Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM THỨ NHẤT
NHƯ LAI NĂM HOẰNG THỆ NGUYỆN VÀO TRUNG ẤM GIÁO HÓA
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở phía Bắc cách thành Ca Tỳ La Bà Đâu Song Thọ bốn mươi chín bộ. Vào ngày thứ tám lúc nửa đêm khi sao mai vừa mọc, Đức Như Lai thoáng chốc rời khỏi toái thân xá lợi, như năm pháp Hoằng Thệ của Chư Phật.
Khi Đức Phật giáng sinh thì sáu phương trời đất đều chấn động, Chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ nhứt.
Thế nào là sáu phương chấn động? Phương đông nhô lên thì phương tây lặn xuống; phương tây nhô lên thì phương đông lặn xuống. Phương bắc nhô lên thì phương nam lặn xuống; phương nam nhô lên thì phương bắc lặn xuống. Rồi bốn phương đồng cùng nhô lên thì hướng giữa lặn xuống; và hướng giữa nhô lên thì bốn phương đều lặn xuống.
Đương lúc Đức Như Lai vừa cất bước chân đi bảy bước thì thiên hạ rung chuyển, chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ hai.
Đức Như Lai đến dưới cội cây bồ đề, ngồi thế kiết già. Ngài nguyện rằng: Nếu ta không thành Phật thì sẽ không rời khỏi nơi này; lúc đó trời đất rung chuyển, chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ ba.
Tên của Như Lai, Ma Ba Tuần tuy nghe mà tâm không hoảng sợ. Với thệ nguyện lực này nên trời đất rúng động, chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ tư.
Đức Như Lai xả thân thọ mạng, thị hiện diệt độ, vào Trung Ấm thân giáo hóa chúng sanh, lúc này trời đất rung động, chư Phật mười phương đều đến ca ngợi. Đây là pháp Hoằng thệ thứ năm.
Bây giờ Đức Thế Tôn nhập Hỏa Diệm Tam Muội, khiến cho tất cả chúng sanh trong ba cõi như Trời, Rồng, Quỷ Thần, A Tu La, Chân Đà La, Càn Thát Bà, Ca Lưu La, Cưu Bàn Trà, Phú Đơn Na, Nhơn và Phi Nhơn đều thấy đức Như Lai ngồi trên hoa sen báu.
Lúc đó đức Thế Tôn hướng về xá lợi mà nói kệ rằng:
Ở trong vô số kiếp
Địa chủng này nuôi ngươi
Nay ta từ giã ngươi
Mừng như rắn lột da
Trong năm đường sinh tử
Nơi nào cũng có ngươi
Tạm thời được bỏ thân
Tịch diệt nào tham trước
Uy thần vào địa giới
Ngươi không được độ sao!
Chao ơi khổ biệt ly
Sống chết mãi quay quần
Oai Thần chư Phật đến
Vô số nơi để độ.
Khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, từ giữa lòng bàn chân lên đến nhục kế của Ngài phóng ra tám mươi bốn nghìn ức hào quang, soi khắp ba nghìn đại thiên thế giới, cho đến Hư Không Giới, chúng sanh trong cõi nầy đều thấy được ánh sáng, hoặc có vị tìm ánh sáng mà đến, hoặc có Chư Phật sai các Bồ Tát đến cõi Ta Bà.
Bấy giờ Đức Thế Tôn quán chiếu ở bên trong, thân Trung Ấm này rất là vi tế, chỉ riêng Phật Thế Tôn mới có thể thấy được. Cho dù chúng sanh ở bực Hữu Học và Vô Học, Nhất Trụ, Nhị Trụ cho đến Cửu Trụ cũng không thể thấy được cảnh giới kia.
Ta nay dùng oai thần của Phật nhập Chiếu Minh Tam Muội, khiến cho bốn bộ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắt và Ưu Bà Di thấy được hình thái vi tế nầy. Lúc này Đức Thế Tôn lại nhập Vô Ngại Định.
Ngài quán chúng sanh ở trong Không Giới khi sanh khi diệt, như chỗ hành cấm giới của các Như Lai, hư vô vắng lặng thì quán Bất tịnh tưởng, một trăm bảy mươi hành khổ gốc từ nhân duyên, cho đến thập nhị sanh tử trói buộc chúng sanh. Ngay đây Đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:
Nay đang nhập vi diệu
Trung Ấm hình cực vi
Hóa độ chúng sanh kia
Hơn ở Diêm Phù Đề
Thường tướng – Vô Sở trước
Lạc tướng – không vô định
Kiến lập nền đạo đức
Lìa trần không tham đắm
Vốn từ vô số kiếp
Cứu người khó độ kia
Hà huống Trung Ấm thân
Không gì khó hơn cả
Nay ta tâm nguyện lớn
Chẳng loạn, chẳng nhiễm ô
Gốc bồ đề đạo đức
Pháp phạm hạnh viên toàn.
Bây giờ Đức Thế Tôn nói kệ này xong, lại phóng ánh quang từ tướng lông trắng giữa chặn mày, chiếu khắp vô lượng vô hạn ức thế giới của Đông phương, Nam phương, Tây phương và Bắc phương, và rồi Ngài hoàn nhiếp lại ánh sáng, ánh sáng ấy xoay quanh Phật bảy vòng rồi nhập vào nhục kế.
Thế rồi Đức Bồ Tát Di Lặc từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu và quỳ xuống, chắp tay trước ngực bạch Phật rằng: Hay thay, Đức Thế Tôn. Đây là điều chưa ai từng nghe, chưa ai từng thấy. Chúng sanh Trung Ấm thể chất rất vi tế, thọ mạng dài ngắn ăn uống tốt xấu … các loại ấy ra sao, chúng con xin muốn được nghe. Đức Thế Tôn bèn bảo rằng: Lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ, ta nay phân biệt rõ ràng cho Ông.
Thế nào Di Lặc? Ở cõi Diêm Phù Đề đứa trẻ khi mới lọt lòng, người mẹ bồng ẵm cho bú sữa mình đến khi ba tuổi, hết bao nhiêu sữa? Di Lặc đáp rằng: Uống đến một trăm tám mươi hộc sữa. Ngoài ra, khi còn trong bụng mẹ đã được nuôi dưỡng bằng huyết phần của mẹ rồi.
Cõi Đông Phất Vu Đãn đứa bé khi vừa ra đời cho đến lên ba, uống đến một nghìn tám trăm hộc sữa.
Cõi Tây Câu Da Ni đứa trẻ khi vừa mới ra đời cho đến lên ba, uống đến tám trăm tám mươi hộc.
Cõi Bắc Uất Đan Viết đứa trẻ khi vừa mới lọt lòng thì ngồi được, nhiều người đi đường đưa đầu ngón tay vào miệng đứa bé cho nó bú; bảy ngày sau đứa bé trưởng thành, cõi này không có sữa, chúng sanh Trung Ấm nương làn gió để uống ăn.
Thọ mạng của chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề là một trăm tuổi. Cõi Đông Phất Vu Đãi là năm trăm tuổi. Cõi Tây Câu Da Ni hai trăm năm mươi tuổi cõi Uất Đan Viết là một nghìn tuổi. Thọ mạng của thân Trung Ấm chỉ có bảy ngày. Nhân diện (khuôn mặt) của châu Diêm Phù Đề là trên rộng dưới hẹp (hình trái lê). Châu Phất Vu Đãi thì mặt tròn. Châu Câu Da Ni trên hẹp dưới rộng, và châu Uất Đan Viết thì mặt chữ điền. Diện mạo của chúng sanh Trung Ấm như Hóa Tự Tại Thiên. Ở cõi nầy danh hiệu của Phật Thích Ca Mâu Ni đã hoàn toàn diệt mất.
Đức Diệu Giác Như Lai xuất hiện ở đời, đầy đủ mười danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ở giữa hư không Ngài ngồi trên hoa sen báu, phóng ánh sáng của tướng lưỡi soi thấu tám mươi bảy ức hằng hà sa số cõi Đông phương. Nước này có tên là Hóa, Phật hiệu là Kiên Cố, Ngài dùng Nhứt Thừa giáo hóa chúng sanh. Đức Phật nhìn thấy ánh sáng mới bảo các Bồ Tát cùng các quyến thuộc rằng: Các ông có thấy ánh sáng này không? Các vị Bồ Tát trả lời: Chúng con đã thấy. Bạch Thế Tôn chúng con không rõ ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào chiếu đến thế giới này. Đức Phật lại bảo rằng: Cách cõi Tây Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số có thế giới tên là Bà Ha, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, nay tạm diệt độ xả thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa. Đây là ánh sáng của đức Phật Diệu Giác. Các ông muốn đến cõi đó chính là đúng lúc.
Bấy giờ một trăm ba mươi ức các vị Bồ Tát ở cõi nước kia nghe theo lời dạy của đức Phật đi đến cõi Bà Ha. Đức Phật lại căn dặn: Các ông đến nước kia rồi nên làm lễ, cúng dường chớ có biếng nhác kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm sức khỏe và sự hoằng hóa của Ngài. Chư Bồ Tát thụ giáo rồi lễ dưới chân Phật, hữu nhiễu bảy vòng đột nhiên không thấy Phật nữa mà lại đã đến Thế giới Bà Ha.
Cách cõi Nam Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Giải Thoát. Đức Phật hiệu là Chơn Tịnh Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Ngài bảo các Bồ Tát: Các ông có thấy ánh sáng này không? Các Bồ Tát đáp rằng: Chúng con đã thấy. Thưa không biết ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào chiếu đến thế giới chúng ta? Đức Phật kia bảo: Cách cõi Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số là thế giới Bà Ha, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Nay đang dùng diệt độ bỏ thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa. Đó là ánh sáng của đức Diệu Giác Như Lai, nay chính là lúc các ông muốn đến cõi đó. Bấy giờ một trăm ba mươi ức Bồ Tát ở cõi Giải Thoát vâng lời dạy đến cõi Bà Ha. Đức Phật căn dặn rằng: Ông đến cõi đó thân cận cúng dường đừng nên biếng nhác, kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm hỏi sức khỏe và công việc hoằng hóa của đức Diệu Giác Như Lai. Bồ Tát vâng lời rồi lễ quanh hướng hữu bảy vòng dưới chân đức Như Lai, bổng nhiên không thấy Đức Phật, mà đã đến được Thế Giới Bà Ha.
Cách cõi Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Lưu Ly. Đức Phật hiệu là Lôi Âm Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Ngài bảo các Bồ Tát: Các ông có thấy ánh sáng này không? Chư Bồ Tát trả lời: Chúng con đã thấy, không biết ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào chiếu đến thế giới nầy? Đức Phật kia bảo: Cách cõi Nam Phương này tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Bà Ha, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, hiện Ngài đang dùng tướng diệt độ xả thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa, đây là ánh sáng của đức Diệu Giác Như Lai, nay chính là đúng lúc các ông muốn đi. Bây giờ một trăm ba mươi ức Bồ Tát ở cõi Lưu Ly, vâng lời dạy của Phật đến cõi Bà Ha. Đức Phật căn dặn: Các ông đến cõi đó làm lễ cúng dường đừng nên biếng nhác, kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm hỏi sức khỏe và công việc hoằng hóa của đức Diệu Giác Như Lai. Bồ Tát nghe xong lễ quanh hướng hữu bảy vòng dưới chân đức Phật, đột nhiên không thấy Ngài nữa, mà đã đến Thế Giới Bà Ha.
Cách cõi Đông Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Không Tịnh, đức Phật hiệu là Hư Không Tạng, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.
Cách cõi Đông Nam Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Sí Nhiên, đức Phật hiệu là Quảng Hiển Như Lai, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.
Cách cõi Tây Nam Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Tinh Tú, đức Phật hiệu là Nguyệt Quang Như Lai, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.
Cách cõi Tây Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Hoại Ma, đức Phật hiệu là Dũng Mãnh Phục Như Lai,đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.
Cách cõi Thượng Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Hải Tích, đức Phật hiệu là Thượng Diệu Như Lai, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.
Cách cõi Hạ Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Thông Đạt, đức Phật hiệu Vô Uý Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ngài bảo các Bồ Tát: Các ông có thấy ánh sáng này không? Chư Bồ Tát đáp: Chúng con đã thấy, không biết ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào? Đức Phật kia bảo: Cách cõi Thượng Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số có thế giới tên là Bà Ha. Đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni nay đang dùng diệt độ xả thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa, đây là ánh sáng của đức Diệu Giác Như Lai, đây là đúng lúc các ông muốn đi. Có một trăm ba mươi ức Bồ Tát ở cõi Phật kia, vâng lời của đức Phật mà đến thế giới Bà Ha. Đức Phật lại căn dặn rằng: Các ông đến cõi nước kia làm lễ cúng dường chớ nên biếng nhác, kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm hỏi sức khỏe và công việc hoằng hóa đến đức Diệu Giác Như Lai. Chư Bồ Tát nghe xong lễ quanh hướng hữu bảy vòng dưới chân đức Phật, bỗng nhiên không thấy Ngài nữa, mà đã đến được Thế Giới Bà Ha. Thế rồi Chư Bồ Tát đảnh lễ cúng dường đức Diệu Giác Như Lai. Làm lễ xong mỗi vị đều ngồi về một hướng.
Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai bèn phóng tướng lưỡi dài rộng đẹp như hoa sen - đỏ như hoa Ưu bát qua bên trái bên phải của lỗ tai ngài. Ngài thuyết: Ta đã từ vô số a tăng kỳ kiếp, thực hành hạnh thanh tịnh không có hư dối. Chúng sanh mà Ta đã độ nhân duyên đã xong, như bỏ thi hài giữa cánh đồng hoang. Nay lại gây duyên và lập hạnh đầu, hiện Bồ Tát ở đây có lập hạnh đắc lực, có vị sơ phát, lại có bốn chúng chưa từng lập hạnh, đang nhờ oai thần Phật lực tiếp dẫn, khiến cho đại chúng biết được quá khứ, tương lai cùng hiện tại. Pháp của Chư Phật hiếm có không thể luận bàn. Nói xong, Ngài liền thuyết kệ rằng:
Người nhiều đời ngu muội
Chẳng vào vô lậu pháp
Quanh quẩn trong năm đường
Nhiễm ô không tịnh hạnh
Ta tuy ở cõi này
Dứt sạch năm dục khổ
Lành thay xưa chỗ nguyện
Ngày nay đã hoàn thành
Như người phun nước bọt
Bậc trí uống được sao
Ta từ vô số kiếp
Tu hạnh thanh tịnh Phật
Bỏ thân rồi thọ thân
Nào một kiếp hoặc hai
Nếu có người sáng trí
Vẽ Xá lợi trên đất
Thì còn thấy hình Ta
Có người không giải thoát
Đêm dài sanh tử mãi
Sống ngu theo năm đường
Đoạn diệt không còn đường
Cầu Phật chứng Nê Hoàn
Xưa hiệu Thích Ca Văn
Xá lợi thân lưu hóa
Nay ta vào không giới
Trung Ấm độ mọi loài
Khi Đức Thế Tôn nói kệ này, tám vạn bốn nghìn na do tha chúng sanh đều nhàm chán sanh tử, cùng phát tâm vô thượng bồ đề, và có bảy mươi ức chúng sanh, các trần cấu đã sạch và đắc pháp nhãn tinh. Bảy nghìn vạn chúng của Bồ Tát Ma Giới, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy sửa sang y phục, chắp tay rồi lui ra. PHẨM THỨ HAI
ĐỨC DIỆU GIÁC NHƯ LAI ĐƯA CHƯ BỒ TÁT VÀO TRUNG ẤM GIÁO HÓA
Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai chí Chơn Đẳng Chánh Giác rõ thấu chúng sanh hoàn toàn không còn một tạp niệm, nên vào Trung Ấm thọ pháp cấm giới, được nhiều lợi ích và đã độ thì vô lượng. Ngài biến lập thệ lớn để thi hành phật sự. Lúc này Đức Diệu Giác Như Lai nhập vô Kiến Đỉnh Tam Muội khiến các đại chúng Chư Bồ Tát vô số nghìn ức không ngằn mê đều giống như sắc thể của Đức Diệu Giác Như Lai không sai khác. Ngay lúc này Ngài Đại Ca Diếp chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di ở cõi Diêm Phù Đề, và Trời, Rồng, Quỷ Thần, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Đầu La, Càn Thát Bà, Cưu Bàn Trà, Phú Đan Na, Nhơn và Phi Nhơn, tám ức một trăm nghìn chúng sanh của Bát Quốc Vương dùng thần túc lực cùng vào Trung Ấm.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ở giữa các chúng mà nói kệ rằng:
Mê lầm của Trung Ấm
Mù tối chẳng Tam Tôn
Chuyển thân theo năm đường
Tùy chỗ làm dẫn đến
Hoặc sa hai nẻo thiên
Hoặc vào chốn ba đường
Ô thay thật xót thương
Nay Như Lai đã đến
Trung Ấm được độ rồi
Nguyện ta cũng hoàn thành
Vô hình thọ hình giáo
Đoạn tưởng đoạn sạch gốc
Ba đời các Chư Phật
Đều thực hiện pháp nầy
Sắc pháp tự lẫy lừng
Diệt dùng Định Ý đạo
Như Lai - tướng chân thật
Không sinh không khởi diệt
Quán thân nội ngoại không
Biết rõ pháp chẳng thường
Đi từ gốc si ái
Như tro phủ trên than
Kẻ ngu bảo lửa mất
Thực ra lửa mãi còn
Tâm là cội nhân độc
Thiện ác theo tâm đó
Hành thiện thì đến thiện
Hành ác thì đến ác
Như người làm việc ác
Cho rằng không quả báo
Khi nghiệp báo đến rồi
Nào ai thay thế được
Phạm giới không hành pháp
Tự xưng không ai bằng
Lõa hình ăn trái cây
Cúng thờ thần Nhật Nguyệt
Ba ác đạo tự rơi
Biết kiếp nào ra khỏi
Những ai phi Phật tử
Dẫu gần vẫn xa Ta
Lúc này, Đức Diệu Giác Như Lai nói xong kệ nầy, liền dùng thần lực vào trong Trung Ấm hóa làm tòa Cao thất bảo và giảng đường thất bảo. Nơi đây lụa-phan giăng phủ, thềm thang làm bằng vàng bạc và lưu ly là đất. Sau vườn có ao tắm kết bằng thất bảo, chim nhạn, chim uyên … các loài chim quí cùng cất tiếng hót. Thế rồi Đức Thế Tôn lại dùng thần lực khiến cho chúng sanh đó sống với sinh mạng trong bảy ngày, với sinh mạng sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày và một ngày rồi kết thúc.
Lúc này Đức Thế Tôn quán nơi tâm hướng vọng của chúng sanh này, muốn phân biệt rõ phương diện của từng trụ vị, như từng phương diện của tứ hướng tứ đắc, Cửu trụ của sơ phát tâm có các lãnh vực riêng. Lãnh vực trụ vị của nhân quả Bích Chi Phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn hóa ra bảy trăm ức na do tha Cao tòa bằng bảy báu, cứ mỗi Cao tòa có Hóa Phật, mỗi một Hóa Phật đều nói bốn bài kệ phi thường:
Tất cả hành vô thường
Thức là pháp ngoại trần
Có khởi thì có diệt
Diệt kia chính là lạc
Không sanh, già, bệnh, chết
Cũng không có ba hữu
Vào hẳn hư không giới
Là nhà của Chư Phật
Chẳng sợ, chẳng vết nhơ
Chẳng bị dục nhiễm ái
Trang sức và năm dục
Hết hẳn không còn chi
Nếu dứt trăm tám ái
Tập pháp cũng trừ luôn
Trước diệt sau không sinh
Ba mươi bảy đạo phẩm
Không-vô tướng-vô nguyện
Lộ trình Phật đi qua
Những chúng sanh lợi căn
Vừa nghe không ngần ngại
Dùng gươm tuệ đoạn trừ
Như lửa đốt núi đồng
Chúng hữu tình khó ngộ
Chư Phật trước ban rằng
Tội căn sâu kiên cố
Dù thương đâu cứu được
Trung Ấm thọ các thân
Chỉ bày theo ngôn giáo
Dù trước chẳng phát tâm
Nghe pháp thì được độ
Đương khi Đức Phật nói kệ tụng này, có bảy mươi tám ức một trăm nghìn na do tha chúng sanh Trung Ấm khởi vô thượng chánh chơn đạo ý, phát tâm bồ đề.
Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai, đột nhiên đang ở giữa hội chúng bay lên tòa Cao Úy. Mười phương Chư Thần Thông Bồ Tát ngồi ở bên trái. Ngài Ma Ha Ca Diếp và bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di ở cõi Diêm Phù Đề ngồi ở bên phải. Các Trời, Rồng, Quỷ Thần và Đại Quốc Vương ngồi ở sau Đức Phật.
Từ cõi Tứ Thiên Vương, Sơ Đao Lợi Thiên Vương, Diệm Thiên, Đâu Thuật Thiên, Ái Thiên, Ba Lợi Đà Thiên; Ái Ba Ma Na Thiên, A Hội Đậu Tu Thiên, Thủ Ha Thiên, Ba Lợi Đà Thủ Ha Thiên, Tu Trệ Thiên, Tu Trệ Kỳ Nậu Thiên và A Ca Nị Sất Thiên ở giữa hư không rải hoa cúng dường và trổi các thứ thiên nhạc.
Chúng sanh Trung Ấm ở trước mặt Như Lai lãnh hội giáo pháp. Lúc đó Thế Tôn dùng oai thần của Phật, khiến cho các chúng sanh trong lòng nghĩ rằng: Đức Phật chỉ vì Ta mà nói pháp ngoài ra không vì ai khác. Lúc này Đức Thế Tôn mới nói kệ rằng:
Như Lai vô lượng giác
Thần thông không thể lường
Vào ra vách núi đá
Như chim lượn hư không
Ta vốn từ nhiều kiếp
Vun trồng nhiều công đức
Độ sanh không ngừng nghỉ
Khiến phát bồ đề tâm
Niết bàn nào lai khứ
Cũng chẳng thấy độ ai
Ta ở nơi Song Thọ
Chuyển thân đến chốn này
Xưa ta phát đạo tâm
Với chúng sanh Thệ độ
Một người chưa độ xong
Ta không bao giờ bỏ
Xét người Trung Ấm đây
Đều có thượng-trung-hạ
Chỉ dùng ba cú nghĩa
Tứ đế pháp chơn như
Dâm-nộ-si mới giảm
Phải thiền định để trừ
Tám trăm bệnh ngặt nghèo
Tám vạn bốn nghìn cấu
Bố thí trì giới nhẫn
Tinh tấn, thiền, trí tuệ
Cần phương tiện khéo léo
Chặt phứt ba độc căn
Sắc vốn chẳng của Ta
Chủ gốc sắc ái là?
Rõ thấu sắc vô hình
Đáng gọi hành phạm chí
Xưa Ta chưa thành Phật
Bị sắc làm mê hoặc
Đọa bốn pháp điên cuồng
Trầm mình biển tử sanh
Nay mới hiểu gốc sắc
Thấy sắc đây chân thật
Thọ tưởng hành thức pháp
Bẩn dơ không chân đạo
Âm nhập mười tám giới
Hai mươi hai căn pháp
Mỗi mỗi thảy tận tường
Lặng yên không đắm trước
Cõi Dục Trung Ấm Nhơn
Trần cấu đều vi tế
Cũng như áo mới may
Bụi đất làm dơ dáy
Người có mắt trí tuệ
Rũ áo bụi liền bay
Hàng chúng sanh Trung Ấm
Có khác gì đó đâu
Dâm-nộ-si vi tế
Nghe pháp liền ngộ thôi
Chỉ hướng tâm đừng đổi
Tức đắc Tu Đà Hoàn
Tam chuyển thập nhị hành
Đắc Tu Đà Hàm tiếp
Các phần tư hoại hết
Thì được quả Bầt Hoàn
Khổ bặt, si ái trừ
Đắc thành A La Hán
Xưa có tám muôn ức
Bậc đắc hai quả đầu
Tám vạn bốn nghìn ức
Bậc đạo nhơn Bất Hoàn
Trăm vạn hai nghìn ức
Hằng hà sa La Hán
Lục thông thân trong suốt
Hướng đến các Phật thừa
Tám vạn bốn nghìn ức
Hướng về tâm Bồ Tát
Số đông như bụi trần
Ta ở Diêm Phù Đề
Khổ hạnh nào tính được
Thí quốc tài vợ con
Đầu, mắt, xương, máu, tủy
Tâm vững tợ Kim Cang
Chẳng bị ma khuấy động
Mừng thay đại phúc lành
Nguyện nào không thành tựu
Bấy giờ chúng sanh ngồi ở trên mới khởi niệm rằng: Đức Phật chỉ vì ta mà nói pháp chứ không vì ai khác. Người hướng đến Thanh Văn thì đắc quả Thanh Văn. Người hướng đến Bích Chi Phật thì đắc quả Bích Chi Phật. Người hướng đến đạo Bồ Đề thì đắc quả Bồ Đề. PHẨM THỨ BA
ĐỨC DIỆU GIÁC NHƯ LAI PHÂN THÂN VÀO TRUNG ẤM
Lúc đó ở Tòa trên có Bồ Tát tên là Định Hóa Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, quỳ xuống chấp tay bạch Phật rằng: Lành thay! Thế Tôn! Xin Ngài vì chúng sanh thuyết nghĩa lý rõ ràng, âm hưởng đã hướng thì nghe pháp dễ độ.
Lại có người khó độ, xét chúng sanh có người dâm, nộ, si ít, có người dâm, nộ, si nhiều; hoặc người có đối pháp, người không có đối pháp; hoặc người có thể thấy pháp, người không thể thấy pháp; hoặc người hữu lậu pháp, người vô lậu pháp; hoặc người ở hữu vi pháp, người ở vô vi pháp; hoặc người có thể ký pháp, người không có thể ký pháp; hoặc người đang ở pháp dục giới; hoặc người đang ở pháp không giải thoát; hoặc người ở pháp sắc giới, người ở pháp vô sắc giới, hoặc người ở pháp Trung Ấm vi hình, người đang ở pháp Trung Ấm phi vi hình; hoặc người đang ở pháp ngũ sắc thức, người đang ở pháp ngũ sắc phi thức; hoặc người đang ở pháp phi tưởng, phi bất tưởng thức, người không ở pháp phi tưởng, phi bất tưởng thức; hoặc người đang ở nhất trụ cho đến cửu trụ, người đang ở nhất trụ, phi nhất trụ. Có người đang ở cửu trụ, phi cửu trụ… cúi mong Đức Thế Tôn mỗi mỗi diễn rộng, làm cho các vị Bồ Tát hết hẳn do dự, các hàng chúng sanh nghe pháp được giải thoát.
Thế rồi Đức Thế Tôn dùng tiếng Phạm tịnh êm ái, khen Bồ Tát Định Hóa Vương rằng: Lành thay! Lành thay! Đức Bồ Tát. Ông đã ở trước Như Lai làm Sư Tử Hống, ngay đây Ta sẽ phân biệt từng chi tiết cho ông. Hãy lắng nghe kỹ và suy nghĩ điều mà ông đã hỏi:
Có thể thấy pháp và không thể thấy pháp đó, vì mắt thấy sắc, vì sắc đập vào mắt. Bồ Tát Định Hóa Vương nói: Không có con mắt để thấy sắc, cũng không lìa mắt, và không có sắc để đập vào mắt, cũng không lìa sắc.
Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương: Này Bồ Tát, mắt chẳng phải sắc, sắc chẳng phải mắt, vậy cái gì là thấy? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch Phật rằng: Thức pháp thực trụ, quán pháp mới khởi.
Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương: Thế nào Bồ Tát? Thức là hữu pháp hay thức là vô pháp? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch Phật rằng: Thức chẳng phải hữu vi nhưng không lìa hữu vi. Thức chẳng phải vô vi nhưng không lìa vô vi.
Phật hỏi Bồ Tát Định Hóa Vương: Thế nào là hữu vi, thế nào là vô vi? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch rằng: Khởi là hữu vi, trụ là vô vi. Đối với pháp Đệ nhất nghĩa thì không thấy không khởi, không thấy đang trụ, pháp tánh thanh tịnh không sắc không thức. Đối với pháp Nê Hoàn không chỗ nhiễm trước, mắt chẳng phải sắc, không thể thấy pháp và không không thể thấy pháp. Mắt đã qua, sắc đã qua và thức đã qua. Mắt sẽ đến, sắc sẽ đến và thức đã qua. Mắt bây giờ, sắc bây giờ và thức bây giờ. Chẳng có mắt, sắc và thức, chẳng phải không có mắt, sắc và thức. Đây là pháp Nê Hoàn thanh tịnh.
Lúc này Bồ Tát Định Hóa Vương muốn nghe Như Lai nói hữu đối và vô đối. Phật hỏi Bồ Tát Định Hóa Vương rằng: Tiếng có đối tượng hay không có đối tượng? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch: Tiếng cũng có đối tượng và cũng không có đối tượng. Phật bảo rằng: Tiếng thì không có đối tượng và cũng không phải không có đối tượng, thế nào Định Hóa Vương? Cái nầy thanh cái kia ứng là có là không, là hư hay là thật? Ông nghĩ sao, hư không có thể viết thành chữ chăng? Định Hóa Vương trả lời: Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao vậy? Như Lai vun bồi các hạnh ở vô số kiếp, cũng không thấy có, cũng không thấy không; cũng không thấy có ba đời, cũng không thấy không có ba đời, cho đến chẳng phải tưởng, chẳng phải không tưởng cũng lại như vậy.
Bấy giờ Bồ Tát Định Hóa Vương bạch Phật rằng: Các pháp quán trên mỗi mỗi đều đã hiểu. Chỉ mong Như Lai Chí Chơn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn nói ba pháp vi diệu. Điều gì tối diệu ở Trung Ấm Hình, Ngũ Sắc Thức Hình và Phi Tưởng, Phi Bất Tưởng Thức?
Lúc này Đức Thế Tôn biết tâm của chúng hội đều khởi lòng nghi bèn ở trên tòa mà nói kệ rằng:
Ta chịu khổ ba cõi
Tâm ngu hoặc ái si
Vô số kiếp đã qua
Chấp có và chấp không
Phá hoại kiếp luân hồi
Nay mới được thành Phật
Đem thệ nguyện rộng lớn
Độ mọi loài chưa độ
Phật lực không gì hơn
Ba cõi ai bằng Phật
Một hướng không hai tâm
Tự thề được thành Phật
Ta từ Phật Chính Chú
Sơ phát vô đẳng tâm
Dục phược nơi trói buộc
Kiên cố khó chặt xong
Định không – vô tướng nguyện
Phân biệt ba Tam Muội
Trước niệm hơi ra vào
Suy lường đường thiện ác
Quyết một lòng tinh tấn
Bước đi không thất nghi
Như người thấy đại hỏa
Đốt cháy người tội nặng
Phước sanh Quang Âm Thiên
Phương khác, người mỏng phước
Hàng chúng sanh ba phẩm
Trung Ấm khi thọ hình
Đổi thay không lường nổi
Ngoài Ta ai nói được
Năm Sắc Thức chúng sanh
Bất đồng trong tam giới
Bậc Tối thắng – Như Lai
Vào thức kia giáo hóa
Nói ngọn ngành phân biệt
Trăm tám ái, chẳng rong
Muốn thành Tu Đà Hoàn
Thì nói Tu Đà Hoàn
Muốn thành A Na Hàm
Thì nói A Na Hàm
Muốn thành A La Hán
Thì nói A La Hán
Muốn thành Bích Chi Phật
Thì nói Bich Chi Phật
Người muốn Bồ Tát Đạo
Thì nói pháp Bồ Tát
Bậc đắc Tu Đà Hoàn
Ba mươi hai ức người
Bậc đắc Tư Đà Hàm
Có bốn mươi hai ức
Bậc đắc A Na Hàm
Có năm mươi hai ức
Bậc đắc A La Hán
Sáu mươi hai ức vị
Bậc đắc Bích Chi Phật
Thì bảy mươi hai ức
Bậc đắc Bồ Tát Đạo
Tám mươi hai ức vị
Bấy giờ Đức Thế Tôn lập lại kệ rằng:
Ta vốn không tâm pháp
Tạm dùng giáo hóa thôi
Thấy khói biết rằng lửa
Nhìn mây biết có mưa
Cất bước biết quân tử
Trông sao biết có trăng
Ta trừ hết ngã tâm
Không ngã – không vô ngã
Trãi qua nhiều số kiếp
Chẳng tính được tháng ngày
Phật dùng tư duy chứng
Phàm phu nào hiểu được
Lành thay Đại Thánh Tôn
Độ khắp cõi mười phương
Rời khỏi pháp Dục Giới
Giáo hóa Trung Ấm thân
Giáo pháp chư Phật là
Vào Ấm không thấy nó
Các hàng chúng sanh này
Phát nguyện đều khác biệt
Ta trói buộc chính ta
Ta – kia cùng một thể
Phải dùng tư duy bổn
Tư duy Bổn mạt quán
Mỗi ý niệm dấy lên
Dứt trừ nào khó lắm
Trần cấu mạnh hơn ta
Ta rớt ba đường ác
Nay ta mạnh hơn nó
Diệt nó chứng Niết Bàn
Lành thay Đại Thánh Tôn
Độc bước chưa ai hơn
Thấy Tối Đại Thánh Tôn
Diêm Phù người được độ
Thân hành thì có ba
Khẩu hành thì có bốn
Và ý hành ba điều
Biển não phiền tử sanh
Chín chúng sanh cư ngụ
Chỗ của thức đi qua
Phân biệt ta – không ta
Không ta và không người
Các Chư Phật Thế Tôn
Tâm rộng không ngằn mé
Mỗi ý niệm chúng sanh
Tiếp nhận không giới hạn
Thân tịnh không làm ác
Lời nói thường thanh tịnh
Tâm tịnh như tâm Phật
Đó là pháp Chư Phật
Thân là pháp khí khổ
Đâu phải chỉ ba đời
Ngoài ta ai biết được
Ai biết đường khổ đây
Công đức của Như Lai
Chư tướng nào sánh được
Tướng ngực như sư tử
Mỗi chân lông phát quang
Lòng tay nghìn bánh xe
Chỉ dạy đường thiện ác
Lưỡi, răng toát ánh quang
Cứu độ nhiều vô số
Mắt, tai, mũi và tóc ...
Đỉnh nhục kế ai bì
Hư không còn thể hết
Phật tướng khó suy lường
Ngay khi Như Lai nói kệ này xong có tám mươi ức chúng sanh Trung Ấm ở cõi Vô dư Niết Bàn phát tâm Kim Cang, cứ mỗi chúng sanh thành Phật cùng đồng một hiệu với Đức Diệu Giác Như Lai.
Đức Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương: Điều mà ông hỏi như hữu lậu – vô lậu; có đối đãi – không có đối đãi; có thể thấy – không thể thấy; pháp quá khứ hiện tại và tương lai; nay ta sẽ nói cho ông.
Bồ Tát Định Hóa Vương bạch rằng: Thế Tôn, con mong muốn được nghe. Đức Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương rằng: Hãy lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ, Ta sẽ phân biệt rõ cho ông. Thế nào Định Hóa Vương? Điều gì là duyên hết? Điều gì là không duyên hết? Trần cấu của sáu nhập rất nặng, khiến cho Ta mê ái các pháp. Pháp quán chiếu trong ngoài, ra vào của hơi thở. Tám muôn bốn nghìn pháp đắc Niết Bàn. Mỗi tư tưởng phát khởi không thể diệt, thì mỗi ý nghĩ sẽ thành hình tướng đó. Có tám vạn bốn nghìn hữu lậu và ba mươi bảy vô lậu, pháp hữu vi và vô vi; đều chẳng phải là con đường của Niết Bàn.
Thân tịnh không làm ác
Miệng nói lời chân thật
Tâm tịnh cùng với Định
Bốn điều khắp tất cả
Hạnh Bồ Tát chính là. PHẨM THỨ TƯ
BỒ TÁT HIỀN HỘ THƯA HỎI
Bấy giờ Bồ Tát Hiền Hộ bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, để lộ vai hữu, gối hữu sát đất, chắp tay quỳ trước Phật và bạch rằng: Lành thay! Thề Tôn! Ba loại chúng sanh: Dục, Sắc và Vô sắc, tâm thức kia khó phân lượng được. Hạng hữu lậu thế nào? Hạng vô lậu thế nào? Hạng hữu vi thế nào? Hạng vô vi thế nào? Hạng hữu sắc và vô sắc thế nào? Hạng hữu dục – vô dục thế nào? Và hạng hữu ký – vô ký như thế nào?
Lúc này nghe Bồ Tát Hiền Hộ hỏi việc như thế, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Khi ở trong bào thai
Nhiều chủng loại thọ thân
Trước diệt sau đã sanh
Diệt sanh nhiều vô số
Ba hạng thức chúng sanh
Cấu trần đều khác biệt
Hoặc ngộ khi nghe thanh
Hoặc thấy hình đắc đạo
Nay ta Diệu Giác Phật
Gíáng thân vào Trung Ấm
Mỗi mỗi phân biệt rõ
Pháp hữu lậu – vô lậu
Đắc chứng – thành đạo quả
Năm sắc thức dễ độ
Loài này một cõi chung
Chẳng hữu lậu – vô lậu
Chúng sanh nơi Trung Ấm
Như thân ta nào khác
Thân năm ấm khổ đau
Tựa bánh xe quay mãi
Ta vốn không chữ “Ta”
Ấm ba nào có tiếng
Quán thân ba mươi sáu
Pháp hữu lượng cõi dục
Loại sắc – vô sắc thức
Chúng sanh Trung Ấm này
Thức năm sắc hữu tình
Nào theo ba cõi khổ
Vô minh – si ái hoặc
Ẩn tướng chẳng phải không
Hữu lậu gốc khổ đế
Đoạn kiết chẳng bằng sắc
Tập đế hai mươi tám
Tịch nhiên phiền não hết
Ba mươi bảy phẩm đạo
Đạo đế là thật quả
Hiền Hộ này ông rõ
Pháp hữu lậu – vô lậu
Ký pháp – vô ký pháp
Nay nói với ông đây
Hữu ký: là thiện ác
Vô ký: pháp u mê
Rớt xuống nẻo tử sanh
Ngoài ta ai cứu được
Ngay lúc Đức Phật Thế Tôn nói lời này xong, có chín mươi mốt ức chúng sanh đều phát Vô Thượng Đạo Ý, bốn mươi bảy ức na do tha chúng sanh đều đắc quả A La Hán. PHẨM THỨ NĂM
ĐẠO THỤ
Bấy giờ ở trên tòa có Bồ Tát tên là Thụ Vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu sát đất, chắp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Lành thay! Thế Tôn! điều mà Như Lai nói hết sức đặc thù. Chẳng rõ Như Lai muốn nói về hữu lậu hay vô lậu, cầu mong Thế Tôn, nói ra từng câu, thế nào hữu lậu, thế nào vô lậu?
Đức Phật bảo rằng: Có sanh có diệt chính là hữu lậu; không sanh không diệt chính là vô lậu. Có ta, có thân chính là hữu lậu; không ta không thân chính là vô lậu. Mắt đối với sắc là hữu lậu, không mắt không sắc là vô lậu. Có thức, có tưởng và có hình là hữu lậu, không thức, không tưởng và không hình là vô lậu. Chỗ tam thức xứ trụ có thân là hữu lậu; mỗi thức mỗi xứ có mỗi hình là vô lậu, Hữu Hình, Phi Tưởng, Phi Phi tưởng là Lượng Pháp Hữu Dụng; chỗ bất dụng là Tam Thiền Địa. Chán ghét tử sanh gọi là Bất Dụng. Có nguyện không nguyện phát khởi Sơ Thiền. Hay thay lạc kia tâm chẳng dao động. Niệm tịnh hỉ an tự giữ năm hành. Thành tựu có tưởng có diệt đó là pháp xuất nhập hỷ hành.
Trăm tám ái một niệm.
Một ức hành trung gian.
Tưởng tưởng không thể hết
Có kia mới có thân.
Không kia không ngã tưởng.
Ta từ vô số kiếp
Xả ngã này mới được.
Chỗ ba thức đi qua.
Không hữu cũng không ngã
Thương thay ba cõi khổ.
Thọ thân sanh tử nạn.
Thí như phép ảo thuật
Dùng tay dọa trẻ con.
Thức thần vô hình phép.
Khởi - diệt luôn vô thường
Ta không có thân ta.
Sao có pháp thức hình.
Pháp tưởng và vô tưởng
Cũng chẳng thấy có thức.
Bốn ấm sẽ ở đâu?
Ta và ông chẳng có.
Ta từ nhiều kiếp xa.
Nơi ba thức trải qua.
Ngoài Trời, Rồng, Quỷ Thần.
Chỗ nào không Diệu Giác?
Ta làm các pháp lành
Thề độ vô số chúng.
Tùy thân mà giáo hóa.
Ứng hóa không lường được
Hạnh thanh tịnh Như Lai.
Rộng khắp không ngằn mé.
Thần thông chiếu trong ngoài
Quan sát ở ba đời.
Loại hữu hình vô hình.
Tư duy mười tưởng kiết
Chẳng còn phiền não khổ.
Hư không nào bờ mé.
Nào thấy có vãng lai
Trong tâm chẳng nghĩ suy.
Nhẫn nhục-công đức thành.
Tích tập thành Phật đạo
Vui Niết Bàn vắng lặng.
Khởi cũng chẳng thấy khởi.
Sanh cũng chẳng thấy sanh
Khởi diệt làm sao có.
Loài người và chư thiên.
Dứt niệm đến bờ kia
Mắt kẹt vào ba cõi.
Biển sống chết đi qua.
Vì mê hoặc nơi sắc.
Tham muốn trói cột ta.
Phật lực không khiếp sợ.
Ở hoài trong ba cõi
Vì người chẳng vì mình.
Tiếp ứng chúng hữu tình.
Hằng dùng bốn ý chỉ
Công đức nào tính được.
Thất giác ý bảo hoa.
Năm lực và năm căn
Không vô tướng tam muội.
Ba mươi bảy trợ đạo.
Sáu độ đến bờ kia
Phương tiện chuyển tử sanh.
Qua lại cõi hư không.
Chẳng trải qua kiếp số
Đắc đạo như vi trần.
Người độ thoát – chưa thoát.
Một âm diễn pháp mãi
Niệm ngã - bỉ đâu còn.
Pháp quán sát đạo tâm.
Người nghe không ngằn mé
Phân biệt nội ngoại thân.
Chẳng thấy đâu khởi - diệt.
Cột vào an ban tức
Hơi thở ngắn - biết ngắn.
Hơi thở dài - biết dài.
Định tưởng biết rằng định
Loạn tưởng cũng biết loạn.
Hạnh thanh tịnh nào hơn.
Chuyên tâm không loạn tưởng.
Lúc này Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Chỗ hành của Phật lực
Tươi mát khắp Trời người
Hàng Hữu Học – Vô Học
Dưới đến kẻ phàm phu
Đoạn các tướng tâm niệm
Đều đến nơi vô úy
Phân biệt Không – Vô tướng
Tu đạo tràng thanh tịnh
Cây Phật đạo trang nghiêm
Đều khiến đồng một sắc
Chuyển pháp luân vô thượng
Nêu cao tiếng trống pháp
Chẳng phải chúng cõi ma
Thì có thể chuyển được
Mở pháp tạng Cam lồ
Rưới khắp hết thảy loại
Cứu độ nhiều vô số
Chẳng phân biệt loại nào
Chỗ tiếp độ tuyệt vời
Người đắc đâu thể tính
Hay thay chẳng nghĩ bàn
Chỗ độ nào xiết kể
Những lập hạnh ta xưa
Chỉ Phật so lường được
Đừng đắm chấp ngã pháp
Pháp mãi lợi ích người
Công hạnh, ra ba cõi
Được vào cõi Niết Bàn
Sạch trong không chút uế
Như ánh sáng trăng sao
Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn nói kệ này có tám mươi bốn ức và vô số trăm nghìn ức chúng sanh Trung Ấm đều hết các trần cấu và được pháp nhãn tịnh. Lại có mười nghìn ức chúng sanh Ngũ Sắc Thức, phát tâm hướng về đạo giác ngộ bất thối chuyển. KINH TRUNG ẤM QUYỂN THƯỢNG HẾT
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.142.252.87 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.