Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bồ Đề Tư Lương Luận [菩提資糧論] »» Bản Việt dịch quyển số 6 »»

Bồ Đề Tư Lương Luận [菩提資糧論] »» Bản Việt dịch quyển số 6

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.36 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.43 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Bồ Đề Tư Lương

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@rongmotamhon.net
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 6 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | Quyển cuối
Việt dịch: Thích Như Điển

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Hỏi: Làm sao tu tập?

Đáp:

Bốn thần túc là căn
Dục, tiến, tâm, tư duy,
Bốn vô lượng trụ trì
Là từ, bi, hỷ, xả.

Trong bốn vô lượng này tu tập nhiều rồi được tâm kham năng. Được tâm kham năng rồi liền vào thiền-na thứ nhất, như vậy thiền thứ hai, như vậy thiền thứ ba, như vậy thiền thứ tư.

Vị ấy được thiền-na rồi bèn được thân tâm khinh an. Vì thân tâm đầy đủ khinh an bèn sinh ra thần thông vào đạo; vì sinh ra thần thông vào đạo đầy đủ rồi, bèn sinh thần túc, nghĩa là: Hoặc muốn, hoặc tinh tiến, hoặc tâm, hoặc tư duy; trong đó, Dục là hướng đến Phật pháp, tinh tiến là thành tựu pháp, tâm là quán sát với pháp, tư duy là thiện xảo với pháp.

Bồ-tát ấy nơi thần thông, hoặc tin hiểu, hoặc tác dụng, tâm ấy tự tại, tùy muốn mà làm. Vì khéo thành thục, vì trụ trì từ căn bản, thuận đi các chỗ như gió khắp hư không. Trong đó Bồ-tát đã được bốn vô lượng và bốn thiền-na rồi, hoặc tin hiểu, hoặc tác dụng, sinh ra thiên nhãn. Hoặc các trời, rồng, càn-thát-bà...hoặc thiên nhãn của học nhân, Thanh văn, Duyên giác...ở trong đó chỉ độc vị ấy có lực tăng thượng: Thanh tịnh quá hơn, quang minh quá hơn, thượng thủ quá hơn, thù dị quá hơn; mắt ấy vô ngại, sắc tướng thế gian hoặc thô, tế, xa, gần, tùy muốn đều có thể thấy. Như thế nghe âm thanh của trời, người, súc sinh. Như thế biết thời trước không giới không hạn. Như thế biết tâm người khác cùng với tham dục...Cho đến tám vạn bốn nghìn sai khác. Như thế được vô lượng thần túc, vì được thần túc nên các chúng sinh đáng điều phục đều khiến điều phục.

Bốn giới như rắn độc,
Sáu nhập như thôn trống,
Năm chúng như kẻ giết
Phải quán sát như thế.

Đêm dài sinh tử, dùng các nhân duyên lạc cụ thọ dụng, tuy bảo hộ, nghỉ ngơi, trưởng dưỡng, nhưng bốn giới: Địa...này, nếu phát động, chẳng biết ân nuôi dưỡng, không thể nương tựa. Vì không thể tin cậy, phải nên quán sát như rắn độc. Vì không có chủ, vì lìa tôi và của tôi.

Các nhập: Mắt....có sáu tên giặc bức não đáng sợ, phải nên quán sát giống như thôn làng trống rỗng. Vì cùng hòa với vật phá hoại, đánh phạt chẳng thể ngăn phá, giống như kẻ giết người. Với năm thọ phải nên mỗi ngày quán sát như thế.

Trọng pháp và Pháp sư,
Cũng bỏ xan tiếc pháp,
Giáo sư chớ cuộn kín,
Người nghe chớ tán loạn.

Ở đây có bốn loại trọng pháp có thể sinh trí lớn, phải nên nhận giữ. Với pháp và Pháp sư phải nên tôn trọng. Cũng bỏ sự xan tiếc pháp, tùy pháp được nghe và tập tụng mà vì người diễn nói. Nếu có ai vui thích muốn nghe pháp, giáo sư chớ cuộn tay tiếc giấu, người nghe chớ tán loạn, nghĩa là chớ có ý muốn khác.

Không mạn, không hy vọng,
Chỉ dùng tâm bi mẫn,
Ý tôn trọng cung kính
Vì chúng mà nói pháp.

Lại có bốn loại pháp là tướng đại trí, phải nên nhận giữ, nghĩa là: Lìa xa tự cao khinh người, vì không kiêu mạn. Vứt bỏ lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng, vì tâm không hy vọng. Trong chúng sinh vô minh ám chướng, chỉ vì thương xót, tôn trọng cung kính vì họ nói pháp. Do bốn loại pháp này nên Bồ-tát đầy đủ đại trí, phải nên nhận giữ.

Nghe pháp không nhàm đủ,
Nghe rồi đều tụng trì,
Không dối Phúc Điền Tôn,
Cũng khiến Thầy hoan hỷ.

Nghe nhiều không nhàm, nghe rồi trì pháp, trì pháp rồi thuận theo pháp mà hành pháp. Không dối Phúc Điền Tôn, cũng khiến giáo sư hoan hỷ. Pháp này là nhân không quên mất Bồ-đề.

Không nên nhìn nhà người,
Tâm thường cung kính, dưỡng;
Chớ nên vì luận khó
Tụng tập luận thế gian.

Không nên vì cung kính, lợi dưỡng mà đến xem nhà người, trừ vì nhân duyên an lập tâm Bồ-đề. Cũng không nên vì luận khó mà tập tụng các luận thế gian, trừ vì nhân duyên đa văn.

Chớ có vì sân khuể
Hủy mắng các Bồ-tát,
Chưa thọ, chưa nghe pháp
Cũng chớ sinh hủy báng.

Tại sao thế? Vì bảo hộ nhân duyên tiếp tục sinh thiện pháp.

Đoạn trừ tâm kiêu mạn
Phải trụ bốn Thánh chủng,
Chớ có hiềm người khác,
Cũng chớ tự đề cao.

Đoạn trừ kiêu mạn là: Trong chúng sinh, phải hạ tâm như chó, đoạn trừ ngã mạn. trong bốn Thánh chủng giản dị: Y phục, giường nằm, thuốc thang- cũng phải nên trụ, vì biết đủ với bốn Thánh chủng ấy. Không nên hiềm người khác, cũng không nên tự đề cao.

Phạm thật hoặc không thật
Không được nói cho người,
Chớ tìm lỗi người khác,
Lỗi mình phải liền biết.

Người cùng Phạm hành khác phạm tội, hoặc thật hoặc không thật, đều không nên nói ra. Người khác có lỗi, chớ nên tìm cầu, chỉ với lỗi mình phải tự biết.

Phật và các pháp Phật
Không nên phân biệt, nghi.
Pháp tuy khó tin nhất
Trong đó phải nên tin.

Nơi Phật không nên phân biệt, vì Thế Tôn đầy đủ pháp vị tằng hữu. Với pháp của Phật cũng không nên nghi hoặc, vì là pháp không chung với chúng sinh. Và, trong Phật pháp khó tin nhất, vì tâm thanh tịnh thâm sâu, phải nên tin.

Tuy nói thật mà chết,
Mất ngôi Chuyển luân vương
Cùng với các thiên vương,
Chỉ nên nói lời thật.

Nếu Bồ-tát nói thật, hoặc bị cướp mất vật, hoặc chết, hoặc tuy mất ngôi vua Chuyển luân và các Thiên vương, cũng chỉ nên nói thật, huống gì những thứ khác mà không nói thật.

Đánh, chửi, dọa, giết, trói
Rốt không oán trách người,
Đều là tội của ta
Nghiệp báo nên hiện lại.

Có các người đến đánh, chửi, dọa nạt, giết hại, bắt trói, giam cầm...đều là tội của tự mình mà phải có, cuối cùng chẳng sân hận người. Đây là tội của ta đã làm kiếp trước, lúc này trở lại chịu quả báo không đáng yêu thích tương tợ. Các chúng sinh kia đều không có tội, chỉ là tội của tôi, nghiệp báo hiện lại, phải nên có điều này.

Phải cực ái kính trọng
Cúng dường nơi cha mẹ
Cũng cúng dường Hòa thượng
Cung kính A-xà-lê.

Với cha mẹ phải nên cực ái kính tôn trọng cúng dường. Phải nghĩ như trời, tùy ý cha mẹ khiến được vui thích, lìa tâm diễm huyễn. Lại phải cung kính cấp thị Hòa thượng, A-xà-lê. Tùy trong pháp được nói bởi Hòa thượng, A-xà-lê, không có nội mật, chỉ có ngoại hóa.

Người tin thừa Thanh văn
Và tin thừa Độc giác
Nói pháp thâm sâu nhất
Là lỗi của Bồ-tát.

Trong đây, Bồ-tát có bốn loại lỗi, phải nên lìa bỏ, nghĩa là: Trong các chúng sinh tin thừa Thanh văn, Độc giác, lại vì nói pháp thâm sâu nhất, là lỗi của Bồ-tát.

Chúng sinh tin Đại thừa
Sâu xa; lại diễn nói
Thừa Thanh văn, Độc giác
Đây cũng là sai lầm.

Trong các chúng sinh tin sâu Đại thừa, mà vì nói thừa Thanh văn, Độc giác, là lỗi của Bồ-tát.

Đại nhân lại cầu pháp
Kiêu mạn không vì nói,
Ngược lại, nhiếp thọ ác,
Tin cậy người không tin.

Nếu có chúng sinh lớn chính trụ khi lại cầu pháp thì nên liền vì nói thiện pháp, mà lại kiêu mạn không vì nói; ngược lại nhiếp thọ người phá giới, ác pháp. Là lỗi của Bồ-tát. Với Đại thừa chưa có tin hiểu, chưa dùng bốn sự nhiếp để thành thục, mà lại tin cậy người ấy.

Đây là bốn loại.

Bỏ xa điều nói sai,
Đức đầu-đà được nói
Nơi đó phải niệm biết
Cũng đều nên tu tập.

Trong đây, bốn loại lỗi lầm được nói, nên lìa xa, vì điều đó khiến đi xa khỏi Bồ-đề. Nếu được nói trong thừa Thanh văn, Độc giác, như đầu-đà hoặc các công đức, chỉ biết những điều ấy không chướng ngại cho Bồ-đề, thì trong những điều ấy đều nên tu tập.

Tâm nói pháp bình đẳng,
Bình đẳng khéo an lập,
Cũng khiến chính tương ưng
Các chúng sinh không khác.

Bốn loại đạo Bồ-tát này phải nên tu tập. Những gì là bốn? Nghĩa là: Trong chúng sinh khởi tâm bình đẳng; trong chúng sinh bình đẳng nói pháp; trong chúng sinh bình đẳng an lập thiện; trong chúng sinh khiến tương ưng chân chính.

Vì pháp, không vì lợi,
Vì đức, không vì danh,
Muốn thoát khổ chúng sinh,
Không muốn vui tự mình.

Bốn loại Bồ-tát chân thật phải nên biết. Những gì là bốn? Nghĩa là: Chỉ vì Pháp, không vì tài lợi; chỉ vì công đức, không vì danh tiếng; chỉ vì giải thoát khổ cho chúng sinh, không muốn an lạc cho tự mình.

Mật ý cầu nghiệp quả
Phúc sinh từ việc làm
Cũng vì thành thục chúng,
Lìa bỏ việc riêng mình.

Với nghiệp quả, mật ý mong cầu làm ba sự phúc. Khi phúc này sinh, chỉ vì Bồ-đề, lợi lạc chúng sinh, cũng chỉ vì Bồ-đề, thành thục chúng sinh; vì lợi lạc chúng sinh nên lìa bỏ việc cho chính mình. Đây là bốn loại chân thật của Bồ-tát.

Gần gũi thiện tri thức
Nghĩa là: Pháp sư, Phật
Người khuyến khích xuất gia,
Và những người cầu xin.

Bốn loại thiện tri thức của Bồ-tát này, phải nên gần gũi, nghĩa là: Pháp sư là thiện tri thức của Bồ-tát, vì hỗ trợ trì giữ Văn tuệ; Phật Thế Tôn là thiện tri thức của Bồ-tát, vì trợ giúp trì giữ các Phật pháp; người khuyên xuất gia là thiện tri thức của Bồ-tát, vì trợ giúp trì giữ các căn lành; người cầu xin là thiện tri thức của Bồ-tát, vì trợ giúp trì giữ tâm Bồ-đề. Bốn loại sự thiện tri thức của Bồ-tát này phải nên gần gũi.

Người y chỉ thế luận,
Người chuyên cầu thế tài,
Tin hiểu thừa Độc giác
Cùng với thừa Thanh văn.

Bốn loại ác tri thức của Bồ-tát này, phải nên biết. Những gì là bốn? Nghĩa là: Người luận thuyết thế gian, vì tập cận đủ loại biện tài; người nhiếp tài vật thế gian, vì không nhiếp pháp; người của thừa Độc giác, vì ít nghĩa lợi, ít làm việc; Người của thừa Thanh văn, vì hành tự lợi.

Bốn ác tri thức này
Bồ-tát phải nên biết.
Lại có thứ nên cầu
Chính là bốn đại tạng.

Bốn loại tri thức được nói ở trước là ác tri thức, biết rồi nên bỏ. Lại có thứ phải cầu được, chính là bốn đại tạng.

Phật xuất, nghe các độ,
Và ở nơi Pháp sư
Gặp Ngài tâm vô ngại,
Vui ở chỗ nhàn nhã.

Bốn loại đại tạng của Bồ-tát này, phải nên đắc được. Những gì là bốn? Nghĩa là: Phụng sự chư Phật ra đời; lắng nghe sáu Ba-la-mật; dùng tâm vô ngại gặp Pháp sư; Dùng tâm không phóng dật ở chỗ nhàn nhã. Bốn điều này là đại tạng của Bồ-tát, phải nên đắc được.

Đất, nước, lửa, gió, không
Trọn với Ngài tương tợ:
Tất cả chỗ bình đẳng
Lợi ích các chúng sinh.

Với đất, nước, lửa, gió, hư không, có hai nhân duyên tương tợ Bồ-tát, phải nên nhiếp thọ, nghĩa là: Vì bình đẳng, vì lợi ích. Như địa đại...và hư không- là năm loại, nơi hữu tâm hay vô tâm, tất cả chỗ đều bình đẳng, không có tướng khác. Thường được chúng sinh sử dụng mà chẳng đổi khác, không cầu báo ân. Tôi cũng như vậy, cho đến cuối cùng đến Bồ-đề tràng, được chúng sinh thường dùng mà không đổi khác, không cầu báo ân.

Phải khéo tư duy nghĩa
Chăm sinh Đà-la-ni,
Chớ nơi người nghe pháp
Mà làm sự chướng ngại.

“Nghĩa” là nghĩa được Phật nói, với nghĩa ấy phải khéo tư duy. Hoặc bàn với người hoặc ở một mình đều nên như thế. Lại, an trụ giới cấm, thanh tịnh tâm ý, tinh cần tươi sạch, phải sinh và nghe các Đà-la-ni: Ngân chủ, Hải chủ. Lại, chỗ người nghe pháp, chớ dùng nhân duyên dù nhỏ ít mà làm chướng ngại, vì lìa sự sinh ra nghiệp tai nạn cho pháp.

Trong não điều phục được
Việc nhỏ xả không sót,
Tám loại sự giải đãi
Đều cũng nên đoạn trừ.

Trong não có thể điều phục là: Trong đó có chín loại sự não, là: Với tôi làm sự không lợi ích, đã làm, nay làm, sẽ làm- là ba loại; với tôi thân ái mà làm sự không lợi ích, đã làm, nay làm, sẽ làm- lại là ba loại; với tôi ghét hiềm mà làm sự lợi ích, đã làm, nay làm, sẽ làm- lại là ba loại. Những điều này đều làm não, trong chín sự này phải tự điều phục.

Việc nhỏ xả không sót là: Trong đó có hai mươi loại sự nhỏ, nghĩa là: Không tin là một, không có tàm là hai, diễm huyễn là ba, trạo cử là bốn, loạn là năm, phóng dật là sáu, hại là bảy, không có quý là tám, giải đãi là chín, ưu là mười, hôn trầm là mười một, thụy miên là mười hai, hận là mười ba, phú là mười bốn, tật là mười lăm, xan là mười sáu, cao là mười bảy, phẫn là mười tám, hối là mười chín, sầu muộn là hai mươi.

Tám loại sự giải đãi đều nên đoạn trừ là: Trong đó có tám loại sự giải đãi, là: Tôi muốn làm nhiệm vụ, liền lại nằm yên, không phát tinh tiến- là một; tôi đã làm nhiệm vụ rồi- là hai; tôi trên đường đi- là ba; tôi đi đường rồi- là bốn; thân tôi mệt mỏi, không thể tu nghiệp- là năm; thân tôi nặng nề không thể tu nghiệp- là sáu; tôi đã sinh bệnh- là bảy; tôi bệnh, dậy được không lâu lại nằm yên- là tám. Do tám điều này nên đáng được mà chẳng được, nên đến mà chẳng đến, nên chứng mà không chứng. Tám loại sự giải đãi này, vì để đoạn, phải phát tinh tiến.

Chớ có tham phi phần
Tham ngang, chẳng xứng ý,
Ly tán đều khiến hợp
Chẳng hỏi thân, không thân.

Nếu thấy chúng sinh có đầy đủ lợi dưỡng, danh tiếng, an lạc, được khen ngợi, phúc đức; trong sự đầy đủ phúc của họ, chớ có tham phi phần. Vì nếu tham phi phần, ắt chẳng xứng ý, cho nên không nên làm.

Lại, trong các chúng sinh cùng nhau tranh giành, lìa hoại, chẳng hỏi thân hay không thân, đều khiến hòa hợp cùng tâm tương ái.

Nơi không mà đắc không
Người trí chớ y hành,
Nếu sẽ đắc nơi không
Ác ấy quá thân kiến.

Vì nương vào Không để bạt trừ tụ vô trí lớn, nên người trí chớ nương vào sự “đắc không” mà hành. Nếu nương sự “đắc không” mà hành, ắt với người có thân kiến còn khó trị hơn, ác cũng quá đó. Vì các kiến hành là do Không mà xuất ly, nếu lại dính mắc vào cái thấy Không thì điều đó không thể trị, vì không thể lại khiến xuất ly nữa vậy.

Quét dọn và trang nghiêm
Và nhiều loại trống nhạc
Các đồ cúng hương, hoa
Cúng dường nơi chi-đề.

Nơi chi-đề và hình tượng của Như Lai, quét sạch bụi đất, rải hoa, thắp hương, hương bột, lọng, tràng phan...các đồ cúng dường; phải nên cúng dường, vì được giới hương tự tại, đoan chính. Đủ loại sáo, không hầu, yêu cổ, đại cổ, lôi cổ, phách thủ...đủ loại trống nhạc cúng dường, vì được thiên nhĩ.

Làm đủ loại đèn vòng
Cúng dường nhà chi-đề
Thí lọng và dầy dép,
Cũng thí các loại xe.

Trong nhà chi-đề, nên dùng đủ loại dầu thơm, đèn dầu, vòng hoa...mà cúng dường, vì được Phật nhãn vậy. Bố thí tán lọng bì, hài da, xe voi, xe ngựa , vì được thừa thần thông không khó của Bồ-tát.

Nên chuyên hỷ lạc đi
Vui biết: tín Phật được,
Vui thích cúng dường Tăng,
Cũng vui nghe chính pháp.

Trong đó, Bồ-tát phải nên thường vui thích pháp như vậy, chớ vui phúc lạc năm dục. Phải biết lợi có được khi tin Phật, chớ chỉ vui thích thấy sắc thân. Phải trong Tăng, dùng các lạc cụ vui thích cúng dường, không phải chỉ đến thăm hỏi mà thôi. Thường vui nghe pháp không có nhàm đủ, chớ chỉ vui thích tạm nghe lời nói.

Trong thời trước không sinh,
trong hiện tại chẳng trụ,
Trong thời sau chẳng đến,
Quán các pháp như thế.

Vì lực nhân duyên hòa hợp và vì không từ đâu lại nên trong thời trước không sinh; vì phá diệt trong từng niệm và vì không trụ nên trong hiện tại chẳng trụ; vì diệt không còn sót và vì không đi đến đâu nên trong thời sau không đến. Phải nên quán sát các pháp như vậy.

Việc tốt cho chúng sinh
Không cầu họ báo đáp,
Phải một mình nhẫn khổ
Không thọ vui riêng mình.

Bồ-tát với các chúng sinh, phải đem việc tốt làm lợi lạc họ, chẳng hy vọng các chúng sinh làm lợi lạc cho mình. Và, các chúng sinh có vô lượng tướng khổ, chỉ một mình tôi vì họ mà nhẫn chịu. Tôi có đồ vui thích thời cho chúng sinh thọ dụng để vui.

Tuy có phúc báo lớn
Tâm chẳng cao chẳng vui,
Tuy đói như ngạ quỷ
Cũng chẳng thấp chẳng sầu.

Tuy trong phúc báo lớn cõi trời, người, tâm không cao cũng chẳng vui; tuy như ngạ quỷ nghèo cùng, phá tán bức não, khó sống nhất, không nên sinh tâm hạ, cũng lại không nên ưu sầu, huống gì bần cùng, phá tán trong cõi người.

Nếu có người đã học
Nên hết sức tôn trọng,
Chưa học khiến vào học
Không nên sinh khinh miệt.

Nếu có chúng sinh đã học, với họ nên tôn trọng cùng cực; nếu người chưa học, nên khiến họ vào học, cũng không nên khinh miệt họ.

Người đủ giới, cung kính,
Phá giới, khiến vào giới,
Người đủ trí, gần gũi,
Người ngu, khiến trụ trí.

Người có đầy đủ giới, phải thường thăm hỏi, chắp tay hướng lễ...mà cung kính họ, cũng nên vì họ mà nói phúc trì giới; nếu người phá giới, nên khiến vào giới, cũng nên vì nói tội phá giới. Người đầy đủ trí, phải nên gần gũi, cũng nên vì họ mà hiển bày đức của trí tuệ. Người ngu thì khiến họ trụ trí, cũng nên vì họ diễn nói lỗi của ngu si.

Khổ lưu chuyển nhiều loại
Sinh, lão, tử, đường ác
Không sợ những sợ này
Phải hàng ma ác trí.

Bồ-tát trong lưu chuyển, nhiều loại lưu chuyển: Sinh, lão, tử, ưu bi, khổ não, các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, không nên kinh sợ, chỉ nên hàng phục ác ma, ác trí.

Có bao nhiêu cõi Phật
Tích tụ các công đức,
Vì trọn được các cõi
Phát nguyện và tinh tiến.

Mười phương vô lượng các cõi nước Phật, hoặc cõi Phật đầy đủ, hoặc cõi Phật trang nghiêm, hoặc được nghe từ chư Phật, Bồ-tát, hoặc tự thấy, các cõi nước đó đều tích tụ công đức thù thắng, đều khiến các cõi ấy nhập vào cõi Phật của chính mình. Phải phát nguyện như thế, tùy nguyện tức thành tựu, cũng phải tinh tiến tu hành như thế.

Luôn ở trong các pháp
Không thủ mà hành xả,
Đây vì các chúng sinh
Nhận gánh vác việc cần

Vì thủ nên khổ, không thủ nên an lạc. Nghĩ như thế rồi, thường nơi các pháp, không thủ mà xả. Tuy không thủ mà xả, nhưng lúc trước, vì hướng Bồ-đề, phát nguyện nhận đảm đương chúng sinh, người chưa được độ, tôi sẽ độ, chưa nói tôi sẽ nói, người chưa tịch diệt tôi sẽ tịch diệt, đây là điều nên gánh vác, vì các chúng sinh vậy.

Chính quán nơi các pháp
Không tôi, không của tôi,
Cũng chớ bỏ đại bi
Cùng với cả đại từ.

Nói các pháp vô sở hữu, vì như mộng như huyễn, nên các pháp không có ngã; Không có „ của tôi“ vì quán vô tướng. Như thế lấy nghĩa tối thắng của pháp, khi quán tướng này, nhưng không bỏ đại bi và đại từ với chúng sinh, như thế lại càng xứng đáng với sự tán thán đặc biệt gấp bội. Các chúng sinh kia bị si ám che đậy, chấp trước tôi và của tôi, trong nghĩa đạo tối thắng mà không giác biết; Tôi sẽ một lúc nào đó, khiến họ trong pháp nghĩa đạo tối thắng này mà được giác biết. Đây là với chúng sinh không bỏ đại bi và đại từ.

Hơn cả các cúng dường
Là cúng Phật Thế Tôn,
Đó làm như thế nào?
Nghĩa là cúng dường Pháp.

Nếu có người đem các đồ cúng mà cúng dường các Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật Thế Tôn, nghĩa là hoặc dùng các hoa, hương, vòng hoa, mạt hương, đăng luân mà cúng dường, hoặc dùng các loại thuốc, đồ uống ăn ngon...bố thí cúng dường; nếu muốn hơn cả các cúng dường ấy là cúng dường lên Phật. Lại là thế nào? Đáp rằng: Cúng dường Pháp. Cúng dường Pháp lại có tướng nào?

Hoặc trì tạng Bồ-tát
Và đắc đà-la-ni,
Vào sâu đáy, nguồn pháp
Đó là cúng dường Pháp.

Trong đó, những kinh được đức Như Lai nói tương ưng với tạng Bồ-tát, thậm thâm minh tướng, ngược với thế gian, khó dò đến đáy, nhân không thối chuyển, từ Lục độ sinh, khéo nhiếp những đối tượng được nhiếp thuận vào pháp trợ bồ-đề, hợp tính chính giác, nhập các đại bi, nói các đại từ, lìa cái thấy của các ma, khéo nói duyên sinh, vào chỗ không chúng sinh, không mạng giả, không trưởng dưỡng, không người, tương ưng với Không, tương ưng với Vô nguyện, Vô tác; Ngồi nơi giác trường chuyển pháp luân, được thiên, long, dạ-xoa, càn-thát-bà tán thán, độ chúng sinh còn trong bùn lầy tại gia, nhiếp các thánh nhân, diễn nói hành của các Bồ-tát, nhập biện tài lạc thuyết pháp nghĩa, chấn động với âm thanh như sấm: Vô thường, khổ, vô ngã; làm kinh sợ các luận của ngoại đạo có chấp kiến, đắc; đối trị lưu chuyển, thị Niết-bàn lạc được chư Phật ca ngợi- các kinh như thế, hoặc nói, hoặc trì, quán sát, nhiếp thủ- gọi là cúng dường pháp.

Lại, cúng dường pháp là, vì được bất thối chuyển, thuận hành tổng trì, trong các pháp thâm sâu: Không, Vô tướng, Vô nguyện tương ưng, vào đến đáy chẳng động, chẳng ngại – gọi là cúng dường pháp trong nghĩa tối thắng.

Phải nên y nơi nghĩa,
Chớ chỉ ái tạp vị,
Ở trong đạo pháp sâu
Khéo vào, chớ phóng dật.

Lại, cúng dường pháp là: Nếu trong pháp mà tư duy pháp và thực hành pháp, tùy thuận duyên sinh, lìa các biên kiến, thủ kiến; đắc vô xuất, vô sinh nhẫn, vào vô ngã, trong nhân duyên không đối nghịch, không đấu, không tranh, lìa ngã và ngã sở.

Phải nên nương vào nghĩa, chớ theo đuổi câu cú tạp sức; phải nên y trí, chớ y vào thức; y kinh liễu nghĩa, chớ y ngôn thuyết thế tục không liễu nghĩa.

Phải nên nương vào Pháp, chớ lấy cách nhìn nhận của người; phải nên tùy thuận pháp như thật, hành nhập vô trụ xứ. Khéo quán sát vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử ưu bi khổ cực đều trọn tịch diệt. Quán sát duyên sinh như thế rồi dẫn xuất vô tận. Vì bi mẫn chúng sinh nên không dính mắc các kiến chấp, không phóng dật. Nếu thường như vậy mới gọi là cúng dường Vô thượng pháp.

Như thế tư lương này
Đại kiếp như Hằng sa,
Xuất gia và tại gia
Sẽ được đủ chính giác.

Như đã được nói ở trước, trong các đại kiếp nhiều như cát sông Hằng, xuất gia và tại gia của thừa Bồ-tát, thời gian lâu xa đầy đủ nguyện thành chánh giác.

Buộc niệm tụng tư lương
Vì Bồ-đề tư duy,
Nghĩa tư lương không khuyết
Được như tại tụng kia.
Tôi nay chọn tụng ấy
Với nghĩa hoặc tăng, giảm
Khéo hiểu nghĩa các tụng
Hiền trí phải nhẫn đó.
Giải thích tụng tư lương,
Phúc thiện tôi làm được
Vì chúng sinh lưu chuyển
Sẽ được Chính Biến Giác.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 6 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Các bài tiểu luận về Phật giáo của Trần Trọng Kim


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2


Kinh Phổ Môn


San sẻ yêu thương

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.57.254 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập