáp: Chẳng hỗn loạn đâu! Nguyên là một môn, lấy gì để hỗn loạn. Cũng như thuốc chi truật, và các vị Tiên, khi xưa ở chân trời (thiên nhai) vốn chưa có danh từ Tiên, vì người uống thuốc ấy hóa cánh bay lên mây nên thuốc mang hiệu là thuốc tiên, còn người được gọi là tiên nhân, người và thuốc tuy khác mà tính chất Tiên vẫn là một. Nếu không có bậc Thánh nhân thì ai vui cùng với đạo. Pháp mà không có Phật ngộ thì pháp đâu thể tự ngộ. Pháp mà không phải Phật thì không ngộ, do đó niệm Phật tam-muội sanh; Phật mà chẳng phải pháp thì không hiểu rõ, do đó Pháp Hoa tam-muội khởi. Tiên nhân và thuốc tiên tuy được gọi hai cách mà đều cùng một chỉ định từ Tiên. Niệm Phật và Pháp Hoa đồng tên là Phật huệ, Phật huệ đã đồng thì ngay nơi đây liền ngộ môn thiền thâm diệu vô thượng của Bất Khinh và Bát-chu. Chưa từng khác thì làm gì có hỗn loạn!
MÔN THỨ II
GÁI GIANG HỘ VÀ KẺ CƯỚP KHÔNG ĐÁNG KHINH

Hỏi: Tất cả chúng sanh đều là Phật vị lai. Vâng, tôi xin tin nhận lời này. Còn gái giang hồ và lũ trộm cướp đều là những kẻ hèn hạ xấu xa, có thể được người niệm Phật tỏ lòng cung kính chăng?
Đáp: Sự phô diễn, tuyên thuyết của đức Phật có hai loại là môn đối đãi và môn quyết liễu.
1. Môn đối đãi thì người nữ là hư ngụy, còn Như Lai là bậc chí chân, nên Phật là đấng đáng tôn kính sùng phụng, còn người nữ thì cần nên nhàm chán và xa lìa. Thế nào là yểm ly? Có hai thứ: Một là quở trách tham dục, hai là phóng tâm.
a. Quở trách tham dục: Kinh Bồ-tát Quở Sắc Dục nói: “Nữ sắc là xiềng xích của thế gian, phàm phu mê luyến không thể tự thoát ra. Nữ sắc là bệnh nặng của thế gian, phàm phu bị nguy khốn bởi nữ sắc, đến chết cũng không khỏi. Nữ sắc là suy họa của thế gian, phàm phu chạy theo ắt chịu khổ ách.
Bậc tu hành đã bỏ được nữ sắc rồi, nếu còn nghĩ nhớ đến nó, ấy là từ ngục tù được ra, lại nghĩ muốn vào ngục tù nữa, từ cuồng điên được hết mà lại muốn cuồng điên, từ bệnh được lành, lại muốn bị bệnh. Người trí thấy vậy xót thương, người điên đảo ấy không bao lâu phải chết.
Phàm phu quí trọng nữ sắc, cam tâm làm nô lệ, cho nên họ suốt đời theo đuổi, cay đắng vì nó. Dù bị đặt trên bàn chông sắt nhọn hay trên ngàn lưỡi dao bén, họ cũng vẫn đành lòng nhận chịu chớ cũng không cho đó là tệ hại. Ấy, kẻ cuồng thích điên như vậy cũng chẳng đáng trách làm gì! Người tu hành nếu bỏ được nữ sắc, chẳng màng đến, đó là phá xiềng xích, ghét điên, chán bệnh, thoát khỏi suy họa, được an ổn ra khỏi lao ngục, không còn hoạn nạn. Người nữ, lời như mật ngọt, tâm như thuốc độc, ví như suối dừng sóng lặng mà giao long ẩn mình, núi vàng hang báu mà sư tử nương thân. Phải biết đó là nơi nguy hiểm chẳng nên đến gần.
Gia đình bất hòa đều do người nữ, phá hư tông tộc cũng tội người nữ, đúng là kẻ giặc ngầm tiêu diệt trí tuệ sáng suốt của người. Ví như bẫy giăng của bọn thợ săn, ít có loài thú nào thoát khỏi. Như lưới dầy cao rộng, bầy chim sa vào không thể bay ra, lại như lưới chài, đàn cá mắc vào sẽ bị moi ruột xẻo da, như người mù bị rơi vào hầm tối, như con thiêu thân bay vào ngọn lửa. Thế nên, người trí biết rõ, xa lánh sắc dục, không để sắc dục làm hại, ghét và tởm sắc dục nên không bị nó mê hoặc”.
Kinh Đại Bảo Tích, đức Phật vì vua Ưu-đà-diên nói kệ:
Núi đao bén nhọn
Tên độc khổ não
Từ người nữ nhóm
Tất cả các khổ.
Giả dùng hương hoa
Trang điểm sắc thân
Người ngu thấy vậy
Móng tâm tham cầu.
Như chim qua biển
Mỏi cánh giữa chừng
Chết ắt bị đọa
Địa ngục A-tỳ.
Hiện đời thấy khổ
Tập hợp nơi thân
Bạn lành xa lánh
Thiên đường mất luôn.
Thà vào ngục sắt
Đi trên núi dao
Nằm trên lò lửa
Chẳng gần nữ sắc.
Như chim tìm mồi
Chẳng biết tránh bẫy
Đám yêu người nữ
Bị hại cũng vậy.
Như cá trong nước
Đâm đầu vào lưới
Bị ngư phủ bắt
Tự mình hại mình.
Gái như ngư phủ
Dối gạt như lưới
Người nam như cá
Bị lưới cũng vậy.
b. Phóng tâm: Kinh Đại Bảo Tích chép: “Ngài Văn-thù nói với thiên tử Thiện Trụ: Nếu người nhất tâm chuyên tinh tự giữ, khi tâm tham dục nổi lên liền hay biết, lập tức dùng phương tiện đuổi trừ để cho thân tâm trở lại thanh tịnh. Làm thế nào để đuổi trừ? Nên nghĩ như vầy: Tâm tham dục là không, là bất tịnh, tìm chỗ sanh chỗ diệt của tâm tham dục, nó từ đâu đến và đi về đâu, ở trong đó xét xem cái gì nhiễm, ai là người bị nhiễm, cái gì là pháp nhiễm”.
Lúc quán sát như vậy chẳng thấy năng nhiễm, sở nhiễm, cũng chẳng thấy nhiễm sự. Vì không thấy như thế nên không có chấp thủ. Vì không thủ nên không xả. Vì không có xả nên không có ái. Vì không xả không ái nên được gọi là ly dục tịch tịnh Niết-bàn. Nếu lại buông lòng theo đám trần lao sanh tử và cũng chẳng quan tâm đến mối họa phiền não tham sân si, thì gọi đó là phóng tâm.
2. Môn quyết liễu([3]): Nếu rốt ráo lìa các vọng, không nhiễm như hư không thì đã là Phật quá khứ, hiện tại, chớ chẳng phải Phật vị lai. Ông chẳng nghe: “Muốn tìm ngọc báu vô giá ắt phải xuống đáy biển sâu, người muốn được của báu trí tuệ, ắt hẳn trước hết phải tìm trong phiền não” đó sao! Tướng ngũ nghịch tức là tướng giải thoát, Phật giới Như tức ma giới Như. Nếu nghe tiếng Phật mà mừng, nghe tiếng ma mà giận thì người này chẳng nhập vào pháp môn âm thanh, chẳng trụ âm thanh thật tế, chẳng ngộ tánh các pháp, đây là người quay hướng xe về phía Bắc mà muốn đi qua nước Việt ở phương Nam, thì đâu thể cùng người này luận đạo.
Tôi xin nói thêm cho ông rõ, kinh chẳng nói: “Xưa có vị tiên tên Lộc Đề, một hôm vì trời mưa rất trơn trợt ông bị té, ông liền dùng thần chú làm hạn hán, nhân dân trong nước đều phải chịu nạn tai ấy. Nhà vua cho mời cô gái giang hồ đến quyến rũ tiên nhân, rồi cưỡi cổ tiến vào thành. Lúc đó, mây vần vũ bốn phương mưa tuôn tầm tã. Tiên nhân tuy có pháp thuật có thể đi trên không, vượt qua biển, nhưng lúc đó cũng đành bó tay, không làm gì được. Vị tiên nhân ấy là tiền thân của đức Phật Thích-ca, còn cô gái giang hồ kia là tiền thân của công chúa Gia-du, trong hội Pháp Hoa được thọ ký làm Phật vị lai hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai” đó sao! Do đó, người niệm Phật chỉ thấy hình dung đẹp đẽ của cô gái giang hồ mà lại không nhớ đến tướng hảo sắc vàng sáng chói của thân Phật là đã đánh mất ý chỉ “Bất Khinh” rồi, thì sự niệm Phật tam-muội đâu chẳng dối!
Ngài A-na-luật, tiền thân là đầu đảng bọn cướp, trong lúc vào chùa trộm viên ngọc trên trán tượng Phật, dùng mũi tên khêu ngọn đèn thờ Phật khiến cho ánh tịnh quang chẳng tắt. A-na-luật được phiên dịch là Vô Diệt là do sự kiện này, đương lai làm Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai. Người niệm Phật đối với kẻ trộm cướp còn không dám khinh huống chi là đối với người không trộm cướp.
Đấy là gương sáng về hai vị Phật vị lai, thì ông lo gì tam-muội không thành.
MÔN THỨ III
TRÌ GIỚI, PHÁ GIỚI CHỈ TƯỞNG LÀ PHẬT

Hỏi: Hai vấn nạn trên Ngài đã giải thích cặn kẽ rồi. Kinh Phạm Võng có dạy: “Nếu người thọ giới Phật tức là vào ngôi vị của chư Phật”. Người xuất gia mang cái giới như trăng sáng, như chuỗi báu anh lạc, được tham dự vào ngôi Tam tôn([4]), ở trong phạm vi Thất chúng([5]), thật là bậc đáng kính trọng. Nếu người không trì giới tinh nghiêm, mà lại làm điều sai quấy, chúng ta khinh khi họ, có lỗi chăng? Hoặc đánh đập, mắng rủa họ, có tội chăng? Xin Ngài phân tích giải thích cho.
Đáp: Đức Như Lai trong kinh Tam-muội Hải, vì phụ vương nói rằng: “Ngày xưa có bốn vị tỳ-kheo phạm luật. Họ lấy làm xấu hổ và tự cho rằng không thể cứu vãn được. Bỗng họ nghe trên hư không có tiếng nói: “Các ngươi phạm luật, cho rằng không cứu vãn được, điều đó không đúng. Đức Không Vương Như Lai tuy đã nhập Niết-bàn song hình tượng của Ngài vẫn còn, các ngươi nên vào tháp quán tưởng tướng lông trắng giữa chặng mày của bảo tượng”. Các tỳ-kheo làm y theo lời dạy, họ cảm động đến rơi lệ, bảo nhau rằng: “Phật tượng còn như thế, huống là Phật thật”. Rồi họ dập mình xuống đất như núi lở. Ngày nay bốn vị tỳ-kheo đó đều thành Chánh Giác ở bốn phương: Phương Đông Phật A-súc, phương Nam Phật Bảo Tướng, phương Tây Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc Phật Vi Diệu Thanh. Vì lẽ đó, đức Như Lai gọi pháp Quán Phật Tam-muội này là Đại Bảo Vương Giới Phẩm Hải, có năng lực tẩy sạch mọi tội cấu của sự phá giới, được thanh tịnh. Bốn vị tỳ-kheo ấy do quán bảo tượng mà thành bậc Thế Hùng, như thế, người niệm Phật còn có lòng nghi ngại đối với tăng sĩ phá giới nữa sao!
Kinh Đại Tập nói: “Nếu các vua quan đánh mắng người xuất gia trì giới hay phá giới đều có tội đồng với tội làm trăm ức thân Phật chảy máu”. Nếu thấy các vị mặc ca-sa bất luận là người trì giới hay phá giới đều phải tưởng là Phật. Tưởng Phật tức là niệm Phật Tam-muội vậy. Ý nghĩa sâu xa của hạnh Bất Khinh do chính đức Phật nói ra chắc thật như vậy, chúng ta đâu nên đánh đập, mắng nhiếc người mà chẳng sợ tội hay sao? Kinh nói: “Nên làm thầy của tâm, đừng để tâm làm thầy”. Thấy người tham lam bỏn xẻn phải khởi ý tưởng bố thí, thấy người phá giới nên phát khởi ý tưởng trì giới. Được như thế, ắt không bị ràng buộc trong sáu trần, vì đã thành tựu được quán môn lục độ cứu cánh. Nếu trụ nơi tâm phân biệt tức là tự chiêu lấy hình phạt của địa ngục, chẳng đáng thương ư! Nếu có thể vô phân biệt thì ngay nơi đó chính là niệm Phật Tam-muội như dòng nước chảy trong sông.
MÔN THỨ IV
NGAY TRONG ĐỊA NGỤC VẪN KHÔNG NGẠI CHO SỰ THỌ KÝ

Hỏi: Người phá giới do quán Phật được thành Chánh Giác, cho nên chẳng thể khinh, điều này tôi vững tin. Còn như người ở trong địa ngục, hoặc trong loài quỷ, tâm Bồ-đề có phát, không biết bao giờ mới được an lạc, đối với hạng người này, người niệm Phật vẫn cung kính không có gì sai khác chăng?
Đáp: Ông há chẳng nghe người ta hay nói: “Hễ muốn hái thuốc hay phải lặn lội vào núi rừng hiểm trở, không thể tìm ở chốn yên ổn” đó sao! Còn cái pháp dược này cũng xuất phát từ chỗ hiểm nguy, đâu phải bỗng nhiên mà được. Vì thế, kinh Lăng-nghiêm có đề cập đến bốn loại thọ ký:
1. Chưa phát tâm được thọ ký.
2. Vừa phát tâm được thọ ký.
3. Bí mật thọ ký.
4. Hiện tiền thọ ký.
Nay tuy hiện đang ở địa ngục, ngạ quỷ tức là chưa phát tâm mà được Phật thọ ký cho về sau được thành Phật ắt họ phát chí nguyện rộng lớn, gặp bậc thiện hữu chân chánh, họ sẽ thực hành hạnh Bồ-tát, trở thành bậc Chánh Giác, do đó đối hạng người này, chúng ta chẳng nên khinh thường. Đó là sự thọ ký cho kẻ chưa phát tâm.
Trong lúc Phật nói về bốn loại thọ ký, ngài Ca-diếp bạch Phật:
- Chúng con từ nay trở đi, đối với tất cả chúng sanh đều tưởng là Thế Tôn, nếu sanh tâm khinh thường ắt hẳn chúng con tự làm tổn thương cho chính mình.
Phật bảo:
- Lành thay! Ông nói đúng lắm! Mọi người không ai có thể lường được tâm tánh của chúng sanh, duy có Phật mới thấu suốt. Do nhân duyên này ta dạy các Bồ-tát và Thanh Văn đối với chúng sanh phải tưởng là Phật.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong kinh Hoa Nghiêm nói: Phá trăm vạn chướng môn cũng dùng cái tưởng này. Nếu như vậy, thì kẻ ở trong đường ác được Phật thọ ký cũng như báu vật ở trong nhà tuy chưa khám phá ra nhưng nhà vẫn quý vì có chứa báu vật, như hạt châu trên trán vì đánh nhau mà lún sâu, nhưng nào có mất hạt châu trong trán. Nếu không niệm chúng sanh là Phật đương lai, ắt lấy sáu trần làm giặc cướp, như phòng ngự quân ma mà lại tự phá hoại vách thành, tự mình duy trì nước địch để cho nó thường khởi dậy oán cừu, giặc giã chưa dẹp yên, tiếng chiêng trống vẫn còn chấn động thì làm sao có thể cao gối nghỉ ngơi. Nếu kẻ nào có thể khiến cho người không hàng phải hàng, người không phục phải phục thì người đó mới là kẻ có đủ khả năng làm cho thiên hạ nhất thống. Cờ xí dập dìu cần chi nữa, vùn vụt phi tướng đi đâu, quân ta bỏ ngựa về bón ruộng, mặt trời mọc thì ra đồng, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi, đâu cần đến bậc Thánh như vua Nghiêu, bá tánh cũng được yên ổn mà không tự rõ lợi ích của việc Thánh hóa. Nếu có thể ngộ sắc thanh là Phật, niệm chúng sanh là Phật đương lai thì ắt chẳng lập cảnh phàm ở trước tâm, hoặc tưởng chính mình là bổn tôn, thì quán môn sâu xa mầu nhiệm Du-già chân ngôn chẳng cần lo cũng hội. Phàm cái do tưởng mà có thì chẳng phải là không. Như vậy, đại bàng với chim sâu bằng nhau, Thái Sơn cùng mảy lông là một, không có cái quái lạ của núi cao bị san bằng, cái lo của chim le le được nối chân([6]).
Hỏi: Những kẻ ở địa ngục dù chưa phát tâm, đấng Pháp Vương Như Lai cũng tha thứ tội lỗi của họ và thọ ký cho. Ngàn muôn ánh sáng soi khắp, mười hiệu viên minh, lời Phật chân thật, ai dám chẳng tin, còn như người chưa ngộ thì do đâu được thức tỉnh?
Đáp: Nói về người chưa ngộ thì cái gốc mê lầm lớn lao ngay nơi cái thấy hai, cũng như nguồn nước của con sông dài bắt đầu từ lạch suối nhỏ. Nếu cho rằng ngoài niệm lập vô niệm, ngoài sanh lập vô sanh ắt sanh tử khác với Niết-bàn thì dù chư Phật đông nhiều cũng không thể giáo huấn được. Nếu rõ niệm mà vô niệm, quán sanh mà vô sanh, phiền não tức Bồ-đề ngay đây tỏ ngộ được nhất tướng trang nghiêm. Cũng như thấy bầy ong trên chóp núi, biết có tổ ong đầy mật, như thất bảo trong giếng, đâu nên cho là không quý, các thứ đó đều là sẵn có, chứ đâu phải bây giờ mới có. Niệm Phật vị lai thì tội không do đâu phát sanh, phóng tâm cùng khắp tất cả chỗ sở duyên đều thấy Như Lai, đạo từ tham sân v.v … sanh ra là lý này vậy.
Trong kinh Như Lai Tạng, Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Huệ: “Này thiện nam tử! Ta dùng Phật nhãn quán sát tất cả chúng sanh ở trong các phiền não tham dục, sân si đều có Như Lai trí, Như Lai nhãn, Như Lai thân ngồi kiết già nghiễm nhiên bất động và đầy đủ đức tướng như ta không khác. Nói rộng ra tất cả chúng sanh đều có Như Lai Tạng, ta dùng chín ví dụ để giảng nói”. Luận Bảo Tánh giải thích và kết bằng bài tụng:
Chư Phật trong hoa héo.
Vàng ròng trong phẩn uế.
Kho báu ở trong đất.
Mầm mộng trong hạt trái.
Trong áo cũ rách rưới
Bọc gói tượng vàng ròng.
Cô gái nghèo xấu xí
Mang thai chuyển luân vương.
Trong khuôn bằng đất đen
Có tượng báu tốt đẹp.
Chúng sanh tham sân si
Vọng tưởng và phiền não
Trong các cảnh trần lao
Đều có Như Lai tạng.
Dưới địa ngục A-tỳ
Đều có Như Lai thân.
Pháp chân như thanh tịnh
Chính là Như Lai thể.
Theo văn đã dẫn chứng, nếu hiểu được sự thọ ký ở địa ngục thì môn tam-muội tự nhiên thông suốt.
Hỏi: Bậc chí nhân dụng tâm đạm nhiên thanh tịnh, dứt bặt phan duyên, nay nói phóng tâm duyên khắp tất cả, chỗ sở duyên nào cũng đều thấy Như Lai, như vậy đâu là lời Phật dạy?
Đáp: Phật cũng có dạy khởi tâm duyên sáu trần, ba nghiệp, nhưng vẫn luôn luôn phát diệu nguyện nhập vào cảnh giới chư Phật, mỗi mỗi duyên khởi đều chẳng rời Như Lai thì được gọi là thấy Như Lai, cái thấy đó gọi là viên kiến, không phải do mắt thấy. Vì thế trong kinh Niết-bàn nói rằng: “Hàng Thanh Văn tuy có thiên nhãn nhưng gọi là nhục nhãn, người học Đại thừa tuy có nhục nhãn nhưng được gọi là Phật nhãn. Tại sao vậy? Vì rõ biết chính mình có Phật tánh”.
Trong kinh Thắng Thiên Vương, Phật dạy Thiên Vương: “Bậc Đại Bồ-tát dùng sức phương tiện thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại. Tâm duyên tất cả sắc nguyện được Phật sắc, vì vô sở đắc. Tâm duyên tất cả thanh, nguyện được âm thanh vi diệu của Như Lai. Tâm duyên các thứ hương, nguyện được giới hương thanh tịnh của Như Lai. Tâm duyên các vị, nguyện được tướng đại trượng phu bậc nhất trong Như Lai vị. Tâm duyên các xúc, nguyện được bàn tay mềm mại dịu dàng của Như Lai. Tâm duyên các pháp, nguyện được tâm tịch tịnh của Như Lai. Tâm duyên thân mình, nguyện được thân Phật. Tâm duyên nơi miệng, nguyện được miệng Phật. Tâm duyên nơi ý, nguyện được ý bình đẳng của Như Lai. Này Thiên Vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không có một tâm, một hạnh nào luống không, mà đều hướng đến nhất thiết trí. Duyên khắp các pháp mà tâm không dính mắc, quán thấy các pháp đều hướng về đạo Bồ-đề”. Bồ-tát tu tập các hạnh đều do ngoại duyên mà được thành lập cũng như đất ở trên nước, nếu chịu đào giếng thì liền có nước, còn nếu không đào giếng thì làm sao có nước để dùng. Cũng thế, cảnh giới thánh trí trùm khắp tất cả, nếu chuyên cần tu tập phương tiện Bát-nhã ắt đạt được cảnh giới ấy, còn như không tu thì làm sao được. Cái lý tâm duyên há chẳng rộng lớn sao?
MÔN THỨ V
QUÁN KHÔNG, VÔ NGÃ, CHỌN THIỆN LÀM THEO

Hỏi: Ngay nơi động mà tịnh, tịnh ở tại trong động, ngay nơi phàm là thánh, thánh ẩn trong phàm, tôi đã được nghe ý chỉ cao xa ấy rồi. Lại nữa, vô ngã của Tam giáo, lý đã không có chi khác, vì đều chọn thiện làm theo, nghĩa đó như thế nào?
Đáp: Lý vô ngã của Tam giáo trên mặt danh từ tuy đồng, nhưng lý thì khác. Chẳng hạn như trong tứ tuyệt của Phu Tử, cái nghĩa của đức sáng mà khiêm nhường chính là Vô ngã. Còn Vô ngã của Đạo giáo (Lão Trang) là cái lớn mà không hề làm chủ tể. Còn Vô ngã của Phật Giáo là quán năm uẩn đều không. Cả hai giáo môn trên không hiểu rõ về năm uẩn thì đâu biết được pháp tứ đế, lục độ, vạn hạnh và tuyệt nhiên không nghe đến cấp bực của Hiền Thánh. Nhưng “hòa quang đồng trần”, “bảo thư thủ tịnh”([7]) đã từ lại kiệm, không dám tỏ ra hơn thiên hạ, mỗi vị đều là Thánh, đâu cần phải thương xác chỗ cạn sâu của các Ngài. Như thế, cái nghĩa vô ngã của Tam giáo rõ ràng rồi vậy.
Chọn điều thiện làm theo, nghĩa là lý của ba tánh([8]), lý này ở khắp mọi nơi, người tu tâm nên chọn điều thiện mà theo. Bởi vì bất thiện thì vô ích đối với chỗ chí chân, còn vô ký thì thiện ác đều mất. Cái nguyên do làm hỗn loạn Phật lý đều do bất thiện và vô ký nầy gây ra, cho nên thánh nhân lựa nó bỏ ra. Kinh Niết-bàn nói: “Kẻ Nhất-xiển-đề tâm không phan duyên tất cả thiện pháp, cho đến chẳng sanh một niệm thiện”. Thế mới biết, niệm Phật Tam-muội là pháp thiện tối thượng, là đứng đầu trong muôn hạnh, nên gọi là vua Tam-muội vậy.
MÔN THỨ VI
KHÔNG ĐIỀU THIỆN ĐÁNG CHỌN, KHÔNG ĐIỀU ÁC ĐÁNG BỎ

Hỏi: Nếu chọn điều thiện để theo, tại sao không chọn cái thiện của của chư Phật, bỏ cái ác của chúng sanh. Nếu như vậy thì niệm Phật vị lai làm sao đồng với các bậc Chánh Giác quá khứ, hiện tại được?
Đáp: Không cần đổi câu hỏi, tự nó thành lời đáp của tôi. Sao vậy? Vì chọn thiện để theo là bất đắc dĩ mà nói đó thôi, bởi phàm phu trí lực yếu kém không thể nhận nổi ngay nơi ác mà thiện, ngay nơi vọng mà chân, cho nên phải nói như thế. Nếu có thể niệm Phật vị lai phù hợp với hạnh Bất Khinh thì trời đất chỉ là một, muôn vật không hai, chúng sanh đều là Phật, cõi này vẫn thường tịnh, khác với ngài Xá-lợi-phất thấy là đất đá, cát sỏi, mà đồng với Phạm Vương thấy là tướng trân bảo trang nghiêm. Đó là chỗ tột cùng của sự chọn thiện, không có điều ác nào có thể bỏ. Đó chính là chỗ dẫn chứng của ngài Thiên Thai Trí Giả về sự vi diệu của lý tuyệt đãi trong lời giải thích kinh Pháp Hoa:
Chúng sanh thấy kiếp tận
Lửa lớn bừng đốt cháy
Cõi Phật ta an ổn
Trời người thường đầy đủ
Vườn rừng và lầu gác
Các thứ báu trang nghiêm.
Kinh Thắng Thiên Vương nói: “Trụ xứ của Phật thật không có cõi nước nhơ xấu, vì chúng sanh phước mỏng nên thấy bất tịnh”.
Tiếng Phạn Nam-mô, người Trung Hoa đời Đường dịch là Quy mạng. A-di-đà dịch là Vô Lượng Thọ. Các đức Phật trong ba đời đâu phải chỉ có một đức Phật thọ mạng vô lượng. Nay tôi cùng ông niệm ba đời A-di-đà, đồng sinh về mười phương Cực Lạc, có gì không được đâu mà muốn thoái lui. Như thế, cũng không khác nào ngọn lửa tam-muội mãnh liệt khiến cho muỗi mòng vọng kiến không ghé vào đặng (vọng kiến không còn trong niệm Phật tam-muội). Mười niệm như dộng hồng chung chẳng khác tâm tán loạn xưng danh hiệu Phật (tán loạn chẳng khác định). Niệm Phật A-di-đà thông cả chư Phật ba đời, niệm chư Phật, Bồ-tát nào có khác chi.
Hỏi: Niệm Phật vị lai cũng đồng với chư Phật quá khứ, hiện tại, xin Ngài nói cho nghe rõ lý đó?
Đáp: Kinh Hoa Nghiêm nói:
Tất cả các Như Lai
Đồng chung một pháp thân
Một tâm, một trí tuệ
Lực, vô úy cũng vậy.
Kinh Lăng-già có bài kệ:
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta
Vì có bốn thứ đồng
Ta vì Phật tử nói.
Bốn thứ đồng là:
1. Danh tự đồng vì cùng gọi là Phật.
2. Ngữ đồng vì đều đủ tướng âm thanh thanh tịnh như Ca-lăng-tần-già.
3. Pháp đồng vì đều được Bồ-đề phần pháp vô chướng ngại trí.
4. Thân đồng vì sắc thân tướng hảo không sai khác.
Luận Khởi Tín nói: “Y nơi phương hướng mà chuyển, phương hướng thật không có chuyển”. Cũng thế, người ngộ chỉ ngộ một phương thì các phương sẽ tự đúng. Người niệm Phật chỉ niệm một danh hiệu Phật thì tất cả chư Phật đều hiện tiền.
Kinh nói: “Nước chẳng chảy lên, trăng không rơi xuống, do vì bầu trời trong sáng nên mặt trăng trên hư không hiện bóng trong nước. Đức Phật kia chẳng đến, thân ta cũng chẳng đi, nhờ nhân duyên niệm Phật vầng trăng báu Như Lai sẽ hiển hiện trong nước tâm thuần tịnh của ta, như bài kệ tụng:
Bồ-tát như trăng sáng
Dạo trong tất cánh không
Nước tâm chúng sanh lặng
Bồ-đề hiện ở trong.
MÔN THỨ VII
KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÚNG SANH

Hỏi: Thịt là món ăn của con người, thế mà người niệm Phật tuyệt nhiên không ăn, vì cớ chi?
Đáp: Thử xét chuyện vua Thi-tỳ cứu bồ câu bằng cách tự treo mình trên giá cân, vua và chim tuy khác nhưng sanh mạng đâu khác. Vì thế nên không được ăn thịt loài vật để nuôi cái thân bại hoại này, vậy mà cứ ngu ngốc không biết sợ tội. Nếu chúng ta biết được rằng muôn loài là chư Phật vị lai thì ai dám dùng dao bén với loài cá, thả chim ưng trước bầy thỏ để tự làm tổn hại như con thiêu thân đáp vào ngọn lửa, tự chuốt lấy cái chết. Phẩm Phật Ngữ Tâm trong kinh Lăng-già có nói:
Vì lợi giết chúng sanh
Và đem tiền mua thịt
Cả hai là nghiệp ác
Chết vào ngục gào thét.
Thật đúng như lời Phật dạy, nếu không vì tiền của này thì những hạng người sống bằng nghề sát sanh như chài lưới hay đồ tể sẽ không có nữa. Bậc Bồ-tát như ngài Long Thọ còn không dám khinh rẻ loài bồ câu, se sẻ, bậc cao tăng không đạp trên loài trùng kiến, có người hỏi cớ sao? Các Ngài đáp rằng: Vì các loài ấy cùng với ta ở trong sanh tử, biết đâu chúng thành Phật trước nên đâu dám khinh khi. Khinh khi còn không, huống hồ là ăn thịt của chúng.
Luận Bảo Tánh dẫn kinh Như Lai Tạng, Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chúng sanh là Đệ nhất nghĩa đế, là Như Lai tạng, là Pháp thân, là Bồ-đề”.
Tôi cho rằng con chó dữ chỉ biết đuổi theo hòn đất chớ không biết đuổi theo người, theo đuổi hoài không ngừng. Cũng thế, nếu chỉ niệm Phật quá khứ, hiện tại, không niệm Phật vị lai thì sự khinh mạn không bao giờ dứt. Nếu như sư tử bắt ngay người, thì sự lầm lẫn tự dứt. Đấy là đạo lý về sự khinh mạn và cung kính, tất cả đều quy về một mối. Nếu từ cung kính đổi ra kiêu mạn thì đối với người thân như cha mẹ cũng ngỗ nghịch xem như người xa lạ. Trái lại, cải đổi kiêu mạn thành cung kính thì đối với tất cả mọi người đều tỏ lòng hiếu kính như cha mẹ tôn thân. Vì thế, kinh Phạm Võng có đoạn dạy: “Chúng sanh trong sáu đường là cha mẹ của ta, hiếu là giới”, cũng bao hàm ý nghĩa này vậy. Xem chúng sanh trong sáu đường là Phật vị lai, thì lời nói tất cả chúng sanh đều là cha mẹ là lời nói gần. Nếu có thể như vị sa-di dùng y chặn nước cứu bầy kiến, nhờ đó tuổi thọ ngắn ngủi được kéo dài thêm hoặc như ông Lưu Thủy (trong kinh Kim Quang Minh) cứu lũ cá, được hoa trời tuôn rải thì đổi được cái thấy chúng sanh trong nhiều kiếp, niệm chúng sanh là thân của Phật vị lai. Trong phẩn nhơ biết có vàng ròng, trong mây mù tin có vầng trăng sáng thì sương mù của sự ăn thịt, khói bụi của sanh tử bị gió huệ thổi tan trong không gian tam-muội.
Trong kinh Phạm Võng, Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành, thường có lòng tin như vậy, giới phẩm được trọn vẹn”, có thể không niệm Phật mà được sao!
Hỏi: Thịt không được ăn, tôi tin nhận điều này, còn năm thứ gia vị hôi nồng([9]) thì sao?
Đáp: Trong kinh Lăng-nghiêm, Phật bảo ngài A-nan: “Năm thứ gia vị hôi nồng này, ăn chín thì phát dâm dục, ăn sống thì dễ nóng giận. Như vậy, người ăn năm thứ gia vị hôi nồng này dù ở thế gian nói mười hai bộ kinh cũng bị chư Thiên, Thần Tiên xa lìa vì các Ngài chê là hôi hám, còn loài quỷ thì thích liếm môi người đó. Người đó thường cùng với quỷ ở chung, phước đức ngày một tiêu mòn, không chút lợi ích. Người ăn năm thứ gia vị hôi nồng này tu thiền định, Bồ-tát, chư Thiên, mười phương thiện thần chẳng đến thủ hộ, bị Đại Lực Ma Vương rình rập hãm hại”. Phật bảo A-nan: “Người tu đạo Bồ-đề không ăn năm thứ gia vị hôi nồng này được gọi là thứ lớp tu hành tăng tấn thứ nhất”. Đấy chính là lời Phật dạy, phải hết sức thành tín. Còn sự tai hại của rượu chè không cần phải nói đến.
Kinh Bách Dụ chép: Ngày xưa, có một người nghèo đi trên đường lượm được một túi tiền. Người ấy mừng rỡ, ngồi bên vệ đường đếm tiền, đếm chưa xong, người chủ của túi tiền trở lại lấy lại đem đi. Người ấy hối tiếc khi nãy không mau bỏ đi, nên lòng buồn khổ. Cũng vậy, người gặp Phật pháp không siêng năng tu hành, lại chỉ thích nghe nhiều học rộng, thoạt vậy mạng chung bị đọa vào ác đạo, đâu có khác gì người kia bị chủ túi tiền lấy túi tiền lại đi mất. Kệ rằng:
Ngày nay làm việc nầy
Ngày mai làm việc nọ
Say mê chẳng thấy khổ
Bất giác giặc chết đến.
Lăng xăng lo nhiều việc
Phàm phu đều như thế
Như kẻ đếm tiền kia
Việc này cũng như vậy.


Chú thích:
[1] Truy thù: Là một đơn vị cân lường rất nhỏ, gần như không đáng kể.
[2] Bát mạn: Tám thứ kiêu mạn: Mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, bất như mạn, tà mạn, ngạo mạn.
[3] Quyết liễu: Chọn lấy pháp cứu cánh.
[4]Tam tôn là ba ngôi Phật, Pháp, Tăng đáng tôn quí.
[5] Thất chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
[6] Sách Trang Tử nói: Chim le le tuy chân ngắn mà nối thêm thì nó lo, chim hạc chân dài, mà cắt bớt thì nó buồn
[7] Bảo thư là giữ lối mềm nhũn
[8] Ba tánh: Thiện, ác, vô ký.
[9] Năm thứ gia vị hôi nồng (ngũ tân): Hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ.

« Kinh này có tổng cộng 3 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Quy Sơn cảnh sách văn


Gió Bấc


Nguyên lý duyên khởi


Vô niệm (Pháp bảo Đàn kinh)

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.139.79.187 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập