Quy mạng Diệu Cát Tường Bồ-tát Ma-ha-tát. Con nay giải thích lược các tướng của Đại thừa, từ tâm Bồ-đề sinh ra Đại bi tương ưng, được gọi là tất cả pháp, tức phải biết rõ rằng, tất cả pháp không có ngã. Cho nên nay nói tướng được biết này.
Trong đây thế nào gọi là tất cả pháp? Nghĩa là: Uẩn, Xứ, Giới, Duyên sinh, Ba-la-mật-đa, Địa, Không, Bồ-đề phần, Thánh đế, Tịnh lự, Vô lượng hành, Vô sắc, Đẳng chí, Giải thoát, Tam-ma-bát-đề, Tiên hành, Giải thoát môn, Thần thông, Đà-la-ni, Lực, Vô sở úy, Vô ngại giải, Đại từ, Đại bi, Phật bất cộng pháp, các quả Thanh văn. Biết rõ tất cả tướng- chân như thật tế vô tướng, các pháp của pháp giới. Đây gọi là tất cả pháp.
Nói Uẩn nghĩa là năm uẩn. Những gì là năm? Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Trong đó, Sắc tức là năm căn và năm cảnh. Căn là: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Cảnh là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Chỗ được nhãn thức nương gọi là nhãn căn thanh tịnh. Được nương bởi nhĩ thức- là nhĩ căn thanh tịnh. Được nương bởi tỉ thức – là tỉ căn thanh tịnh. Được nương bởi thiệt thức- là thiệt căn thanh tịnh. Được nương bởi thân thức – là thân căn thanh tịnh.
Sắc có hai loại: Hiển sắc và hình sắc. Hiển sắc là: Xanh...; Hình sắc là: Dài...
Âm thanh có ba loại: Chấp thọ đại chủng, Bất chấp thọ đại chủng, Câu đại chủng.
Hương có hai loại: Mùi thơm và hôi.
Vị có sáu loại: Đắng, chua, ngọt, cay, mặn, nhạt.
Xúc có mười một loại: Cứng cáp, lưu nhuận (chảy đều), ấm lạnh, động nhẹ, động mạnh, nhám rít, đói khát v.v… Các xúc như thế, tổng quát mà nói có ba loại: Ưng ý, không ưng ý và trung gian giữa hai loại này.
Những thứ được sinh ra bởi mắt... như thế, nếu phân biệt theo giới và theo ba thời, thì có vô biên hành tướng khác nhau vi tế. Nên biết những điều này là lược nói về Sắc uẩn.
Thọ uẩn thì thế nào? Thọ có ba loại: Khổ thọ, lạc thọ và không khổ không lạc thọ. Nhưng, ba loại thọ này, nếu y theo mắt... để phân biệt thì có sáu phần, chúng như vậy sẽ có mười tám. Như trong hạ giới, nói hành tướng riêng, thì Thọ uẩn này, nếu phân biệt theo Giới và Thú thì có vô biên phần hành tướng. Phải biết, những thứ như thế là nói lược về Thọ uẩn.
Tưởng uẩn thì thế nào? Tưởng có sáu loại: Hành tướng của sáu loại này là nương theo nhãn... phân biệt những cảnh tướng được chúng thủ lấy, có sáu loại. Tướng được thủ lấy tức là sắc... nhưng tính của cái được nương thì không thể phân biệt. Hoặc phân biệt hoặc không phân biệt, tức là hai pháp: Sắc và thọ. Những thứ như thế đều được khởi lên từ tự loại của Ngã uẩn. Tưởng uẩn này, nếu phân biệt theo giới... thì có vô biên hành tướng. Phải biết như thế là lược nói về Tưởng uẩn.
Hành uẩn thì thế nào? Nghĩa là tâm sở hữu pháp, phần thiện như Tín...và phần phiền não như tham, sân, si. Pháp tâm sở như vậy, các hành tướng được có bởi các phần vị của tâm thì y theo mắt... mà chuyển; Hành uẩn này, nếu theo giới... mà phân biệt thì có vô biên phần hành tướng. Phải biết những thứ như thế là lược nói về Hành uẩn.
Thức uẩn thì thế nào? Tức là sáu thân thức. Thức uẩn này, nếu nương các căn như mắt..., các cảnh như sắc... mà phân biệt và tướng của Thức kia, cho đến thiện, bất thiện, vô ký phân biệt có vô biên phần hành tướng. Phải biết những thứ như thế là lược nói về thức uẩn.
Như trên tóm lại mà nói gọi là năm Uẩn.
Nói Xứ tức là mười hai xứ: Sáu nội xứ là: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; Sáu ngoại xứ: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong đó phải biết rằng: Năm căn như mắt..., năm cảnh như sắc...là mười sắc xứ. Ý xứ tức là các thức. Các pháp còn lại chính là pháp xứ.
Nói Giới tức là mười tám giới, nghĩa là: Sáu căn giới, sáu cảnh giới, sáu thức giới. Trong đó nhãn thức... phân biệt có sáu, tức là có sáu xúc: Nhãn xúc cho đến ý xúc. Thức của sắc... có ba loại tướng: Thiện, bất thiện và trung gian. Các hành tướng này, các xúc của mắt... làm tính nhân sinh ra ba Thọ; tức là ba Thọ kia được sinh từ xúc của mắt...có sáu; Sáu thứ ấy, mỗi thứ phân biệt có ba loại, nghĩa là: Khổ, lạc, không khổ không lạc.
Như vậy nói chung xúc và thọ mỗi loại có mười tám. Như đã được chỉ ra ở thọ uẩn trước, hành tướng cũng như vậy.
Lại nữa, các tướng địa, thủy, hỏa, phong, không, thức- gọi là sáu Giới.
Cái gọi là duyên sinh thì hành tướng thế nào? Tức là mười hai duyên sinh. Những gì là mười hai? Nghĩa là: Vô minh cho đến già chết.
Trong đó, vô minh là vì trong pháp chắc thật của nghiệp quả, mà không chính hành. Do vô minh này khởi các phiền não, cho nên trong sự không có ngã mà chấp kể là Ngã uẩn...mà có sở đắc. Vô minh duyên hành. Hành có ba loại: Phúc hành, tội hành và bất động hành. Phúc hành là mười nghiệp đạo thiện, tội hành là mười nghiệp đạo bất thiện, bất động hành là các đẳng chí Vô Sắc.
Các hành như thế, vì vô minh làm nhân nên các hành được sinh.
Hành duyên với Thức, cho nên các thức mắt… chủng tử của quả ái và phi ái sinh trưởng.
Thức duyên Danh sắc. Danh sắc này là do Thức nên thi thiết danh ấy. Danh có chỗ sinh, cho nên bốn Uẩn như Thọ... là Danh sắc. Tức như thích đáng với danh mà lập.
Danh sắc duyên sáu Xứ. Sáu xứ ấy là do sáu Xứ như mắt... như vậy kiến lập.
Lục xứ duyên Xúc. Xúc nghĩa là mắt... sắc... Như trước đã nói.
Xúc duyên Thọ. Thọ có ba loại, cũng như trước đã nói. Trong đó hành tướng của Xúc, Thọ phải biết.
Thọ duyên Ái. Ái do vô minh.
Ái duyên Thủ. Thủ nghĩa là chấp giữ các sắc... mà sinh ra hành động vui thích...
Thủ duyên Hữu. Hành tướng của Hữu, là tức như trước đã nói về tướng của Hành, Thức.
Hữu duyên Sinh. Nghĩa là, tức Danh sắc có chỗ được sinh khởi. Do vô minh kia mà có pháp sinh. Tức cái tự tính của Vô minh này cũng không có phần vị.
Sinh duyên Lão, Tử. Lão nghĩa là các Uẩn suy hoại, chuyển biến. Tử nghĩa là các Uẩn hoại diệt. Cuối cùng của pháp sinh không có thật, thân đắc được lúc trước trọn xả bỏ. Sau đó Vô minh nơi các Uẩn sau lại chuyển trở lại, tăng trưởng tất cả phiền não lỗi lầm. Chúng đều do nghiệp phiền não tự loại của vô minh mà làm nhân, cho nên phiền não nghiệp sinh. Ba thứ này không dứt, do đó liên tục trôi lăn trong luân hồi.
Biết như vậy, phải với pháp thật mà khởi đối trị. Biết rõ tự tính của vô minh... không có ngã. Lược nói Mười hai duyên sinh như thế.
Cái được gọi là Ba-la-mật-đa thì có hành tướng thế nào? Có mười, trong đó Thí có ba loại, là: Pháp thí, Vô vọng thí và Từ thí.
Giới có ba loại là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới.
Nhẫn nhục có ba loại là: Nhẫn Quán sát kỹ Pháp, Nhẫn nại oán hại, Nhẫn chịu khổ.
Tinh tiến có ba loại: Tinh tiến Gia hành, Tinh tiến rốt ráo, Tinh tiến Thành tựu.
Định có ba loại: Định Lìa lỗi lầm, Định Dẫn phát, Định Thành tựu sự.
Tuệ có ba loại: Tuệ thành tựu do nghe, Tuệ thành tựu do tư duy, Tuệ thành tựu do tu.
Ba loại phương tiện: Phương tiện lìa lỗi lầm, Phương tiện cứu vớt, Phương tiện mau chứng an lạc.
Nguyện có ba loại: Nguyện Tự hành thành tựu, Nguyện Giải thoát sự trói buộc của chúng sinh phược , Nguyện Thanh tịnh Phật độ.
Lực có ba loại: Lực Thành biện sự nghiệp, Lực Diệt trừ phiền não, Lực Hành phục ma oán.
Trí có ba loại: Trí Vô phân biệt, Trí phân biệt bình đẳng giác liễu, Trí Diệt tội chúng sinh.
Các Ba-la-mật-đa như Bố thí như vậy lấy tâm Bồ-đề làm đầu, với tất cả chúng sinh khởi quán từ tâm. Nhưng các Ba-la-mật-đa này, với các hành thế gian đều không thấy có tướng của hành, cũng không có cái đắc được. Trong các Uẩn... xuất thế tức là tướng vô ngã giải thoát. Chỗ chứng chân thật, như lý mà quán.
Cái gọi là Địa tức là mười Địa. Hoan hỉ địa tu Bố thí Ba-la-mật-đa, Ly cấu địa tu Giới Ba-la-mật-đa, Phát quang địa tu Nhẫn Ba-la-mật-đa, Diệm tuệ địa tu Tinh tiến ba-la-mật-đa, Nan thắng địa tu Định ba-la-mật-đa, Hiện tiền địa tu Tuệ ba-la-mật-đa, Viễn hành địa tu Phương tiện ba-la-mật-đa, Bất động địa tu Nguyện ba-la-mật-đa, Thiện tuệ địa tu Lực ba-la-mật-đa, Pháp vân địa tu Trí ba-la-mật-đa.
Các địa như thế pháp được đắc là lý vô ngã, đều chứng được tâm từ không sai biệt. Nhưng các Ba-la-mật-đa như Bố thí được tu, thì an trụ sở đắc thanh tịnh hơn hết, nguyện lực rộng lớn thành tựu cùng khắp, không chung với tất cả Thanh văn, nên các Ba-la-mật này, với tướng sở duyên mà không sai khác, vì hoặc người, hoặc pháp đều lìa tướng- đều Không vậy.
Gọi là Không tức là mười tám Không, nghĩa là: Mắt... không thì gọi là Nội không, Sắc... không thì gọi là Ngoại không; Mắt... Sắc... trí quán bình đẳng gọi là Nội Ngoại Không. Các phần như phương hướng... của thế gian, mỗi mỗi quan sát đều là không, thì gọi là Đại không. Với các phân biệt lìa tướng thủ và xả, gọi là Không. Không này lại không thì gọi là Không Không. Nơi thắng nghĩa quán sát kỹ mà bất khả đắc thì gọi là Thắng nghĩa không. Nơi các hành như Thí... các pháp hữu vi trọn đều bình đẳng thì gọi là Hữu vi không. Các pháp vô vi không có tướng phát ngộ gọi là Vô vi không. Trong pháp Không, không có chút pháp nào có thể chuyển, tán mà chẳng tụ tập thì gọi là Tán không. Tất cả các pháp kia đều không có biên tế, gọi là Vô biên không. Trong tất cả pháp, rốt ráo không có một pháp nào khác mà chẳng Không, gọi là Tất cánh không. Các pháp như Uẩn... tự tính như vậy, không có chỗ sinh khởi, lìa tướng tự thủ xả, gọi là Tự tướng không. Tất cả các pháp Không, chẳng sai biệt, gọi là Nhất thiết pháp không. Trong ngã uẩn, thủ và xả bất khả đắc, gọi là Bất khả đắc không. Cái Bất khả đắc này, nghĩa là tướng của Sắc... bất khả đắc, chỉ có các nghiệp tính, gọi là Vô tướng không. Hoặc người, hoặc pháp, tự tính của nó là không, gọi là Tự tính không. Trong các tính, lìa tính thủ xả, gọi là Vô tính không. Vì cái vô tính ấy nghĩa là, lìa khỏi Uẩn...không có tính riêng khác, nếu lìa Uẩn...tự tính khởi không phân biệt, cái tướng đối ngại này tức gọi là Tính tự tính không. Nếu đó phân biệt như vậy đến chỗ tận cùng, ắt có thể giải thoát sự trói buộc của Sắc... không lại còn phân biệt phần Hữu, Vô biên, lìa khỏi thủ và xả các Uẩn... đây tức là một tướng; ma tính của một tướng ấy không có hai; đó như thế tức là Ba-la-mật-đa trụ một cảnh; Lý tự tính không lìa tướng hí luận, đây tức là được quán bởi Vô ngã chân thật.
Được gọi là Bồ-đề phần tức là ba mươi bảy phần Bồ-đề, nghĩa là: Tứ niệm xứ cho đến Bát Chánh đạo.
Tứ niệm xứ là: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
Trong đó, Thân niệm xứ là: Quán thân không có, đủ loại tích tụ mà không dính mắc, lìa tướng thủ và xả, đây gọi là Thân niệm xứ.
Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ cũng quán như vậy.
Lại nữa, ngay trong Pháp niệm xứ, nếu phân biệt trong, ngoài và trung gian thời có ba loại, nghĩa là: Tinh tiến, Định và Chánh niệm. Ba thứ tương ưng này có thể quán sát tâm Bồ-đề tối thắng và các thiện hành của các Bồ-tát. Trong tất cả pháp được tương ưng vô ngã- đây là niệm tối thắng.
Lược nói như thế gọi là Tứ Niệm xứ. Các pháp còn lại cũng như thế mà biết.
Tứ Chánh đoạn là đối trị của các phần phi Bồ-đề, tức là: Đã sinh thì khiến đoạn, chưa sinh thì khiến không sinh- đây gọi là chăm đoạn hai phần phi Bồ-đề bị đối trị. Phần Bồ-đề chưa sinh thời khiến cho sinh, sinh rồi thời khiến tăng trưởng- đây gọi là chăm tu hai thiện. Lược nói như thế gọi là Tứ Chánh cần.
Tứ Thần túc là: Dục, Tinh tiến, Tam-ma-địa, Tuệ. Các hành tương ưng như thế tăng thượng quả đắc được; dùng sở đắc ấy mà quán sở duyên của dục, nghĩa là bốn loại Tam-ma-địa, nhưng thân tâm kia lìa các sở y mà trụ tưởng lìa tham, y chỉ tịch tĩnh, không có hành được làm. Lược nói như thế gọi là Tứ thần túc.
Năm Căn, Năm Lực tức là biết rõ tất cả các quả tướng, tức là căn và lực của Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ tương ưng tăng thượng. Lược nói như thế gọi là Năm Căn, Năm Lực.
Lại nữa, trong đó những điều được tu tập như thế tức là hai phần giác liễu, tức là: Noãn vị và Đảnh vị. Noãn vị là tu Tứ Niệm xứ, Đảnh vị là tu Tứ Chánh cần.
Lại nữa, có hai phần giác liễu thù thắng: Pháp Nhẫn và pháp Thế đệ nhất. Nhẫn vị là tu Tứ thần túc, Thế đệ nhất vị là tu Năm Căn, Năm Lực.
Những thứ như thế hành mà không có chỗ tạo tác, chân thật tối thượng. Tín... Căn, Lực là hành tướng duyên kiến đạo. Nên biết, kiến đạo sở tu kia là Bảy Giác chi.
Bảy Giác chi tức là Niệm giác chi cho đến Xả giác chi.
Trong đó, Niệm giác tri nghĩa là nguyện lợi ích chúng sinh, chứng Bồ-đề; Tướng chính niệm hiện tiền không có quên mất.
Trạch pháp giác chi nghĩa là nơi tự tính của Ngã và Pháp quyết trạch làm tướng.
Hỉ giác chi nghĩa là: Đạo được tự mình tu, vì được nhân vô lậu nên sinh hỉ lạc.
Khinh an giác chi nghĩa là: Như pháp tính chân thật được chứng kia, vì lìa bỏ chủng tử của phần phi Bồ-đề, vì thân nghiệp và tâm nghiệp được khinh an.
Định giác chi nghĩa là: Bốn Vô lượng và nguyện Bồ-đề vào trí chân như chỉ thuần một cảnh tướng.
Tinh tiến giác chi nghĩa là: Tuy quán sát môn công đức tịch tĩnh thắng thượng mà không đắm trước vị, tiến tu các hành lại không có giải đãi ngừng nghỉ.
Xả giác chi nghĩa là: Niệm lợi ích chúng sinh, như chỗ đáng điều phục, tùy chỗ hành kia, các pháp công đức Ba-la-mật-đa, bình đẳng phân biệt quán sát không có đến đi, vì trụ bình đẳng.
Nói lược như thế gọi là Bảy giác chi. Tức như vậy hành Bảy giác chi gọi là Chánh trí phần, chúng có thể đối trị hành tướng của phiền não chướng và sở tri chướng. Nên biết rằng, được tu bởi chánh đạo là Bát chánh đạo.
Bát chánh đạo là Chánh kiến cho đến Chánh định
Trong đó, Chánh Kiến là biết rõ tất cả pháp không có tướng Ngã, trụ nơi bình đẳng và các điên đảo khổ, hai phần đó là sở quán của tướng thắng tuệ vi diệu.
Chánh tư duy nghĩa là khởi tư duy không gián đoạn nhân sở tác như nguyện mà chứng quả.
Chánh ngữ nghĩa là các lời nói đều lìa vọng phân biệt , như thật mà nói.
Chánh nghiệp nghĩa là những điều được làm không điên đảo, không hại chúng sinh, cứu vớt chúng sinh... lìa vọng mà tu.
Chánh mạng với tịnh mạng lìa các tà vọng, tự tu hành sở tu mà chứng.
Chánh cần nghĩa là: Tuy đến địa vị tối thượng mà cũng vẫn tăng tiến, thân không mệt mỏi, tâm sinh dũng mãnh.
Chánh niệm nghĩa là các thứ như Niệm xứ... như thật mà quán, từ tâm trang nghiêm phương tiện của nguyện tự mình, với tất cả pháp đều không quên mất.
Chánh định nghĩa là các nghiệp của thân... thường y chỉ công đức tối thượng, an trụ trí vô phân biệt, tức là tương ưng với tướng tịnh lự bình đẳng.
Lược nói những điều như thế gọi là ba mươi bảy phần pháp Bồ- đề. Tùy hành tướng thích đáng mà thu lại một các tóm lược.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.74.27 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.