Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Thành Duy Thức Bảo Sanh Luận [成唯識寶生論] »» Bản Việt dịch quyển số 5 »»

Thành Duy Thức Bảo Sanh Luận [成唯識寶生論] »» Bản Việt dịch quyển số 5

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.42 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.56 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Thành Duy Thức Bảo Sanh

Kinh này có 5 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | Quyển cuối
Việt dịch: Nguyên Hồng

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Luận nói : Làm sao không cùng sắc v.v…các cảnh liên quan mà gọi là kiến ư ?
Nếu lấy đây làm nạn vấn thì chẳng phải nhọc nói. Do thức thể đây tự hiện hình tướng , tuy không có sắc v.v…mà cảnh được thành. Đây trước đã nói. Chiêm bao, ngục tốt, đau mắt là các thí dụ. Tùy chỗ thích hợp sẽ nói rộng về tỷ lượng.
Nói từ đây sinh ức niệm, nghĩa là không đợi ngoại cảnh mà thấy nó hiện tiền, tự tính mới sinh. Tuy không thật nghĩa, niệm và ức đều do hiện tiền thức có sức công năng an trí. Tùy theo lần lượt tạm mượn các duyên làm năng dẫn, giác tưởng mới sinh. Lúc ấy gọi là ức niệm.
Làm sao biết cái thấy đó và ức là hai thể sai khác ? Nếu cái thấy và ức này đều không nhờ ngoại cảnh mà có, nên có thể sinh tự thể. Do cảnh tương tự là tính tà nghi. Nói thức phân biệt thấy, đó là cái dụng. Không sinh suy nghĩ so lường tướng trạng của tiền cảnh, mà chỉ có cái tướng của thể tính tự chứng sinh khởi niệm. Lấy câu nói tướng bố trí sai lệch mà biết là do tướng bất minh nên sinh ra phân biệt. Bởi cái thấy là bị huân tập trước gây ra, tức tự tính này là do từ cái khác sinh.
Cái thấy không phải vậy. Cái thấy và cái ức niệm là riêng biệt. Vì thế nhất định phải chấp nhận lý này. Dẫu cho tuy có ngoại cảnh, cả hai đều có cảnh, duyên tướng không khác, cái thấy và sự hồi ức tự thể không giống nhau. Nếu như có con đường nào khác mong hãy nói cho.
Kia lập luận rằng nếu duyên cảnh hiện tại thì gọi là thấy, còn duyên cảnh quá khứ thì gọi là niệm. Nói do không có cảnh, là tuy cảnh kia khác nhau ở chỗ có tướng và không tướng, sở duyên khác nhau. Tướng khác nhau đây rốt cuộc cũng không phải từ tư duy về cái thấy và cái nghĩ nhớ, mà nên nói là do tự thể riêng biệt mà thành tướng khác nhau.
Nếu vậy thì cảnh này là hiện tướng của thức ấy. Biết quyết chắc như vậy ư ?
Do nơi tiền cảnh biết chắc cái thấy cùng với cái thức tương tự sở khởi của kia rõ ràng không quên mất, khi thủ lấy việc kia, tức gọi đó là tướng tương tự.
Cũng như quyết chắc rõ ràng tướng mạo trượng phu, mới gọi đây là tương tự trượng phu ư ?
Biết tướng tương tự, chẳng phải không từng thấy. Nhưng chẳng phải từng thấy mới có thể có lý quyết đoán như đây.
Vì do không chấp nhận ngoại cảnh, nên đây cũng phi lý. Do kia tự chứng tâm tâm sở hiểu tướng không giống nhau nên được chấp nhận.
Đây vẫn không thành vấn nạn đối với những trường hợp khác.
Đối với sự việc ông đã phân biệt khéo léo, ta xin tạm hỏi. Lý như thế nào là đồng thời tự chứng ? Đã không chấp nhận là có, làm sao có thể quyết định cái thấy đây ? Chẳng phải việc quá khứ mà có thể có ức niệm ? Do kia chẳng phải tự chứng tính, cũng chẳng phải tự chứng, vì điều nói ra trái đạo lý. Trước phải viện dẫn mình, sau mới công kích người, thì những mưu mô sắp đặt mới mong thắng được. Đây tức niệm gá cảnh mà sinh, không cùng thành được. Lại ở trong chiêm bao lãnh nạp ngoại cảnh khiến cùng thành, nương sau đó tự có thể nói kia vốn không, thành ra phi lý. Cũng như vui v.v… lãnh thụ việc vui. Nếu ngoại cảnh kia vốn có thể lãnh thụ, chỉ có tướng tương tự thác loạn hiện tiền. Lúc bấy giờ ngoại cảnh là phi hữu, tự nhiên quyết đoán. Như người thấy chiêm bao, tỉnh dậy mới biết là chẳng phải.
Thấy trong chiêm bao là phi hữu, tỉnh dậy rồi là chẳng có. Nếu vậy khi thức cũng không lãnh thụ cảnh, thì giống như ở trong chiêm bao kia là phi hữu. Người đời tự biết, nhưng không như vậy. Vì vậy biết chắc rằng lúc thức sắc v.v… các cảnh có thật sự lãnh thụ, không giống như trong chiêm bao không có dụng lực của thức. Điều này cũng không thể thí dụ rõ ràng, khiến thành nghĩa của lãnh thụ sắc v.v…Do người nằm chiêm bao, lúc ở trong chiêm bao không thể hiểu rõ cảnh là phi hữu. Nếu do xa lìa những lúc ngủ mê, được tâm trí sáng suốt, tùy những cảnh từng duyên riêng biệt, huân thành chủng tử niệm, nhưng những cảnh lãnh thụ trong chiêm bao, nghĩ nhớ thượng tâm mới sinh quyết đoán việc này chẳng có. Kia đã như vậy, đây cũng lại như vậy. Tuy chẳng phải sắc bên ngoài có thể lãnh thụ, liền chuyển làm cái tâm thấy sắc bên ngoài, khởi vọng phân biệt, lớp lớp hiện tiền, rất nhiều duyên lự, sinh cái tính của loại này , bao nhiêu công năng huân tập thành chủng tử, khiến thượng tâm kia ngay nơi huân tập này lại muốn làm rõ việc không thật kia, cho nên sau khởi bao nhiêu duyên, rõ thấy chân nghĩa do có pháp tương tự thùy miên. Tuy trong lúc thức cũng gọi là ngủ là vì sự huân tập này thường đuổi theo. Cái ngủ của thế gian cũng như bao nhiêu cái ngủ khác. Chỉ có vọng tình lìa thức riêng thấy có cảnh sắc thanh v.v…mà bị trói buộc, chịu rất nhiều khổ sở, trôi giạt bến bờ sinh tử, luân hồi biển dục. Do chưa chính thức dứt trừ được huân tập, như trong chiêm bao không thể biết được các cảnh sắc là không, chưa thể gặp sự không khởi, cho nên không biết là không. Bị cảnh lừa dối. Dẫu có sinh trí văn tư, nhưng do phân biệt huân tập nên chưa hiện chứng chân, không thể chính khởi, cũng gọi là cuống vọng. Đương trong lúc ấy gọi là bất giác. Và do nơi chủng tử huân tập kia, đối trị đã sinh, có sức bạt trừ rốt ráo, khi khởi như vậy gọi là trí xuất thế gian, chính đoạn trừ tất cả tính phân biệt, nên được trí vô phân biệt hiện hành, có thể trừ giấc ngủ huân tập vô tri, chứng ngộ chân giác. Bấy giờ nhờ đó, lấy trí vô phân biệt làm nhân, do sức này khởi phương tiện, quyết có thể trừ tiệt sắc v.v… các nghĩa cố chấp huân tập, gọi là thanh tịnh. Do so đo chấp các cảnh tướng nên gọi là thế gian. Trí kia hiện lên rồi, chỉ duy có thức, tùy theo sắc loại kia, khi duyên sắc sinh khởi, chỉ từ tự thức hiện lên tướng phần, vọng chấp các cảnh mà làm sinh nhân, nhưng không phải lìa thức mà có tự tính, cho nên sinh liễu tri các cảnh sắc thanh v.v…Còn chỗ lập lượng, nếu căn cứ tổng tướng, không biết cảnh kia là không, thì chấp nhận nhân năng lập không thành lỗi. Nếu nói sai biệt, lúc thức không biết, thì lại không thành tương tự như trước. Lúc thức rõ cảnh vốn không, đó là tông chấp nhận nên đã có lỗi này. Đúng lý không thể lấy năng lập đây thành tiền cảnh có thể lãnh nạp kia, hoặc ở đây có lỗi bất thành. Trình bày rõ lời thuật giải, như xưa nay không lấy cảnh để hiểu cái trí không ở đây.
Lý cũng không thành. Cần phải trước biết cảnh mới sinh tâm này đối với sự việc này. Nói phi hữu, nếu vậy thì biết đích thị là có tiền cảnh. Làm sao có thể được lại nói vô quán tướng là có. Lại nói vô hiện là trái nhau. Nếu giải thích thông suốt, các tông kia bác bỏ phi hữu, nhân vì trái nhau. Như các ngoại luận gọi là thường v.v…, sinh trước diệt sau, tất cả đều phi vô, hoặc nơi các phương sở, như ở nơi này không ở nơi khác, có cảnh mà không có thứ khác, thì có lỗi gì ?
Nếu khi đối với ta là không, do chẳng phải không rõ, mà bác bỏ là không, nơi cái không, khởi cái biết, chẳng phải là điều có thể chấp nhận. Đây không phải như văn tự, văn chương, ở nơi sắc đây v.v…nói ngã là không, nhưng ở nơi sắc v.v… tạo tác không có cái ngã chân thật, chẳng phải căn cứ vào ngã.
Nếu vậy ở nơi sắc tụ v.v…đâu có thể không có tội lỗi ? Nói thức, không có ngã, làm sao khỏi nghi nan ?
Do không chấp nhận có cái thức thứ hai. Ở nơi các thức xứ, hiểu rõ ngã là không, cũng chẳng phải lãnh thụ ở trước, mà sau có thể nghĩ nhớ. Giả sử khiến sinh nghĩ nhớ cảnh đã mất, thì vì vậy phải chấp nhận duy chỉ có thức hiện ra tướng. Tức như đã chấp nhận. Nhưng ở nơi thức xứ, biết ngã là không, bác bỏ không có ngã, nếu khi thức sinh, cái trí này bấy giờ biết là không có ngã thể, nhưng do lìa cảnh mà biết chỉ có thức, tùy theo tướng mạo này. Nếu khi duyên sinh, biết cảnh là không, lẽ nào chẳng phải cùng xảy đến. Nhưng ở nơi sắc v.v…khi biết là vô ngã thì ở nơi sắc xứ v.v…đó là cộng tướng, chẳng phải tự tướng. Do đây đều lấy sự nương tựa làm định tính, vì khác tự thể. Nhưng chẳng phải tương tự, sở hữu tướng mạo là có thực sự. Muốn khiến phân biệt lựa chọn đối với cái khác có tướng khác phụ vào thức mà sinh, giống như thật sự có tập tâm phần nơi tự thể của thức chuyển khởi hiện tiền. Ngôn luận thế tục nhân đây sinh khởi sự hiểu biết ngoại cảnh. Chỉ là tự tâm sinh các lãnh thụ, vốn chẳng phải ở ngoài. Đây mới là sự tu tập vượt trội vì đạt được tính. Đây là do vô minh che lấp trí tuệ, chuyển quán các cộng tướng như ở bên ngoài, tức như thế tục nói những điều trông thấy. Tùy theo thế tục nói mà được hiểu rõ. Đối với các luận lý , tương tự sự việc mà chuyển, dùng hình tướng riêng khác mà tuyên thuyết. Đối với các việc khác thì làm việc ngăn ngừa. Trong các việc này nên có hình đoạn. Nếu tổng tướng là thật, tức là tổng tướng. Nên như sắc v.v…tự thể đều khác, mà không tương ưng với sự thể khác. Đây tức sắc v.v…thành phi dị thể. Như sắc tựa như thanh. Lại như kia, là một là khác, chẳng phải nói được chấp nhận là cộng tướng. Đây chỉ là phú tục, rõ ràng không chỗ tranh cãi. Đây đã không chấp nhận cho là thật sự, thì đối với sắc thanh v.v… trở thành phi dị thể. Lại nữa sắc v.v…mỗi mỗi lại thành có nhiều thể, cho nên trạng thái thể của cộng tướng là vô biên. Đây tức hợp với đa chủng thể tính, và trở thành các việc đều là một thể. Như tùy tự duyên cái sở đới tướng tượng, cắt đứt cái thể tướng đây của tiền cảnh, cũng là giả lập nhiều các tướng mạo. Lấy ngôn luận thế tục mà phân biệt, do đây mà thành ra sắc thanh v.v…Cái trí vô ngã cũng là cộng tướng. Cắt đứt tính, nên lấy vô cảnh, thành ra làm rõ tông chỉ của Duy thức. Nhưng khi hiểu vô ngã đối với sắc v.v…có tướng phần riêng, lại do trước sau vốn không phân đoạn, đây là trước lấy biệt tướng phân minh quyết đoán, đối với cái khác tùy quyết đoán mà nhiếp thủ sự cảnh tính. Như hoa sen xanh, lựa bỏ cái trắng kia, thức duyên cái thể của sen, quyết đoán là xanh. Nói vô ngã, lý cũng đồng như vậy. Phàm khởi quyết đoán, nghĩa là nhờ nơi kia chấp ngã tướng mà suy tư, mới sinh quyết đoán là không có ngã thể riêng biệt. Dẫu tuy không cảnh mà trí được sinh, lý đã đồng như vậy sao còn có tranh cãi trái nhau ?
Nếu các hữu tình do tự tướng tương tục, nếu nói ở trong thể của tự tướng, đều có vô lượng công năng bất đồng, ở trong tự thức biến hiện khác, cho nên đến khi thành dị thục, do sức của tự chủng thức hiện tiền, mà không do ngoại cảnh khởi lên, chẳng phải lìa tự thức mà từ ngoại cảnh sinh. Nhưng vì do gần gũi bạn lành bạn dữ mà thành lợi ích hay tổn hại.
Điều này không thể thành. Do trong chân vọng tổn ích, là chỉ dùng ngôn từ âm thanh nói ra làm cảnh, cho nên đã duyên nghĩa của thanh thì hai thứ đều không, do đây cắt đứt trở thành phi hữu. Do kia là hữu, nên hành vi đúng lý phi lý có thể khiến thiện ác đuổi theo kia mà có hành động. Các hành động kia đã là không, có thể thủ tùy học, đâu cho là có. Đây tức là từng không nương gá ngoại cảnh, mà thức được sinh, có lỗi trái với đã chấp nhận. Ắt quyết nương gá sắc v.v… ngoại cảnh, tâm duyên sắc v.v… Giống như có việc không việc, thanh tâm lại như quan sát các hành tích kia, là tính có thể quyết đoán đối với cảnh. Cho nên cũng lại như sắc v.v…các thức nhất định duyên ngoại cảnh. Như Thánh lượng nói chỉ là tướng tương tự bên trong biến hiện, nên đây cố nhiên không có sức phá nghĩa của Duy thức. Do các thức lần lữa tăng thượng cùng nhau quyết định mà thành, vì do các thức lần lữa kia nương tựa lẫn nhau. Đây tức hai thức nương tựa nhau, vốn không đợi có thanh hay sắc v.v…, do chỗ lập dụ không thuận đối với tông, lại cũng hoàn toàn trái với giáo. Có kia tương tục là biệt thức cho nên thức kia làm nhân cho tự thức sinh, tác dụng của hai bạn lành dữ là đúng lý. Ngoại cảnh dẫn đến chiêm bao bác bỏ thành không.
Xem thấy người bạn, sao không đồng một giấc ngủ mà khiển trừ là chẳng phải. Nào có khó nhọc gì cưỡng lập tính lần lữa,.nhân chiêm bao nghe thiện ác, chẳng phải do biệt thức sinh, làm sao hiện tại tùy theo thức khác hiện hành ?
Lại làm sao biết chỉ do các thức phân biệt mà có sinh ?
Kia nói sự, tùy thuận khởi tình, khi thức sinh lại có công năng sai biệt của bao nhiêu thức khác làm nhân hiện khởi. Cho nên nghe mà thức như kết hợp đúng thời, chỉ hiện tướng của tiếng có sai biệt thể, thức mới sinh được, không nương ngoại cảnh, mới có thể hiểu sự việc nhờ tự công năng. Có những sai biệt , nương gá nội duyên của mình là thanh tướng mà hiểu. Tức là nơi tiền cảnh mà có hiểu biết, lúc ấy chỉ là công năng của thục vị của tự thức chuyển khởi, chỉ có thanh tướng cùng thức câu sinh. Hãy quán sát rõ lý này. Hoặc Thánh giả oai thần rất lớn, không văn tự, lìa thủ thanh tướng, trong một thời gian ngắn thành phương tiện. Nhưng chỉ là do thắng sai biệt, nên mới có thể làm việc này, liền khiến các thức khác đặc thù sai biệt sinh lẫn nhau. Đó là cùng chấp nhận, cho nên đây tức là công lực của duy thức. Nhưng từng không có tự tướng của thanh có thể đến các thức khác, đó là kia cùng chấp nhận lấy làm thí dụ. Dẫu cho chấp nhận như vậy, chỉ y nơi thức khác sinh được cái biết của âm thanh. Đây là thành hằng thường, nghe tiếng vang của âm thanh. Cái biết âm thanh này đều bị sinh tâm, tuy ở phương xa hoặc nhĩ căn hư hoại, đều nên nghe nói , không lúc nào bỏ. Nếu chấp nhận cái biết kia là do tiếng bên ngoài khởi lên, khi nghe nhĩ thức mới hoạt động, nhân phân biệt khởi, nhưng phải tương ưng với chỗ nơi và nhĩ căn cũng không hư hoại, mới nghe biết đúng sai của cảnh. Do đây nói hoàn toàn không cũng đều thành kiến chấp. Nói chung cái lỗi của nghe không phải chỉ có thế. Thức đợi có tính năng sai biệt mới phán đoán sự việc nơi âm thanh. Cũng như nơi tự tính của âm thanh đều khác, có thể sinh ra sự hiểu biết này, không phải như các tướng tâm khác. Cũng như nơi âm thanh, chẳng phải nghe tất cả. Duyên nơi thanh tướng này thì chỉ trở lại duyên đây, và chỉ sinh ra sự hiểu biết này. Khi hiểu biết, chỉ sinh duyên sai biệt như đây do có lực dụng làm nhân, chẳng phải những cái khác. Tức như nơi âm thanh ở chỗ nơi tương ưng, nơi tự tướng tương tục sinh các tướng tượng. Lại như việc này chủng tử hiện tiền, tùy quả tự dụng mới có thể sinh khởi như vậy mới thành không có lỗi tương tự.
Lại nữa các chữ viết gồm có các chi phần, phân tích đến cùng chẳng phải căn thủ tính, giống như cực vi, chẳng phải đồng thời sinh vì không hợp tụ, không đúng lý này, vì duyên cái tâm âm thanh này là bất khả đắc. Lại kia chấp nhận có các phần vi tế, vì thể tương tự và vì phi căn sở hành tính. Nhưng chẳng phải công có các sai biệt kia để tạo tác cho có an trí thế lực đạo lý. Lại như tâm thanh bên ngoài, tùy sở y duyên tiếng vang sai biệt, có tự tướng làm nhân chua duyên, thức cũng như vậy, nào có phi ái. Lẽ nào chẳng phải nói do lần lữa tăng thượng, tức là chấp nhận thủ lấy các thức khác, cho nên thức này thành ra như không thủ cảnh đối với các ngoại cảnh. Thí dụ trở thành sai trái, vấn nạn này là phi lý. Thứ này vì do hiện tướng các thức làm sở duyên thì dụ mới thành, như các tông khác lập ra. Giống như nơi kia chẳng phải âm thanh hiện tại, tùy lấy một tướng mà thành lập. Chỉ có tướng kia mà thức sinh thôi. Tông ấy chấp nhận thành, thí dụ của ta cũng vậy, nào có lỗi gì ? Vì sao Như Lai đối với thức phân biệt và các cảnh sai biệt đều loại trừ, chuyển cái bất dị tương tục, vô biên sai biệt mà giáo hóa hữu tình, nơi kia khởi như đa tâm tướng ? Như một âm thanh kia, thể không sai khác, tùy theo một lạc tướng thức mà sinh khởi.
Chỉ do sức oai thần của Như Lai cực điểm tu hành mới khiến kia được cảnh có nhiều công năng khác chứ chẳng phải một, nhiều sắc loại không đồng nhau, mà không tạp loạn. Một khi ứng dụng thì mọi sự phân biệt rõ ràng, như ngọn đèn hiện tướng trong tấm gương sáng. Lại như các dụng sự giáo hóa của Như Lai, oai lực khó suy nghĩ biết được, siêu vượt các cảnh có thể suy tư. Đây là pháp môn cộng học cho nên miễn cưỡng lập ra nạn vấn này, chẳng phải diệu thuyết. Nếu nói chiêm bao và thức là hai vị trí không sai biệt, do cùng chấp nhận tính không thật cảnh, tùy sự sai biệt đó dẫn đến quả. Trong chiêm bao hoặc thấy thiện thấy ác là nêu chung, và nơi tâm lúc ở vị trí thức cũng không có cảnh, đây là ứng hợp với sự cùng lúc được quả, hoặc ứng hợp với chiêm bao cũng đều không có quả vì vô cảnh tính. Hoặc lại chuyển câu này thành câu hỏi thì không phải vậy vì không có lý. Tâm do sự ngủ mê, chiêm bao và thức quả không giống nhau, như vậy chiêm bao là do tâm ngủ mê, tính không rõ ràng, do đó thiện ác có thể chiêu cảm quả yếu kém. Còn như lúc thức, hoặc duyên sự việc khác không cung kính, hoặc có lúc loạn tâm, tuy làm việc bố thí mà quả không tăng. Đại thức tuy không có cảnh, nhưng quả cũng giống như vậy. Nhưng tùy sai biệt có thể chiêu cảm quả ái hoặc phi ái, do thể của chiêm bao và thức có sai biệt, được quả không giống nhau chẳng phải trái đạo lý. Lại chẳng phải do cảnh thiện v.v…thể khác nên tác dụng chiêu cảm quả có mạnh có yếu, nhưng là do tự tính và tự thể tương ưng v.v…tăng, cho nên có sai khác nhau. Đây tức là lúc chiêm bao chẳng hạn có các sai biệt đó rồi lấy đó làm duyên, chứ chẳng liên quan đến việc có cảnh. Hoặc khi sinh rồi, liền nơi cảnh ấy có thể khởi hại tâm, tạo các việc cực ác. Lại nơi chỗ này có thể chiêu cảm quả mạnh, gieo nghiệp thiện bất thiện bậc hạ, trung, thượng. Lấy đó mà nói , thật không phải vì nhờ có ngoại cảnh, mà quả gieo trồng có sai khác. Hoặc khi có duyên thân La-hán quá khứ, các việc có phúc v.v…, thật không có cảnh ấy. Như trong chiêm bao, được quả không đồng nhau, có lỗi bất định. Sau trong chiêm bao thành vui mừng. Như Lai xuất thế tuy không có thật cảnh, nhưng chiêu cảm đại quả, thí dụ này mới thành.
Không thuận đối với tông. Có các sư nói rằng tuy bị chiêm bao tổn tình, đoạn tiền cảnh mà không ám muội, như mới thức dậy còn đang ngái ngủ, vì chưa đủ giấc nên xảy ra tình trạng thân thể nặng nề, thấy không rõ ràng. Tức sự khuy tổn này, đối với cái thức tương ưng trong chiêm bao kia thật khó có, do ở trong chiêm bao tâm tâm sinh pháp, lúc ấy rõ ràng thấy cảnh, tâm lo buồn sợ sệt nung đốt, dẫu khi thức cũng chưa thể giống như đây. Do đây số hữu tình cùng thấy cảnh, vì thủ tướng phần. Nhưng trong chiêm bao nghiệp bảy sắc không lập nghiệp đạo, do sắc trong chiêm bao không phải là kiến vô đối. Đó là bất cộng cảnh, không như cảnh ngoài đời thường, đó là chuyện ngôn luận. Chỗ lập sắc nghiệp không phải nghiệp đạo, đây mới thành. Không xét duyên do, nhưng chỗ luận ở đây, đối với thức trong chiêm bao, thấy không rõ ràng, được quả yếu kém. Khi thức cũng phải như đây. Đã có lỗi này mà đáp rằng do chiêm bao khuy tổn nên được tiểu quả. Nếu không tổn thì với lúc thức nào có khác chi ? Tức như nói thức trong chiêm bao đối với cảnh phân biệt rõ ràng liền chiêu cảm thắng quả. Nếu đây thông, do trong chiêm bao tâm sáng suốt đoạn dứt, chấp nhận chiêu cảm được thượng diệu quả báo. Không kiến lập bảy sắc nghiệp đạo, vốn là chuyện bình luận, trở ngại sự chiêu cảm quả sai biệt, bèn luận về nghiệp đạo duyên do từ đâu. Do chẳng phải chiêu cảm quả, cần phải mượn đạo nghiệp này mới đến phương tiện vị, rất bị triền hại ý lạc này, bèn khiến chiêu cảm quả cực ác, khinh bạc phiền não, dẫu tạo căn bản, cũng chưa thể đồng cực thanh tịnh tâm, nơi tu thiện vị phương tiện căn bản. Suy đây nên biết, luận duy thức cũng do nơi kia tương tục hưng hại, tùy tâm sinh thành nghiệp đạo kia. Có các sư khác nói do kia biết, nên mới thành tội.
Đây không phải câu trả lời đúng. Vì ý gì phải đợi cộng cảnh mới kiến lập đây ? Chẳng phải do tha lực mới thành nghiệp đạo ? Nhưng mượn có thể luận nói thế sự. Như Bí-sô Đoạn thanh lưu uế, phạm các tội đây, lẽ nào ở bên tình, và do cộng cảnh, mượn kia mà biết. Cho nên nếu ở trong chiêm bao thật có màu xanh v.v… để mà biết, do đại sư chế mới thành có tội, hoặc có thể chuyển từ cái khác, chẳng phải do việc ấy, là có là không, đây thành hợp lý.
Nếu vậy sinh giới chỉ là duy thức, thì thành không có ngữ nghiệp thân nghiệp sao ?
Nhưng do đại chủng và từ chủng sinh, nên gọi là thân. Ngữ nghiệp tức từ chủng sinh sắc. Hai cái này làm thành sát, vọng v.v…Hai thứ nếu không, sự thành phi hữu. Nhưng tên đồ tễ, thợ săn, chỉ duy tự thức chuyển biến hiển hiện mà bị tội sát sinh. Lẽ nào chẳng trái nhau, do chẳng phải đời trước mạng căn tự đoạn, bèn khiến kia bị tội sát sinh ư ? Đây là trái với điều đã chấp nhận hai nghiệp thân, ngữ. Nếu không vậy thì thế nào ?
Chết là do thức khác, như thức của kẻ đồ tễ, hàng thịt, đã dùng phương tiện làm kia phân lìa, đây cũng như vậy. Chỉ do tự thức mới có tác dụng, khi sai biệt hiện, liền cùng mạng kia làm nhân sát hại. Vậy là chỉ do công lực tự thức, vọng thấy thân tướng, mượn sức mạnh đó làm nghiệp đạo. các nghiệp đạo khác, chuẩn theo đây mà biết. Do đạo lý này, lại có chấp nhận chung là sự sai biệt của thức. Bèn cùng thân khác làm tính hoại nhân, tức như quỷ thần và Kiện-đạt-phược v.v… chỗ ganh ghét, ác niệm liền sinh, do thức của quỷ v.v… biến hiện làm nhân, bèn khiến đời trước có thất niệm v.v… Lại do Thánh giả khi chuyên tâm niệm, do sức của thức kia làm thắng duyên, nên ở trong chiêm bao loại trừ mê muội, bèn quán sát các hình nghi khác lạ, mà thức lãnh nạp các cảnh tượng. Nói mạng căn, nghĩa là tùy ứng, thuận theo nghiệp lực cõi kia dắt dẫn, khi thức Dị thục rót vào, đồng đẳng với sự dắt dẫn, liền chuyển biến khiến một nghiệp kia chiêu cảm liên tục báo đồng phần. Đoạn tuyệt trái nhau, không phải nói tất cả đều đoạn tuyệt. Như kia đã chấp nhận, ở sáu chỗ ấy, cứ đồng phần thì đoạn gọi là tuyệt. Thức và mạng lìa, giả nói là đoạn. Chỉ do tự tha hai thức làm duyên, mà có tác dụng mạng căn đoạn diệt. Giống như người ẩn sĩ đạt được thắng thượng định, và do sức tác dụng, công năng sai biệt làm thành khiến sinh đổi khác. Vì chỉ là tính sai biệt của nội tâm. Như vậy tuy không có hai nghiệp thân, ngữ, mà sát, đạo v.v…sự lý vẫn thành. Như trong kinh nói người ẩn sĩ ở trong định kia, ý phát lửa sân, duyên sức này khiến sát vô lượng hữu tình. Đây cũng là do tâm khiến kia đoạn mạng. Lý như trước, suy thì biết được. Nhất định phải chấp nhận, người ẩn sĩ thành tựu ý lạc muốn hại, khiến vô lượng sinh linh phải đoạn mạng. Nếu khác đây, thì không thành đại tội cái ý muốn hại mạng. Cho nên biết dẫn chứng đúng, ý tội là tội lớn.
Nếu vậy, chẳng phải người biết ý thú kia, lúc bấy giờ làm việc sát hại, thì đây cũng thành, rõ ràng đây là tội lớn nhất trong tội thân nghiệp. Có lúc không nhờ các thức tương tục khác, mà bị đá rơi, khói lửa, mưa v.v… tổn hại hữu tình, thì ai là sức tăng thượng khiến đoạn mạng ? Chắc chắn chẳng phải thức này hiện tướng như vậy, mà vẫn bị sát hại. Vậy tức là phạm lỗi trái nhau, tự trói lấy mình.
Câu vấn nạn này phi lý. Đây tức do cái tương tục của thức này không có khả năng cùng với tính tùy thuận đoạn mạng kia. Giống như nghi độc khiến tâm hoảng loạn ngất xỉu. Chỉ là tùy thuận tương tục bên trong, thức không còn lực dụng để trụ liên tục, do đó gọi là thọ mạng đoạn. Nhưng cho rằng có đá rơi v.v.. các tướng hiện, cũng chẳng thành sai trái. Vì chỉ do thức tăng thượng khiến mạng ấy chết, liền sau đó mạng sống chấm dứt, và khi chết thì kia thành phi hữu.
Đã chẳng hiện tiền, làm sao thành tội, và sự đoạn mạng là nhân tính ư ?
Tuy trình bày rõ vậy mà khó đáp ứng câu phản vấn. Người kia khi làm việc sát hại bị chiêu cảm nghiệp đạo, nếu lúc ấy kết nghiệp đạo, sao không mạng chết ngay lúc ấy. Nếu đến khi gặp duyên, mới kết cái chết kia, thì làm sao đây bị tội sát sinh ? Nếu nói hợp lại thành tội sát sinh, thì khi hai sự kiện này riêng biệt, có hay không có sự khác nhau về thể, làm sao có thể làm sự hợp nhau ? Vậy thì việc này Tôn giả làm luận đã định rõ quyết đoán kẻ năng hại. Từ trong tương tục có sự sai biệt kia, nghiệp tính rót vào. Nhưng đối với ta, có kiến giải như thế. Vì cái thức tăng thượng của người năng sát làm nhân, đoạn sự tương tục kia, cho nên chắc chắn là do đây chứ không do việc gì khác sau đó, làm cho mạng chung. Trong lúc bị thương, thành ra nghiệp sát kia, do đây có công năng đoạn mạng kia, quyết định do đây mà kia chết. Nhưng người năng hại chỉ có sức này làm nguyên nhân chính việc đoạn mạng kia, hoặc chết tức thì, hoặc sau mới chết, do thức tăng thượng cùng với tha thức, chuyển dần làm hại, khiến hậu thức sát-na là chướng ngại không tương tục được. Cũng chẳng phải người hại chỉ duy có dùng ý mà thành sát nghiệp, bởi vì đây có nghĩa thoái chuyển, nếu như có điều gì trái với người làm việc sát hại kia. Dùng lý mà nói, kia không nhờ đến các duyên khác mới chết, do đây chắc chắn quyết định việc đoạn mạng, vì từ cái nhân đây mới đoạn mạng. Do đó thành ngay nghiệp đạo sát sinh. Đây thành không có lỗi.
Như vậy giặc chẳng hạn, tùy việc mà biết. Nếu khác thì người năng hại kia, lúc ấy nào có dụng lực ? Khi kia chết mới chiêu tội sát, vậy là thành cái lỗi phi lý. Không dựa vào năng hại, trong tự thân có sự sai biệt kia, mà chỉ căn cứ có sự khác lạ nơi thân kẻ bị hại, sau khi chết mới thành tội, ấy là do sự gia công đây nên mạng kia đoạn.
Đây tức đã nói rồi. Lúc bấy giờ sao không chết ? Hợp với phương tiện sát nghiệp lúc ấy, bấy giờ mới đắc tội sát sinh. Chết là do kia. Nhưng khi ấy không có tướng khác. Vì có thể đắc tội nên lại đem lý này để khiển trừ các nghi.
Vậy thì như trong chiêm bao, thân năng hại và sở hại đều không, nên trở thành cái lỗi không có nghiệp đạo. Đây là do thức trong chiêm bao cũng không thể làm hại cái tương tục kia, cho nên trong trường hợp này không thành nghiệp đạo. Ngược lại lúc thức thì thành nghiệp ?
Đã thành lập rộng rồi, chỉ là cái vô gián trong tâm có thể thành hại nghiệp. Nếu như đây, trình bày rộng các kiến giải khác, thì phải chấp lý mới đặt thành các câu hỏi khác.
Như chỉ có thức thì tâm trí người kia biết hay không biết tâm người khác ? Nếu nói không biết, sao gọi là rõ tâm người khác ?
Đây gọi là do trí, nên rõ tâm người khác. Nếu như không rõ thì thành dối láo.
Đây tức năng thuyên có lỗi. Nếu như biết, thì lãnh thụ nơi cảnh lìa thức tức thành trái lý duy thức. Hai việc trái nhau trả lời làm sao ?
Sở dĩ vì sao ? là vì có nghĩa sâu xa. Tha tâm trí làm sao biết cảnh ? Không như thật thì ý thủ chứng chỗ cực kỳ sâu xa. Kia bảo tha tâm. Nếu có chấp nhận thức, thì thành thương tổn trí. Nếu không thì trái với tự giáo. Nếu tha tâm trí duyên nơi ngoại cảnh, như quán có cảnh ngoài tâm làm duyên, thì khó tránh khỏi lỗi. Rõ cảnh chẳng phải thật, nên không có lỗi.
Làm sao biết cảnh không xứng hợp với thật mà được gọi là tha tâm trí ư ?
Trong đây ý nói như chỗ sở chứng tiền cảnh không hư vọng, do đây mới gọi là tha tâm trí.
Nếu vậy thì biết tiền cảnh đã không như thật, thì đây lẽ nào được gọi là tha tâm ?
Lý không như vậy.
Chưa rõ bản ý.
Tuy nơi tha tâm, không duyên làm cảnh, trên thức hiện tương tự tướng trạng kia ư ? Vì vậy lìa tâm không cảnh có thể sinh tướng tương tự kia được. Nhưng nó không như cảnh. Đấy là bản ý lập ra tha tâm. Trong đây chỉ là lãnh nạp cái tương tự kia, do đó gọi là tính không như thật. Tuy không đồng với kia, sinh tướng tương tự kia, lìa tâm không cảnh đều đã thành vậy. Người có khả năng biết thì tùy cảnh tướng sinh, như biết tự tâm trí. Hai tâm đồng thời, vì không họp chung lại, nên không phải hiện tại, nhất định phải chấp nhận là đã diệt chưa sinh.. Nhưng chỉ có thể được một làm cảnh, thể lại cũng không, chỉ duy tự thức lại duyên tụ pháp của các tâm quá khứ hiện tại, làm rõ tướng lãnh nạp tự tâm. Trong việc này người đời đều chấp nhận. Rõ tha tâm, sự lý cũng nên biết.
Vậy nếu chính tự tâm có thể liễu biệt, làm sao lại nói không biết như thật ?
Vì do không thật biết đối với cảnh, nên gọi là không thật. Tức là lấy cái không đem làm cái có mà được gọi là hợp với thật biết.
Nếu vậy làm sao nói là không như mọi lãnh nạp cảnh kia đều là không ?
Do kia không thể hiểu thật cảnh, nên đây cũng không như vậy. Không biết như Phật cảnh, tha tâm trí này, kia duyên màu xanh chẳng hạn, hiểu rõ sở duyên kia, tức xứng hợp với thật.
Sao lại đem chuyện Phật biết tâm thể tự tính thanh tịnh, mà nói không biết người phàm nói biết tha tâm ?
Lấy tha tâm làm duyên, hiểu tướng tự tâm, mượn nói là biết tha tâm.
Vậy tự tính chân thật của tha tâm là cảnh giới gì ?
Đây cũng không phải vậy.
Không vậy làm sao Phật biết tha tâm ?
Tự tính tức là lìa tâm biết có. Giả sử có sắc lìa tâm, Phật cũng biết. Nào có hại gì đây là tâm, là thật có. Cả hai đều chấp nhận. Lìa tâm thật sắc, trái ngược với lý nên không như nhau.
Nếu vậy Phật biết tha tâm, thì phải không biết cảnh, bởi cảnh là vọng.
Phật y nơi vọng mà biết, cũng nào có tổn hại gì ? Như người quán huyễn, lẽ nào không biết là hư vọng ? Phật đồng với cái biết hư vọng, nào có lỗi gì ?
Nếu vậy cảnh giới chư Phật có tướng trạng như thế nào ?
Cảnh giới chư Phật không phải mọi người có thể biết.
Nếu Phật không biết tâm, sao gọi là Nhất thiết trí ?
Tức kia có tự tính không điên đảo. Chẳng phải biết hết ngủ rồi mới thức. Chính khi hiểu rõ tâm tự tha, không thể hiểu rõ chân tính kia. Cho nên nói trí kia không tương xứng với sự biết cảnh.
Lại nữa thế nào là cái trí của hết ngủ có thể hiểu đúng đây ?
Do cái giác tri của vô ngôn cảnh tính, vượt quá khả năng của ngôn ngữ, chỉ tự chứng biết. Cho nên không thể dùng ngôn thuyên có thể đạt tới. Nhưng ở thức này có tự tính, không phải các thức khác có thể biết được. Đã không phải sở tri, thì chẳng phải ngôn ngữ có thể đạt tới. Kia chỉ là tổng tướng làm cảnh, cho nên chỉ có tính tạo tác hư vọng. Tức tạo tác này ở nơi tính tự chứng, vì thật tướng của thức rất xa vắng, chỉ nơi thức xứ mới biết tướng không thật. Cả hai cái này đều thành không xứng hợp thật cảnh. Sở dĩ vì sao ? Vì ở nơi không thật, khởi cái hiểu là thật mà quyết đoán, do nơi thức kia hiện tướng hư vọng./.
Luận Thành Duy Thức Bảo Sinh Quyển V

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 5 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Những tâm tình cô đơn


Cho là nhận


Tư tưởng xã hội trong Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy


Sống đẹp giữa dòng đời

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.142.198.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập