Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận Thích [能斷金剛般若波羅蜜多經論釋] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận Thích [能斷金剛般若波羅蜜多經論釋] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.37 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.45 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Thích Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

Kinh này có 3 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 |
Việt dịch: Nguyên Huệ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Thế nào là có thể lập tướng nhân? Tụng nêu:
Hai thành, nên tôn trọng
Do đẳng lưu thù thắng
Do tánh nhân phiền não
Nên kém cũng thành hơn.
+ Nói hai thành nên tôn trọng: Là do nơi chốn nhờ gởi lưu giữ, thành Tháp miếu (Chế để), nghĩa là vùng đất giảng nói pháp. Là chỗ dựa nơi thân kia, thành tánh tôn trọng như bậc Đại sư. Tức là người thọ trì kinh, vùng đất bố thí châu báu, cùng với chủ thể hành thí, không có sự việc như thế (?). Nên tiếp sau, văn kinh hiển bày về pháp môn ấy, chính là chỗ chứng đắc gần của chư Phật hợp với tánh của đẳng lưu.
+ Từng có pháp là Như Lai thuyết giảng chăng?: Đấy là nêu rõ về ý gì? Tức nói không có pháp là riêng của Như Lai giảng nêu, đều là chư Phật cùng tuyên dương.
Lại, phước có được do bố thí châu báu ấy là nhân sinh khởi sự khổ não. Công đức của pháp môn chính là yếu tố đoạn trừ các thứ Hoặc. Hơn kém đã quá cách biệt rõ, thế nên phần tiếp sau, văn dùng vi trần làm dụ.
+ Như Lai nói tạo phi vi trần, do đấy nói là vi trần. Gọi là thế giới, Như Lai nói là phi thế giới, do đấy nói là thế giới. Đây là có ý gì? Nói vi trần nầy không là tánh trần nhiễm v.v…, do đấy gọi là vi trần. Lại, thế giới kia không phải là nhân của phiền não, gọi là giới, vì đấy nói là thế giới. Giới là nghĩa nhân, tức là nhân của đời. Ở đây nói, ý là hiển bày phước đức ấy chính là nhân của phiền hoặc trần cấu. Do ngoại trần kia tuy là vô ký, phước ấy dù là thiện cũng là quá kém, so với nhân của phước đều thành Phật, mà không lại là nhỏ kém!
Lại, nghiệp phước hiện có kia có thể thành tựu tướng đại trượng phu so với nhân thành Bồ-đề nầy, tức phước của việc thọ trì, nêu giảng pháp môn cũng còn là kém. Do các tướng ấy không phải là thể tánh của chánh giác. Vì đấy gọi là tướng đại trượng phu, là nêu rõ về tướng ấy. Do phước của việc thọ trì, giảng nói có thể đạt được tánh của Đại giác. Vì vậy gọi là kém, cũng hơn hẳn phước của hành bố thí châu báu, huống chi là nhân của Pháp thân mà không siêu việt! Thế nên kém cũng là hơn. Tức là phước của bố thí châu báu rất kém, có thể thành lập nhân. Đây đã thành lập phước của bố thí châu báu, so với nhân của phước nầy có sai biệt rồi, các văn tiếp theo lại thành lập nữa. Là nhằm nêu rõ về điều gì? Tụng nêu:
Quả kia hơn hẳn khổ
Khó gặp được sự thắng
Cảnh, cõi không phải biết
Nơi phần khác chẳng cùng.
Tánh ấy rất sâu xa
Hơn khác, lược giảng nói
Tộc họ vốn, cao, hơn
So phước, phước hơn hẳn.
Đây là nêu bày về nghĩa nào? Đáp: Phước của bố thí châu báu là quả đã thọ dụng của tự thân đạt được. Thân kia là hơn, do có thể xả bỏ vô biên thân. Phước nầy hơn trước, vì tự thân ấy là tánh khổ, huống chi là đem thân ấy hành bố thí.
* Kinh viết: Bấy giờ, Cụ thọ Diệu Sinh, hiểu rõ tự thân đó là sự khổ, do uy lực của pháp nên bèn rơi lệ. Pháp môn nầy lại là khó gặp. Diệu Sinh, từ lúc phát sinh trí đến giờ cũng chưa từng nghe. Lại là thắng sự. Ở đấy nói muốn hiển bày về tên gọi của Bát-nhã. Từ đây trở xuống, ý nhằm thành lập sự thắng diệu ấy. Tức như kinh nêu: Như Lai nói là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đấy tức phi Ba-la-mật-đa. Là do ý nghĩa sâu xa gì nên nói như thế? Đáp: Cảnh, cõi không phải biết. Do cảnh, cõi của đối tượng được nhận biết ấy, trừ Đức Phật, kẻ khác không thể nhận biết. Tức đối với kẻ khác lại là bất cộng.
+ Phápmôn nầy, với tưởng thật hiện có, tức là tưởng thật: Là trừ giáo pháp của Phật ra, xứ khác không có.
+ Nói tưởng thật: Tức chỉ xứ nầy có.
+ Nói phi thật: Là nghĩa ở nơi khác không sinh. Vì thế, văn nêu: Nếu có thể sinh tưởng như thật, thì người ấy sẽ thànhtựu sự hy hữu bậc nhất.
Lại, pháp môn nầy cũng là thâm diệu. Do đối với kinh ấy hoặc thọ nhận chút ít, hoặc hành trì đầy đủ, ở nơi các tưởng như ngã v.v…, không còn sinh khởi. Do không còn sinh khởi các tưởng đó: Là nêu rõ ở nơi nghĩa của đối tượng được nhận lấy, không có điên đảo.
+ Đối với các tưởng như ngã v.v…, tức là phi tưởng: Là làm rõ, ở nơi chủ thể nhận lấy không có điên đảo. Hai thứ đó, theo như trình tự là làm rõ hai trí vô tánh của ngã, pháp.
Đức Phật ở nơi nghĩa nầy đã thuận ấn chứng các sự việc do Tôn giả Diệu Sinh nêu bày.
+ Nói không kinh, không sợ, không hãi: Ba thứ ấy đều gọi là sợ, tức là kinh sợ, lo sợ, sợ hãi, nhưng theo sự chẳng đồng nên có ba thứ riêng. Nói kinh: Nghĩa là đối với phi xứ sinh sợ hãi. Trái vượt với lý chánh, như vượt chánh đạo, đáng chán ghét. Nói sợ: Là nối tiếp sinh sợ hãi, tức sinh rồi, không thể đoạn trừ. Nói hãi: Là sinh tâm quyết định hoàn toàn là sợ hãi. Những thứ ấy nếu không có, tức thành tựu tâm lìa hoảng loạn, lầm lạc.
Lại, pháp môn nầy đã giảng tóm lược, hơn hẳn các thứ khác. Do kinh nói: Đây là Ba-la-mật-đa tối thắng, do Đức Như Lai đã thuyết giảng.
Lại, pháp môn nầy, tộc họ cao, thắng. Nói tộc họ thắng: Là do chư Phật cùng thuyết giảng.
Nhưng bố thí châu báu kia không có các đức viên mãn như đây. Tức là thành lập phước ấy, so với nhóm phước đức là vượt hơn, huống chi là nói riêng về lý. Chỗ gọi đối với thân là tánh khổ, thí kia tức là tánh của quả khổ, nên phước đó là thấp kém. Nhưng pháp môn nầy, nếu có người thọ trì, giảng nói, thì bậc Đại sĩ ấy hành các hạnh khổ, đây cũng đâu phải là chiêu cảm khổ báo? Vì sao không phải là nhận lấy quả khổ? Vì để trừ bỏ vấn nạn ấy, nên có văn tiếp sau. Nhằm hiển bày về nghĩa gì? Tụng nêu:
Hành ấy khi gắng nhẫn
Tuy hành khổ nhưng thiện
Đức kia khó lường xét
Do đấy gọi thắng sự.
Vì tình không giận dữ
Không gọi là tánh khổ
Có an lạc, đại bi
Lúc hành, không quả khổ.
Hỏi: Đó là nêu bày về nghĩa gì?
Đáp: Nếu khiến kẻ kia lúc hành hạnh khổ, có quả khổ não, nhưng vào khi đó, do có tánh gắng nhẫn, nên đấy gọi là thắng sự. Có 2 nhân:
1. Là tánh thiện. Do các Ba-la-mật-đa đều dùng thiện làm thể tánh.
2. Là đức kia khó lường.
Như kinh nói: Đây tức là phi Ba-la-mật-đa.
+ Do bờ cõi của đức ấy từng không nhận biết: Vì đấy gọi là không nhận biết về bờ bến. Do cùng với thắng pháptương ưng. Tức khổ của hành khó nầy, so với khổ não ở trước, tự có khác biệt, huống hồ là tưởng ngã, tưởng giận dữ thể tánh không có, tất không có khổ kia. Không phải chỉ không khổ, mà lại sinh bi, lạc. Như kinh nói: Ta không có tưởng ấy cũng không phải là không tưởng.
+ Nói không phải là không tưởng: Đây là hiển bày có tưởng cùng với tâm bi tương ưng.
Căn cứ theo đấy, nói về lý, nếu các hữu tình, đối với tưởng ngã v.v…, không trừ diệt, thì lúc hành khổ thấy có khổ não, tức liền muốn bỏ tâm Bồ-đề. Do đó nên lìa các tưởng, cho đến nói rộng. Đây là hiển bày về điều gì? Nếu người không phát tâm Bồ-đề thù thắng, liền có lỗi lầm sinh tâm sân hận như thế. Tụng nêu:
Nhân sinh tâm không bỏ
Vì thế nên dốc cầu.
Hỏi: Nơi xứ nào, tâm là nhân sinh tâm ấy, mà khiến kiên cố siêng cầu. Lại ở nơi xứ nào là không xả bỏ nhân của tâm Bồ-đề khiến tinh tấn mong cầu? Tức là tâm không trụ. Văn viết: Nên lìa các tưởng để phát khởi tâm Chánh đẳng giác vô thượng.
+ Vì sao? Vì đây là hiển bày về nhân sinh khởi của tâm không trụ chấp. Nếu ở nơi xứ như sắc v.v…, có tâm trụ chấp: Thì ở đấy tất không thể tiến cầu quả Phật.
+ Các Bồ-tát nên không chỗ trụ mà hành bố thí: Ý của văn muốn nêu rõ bố thí gồm thâu cả sáu Ba-la-mật. Tức là sinh khởi phương tiện của tâm không trụ chấp. Nghĩa là, được nhẫn rồi, tuy gặp phải khổ mà không từ bỏ tâm Đại Bồ-đề.
Hỏi: Vì sao phát khởi hành tạo lợi ích cho hữu tình, lại khiến không trụ nơi sự lợi ích cho hữu tình? Đây tức lấy bỏ đồng môn, tâm nghi bèn khởi.
Đáp: Bồ-tát nên hành bố thínhư thế để tạo lợi ích cho chúng sinh. Đây là hiển bày về ý gì? Tụng nêu:
Nên biết kẻ chánh hành
Là nhân của lợi sinh
Nơi sự tướng hữu tình
Nên biết dứt trừ khắp.
Đó là nói về nghĩa nào?
Nói chánh hành ấy: Là nhân tạo lợi ích cho chúng sinh. Nên biết tức là tạo lợi ích cho hữu tình, nhưng không giữ lấy tướng mạo hiện có của hữu tình.
Thế nào là sự việc thuộc tướng mạo của hữu tình? Tụng nêu:
Sự kia gọi là tụ.
+ Chúng sinh ấy: Tức là danh tự được nêu đặt, gọi là chúng sinh, cùng chỗ dựa là sự việc. Thế nào là chánh hành? Nghĩa là đối với sự tướng của chúng sinh đều trừ bỏ.
+ Do tưởng của danh tự kia, tức là phi tưởng. Do gốc của tự thể ấy không có. Tức chúng sinh kia không là chúng sinh, nghĩa là đối với năm uẩn gọi là chúng sinh, do tự thể của chúng sinh đó là không, nên ngã pháp ấy là không tánh. Vì sao? Vì do Đức Phật, Thế Tôn đều dứt trừ các tưởng. Đây là làm rõ hai tưởng ngã, pháp đều không. Vì sao có thể thành sự diệu tối thắng? Tụng nêu:
Hơn hết trừ bỏ tưởng
Các Thế Tôn không đấy
Do thấy đúng tương ưng.
Đây là nêu bày về gì? Do hai thứ kia không phải là tánh thật có, nhưng các Đại sư quyết trừ bỏ tưởng ấy. Chư Như Lai cùng với thấy đúng tương ưng, nên quả không trụ nơi phần vị của nhân, do đâu có thể thấy nhân của quả kia? Đã có nghi ấy, nên đáp: Như kinh nói: Nầy Diệu Sinh! Như Lai là thật ngữ (có bốn câu). Tụng nêu:
Quả không trụ vị nhân
Là đạt nhân quả kia
Thế Tôn nói lời thật
Nên biết có bốn thứ.
Tánh của thật ngữ ấy có bốn thứ. Những gì là bốn? Tụng nêu:
Lập nên nói thừa dưới
Cùng nêu nghĩa Đại thừa
Do các sự thọ ký
Đều không có sai biệt.
Do Đức Phật lập thời hạn cần thiết, gốc cầu quả Phật không có sai lầm. Nơi Thừa thấp kém cùng với Đại thừa và các thọ ký, đều không lầm lẫn. Ở đây, luôn tùy theo thứ lớp: Thật ngữ (nói thật), như ngữ (nói như), nói không dối trá, nói không sai khác, mà cùng phối hợp.
+ Nói Như Lai: Là do nơi thừa Thanh-văn, giảng nói bốn đế như khổ v.v…, là thật không hư giả. Đối với Đại thừa thuyết pháp không tánh, hiển bày chân như, gọi là nhận biết thật, nên Như Lai là nghĩa nhận biết. Nơi tất cả thời quá khứ, hiện tại, vị lai, như sự thọ ký hiện có, đều không sai lầm, nên gọi là Như Lai. Kinh nói: Như Lai chứng đắc pháp, cùng thuyết giảng pháp. Đấy tức là phi thật phi vọng. Tụng nêu:
Không đạt chỗ thuận kia
Trái phải thật không vọng
Như lời mà chấp giữ
Đối ứng nên tuyên thuyết.
Nói chư Như Lai thuyết pháp hiện có. Là nói đây không đạt kia (?), nhưng là tùy thuận nơi kia (?). Do thuyết pháp ấy không thể gần đạt pháp nội chứng, ở nơi ngôn thuyết thấp, không có thể tánh (?), nên không phải là thật (?). Do thuận theo kia (?) nên không phải là vọng ngôn (?).
+ Ta hiện chứng Chánh giác Vô thượng: Đây là nhằm căn cứ nơi đạo lý văn cú (?) mà có lời nói ấy.
Hỏi: Do đâu Đức Thế Tôn tự lập lời cốt yếu: Ta là người nói lời chân thật, nhưng pháp được nêu giảng là phi thật phi hư. Nói một gồm hai lý thành khó tin. Do đấy, đáp nói:
Như lời mà chấp giữ
Đối kia nên tuyên thuyết.
Nói các Thánh nhân là chỗ hiện bày của vô vi: Tức tánh của chân như là thường hằng, có khắp. Vì sao quả Phật phải do tâm vô trụ mới có thể chứng đắc, không phải là tâm hữu trụ? Lại nữa, vì sao thật thể nơi chân như là thường hằng, có khắp, nhưng có trường hợp được, hoặc không đạt được? Vì dứt trừ nghi vấn ấy, nên nói dụ về kẻ đi vào nơi tối tăm. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Tụng nêu:
Thường hằng, các xứ có
Nơi chân tánh không đạt
Do không biết, có trụ
Trí vô trụ, đạt thật.
Ở đây ý nói tánh của chân như tuy là thường hằng, có khắp, nhưng do không trí, tâm có trụ, tức không thể đạt được, là nghĩakhông thanh tịnh. Do có trí, tâm không trụ, tức liền được thấy, là nghĩa thanh tịnh. Nhưng Đức Phật, Thế Tôn luôn là chỗ hiển bày của chân như, do lý ấy, nên vì tâm có trụ tức không thể chứng đắc. Tụng nêu:
Không trí, cũng như tối
Nên trí tối hoặc sáng
Chủ đối cùng chỗ trị
Được mất đều hiện tiền.
Cũng như kẻ tối tăm, là cùng với nghĩa tối tăm tương tợ, do đấy, dùng tối tăm để so sánh với kẻ không hiểu biết. Dùng ánh sáng mặt trời để ví cho người đồng có trí, có mắt, như văn đã nêu đủ, nên nói:
Chủ đối cùng chỗ trị
Được mất đều hiện tiền.
Theo chỗ ứng hợp, do người kia có mắt, nên hiển bày được xem là chủ thể đối trị. Đêm dài đã sáng rồi, là làm rõ việc phá trừ đối tượng được đối trị là bóng tối đã lui. Mặt trời sáng tỏ đã xuất hiện, là hiển bày, chủ thể đối trị hiện tiền. Ánh sáng mặt trời đã tỏa chiếu, thấy rõ các sắc, tượng. Văn tiếp sau muốn nói về sự việc gì? Tụng nêu:
Do hành đúng như thế
Đạt lượng phước như vậy
Nơi pháp kẻ hành đúng
Nghiệp dụng nay sẽ nói.
+ Do hành đúng như thế: Đây là nêu rõ về người hành đúng. Tụng nêu:
Nơi người có ba loại
Thọ trì, tụng, diễn nói.
Người có 3 loại:
1. Thọ trì.
2. Đọc tụng.
3. Diễn nói.
+ Nói thọ trì: Là người duy trì pháp.
+ Đọc tụng: Là dựa vào đa văn mà nói. Tuy không thể nhận giữ, nhưng do có thể đọc tụng, nên cũng thuộc về đa văn.
+ Nghĩa hành đúng: Tức là đạt được đủ khắp nghĩa ấy. Tụng nêu:
Nghĩa đạt do kẻ khác
Cùng nghe, nghĩ của mình.
Nghĩa đạt được, nhân từ nơi kẻ khác và chính mình. Thế nào là từ nơi kẻ khác? Vì sao do chính mình? Là do nghe, nghĩ. Như thứ lớp, từ nơi kẻ khác, cùng do chính mình mà đạt được: Là căn cứ vào nghĩa đạt được khắp. Đây tức là nghĩa hành đúng của người. Tụng nêu:
Đây là thành thục nội
Còn thành hữu tình khác
Do sự khi tánh lớn
So phước, phước hơn hẳn.
+ Thọ trì v.v… ấy, chỉ là thành thục bên trong nơi chính mình.
+ Còn thành hữu tình khác: Tức là đối với kẻ khác, rộng vì họ thuyết giảng đúng đắn. Đạt lượng phước như vậy: Là hiển bày về số lượng phước kia có sai biệt.
+ Do sự khi tánh lớn, So phước, phước hơn hẳn: Đây là phước do xả bỏ thân mạng, so với phước do xả bỏ thân ở trước. Do sự lớn nên có sai biệt, cùng do thời gian lớn. Vì trong một ngày hãy còn dùng rất nhiều thân mạng mà hành bố thí. Lại trải qua nhiều thời gian, đối với pháp đã hành đúng, tức nghiệp dụng nay sẽ nói. Thế nào là nghiệp dụng của hành kia? Tụng nêu:
Không cảnh, tánh, riêng tánh
Chủ dựa là đại nhân
Cùng khó có thể nghe
Nhân vô thượng tăng trưởng.
Nếu chỉ giữ chánh pháp
Nơi chốn dựa thành vật
Dứt trừ các nghiệp chướng
Mau đạt trí tánh thông.
Thế diệu, sự viên mãn
Quả báo rất tôn quý
Nơi pháp ấy tu hành
Nên biết đạt nghiệp kia.
+ Kinh nói: Không thể tư duy: Đây tức làm rõ không phải là phàm tình, so sánh, lường xét về cảnh giới của đối tượng hành.
+ Nói không thể nêu bày: Đó là hiển bày về phước đã đạt được của tánh riêng. Đối với hàng Thanh-văn là tánh không chung.
+ Nói vì tạo lợi ích cho các hữu tình phát khởi, hướng tới Thừa tối thượng tối thắng, nên thuyết giảng: Tức làm rõ pháp môn nầy là giáo pháp Đại thừa, chỗ dựa của bậc Đại nhân, gọi là hành của Đại thừa, Tối thượng thừa, gọi là Tối thắng thừa, nên kẻ ưa thích nẻo thấp kém không muốn nghe. Đây là nêu rõ về tánh khó được nghe, người nghe khó đạt được, do có thể thành tựu các nhóm phước không thể lường tính. Đó là hiển bày về nhân vô thượng tăng trưởng, giống phước tăng trưởng.
+ Ở đây văn nói không thể suy xét, không thể nêu bày: Nghĩa là do không phải là lường, không phải là xét, như thứ lớp nên biết.
+ Nên biết người ấy tức là dùng vai gánh vác: Đây là làm rõ người kia có thể nắm giữ pháp, do nắm giữ pháp tức là nắm giữ Bồ-đề.
+ Nơi chốn hiện có, nên dùng hương hoa cúng dường: Đây là nêu rõ về xứ của chỗ dựa, để xác nhận vật chứa đựng thắng diệu. Do bị hủy nhục: Tức nghiệp hiện có đáng lẽ phải sinh nơi nẻo ác, đều được tiêu trừ hết. Đấy là làm rõ về nghiệp chướng đã được dứt trừ sạch.
+ Nói đây là sự thiện: Tức lúc gặp phải sự hủy nhục, nêu rõ người nhẫn nhục có tánh phước đức, nên nói đấy là sự thiện.
+ Nơi trước thời Đức Phật Nhiên Đăng, cúng dường chư Phật, phước đức đạt được, so với người ở đời sau cùng đối với pháp môn nầy, có thể thọ trì v.v…, thì phước đạt được là nhiều hơn: Đây là nêu rõ về việc thành tựu được trí tánh thông, tư lương phước đều viên mãn. Cho đến nên biết kinh nầy là không thể nghĩ bàn: Đó là hiển bày về quả báo không thể lường xét. Tức là thế diệu, sự viên mãn, quả báo rất tôn quý. Nghĩa là đối với Hộ-thế, Đế-thích, Bà-la-môn, mọi viên mãn hiện có đều được thâu giữ.
+ Nói cuồng loạn: Nên biết đây là nhân của tâm cuồng.
+ Nói quả báo không thể lường xét: Tức hai thứ tánh nhiều, tánh thù thắng ấy, đều không phải là chỗ lường xét của phàm tình. Đấy là đối với pháp hành đúng, nên có thể an trụ nơi các đức như vậy. Do đó, gọi đấy là công dụng của quả báo nơi hành nghiệp đúng đắn.
Lại nữa, như ba thứ Hỏi - Đáp ở trước, ở đây lại hỏi nữa, nghĩa có gì sai khác? Đáp:
Do lúc tự thân hành
Xem mình là Bồ-tát
Gọi đó là chướng tâm
Trái với tâm không trụ.
+ Diệu Sinh! Thật không có pháp nào có thể gọi là Bồ-tát: Nếu không có Bồ-tát, thì vì sao Đức Như Lai, ở nơi Phật Nhiên Đăng hành trì hạnh Bồ-tát?
Đáp nghi nầy, nói: Thật không có pháp, để Như Lai ở nơi Đức Phật Nhiên Đăng v.v… Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Tụng viết:
Thọ ký nơi thời sau
Nhiên Đăng, hành không hơn
Bồ-đề, hành kia đồng
Không thật, do nhân tạo.
Ở đây ý nói: Ta từ xưa, ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng, không phải là hành trì hành Bồ-tát thắng thượng. Tức Ta thời xưa, lúc hành trì thật không có pháp để ở bên Đức Phật ấy chứng đắc chánh giác. Nếu chứng đắc chánh giác, tức Đức Phật ấy đã không thọ ký cho Ta thời sau thành Phật. Ý ở đây nói: Lúc hành trì vào thời ấy, tự cho là Ta sẽ thành Phật. Nếu nói Bồ-đề không có, thì Phật cũng làkhông, tức bác bỏ toàn bộ là không. Đức Phật vì trừ bỏ vấn nạn ấy, văn viết: Diệu Sinh! Nói Như Lai, tức là tên gọi khác của thật tánh, chân như. Tức nghĩa không điên đảo, gọi là thật tánh. Nghĩa không biến đổi, gọi là chân như.
Diệu Sinh! Nếu có người nói Như Lai chứng đắc Chánh đẳng giác vô thượng. Đây là trở lại bác bỏ toàn bộ thật không, có Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Đáp lại vấn nạn nầy, nói: Nầy Diệu Sinh! Như Lai hiện có pháp của chánh giác.
+ Đây tức là phi thật phi vọng: Đấy có ý gì? Rõ ràng là lý của chân như là đối tượng được chứng đắc của Phật. Chúng tức không phải là thật, vì từ nhân sinh khởi. Nghĩa của các tướng hữu vi là tướng tích tụ. Chúng tức không có tướng như sắc v.v… Tụng nêu:
Không tướng kia là tướng
Nên hiển chẳng là vọng
Do pháp là pháp Phật
Đều không có là tướng.
Nghĩa là ở đây không có tướng như sắc, thanh v.v… kia. Tướng như sắc v.v… không là tự tướng của chúng. Do đấy nên viết:
Không tướng kia là tướng
Nên hiển chẳng là vọng.
+ Vì thế, Đức Như Lai nói: Tất cả pháp tức là pháp Phật. Đây là làm rõ về nghĩa gì? Do Đức Như Lai đã chứng đắc pháp ấy.
+ Vì pháp là pháp Phật, đều không phải là tướng hữu vi: Đó là làm rõ dùng vô vi làm thể, nêu bày tất cả pháp lấy chân như làm tự tánh. Đây mới chính là đối tượng được giác ngộ của Phật. Thế nên, tất cả pháp gọi là pháp Phật. Do đấy, sắc v.v… không thể mang giữ tướng của tự thể kia. Các pháp như sắc, thanh v.v… kia hiện có, đều không là pháp. Do không là pháp, vì vậy ở đây xác nhận pháp kia tức là hoàn toàn có thể nắm giữ tướng không phải có. Dụ về trượng phu là làm rõ về điều gì? Tụng nêu:
Là do Pháp thân Phật
Nên biết dụ Trượng phu
Thân tròn đủ, không chướng
Là tánh hiện đủ khắp.
Cùng đạt được thể lớn
Cũng gọi là thân lớn
Không có thân là có
Nói tạo kia không thân.
Hai chướng phiền não và sở tri không còn, nên gọi là thân tròn đủ.
+ Nói hiện đủ khắp: Là nghĩa hành trì khắp, hiện hữu khắp các xứ nên gọi là thân đầy đủ:
Cùng đạt được thể lớn
Cũng gọi là thân lớn.
+ Đây là hành hiện có khắp: Nên biết tức là tánh của chân như. Ở trong các pháp không có tánh khác, nên gọi:
Thân phi hữu là có
Nói tạo kia không thân.
Tức Đức Như Lai nói là phi thân, do đấy gọi là thân đầy đủ.
+ Thân lớn: Đây là nêu bày về nghĩagì? Do phi hữu làm thân nên gọi đấy là phi thân, tức tánh của chân như. Do vì không thân, thế nên gọi đấy là thân đầy đủ, thân lớn.
+ Nếu nói không có Bồ-tát, thì chánh giác cũng không có. Đối tượng được giác ngộ cũng không. Cũng không chúng sinh khiến nhập Niết-bàn, cũng không làm nghiêm tịnh quốc độ của chư Phật, tức đâu có chỗ hành tác để các Bồ-tát v.v…, khiến các chúng sinh nhập nơi viên tịch, lại tác ý làm thanh tịnh cõi Phật? Vì đáp vấn nạn ấy nên có phần văn tiếp sau. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Tụng nêu:
Chẳng rõ nơi pháp giới
Tâm tạo độ hữu tình
Cùng đất ruộng thanh tịnh
Đấy gọi là dối vọng.
Hỏi: Nếu nói tâm ấy là dối vọng, vì đấy không gọi là Bồ-tát. Nếu như thế thì do đâu được mang tên?
Đáp: Nầy Diệu Sinh! Nếu có người tin hiểu tất cả pháp là vô tánh. Tất cả pháp là vô tánh: Văn ấy nêu như thế là nhằm hiển bày về nghĩa gì? Đáp viết:
Nơi Bồ-tát, chúng sinh
Các pháp không tự tánh
Nếu hiểu, tuy không Thánh
Gọi Thánh tuệ, nên biết.
Đấy là làm rõ về nghĩa gì?
Nói pháp không tánh, pháp không tánh: Đây là căn cứ vào pháp hiện có của chúng sinh cùng Bồ-tát, đối với chúng nếu có thể tin hiểu, hoặc thế gian, xuất thế gian, tức là phàm phu cùng Thánh, đều gọi là Bồ-tát. Do đấy liền thành quyết định, chấp thuận có hai loại Bồ-tát Phú tục và Thắng nghĩa. Đây tức làm rõ về chỗ tùy thuận ấy, nên nói hai lần Bồ-tát, Bồ-tát.
Văn của kinh ở trước nói: Như Lai là chỗ hiển bày của vô đắc, nghĩa trở thành sáng rõ. Nếu như thế, thì đâu có Thánh nhân kia hoàn toàn không được thấy? Vì đáp lại vấn nạn đó, nên cho là có năm thứ mắt. Để làm rõ nghĩa ấy, tụng nêu:
Tuy không thấy các pháp
Đây chẳng phải không mắt
Phật gồm đủ năm thứ
Do nơi cảnh hư vọng.
Đấy vì sao không là hư vọng? Vì đáp vấn nạn ấy, nên trước là nêu dụ xong. Các chúng sinh kia, với vô số tánh, tâmđó lưu chuyển, Như Lai đều nhận biết, nói rộng như thế. Ở đây là nêu rõ về gì? Nói pháp kia không phải là vọng thấy, chỉ do cảnh hư vọng. Thế nào là cảnh hư vọng? Nghĩa là vô số thức vọng. Tụng nêu:
Các thứ tâm lưu chuyển
Lìa nơi các niệm xứ
Tâm không giữ, luôn chuyển
Nên nói là hư vọng.
Tức là các thứ thức, có sáu thức khác nhau, lại là hư vọng. Do đâu gọi thức là tâm lưu chuyển? Kinh nêu: Như Lai nói là không Đà-la: Đây là làm rõ chỗ đã lìa tánh của niệm xứ. Do niệm xứ ấy là nơi chốn nắm giữ chúng. Pháp kia nếu không, tức là không nắm giữ. Đà-la, Nam-a-la, Ả-đa-la, ba tên gọi ấy cùng nêu bày hai nghĩa, đều được gọi là Nắm giữ, cũng có nghĩa là Lưu chú (Chảy tràn). Do không nắm giữ, nên tâm tức lưu tán.
+ Nói không nắm giữ: Là hiển bày về duyên của thường chuyển. Đã không nắm giữ nên hiện rõ sự luôn chuyển biến ấy, là tánh hư vọng.
+ Vì sao: Vì do có tâm quá khứ v.v…, không thể nói được. Gọi là tâm quá khứ, vị lai, vì là tánh của quá khứ, vị lai, là không thể thủ đắc. Về hiện tại: Tức là “Biến kế sở chấp”, tự tánh không phải là có. Đó là làm rõ về tâm lưu chuyển, là đối tượng duyên của tánh thức hư vọng, không có tánh của ba đời. Lại có ý gì khi nói dụ về nhóm phước? Đáp viết:
Nên biết trí ấy giữ
Phước mới không hư vọng
Hiển bày nhân của phước
Lại nêu dụ lần nữa.
Đây là nói về nghĩa gì? Tâm đã lưu chuyển, là tánh của vọng dối, nên nhóm (số lượng) phước hiện có, cũng đều thành hư giả. Đấy đã là vọng, thì sao thành nơi thiên? Đã có nghi sâu, thì lý cần làm sáng tỏ. Đáp: Tâm lưu chuyển có thể là vọng. Gọi là nhóm phước, thể không là hư giả, do có trí chánh giác đã nắm giữ. Vì sao hiển bày đó là tánh nắm giữ. Như kinh nói: Nầy Diệu Sinh! Nếu nhóm phước ấy, Như Lai tức không nói là nhóm phước. Đây có nghĩa sâu xa gì? Do năm thủ uẩn, thể là hư vọng. Nếu nhóm phước ấy là thủ uẩn, Như Lai tức không nói nhóm phước ấy là tánh của nhóm phước.
Không nói đó là nghĩa nơi xứ nắm giữ của trí. Nếu nói Như Lai là chỗ hiển bày của không phải tích tập, tạo tác, vì sao Như Lai nói có các tướng cùng các vẻ đẹp kèm theo? Vì trừ bỏ vấn nạn đó, nên nói: Không nên dùng sắc thân viên mãn cùng tướng đầy đủ để quán Như Lai.
+ Nói sắc thân: Là nghĩa gắn liền với tướng tốt.
HẾT - QUYỂN 2

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 3 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.186.78 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập