Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Kim Cang Bát Nhã Luận [金剛般若論] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Kim Cang Bát Nhã Luận [金剛般若論] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Kim Cương Bát Nhã

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Nguyên Huệ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Xuất sinh pháp Phật không gì hơn
Hiển bày pháp giới là bậc nhất
Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp
Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
Tiểu Kim Cương Ba-la-mật nầy
Do tên như thế nêu uy lực
Bậc Trí đã thuyết giảng giáo, nghĩa
Nghe rồi chuyển vì chúng con nói.
Quy mạng hết thảy bậc Giác ngộ
Đều đem tâm chánh xin đảnh lễ
Con nên tinh tấn lập nghĩa ấy
Giải thích nối tiếp vì mình người.
Thành lập 7 thứ “Nghĩa cú” rồi, thì Bát-nhã Ba-la-mật ấy tức được thành lập. 7 Nghĩa cú là:
1. Chủng tánh không dứt.
2. Phát khởi hành tướng.
3. Nêu trụ xứ của hành.
4. Đối trị.
5. Không lỗi.
6. Nêu địa.
7. Lập danh.
7 Nghĩa cú nầy, được thành lập từ trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, nên gọi là Nghĩa cú. Nơi 6 Nghĩa cú trước là hiển bày, chỉ rõ đối tượng hành tác rốt ráo của Bồ-tát. Nghĩa cú thứ 7 là nêu rõ việc thành lập pháp môn ấy. Nên nhận biết như thế. Bát-nhã Ba-la-mật nầy, vì Phật chủng không đoạn dứt nên lưu hành ở đời. Vì nhằm hiển bày về việc sẽ đạt được nghĩa Phật chủng không đoạn dứt ấy, nên Thượng tọa Tu-bồ-đề, ngay từ đầu đã nói: Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Vì sao Đức Như Lai đã dùng sự khéo gồm thâu bậc nhất để thâu nhận các vị Đại Bồ-tát hiện có v.v…? Ở đây, khéo gồm thâu: Nghĩa là các vị Bồ-tát đã thuần thục đối với lúc Phật chứng đắc Chánh giác, Chuyển pháp luân, đem năm thứ nghĩa hợp với pháp Bồ-tát mà kiến lập.
Phó chúc: Là các vị Bồ-tát đã được thâu nhận kia, ở nơi lúc Đức Phật Bát-Niết-bàn, cũng dùng năm nghĩa ấy để kiến lập như thế. Hai thứ khéo gồm thâu và phó chúc ấy là hiển bày về Chủng tánh không dứt. (Nghĩa cú thứ 1)
* Phát khởi hành tướng (Nghĩa cú thứ 2): Như kinh nêu: Bồ-tát làm thế nào nên trụ v.v…?
Bồ-tát nên trụ: Nghĩa là muốn nguyện.
Nên tu hành: Nghĩa là tương ưng với Tam-ma-bát-để (Chánh định).
Nên hàng phục tâm: Nghĩa là điều phục mọi tán loạn.
Ở đây, muốn là đang cầu. Nguyện là vì điều mong cầu nên tâm tư niệm.
Tương ưng với Tam-ma-bát-để: Là Tam-ma-đề (Tam-muội) không phân biệt.
Điều phục mọi tán loạn: Là nếu tâm Tam-ma-bát-để kia bị phân tán thì chế ngự khiến an trụ trở lại.
Câu thứ 1 là hiển bày về thâu giữ đạo. Câu thứ 2 là hiển bày về thành tựu đạo. Câu thứ 3 là làm rõ việc đạo không lỗi.
* Nêu trụ xứ của hành (Nghĩa cú thứ 3): Nghĩa là nêu rõ trụ xứ của việc phát khởi hành tướng kia. Ở đây lại có 18 thứ nên biết. Đó là:
1. Phát tâm.
2. Hành Ba-la-mật tương ưng.
3. Muốn được Sắc thân.
4. Muốn được Pháp thân.
5. Ở trong tu đạo đạt được pháp thù thắng không kiêu mạn.
6. Không lìa khi Phật xuất hiện.
7.Nguyện làm thanh tịnh cõi Phật.
8.Thành thục chúng sinh.
9. Xa lìa sự thuận theo nẻo tán loạn của ngoại luận.
10. Sắc thân cùng chúng sinh thân giữ lấy chỗ hợp với quán làm rõ hành tương ưng.
11.Cúng dường, hầu cận Như Lai.
12. Xa lìa mọi thứ lợi dưỡng cùng các thứ mệt nhọc thiếu thốn, bức bách khiến không khởi tinh tấn và thối chuyển.
13. Chịu khổ.
14. Lìa vị tịch tĩnh.
15. Nơi lúc chứng đạo, xa lìa mọi hỷ động.
16. Cầu được chỉ dạy, trao truyền.
17.Chứng đạo.
18. Trên là cầu đạt Phật địa.
Đó là 18 thứ trụ xứ. Trong ấy, Bồ-tát nên trụ như thế để hóa độ tất cả chúng sinh đạt đến Niết-bàn. Phát tâm rồi, ở trong các Ba-la-mật tu hành tương ưng. Vì nhằm đạt được Sắc thân cùng Pháp thân của Như Lai, nên phát sinh vui thích, mong muốn, nên xa lìa mọi chướng ngại nơi tâm trong chứng đạo. Đã lìa bỏ các thứ kiêu mạn, hỷ động v.v… nơi tâm rồi, vì chứng đạo nên cầu được chỉ dạy, khuyên bảo, sau đấy tất được chứng đạo. Từ đây trở lên đều là cầu đạt Phật địa. Thứ lớp ấy được nối tiếp như vậy, ở đây là phát tâm, nên kinh nêu: Bồ-tát ấy nên sinh tâm như thế v.v… Là hành Ba-la-mật tương ưng, nên kinh nêu: Bồ-tát không trụ nơi vật để hành bố thí v.v… Vì muốn đạt được Sắc thân, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào, có nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v…
Pháp thân lại có 2 thứ: 1. Pháp thân ngôn thuyết. 2. Pháp thân chứng đắc.
Pháp thân chứng đắc nầy cũng có 2 thứ: 1. Trí tướng. 2. Phước tướng.
Pháp thân ngôn thuyết: Nghĩa là như Tu-đa-la v.v… Vì muốn đạt được Pháp thân nầy, nên kinh nói: Thế Tôn! Như có chúng sinh nơi đời vị lai v.v…
Tưởng đối với nghĩa không điên đảo, đó là tưởng thật, nên biết theo như ngôn thuyết chấp nghĩa thì đấy không phải là tưởng thật.
Vì muốn đạt được Pháp thân trí tướng, nên kinh nêu: Có pháp để Như Lai chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng chăng? v.v… Vì muốn đạt được Pháp thân phước tướng, nên kinh nêu: Nếu nơi Tam thiên đại thiên thế giới nầy v.v…
Vì trong tu đạo được pháp thù thắng không kiêu mạn, nên kinh nêu: Tu-lô-đa-a-nhã-na-phả khởi suy niệm v.v…
Vì không hề lìa lúc Phật xuất thế, nên kinh nói: Có pháp để Như Lai, ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng v.v…
Vì nguyện làm thanh tịnh cõi Phật, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Như có người nói như vầy: Như Lai đã thành tựu việc trang nghiêm quốc độ v.v…
Vì nhằm thành thục chúng sinh, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ví như có trượng phu v.v…
Vì nhằm xa lìa việc thuận theo nẻo tán loạn của ngoại luận, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như số cát hiện có của sông Hằng Già, lại có từng ấy sông Hằng Già v.v…
Vì Sắc thân cùng Chúng sinh thân luôn giữ lấy trung quán, làm rõ hành tương ưng, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Như số vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v…
Vì nhằm cúng dường, hầu cận Như Lai, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng ba mươi hai tướng đại trượng phu để thấy Như Lai Ứng Chánh Biến Giác chăng? v.v…
Vì xa lìa mọi lợi dưỡng, các thứ mệt nhọc, thiếu thốn bức bách, khiến đối với tinh tấn hoặc thối chuyển, hoặc không phát khởi, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu người nữ hoặc người nam xả bỏ Hằng già hà sa số thân v.v… Ở đây, thân có mệt mỏi, tâm có bức bách, do hai thứ ấy nên đối với tinh tấn kia, hoặc thối mất, hoặc không phát khởi.
Vì nhằm chịu khổ nên kinh nói: Nếu Như Lai hành Nhẫn Ba-la-mật v.v…
Vì nhằm lìa bỏ sự tham vị tịch tĩnh, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu người nữ hoặc người nam, đối với pháp môn nầy thọ trì v.v…
Vì nhằm vào lúc chứng đạo lìa bỏ mọi hỷ động, nên kinh nói: Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát nên trụ v.v…
Vì nhằm cầu được chỉ dạy, khuyên bảo, nên kinh nói: Có pháp nào để Như Lai, ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng, đạt được Chánh giác về đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? v.v…
Vì nhằm chứng đạo, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ví như người nam có thân cao lớn, đẹp đẽ v.v…
Ở đây, thân đẹp đẽ: Là thân đạt đến, thân thành tựu được chuyển y rốt ráo.
Thân cao lớn: Là thân gồm thâu tất cả thân chúng sinh.
Từ đây trở lên đều là cầu đạt Phật địa, nên biết Phật địa ấy lại có 6 thứ đầy đủ, gồm thâu chuyển y đầy đủ:
1. Quốc độ thanh tịnh đầy đủ.
2. Kiến trí thanh tịnh vô thượng đầy đủ.
3. Thân tùy hình hảo đầy đủ.
4. Tướng thân đầy đủ.
5. Ngữ đầy đủ.
6. Tâm đầy đủ.
Trong tâm đầy đủ nầy lại có niệm xứ, có chánh giác, có pháp lợi lớn được thiết lập, có sự thâu giữ lấy Pháp thân, có không trụ nơi sinh tử Niết-bàn, có hành trụ thanh tịnh, nên biết.
Nơi hành trụ thanh tịnh ấy, nên biết lại có hành trụ oai nghi, có hành trụ quán danh sắc tự tại, có hành trụ không nhiễm.
Trong hành trụ không nhiễm nầy, nên biết lại có: Thuyết pháp không nhiễm, lưu chuyển không nhiễm.
Vì quốc độ thanh tịnh đầy đủ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói như vầy: Ta làm trang nghiêm quốc độ, thành tựu v.v…
Vì kiến trí thanh tịnh vô thượng đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có nhục nhãn chăng? Cho đến: Như Tam thiên đại thiên thế giới nầy v.v…
Vì thân tùy hình hảo đầy đủ, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng sắc thân thành tựu để thấy Như Lai chăng? v.v…
Vì tướng thân đầy đủ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v…
Vì ngôn ngữ đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có khởi suy niệm: Ta đã thuyết pháp chăng? v.v…
Ở trong tâm đầy đủ, là niệm xứ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Phi chúng sinh, phi chẳng chúng sinh v.v…
Vì chánh giác, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Từng có pháp để Như Lai đạt chánh giác nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng?
Vì thiết lập pháp lợi lớn, nên kinh nói: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Trong Tam thiên đại thiên thế giới, hiện có núi Tu-di v.v…
Vì nhằm thâu giữ lấy Pháp thân, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v… Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Như Lai có thể dùng tướng đầy đủ để đạt chánh giác nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? Chớ nên nghĩ như thế: Nghĩa nầy là làm rõ thể của tướng đầy đủ là “phi Bồ-đề”, cũng không dùng tướng đầy đủ làm nhân, do tướng là tự tánh của sắc.
Vì không trụ nơi Niết-bàn, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Người suy niệm như thế để phát khởi, hành thừa Bồ-tát, có pháp để nói đoạn dứt chăng? v.v…
Vì không trụ nơi lưu chuyển, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát ở nơi tụ phước, không nên thọ nhận, không nên chấp giữ v.v…
Thọ nhận: Là nói về có.
Chấp giữ: Là chấp giữ đạo kia.
Như tụ phước, cùng trong quả đều không nên chấp giữ.
Ở trong hành trụ thanh tịnh, vì hành trụ oai nghi, nên kinh nói: Nếu có người nói như vầy: Như Lai hoặc đã v.v…
Vì hành trụ quán danh sắc làm rõ tự tại, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu như các thiện nam, thiện nữ đem số lượng vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v…
Ở trong hành trụ không nhiễm, vì thuyết pháp không nhiễm, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu như Bồ-tát đem vô lượng vô số thế giới v.v…
Vì lưu chuyển không nhiễm, nên kinh nói:
Như sao, màng, đèn, huyễn
Sương, bọt, mộng, chớp, mây
Nơi các pháp hữu vi
Phải nên quán như thế.
Kệ nầy hiển bày 4 thứ tướng hữu vi. Đó là:
1. Tướng tự tánh.
2. Tướng tham vướng trụ nơi vị.
3. Tướng thuận theo lỗi lầm.
4. Tướng tùy thuận xuất ly.
+ Ở đây, tướng tự tánh: Là cộng tướng nơi kiến, thức. Tướng nầy như ánh sao, nên thấy như thế. Vì sao? Vì trong chỗ tăm tối của không trí thì có ánh sáng kia. Còn trong chỗ sáng tỏ của có trí thì không có ánh sáng ấy. Ngã kiến của người, pháp như “màng mắt nhặm”, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do chấp giữ lấy vô nghĩa. “Thức” như đèn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì khát ái thấm nhuần nơi thủ, duyên nên càng tỏ rõ.
+ Ở đây, tướng tham vướng trụ nơi vị: Là vị tham chấp về cảnh giới điên đảo. Tướng ấy như huyễn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do kiến điên đảo.
+ Ở đây, tướng thuận theo lỗi lầm: Là thuận theo như vô thường v.v… Tướng ấy được ví dụ như sương móc: Là hiển bày thể của tướng là không có, do thuận theo vô thường.
Tướng ấy được ví dụ như bọt nước: Là hiển bày sự thuận theo thể của khổ, do thọ như bọt nước, nên nếu có thọ đều là khổ, nên thuận theo Hữu. Nên biết khổ ấy là sinh, nên là khổ khổ. Hoại diệt nên là hoại khổ. Không cùng lìa nên là hành khổ.
Lại ở trong thiền thứ tư cùng vô sắc, lập thọ không khổ không lạc, cho là hơn hết.
+ Ở trong tướng tùy thuận xuất ly: Do tùy thuận người, pháp vô ngã để duyên dựa, nên được xuất ly, nên nói vô ngã dùng làm xuất ly.
Tùy thuận: Là các hành như quá khứ v.v… Dùng mộng v.v… để ví dụ, là hiển bày hành quá khứ kia. Do là xứ được nhớ nghĩ nên như mộng.
Hiện tại: Là thời gian trụ không lâu, nên như ánh chớp.
Vị lai: Là chủng tử thô ác kia giống như hư không, dẫn tâm xuất nên như mây. Như thế là nhận biết về hành của ba đời chuyển sinh rồi, tức thông tỏ về vô ngã. Đây là hiển bày tướng tùy thuận xuất ly.
Trụ xứ kia cùng tóm lược làm 8 thứ cũng được đầy đủ:
1. Trụ xứ gồm thâu.
2. Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh.
3. Trụ xứ dục.
4. Trụ xứ lìa chướng ngại.
5. Trụ xứ tâm tịnh.
6. Trụ xứ cứu cánh.
7. Trụ xứ rộng lớn.
8. Trụ xứ sâu xa.
Ở đây:
Trụ xứ gồm thâu: Nghĩa là phát tâm.
Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh: Là hành Ba-la-mật tương ưng.
Trụ xứ dục: Là muốn đạt được Sắc thân, Pháp thân.
Trụ xứ lìa chướng ngại: Là mười hai thứ còn lại.
Trụ xứ tâm tịnh: Nghĩa là chứng đạo.
Trụ xứ cứu cánh: Là từ đây trở lên đều cầu đạt Phật địa.
Trụ xứ rộng lớn cùng sâu xa: Là chung cho hết thảy xứ.
Ở trong Trụ xứ thứ 1: Như nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế nơi chúng sinh hiện có v.v… Đây là rộng lớn. Nếu lại nói: Hoặc Bồ-tát nơi chúng sinh tưởng chuyển v.v… Đây là sâu xa.
Trong Trụ xứ thứ 2: Như nói Bồ-tát không trụ nơi sự để hành bố thí v.v… Đây là sâu xa. Nếu lại nói: Tụ phước hiện có kia là không thể lường tính v.v… Đây là rộng lớn.
Như thế, ở trong các trụ xứ còn lại, nên biết là rộng lớn, sâu xa cùng theo chỗ tương ưng.
* Đã nói về Trụ xứ. Còn thế nào là Đối trị? (Nghĩa cú thứ 4)
Như vậy là hành tướng tương ưng kia, lúc hành các Trụ xứ, nên biết có 2 thứ đối trị: Là hành tà và hành chánh cùng kiến. Ở đây, kiến nghĩa là phân biệt.
Ở trong Trụ xứ thứ 1: Như nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế nơi chúng sinh hiện có v.v… Đây là đối trị hành tà. Sinh tâmnhư thế là hành tà của Bồ-tát. Hoặc lại nói: Nếu Bồ-tát nơi chúng sinh tưởng chuyển v.v… Đây là đối trị hành chánh cùng kiến (phân biệt). Phân biệt chấp ấy nơi Bồ-tát cũng nên đoạn trừ. Nghĩa là “Ta nên khiến chúng sinh được diệt độ”.
Ở trong Trụ xứ thứ 2: Như nói: Nên hành bố thí. Đây là đối trị hành tà, không phải không bố thí là hành tà của Bồ-tát. Nếu lại nói: Trụ nơi sự v.v…, là đối trị hành chánh cùng kiến, vì phân biệt chấp ấy nơi Bồ-tát cũng nên đoạn trừ. Nghĩa là nên hành bố thí v.v…
* Thế nào là không lỗi? (Nghĩa cú thứ 5) Vì đã lìa hai biên. Thế nào là 2 biên? Là biên tăng ích và biên tổn giảm. Nếu ở trong sự vô ngã của pháp, mà chấp là không, là biên tổn giảm, do tụ phước kia không có tự tánh phân biệt. Hoặc lại nói: Thế nên Như Lai nói tụ phước. Đây là ngăn chận biên tổn giảm, do tụ phước kia không như ngôn từ có tự tánh, nhưng có sự để có thể nêu, do Như Lai nói tụ phước. Đây là được hiển thị như thế.
“Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy Như Lai nói là phi Phật pháp”: Đây là nhằm ngăn chận biên tăng ích.
Đó gọi là Phật pháp: Đây là nhằm ngăn chận biên tổn giảm.
Ở đây, Như Lai nói là phi Phật pháp: Là hiển bày nghĩa không chung.
Đó gọi là Phật pháp: Là hiển bày nghĩa tương ưng.
Thế nào là tương ưng? Nếu Phật pháp như nói có tự tánh, thì Như Lai không nói là Phật pháp, do tuy không nói, cũng tự nhận biết. Vì vậy không có tự tánh là thế đế, nên Như Lai nói là Phật pháp. Như thế, nơi tất cả xứ đều hiển thị nghĩa không chung và tương ưng, nên biết.
Lại nữa, Phật pháp nên biết là gồm thâu sự Ba-la-mật cùng Bồ-đề phần pháp như niệm xứ v.v… Bồ-tát lìa hai biên nầy, nên ở nơi sự đối trị kia không còn có lỗi nữa, nên gọi là không lỗi.
* Thế nào là địa? (Nghĩa cú thứ 6) Địa nầy có 3 thứ: Là địa Tín hành, địa Tâm tịnh và địa Như Lai.
Ở đây, 16 Trụ xứ đã hiển bày địa Tín hành. Trụ xứ chứng đạo là địa Tâm tịnh. Trụ xứ cứu cánh là địa Như Lai.
* Thế nào là lập danh? (Nghĩa cú thứ 7) Gọi là kim cương năng đoạn: Tên gọi nầy có 2 nghĩa tương ưng, nên biết. Như nói hành nhập chánh kiến, hành nhập tà kiến.
Kim cương: Là vi tế, cứng chắc. Vi tế: Là nhân của trí. Cứng chắc: Là không thể hủy hoại.
Năng đoạn: Là đối tượng đoạn dứt của văn tu tư trong Bát-nhã (Trí tuệ) Ba-la-mật. Như xứ đoạn của kim cương mà đoạn dứt, nên gọi là kim cương năng đoạn.
Lại như vẽ hình kim cương, trước, sau là rộng, giữa thì hẹp. Như vậy, trong Bát-nhã Ba-la-mật, hẹp là địa Tâm tịnh. Đầu, sau rộng, là địa Tín hành, địa Như Lai. Đây là hiển bày nghĩa không chung. Nên biết năm thứ Nghĩa cú kia càng lên trên là càng nương dựa. Chúng đều nương dựa nơi địa, nên nói thân Tu-đa-la nối tiếp không dứt. Nghĩa cú nầy nay sẽ nói.
Đức Thế Tôn vì sao dùng oai nghi của tịch tĩnh mà an tọa? Là nhằm hiển thị người tịch tĩnh, đối với pháp mới có thể nhận biết, mới có thể thuyết giảng. Vì sao Thượng tọa Tu-bồ-đề thưa hỏi? Có 6 nhân duyên:
1. Vì đoạn trừ nghi.
2. Vì dấy khởi tin, hiểu.
3. Vì hội nhập nghĩa thâm diệu.
4. Vì không thối chuyển.
5. Vì sinh hoan hỷ.
6. Vì khiến cho chánh pháp trụ lâu.
Tức là Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho Phật chủng không đoạn dứt. Vì sao do đấy khiến Phật chủng không đoạn dứt? Nếu có người nghi, tức được đoạn nghi. Các Bồ-tát có vui thích phước đức nhưng tâm chưa thành thục, nghe nhiều phước đức, nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật khởi tin, hiểu. Người tâm đã thành thục thì hội nhập nơi nghĩa thâm diệu. Người đã được không bị khinh thường, do tham thọ trì tu hành, do có nhiều công đức nên không còn thối chuyển. Người đã được thuận thâu cùng tâm tịnh, ở nơi pháp tự nhập và thấy rõ, sinh hoan hỷ. Nên có thể khiến nơi đời vị lai, giáo pháp Đại thừa được trụ lâu.
Nếu lược nói, thì người nghi khiến thấy rõ, nên tâm vui thích phước đức. Các Bồ-tát đã thành thục thì cùng thâu nhận. Kẻ đã được không bị khinh thường, khiến tâm tinh tấn. Người đã được tâm tịnh thì khiến hoan hỷ.
Các Bồ-tát có 7 thứ lớn, nên “Chúng sinh lớn” nầy gọi là Ma-ha Tát-đóa. Những gì là 7 thứ lớn? Đó là:
1. Pháp lớn.
2. Tâm lớn.
3. Tin hiểu lớn.
4. Tâm tịnh lớn.
5. Tư lương lớn.
6. Thời lớn.
7. Quả báo lớn.
Như trong phần Bồ-tát Địa Trì đã nói.
Kinh nói: Khéo gồm thâu bậc nhất. Khéo gồm thâu: Là ở nơi chỗ các Bồ-tát, cái gì là khéo gồm thâu, cái gì là bậc nhất? Lợi lạc tương ưng, là khéo gồm thâu bậc nhất. Nên biết có 6 thứ:
1. Thời.
2. Sai biệt.
3. Cao lớn.
4. Kiên cố.
5. Phổ biến.
6. Dị tướng.
+ Thế nào là thời? Là pháp hiện thấy cùng vị lai. Bồ-tát kia khéo gồm thâu. Lạc là pháp hiện thấy. Lợi là đời vị lai.
+ Thế nào là sai biệt? Đối với Tam-muội thế gian và xuất thế gian, các bậc Thanh-văn, Độc-giác khéo gồm thâu, trong ấy có sai biệt.
+ Thế nào là cao lớn? Sự khéo gồm thâu nầy là vô thượng.
+ Thế nào là kiên cố? Nghĩa là rốt ráo, trọn vẹn.
+ Thế nào là phổ biến? Là tự nhiên đối với thân tự, tha khéo gồm thâu.
+ Thế nào là dị tướng? Tức ở trong chỗ các Bồ-tát chưa tịnh, khéo gồm thâu là hơn hết.
Kinh nói: Phó chúc bậc nhất.
Thế nào là phó chúc bậc nhất? Có 6 thứ nhân duyên:
1. Nhập xứ.
2. Được pháp như thế.
3. Chuyển giáo.
4. Không lỗi.
5. Bi.
6. Tôn trọng.
+ Thế nào là nhập xứ? Là ở nơi trụ xứ của thiện hữu, khéo phó chúc.
+ Thế nào là được pháp như thế? Là Bồ-tát đã được khéo gồm thâu, ở nơi trú xứ khác, cũng khéo gồm thâu pháp như thế.
+ Thế nào là chuyển giáo? Tức các vị ấy, đối với các Bồ-tát khác, phải nên khéo gồm thâu. Đó gọi là chuyển giáo.
Ba thứ nầy, theo như thứ lớp đó, tức là không lỗi. Cùng bi và tôn trọng, nên biết.
Do đâu chỉ hỏi về phát khởi hành? Vì Bồ-tát thừa là sự sai biệt của ba thứ Bồ-đề. Do khéo thưa hỏi, nên đối với Thượng tọa Tu-bồ-đề là đáng được khen ngợi: Lành thay!
Chúng sinh hiện có là chúng sinh đã được gồm thâu: Là nói về tướng chung.
Loài sinh từ trứng v.v…: Là nói về sai biệt.
Lại, thọ sinh, nương dựa, cảnh giới được gồm thâu có sai biệt, nên biết.
Cho đến loài hóa sinh: Là thọ sinh có sai biệt.
Hoặc có sắc, hoặc không sắc: Là nương dựa có sai biệt.
Hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng, không phải không tưởng: Là cảnh giới được gồm thâu có sai biệt.
Giới chúng sinh hiện có, nêu đặt, an trụ, đã thiết lập rồi: Nghĩa là đủ các thứ tướng trên, trụ nơi cảnh giới chúng sinh, là do Phật thiết lập để thuyết giảng.
Ta đều khiến họ nhập Niết-bàn: Do đâu nguyện nầy, về nghĩa là không thể đạt được? Do thuộc về sinh nên không lỗi. Do đều là các loài sinh, như đã nói về các loài sinh từ trứng cùng nhập nơi nguyện số. Các loài sinh từ trứng, sinh từ ẩm thấp ấy là không tưởng cùng phi có tưởng, phi không tưởng v.v… tức là không thể. Vì sao có thể khiến cho tất cả chúng sinh nhập Niết-bàn? Có 3 nhân duyên: Sinh nơi xứ nạn: Là chờ thời. Sinh nơi xứ không nạn: Người chưa thành thục, thì khiến thành thục. Kẻ đã thành thục rồi thì khiến được giải thoát.
Do đâu nói cảnh giới Niết-bàn vô dư, mà không nói thẳng về Niết-bàn? Nếu như thế thì so với điều Đức Thế Tôn đã nói về Niết-bàn phương tiện như sơ thiền v.v…, là không khác. Kẻ kia tự dùng sức trượng phu, nên không Phật cũng đạt được, nhưng không rốt ráo.
Do đâu không nói cảnh giới Niết-bàn hữu dư? Là do quả chung kia nên tự cho do nơi túc nghiệp. Lại, gặp Phật thuyết giảng nên được quả. Lại, không phải thân hoàn toàn khổ là hữu dư. Như thế, Niết-bàn cùng Niết-bàn hữu dư, do là quả của sức trượng phu, nên là quả chung, không phải là quả cứu cánh, không phải là quả hoàn toàn. Do đó nói về vô dư.
Như thế, vô lượng chúng sinh nhập Niết-bàn rồi: Là hiển thị các chúng sinh như loài sinh từ trứng v.v…, mỗi mỗi thứ đều vô lượng.
Không có chúng sinh đắc Niết-bàn: Đây là nghĩa gì? Như Bồ-tát đạt được Niết-bàn không khác với chúng sinh. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát có tưởngchúng sinh chuyển, tức không gọi là Bồ-tát. Đây là nghĩa thế nào? Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh, ở chỗ tha tưởng chuyển, không phải là tưởng tự chứng, nên không gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát khởi tưởng chúng sinh, tưởng mạng, tưởng nhân cùng chuyển, thì không gọi là Bồ-tát: Đây là nghĩa gì? Nếu dùng tâm phiền não giữ lấy tưởng chúng sinh, mạng, người cùng chuyển, thì Bồ-tát kia tức có tưởng ngã, cùng ở trong chúng sinh có tưởng chúng sinh chuyển. Bồ-tát đối với các pháp ấy không chuyển là do đã đoạn ngã kiến, nên được tự hành (Hành là hành của năm ấm) nơi tướng bình đẳng, nên tự, tha tin hiểu bình đẳng. Bồ-tát ấy không phải là chấp giữ kiến của chúng sinh, mạng, người: Đây là nghĩa đã được nói.
Lại nữa, kinh viết: Bồ-tát nên sinh tâm như vậy: Là hiển bày Bồ-tát nên trụ trong dục nguyện như thế.
Nếu Bồ-tát có tưởng ngã chuyển, không gọi là Bồ-tát: Là hiển thị nên tu hành như vậy, hợp với lúc tương ưng nơi Tam-muội.
Nếu tưởng chúng sinh, tưởng mạng, tưởng nhân cùng chuyển, không gọi là Bồ-tát: Là hiển thị nên hàng phục tâm như thế, hợp với lúc bị phân tán, tưởng chúng sinh cũng không chuyển, như nơi cảnh giới kia cùng trụ, do đấy không có chúng sinh đắc Niết-bàn.
Đây là thành tựu được dục nguyện ấy: Tức gồm thâu các trụ xứ là tối thắng, hình tướngtương ưng đó, lúc hành nơi trụ xứ khác, nương dựa vào dục nguyện nên quyết định đạt được. Nghĩa của dục nguyện nầy không giải thích nữa.
Từ đây trở về sau, trong các trụ xứ còn lại, nên biết có 5 thứ theo chỗ tương ưng mà giải thích:
1. Dựa nơi nghĩa.
2. Nói về tướng.
3. Thâu giữ.
4. An lập.
5. Hiển hiện.
Trụ xứ – đối trị là nương dựa nơi nghĩa. Tức trụ xứ ấy là nói về tướng. Dục nguyện là thâu giữ. Trụ xứ đệ nhất nghĩa là an lập. Tương ưng nơi Tam-ma-đề là hiển hiện.
Ở trong trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh, kinh nói: Bồ-tát không trụ nơi vật để hành bố thí v.v… Đây là nương dựa nơi nghĩa.
Hiển thị vật đối trị trụ chấp, nên kinh nêu: Nên hành thí. Đây là nói về tướng. Sáu Ba-la-mật, loại thứ nhất là gồm thâu thể tánh của tất cả Đàn na, nên Đàn na có 3 loại:
1. Tư sinh thí: Nghĩa là Bố thí Ba-la-mật.
2. Vô úy thí: Nghĩa là Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật.
3. Pháp thí: Nghĩa là Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền na Ba-la-mật, Bát la thận nhương (Trí tuệ) Ba-la-mật.
Nếu người thọ nhận pháp không tinh tấn, thì khi thực hiện việc thuyết pháp sẽ mệt mỏi, nên không thể thuyết pháp. Nếu không định, tức tham nơi sự tín kính, cúng dường, cùng không thể chịu đựng các thứ bức não như lạnh nóng, nên thuyết pháp với tâm nhiễm. Nếu không có trí tuệ liền thuyết pháp điên đảo, có nhiều lỗi lầm, nên không lìa 3 thứ ấy để thành tựu được pháp thí.
Các Ba-la-mật kia có 2 thứ quả: Là vị lai, hiện tại.
+ Quả vị lai: Là Bố thí Ba-la-mật được phước báo lớn. Trì giới Ba-la-mật được tự thân đầy đủ, nghĩa là Thích, Phạm v.v… Nhẫn nhục Ba-la-mật-đaït được bạn bè lớn trợ lực, được quyến thuộc đông đảo. Tinh tấn Ba-la-mật được quả báo cùng không đoạn dứt. Thiền na Ba-la-mật được sinh thân không thể tổn hoại. Trí tuệ Ba-la-mật được các căn nhạy bén, thông lợi, cùng các thứ vui thích, ở trong đại chúng luôn được tự tại.
+ Quả hiện tại: Được tất cả tín kính, cúng dường, cùng Niết-bàn của hiện pháp.
Ở đây, nếu Bồ-tát cầu quả vị lai nên hành thí, là trụ nơi vật để bố thí. Như nơi vật được thí, trở lại mong đạt được quả của vật ấy, vì vậy kinh nêu: Không trụ nơi vật để hành bố thí.
Nếu cầu quả vị lai như trì giới v.v…, nên hành thí, là có chỗ trụ để hành thí, do đấy, kinh viết: Nên không chỗ trụ để hành bố thí.
Quả như trì giới v.v… có rất nhiều, không thể phân biệt, nên gọi chung là có chỗ trụ.
Nếu cầu quả hiện tại như được tín kính, cúng dường v.v…, nên hành thí, là trụ nơi sắc thanh hương vị xúc để hành thí. Do đấy, kinh nói: Không trụ nơi sắc v.v…
Hoặc cầu Niết-bàn của hiện pháp nên hành thí, là trụ nơi pháp để hành thí, nên kinh viết: Không nên trụ nơi pháp để hành bố thí.
Lại, kinh nói: Nên hành bố thí: Tức nói về dục nguyện của việc thâu giữ thí. Kinh nêu: Không trụ để hành thí: Tức không trụ nầy là an lập đệ nhất nghĩa. Ở đây, do không trụ, nên hiển thị như sự hiện có nơi đệ nhất nghĩa. Không trụ nơi vật v.v…, là sự hiện có.
Kinh viết: Bồ-tát nên hành thí như thế, không trụ nơi tướng, tưởng: Đây là hiển thị: Tức tương ưng nơi Tam-muội cùng thâu giữ tâm tán loạn. Đối với hai thời nầy, không trụ nơi tướng, tưởng.
Như thế là kiến lập không trụ rồi, hoặc có Bồ-tát tham phước đức, nên ở đây không kham nhận. Vì khiến gắng nhận, nên Đức Thế Tôn đã hiển bày, chỉ rõ là không trụ để hành thí.
Tụ phước rất nhiều cũng như hư không, có 3 nhân duyên:
1. Hiện bày khắp tất cả xứ: Nghĩa là ở trong tướng trụ, không trụ, phước đều sinh khởi.
2. Rộng rãi, cao lớn, thù thắng.
3. Vô tận, cứu cánh không cùng.
Vì muốn đạt được trụ xứ của Sắc thân, nên kinh viết:: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị.
Nhằm đối trị kiêu mạn về Sắc thân Như Lai, nên kinh nói: Tướng đầy đủ. Đây là nói về tướng. Nhằm hiển thị về Sắc thân của Như Lai, nên Thượng tọa Tu-bồ-đề thưa là: Không phải. Vì để thành tựu đầy đủ nghĩa nầy, nên Đức Thế Tôn nói: Nầy Tu-bồ-đề! Tướng đầy đủ hiện có, chúng là hư giả, đây tức làm rõ về dục nguyện.
Ở trong nghĩa như thế nên thâu giữ, cùng tức là an lập đệ nhất nghĩa. Vì ở trong đệ nhất nghĩa, tướngđầy đủ là hư vọng, phi tướng đầy đủ là không hư vọng.
Kinh nói: Như thế, các tướng phi tương ưng là thấy Như Lai: Đây là hiển hiện. Nghĩa là tương ưng nơi Tam-muội cùng lúc thâu giữ tâm tán loạn. Ở trong tướng ấy là phi tướng, kiến.
Vì muốn được trụ xứ của Pháp thân ngôn thuyết, nên kinh nói: Lại có chúng sinh nơi đời vị lai, đối với câu được nêu của kinh như thế v.v… Ở đây, câu được nêu của kinh: Tức là nghĩa hiện có, nên biết.
Thế nào là câu (cú)? Là như trên đã nói về 7 thứ Nghĩa cú.
Thượng tọa Tu-bồ-đề khởi suy niệm: Nơi đời vị lai không có người sinh thật tưởng: Vì nhằm ngăn chận điều ấy, nên Đức Thế Tôn nói: Có chánh pháp lúc sắp hoại diệt: Nghĩa là thời gian tu hành dần diệt, nên biết. Tiếp sau, Đức Thế Tôn, vì để hiển thị sự tu hành như thế, tập nhân như thế, thiện hữu đã thâu nhận như thế, gồm thâu phước đức tương ưng như thế, trong thật tưởng như thế sẽ có được tưởng thật, nên kinh nêu: Có giới, có công đức, có trí tuệ: Đây là ba học như giới tăng thượng v.v… Hiển thị về công đức tu hành, các công đức như thiểu dục v.v… là thứ nhất, cho đến Tam-ma-đề.
Kinh nói: Đã được cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, cho đến nhất tâm tịnh tín v.v… Đây là hiển thị về tập nhân. Nhất tâm với niềm tin thanh tịnh, hãy còn đạt được nghiệp như thế, huống chi là sinh khởi tưởng thật.
Kinh nêu: Như Lai tất biết: Biết là danh thân. Như Lai tất thấy: Thấy là Sắc thân. Nghĩa là ở trong hết thảy hành trụ đã tạo tác, biết rõ về tâm, thấy rõ về chỗ nương dựa. Những thứ ấy là hiển thị về thiện hữu đã gồm thâu.
Kinh viết: Sinh giữ lấy vô lượng tụ phước: Đây là hiển thị việc gồm thâu phước đức. Sinh là lúc phước đang khởi. Giữ (thủ) lấy tức lúc phước kia đã diệt, nên thâu giữ chủng tử.
Kinh nói: Các Bồ-tát nầy không còn ngã tưởng, chúng sinh tưởng cùng chuyển, cho đến nói: Hoặc pháp tưởng cùng chuyển. Tức là có ngã chấp giữ: Đây là hiển thị về thật tưởng, đối trị năm thứ chấp giữ tà vạy. Những gì là 5 thứ chấp giữ tà vạy? Đó là:
1. Ngoại đạo.
2. Phàm phu cùng Thanh-văn của nội pháp.
3. Bồ-tát tăng thượng mạn.
4. Định cộng tưởng của thế gian.
5. Định vô tưởng.
+ Thứ 1: Là ngã v.v… tưởng chuyển.
+ Thứ 2: Là pháp tưởng chuyển.
+ Thứ 3: Là không pháp tưởng chuyển. Đây cũng có chấp giữ pháp. Có chấp giữ pháp: Nghĩa là chấp giữ về không pháp.
+ Thứ 4: Là có tưởng chuyển.
+ Thứ 5: Là vô tưởng chuyển.
Các Bồ-tát nầy, đối với các thứ kia đều không chuyển. Trong đó, hiển bày đầy đủ về có giới, cho đến sẽ sinh vô lượng tụ phước.
Kinh nêu: Vì sao? Ở đây nói là trong chấp giữ tà vạy, chỉ là pháp cùng phi pháp tưởng hợp chuyển, không phải ngã v.v… tưởng, do tưởng cùng chỗ nương dựa không chuyển. Nhưng ở trong ngã tưởng, tùy miên không đoạn, tức là có ngã chấp giữ. Thế nên kinh viết: Các Bồ-tát nầy, nếu khởi pháp tưởng, tức là có ngã chấp giữ. Nếu không pháp tưởng cùng chuyển, tức là có ngã chấp giữ. Trong ngã v.v… tưởng cùng chuyển ấy, các nghĩa khác vẫn chưa nói. Kinh nêu: Tức là có ngã chấp giữ: Ở đây là chấp giữ tự thể tương tục là ngã tưởng. Đối tượng chấp giữ của ngã là chúng sinh tưởng. Nghĩa là ngã, cho đến thọ mạng chấp giữ là mạng tưởng. Lần lượt hướng đến các nẻo khác để chấp giữ, là nhân tưởng, nên biết. Ở đây nói sẽ sinh thật tưởng: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị việc đối trị tưởng không thật.
Nói ở trong câu được nêu của kinh: Đây là nói về tướng để hiển thị Pháp thânngôn thuyết. Tức ở trong thật tưởng sẽ sinh kia, nói sẽ sinh: Là dục nguyện. Thâu giữ: Là các Bồ-tát không còn ngã – tưởng nữa. Chuyển v.v… là an lập đệ nhất nghĩa.
Tu-bồ-đề! Không nên chấp giữ nơi pháp, phi pháp: Là hiển bày rõ. Nghĩa là tương ưng nơi Tam-muội, cùng lúc thâu giữ tâm tán loạn.
Không nên chấp giữ nơi pháp, phi pháp: Là ở nơi thể của pháp cùng pháp vô ngã đều không phân biệt.
Lại, Pháp thân ngôn thuyết là nghĩa chính yếu. Kinh nói: Do nghĩa ấy nên Như Lai thường nói về pháp môn “Dụ như chiếc bè”. Nếu hiểu được điều đó, thì pháp hãy còn xả bỏ, huống chi là phi pháp: Là lý không thể không theo, nên lược nói để hiển thị: Bồ-tát muốn đạt được Pháp thân ngôn thuyết thì không nên tạo tưởng không thật. Vì muốn đạt được trí tướng, trụ xứ của Pháp thân chứng đắc, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có pháp để cho Như Lai ở trong đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đắc Chánh giác chăng?: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị ngược trở lại đối với Chánh giác Bồ-đề, nên người thuyết pháp là thuộc về Chánh giác.
Kinh nói: Có pháp để có thể nói là chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Đó là nói về tướng để hiển thị Pháp thân chứng đắc. Không có pháp cố định: Là Thượng tọa Tu-bồ-đề dẫn theo ý của Phật.
Là thế đế nên có Bồ-đề cùng sự chứng đắc, đó là dục nguyệnđược thâu giữ. Do phương tiện nên cả hai cùng là có.
Nếu như ý của Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì cả hai đều không có. Vì hiển bày điều ấy, nên nói: Như con hiểu về nghĩa của Đức Thế Tôn đã nói v.v…
Kinh nói: Vì sao Đức Như Lai đã nói phápkhông thể chấp giữ, không thể nói, là phi pháp, phi phi pháp: Là an lập đệ nhất nghĩa.
Do thuyết pháp nên nhận biết đạt được Bồ-đề, tức ở trong pháp được thuyết giảng an lập đệ nhất nghĩa.
Ở đây, không thể chấp giữ: Nghĩa là lúc đang nghe.
Không thể nói: Nghĩa là lúc diễn thuyết.
Phi pháp: Là tánh phân biệt.
Phi phi pháp: Là pháp vô ngã.
Kinh viết: Vì sao do vô vi nên được gọi là Thánh nhân?
Vô vi: Là nghĩa không phân biệt. Thế nên, Bồ-tát hữu học được gọi là không khởi, không tạo tác, hợp với Như Lai chuyển y, gọi là thanh tịnh. Do đó, Như Lai được gọi là bậc vô học (Tu học hoàn tất).
Trong ấy, thứ nhất là nghĩa vô vi: Là Tam-muội tương ưng, cùng lúc điều phục tâm tán loạn được hiển bày rõ.
Thứ hai, vô vi chính là đệ nhất nghĩa: Là vô thượng giác.
Từ đây trở về sau, nên biết trong tất cả trụ xứ, đều hiển bày do vô vi nên được gọi là Thánh nhân.
Nơi những trụ xứ trước chưa nói về pháp được mang tên vô vi. Ở đây, trong đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đã nói về vô vi xong.
Trụ xứ của Pháp thân phước tướng, chứng đắc, làm thế nào để hiển thị? Tức ở nơi Pháp thân ngôn thuyết hiện có kia xuất sinh phước tướng của Như Lai. Pháp thân chứng đắc ở nơi ấy, cho đến chỉ nói một kệ bốn câu cũng sinh khởi phước rất nhiều, huống chi là Pháp thân chứng đắc, phước tướng hiện có của Như Lai.
Do nhân duyên nào, nên ở trong Pháp thân ngôn thuyết, nói một kệ bốn câu như vậy, có thể sinh nhiều phước? Vì để thành tựu nghĩa nầy nên kinh nói: Vì sao Đức Như Lai Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng từ đây xuất sinh?: Trong ấy, tích tập khắp mười pháp hành A-hàm, nên chư Phật Thế Tôn từ đấy sinh khởi. Là thế đế, nên nói Phật xuất sinh do có Bồ-đề, tức hai thứ ấy là cùng hợp, gọi là Phật pháp do Bồ-đề và Phật, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy tức phi Phật pháp. Lại nữa, kinh nêu: Phướckia đã được sinh là hơn hẳn nơi vô lượng A-tăng-kỳ ấy: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị việc đối trị phước không sinh. Trong đó, phước kia: Tức là nói về tướng để hiển thị Pháp thân phước tướng. Hơn hẳn nơi ấy: Là hiển thị dục nguyện được thâu giữ.
Kinh nói: Thế Tôn! Tụ phước ấy tức phi tụ phước, thế nên Như Lai nói là tụ phước. Cùng nói: Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy tức phi Phật pháp, đó gọi là Phật pháp: Do tụ phước nầy cùng với Phật pháp là chỗ thâu giữ Pháp thân phước tướng của Như Lai, hợp với việc an lập đệ nhất nghĩa. Vì tùy thuận vô vi nên được mang tên như thế. Tương ưng nơi Tam-muội cùng điều phục sự tán loạn, là không hiển bày lần nữa. Nói: Rất nhiều! Thưa Đức Bà-già-bà. Rất nhiều! Thưa Đức Tu-già-đà! Hai lời nầy là hiển thị thâu tóm tâm, giữ lấy tâm. Do thâu giữ tự tâm nên nói là thọ trì. Vì kẻ khác thuyết giảng, là giải thích cú vị. Vô lượng là vượt quá thí dụ. A-tăng-kỳ là hiển bày số nhiều.
HẾT - QUYỂN 1

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục


Hương lúa chùa quê - Phần 1: Hồi ký của Hòa thượng Thích Bảo Lạc


Lục tổ Đại sư - Con người và huyền thoại


Kinh Đại Bát Niết bàn Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 13.58.230.203 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập