Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Trung A Hàm Kinh [中阿含經] »» Bản Việt dịch quyển số 58 »»

Trung A Hàm Kinh [中阿含經] »» Bản Việt dịch quyển số 58

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.43 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.55 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Trung A Hàm

Kinh này có 60 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 | 57 | 58 | 59 | 60 |
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

17. PHẨM BÔ-ĐA-LỢI
210. KINH TỲ-KHEO-NI PHÁP LẠC[1]

Tôi nghư như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. [02]
Bấy giờ có bà Ưu-bà-di Tì-xá-khư [03], đến chỗ Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc,[04] cúi đầu lê dưới chân, rồi lui ngồi một bên, thưa rằng:
"Bạch Ni sư,[05] tôi có điều muốn hỏi, mong Ni sư nghe cho chăng?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Tì-xá-khư, có điều gì xin cứ hỏi, sau khi nghe xong tôi sẽ suy nghĩ."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư liền hỏi:
"Thưa Ni sư, tự thân,[06] nói là tự thân; vậy thế nào là tự thân?
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Thế Tôn nói năm thạnh ấm [07] Tự thân là năm thạnh ấm. Đó là sắc thạnh ấm, là thọ, tưởng, hành, thức thạnh ấm. Đó là năm thạnh ấm được Thế Tôn nói."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Bạch Ni sư, sao gọi là Tự thân kiến?"[08]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Phàm phu ngu si, không đa văn, không gặp thiện tri thức, không biết Thánh pháp, không chế ngự theo Thánh pháp, [09] kẻ ấy thấy sắc là thần ngã, thấy thần ngã có sắc, thấy trong thần ngã có sắc, thấy trong sắc có thần ngã. Thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, thấy ngã có thức, thấy trong ngã có thức, thấy trong thức có ngã. Đó gọi là thân kiến."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Bạch Ni sư, sao gọi là không thân kiến?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Đa văn Thánh đệ tử, gặp thiện tri thức, biết Thánh pháp, khéo léo chế ngự trong Thánh pháp, kẻ ấy không thấy sắc là thần ngã, không thấy thần ngã có sắc, không thấy trong sắc có thần ngã, không thấy trong thần ngã có sắc. Không thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, không thấy trong ngã có thức, không thấy trong thức có ngã. Đó gọi là không thân kiến."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong, hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Bạch Ni sư, sao gọi là diệt tự thân?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Sắc thạnh ấm bị đoạn trừ không dư tàn, xả, nhả sạch, không ô nhiễm, diệt, tịch tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức thạnh ấm đoạn trừ không dư tàn, xả, nhả sạch, không ô nhiễm, diệt, tịch tịnh. Đó là tự thân diệt."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Bạch Ni sư, ấm nói là thạnh ấm, thạnh ấm nói là ấm. Ấm tức là thạnh ấm, hay thạnh ấm tức là ấm? Ấm khác với thạnh ấm chăng?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Hoặc ấm tức là thạnh ấm. Hoặc ấm chẳng phải là thạnh ấm. Sao gọi là ấm tức là thạnh ấm? Nếu sắc hữu lậu, được chấp thủ [10]; thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu, được chấp thủ, thì nói ấm tức là thạnh ấm.
"Thế nào nói ấm tức chẳng phải là thạnh ấm? Sắc vô lậu, không bị chấp thủ, thì nói ấm chẳng phải là thạnh ấm."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Bạch Ni sư, thế nào là Thánh đạo tám chi?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Thánh đạo tám chi là từ chánh kiến đến chánh định là tám. Đó gọi là Thánh đạo tám chi."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, Thánh đạo tám chi là hữu vi chăng?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Đúng vậy, Thánh đạo tám chi là hữu vi."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư." Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Bạch Ni sư, có bao nhiêu tụ?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Có ba tụ là giới tụ, định tụ và tuệ tụ."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
Bạch Ni sư, Thánh đạo tám chi thâu nhiếp ba tụ hay ba tụ thâu nhiếp Thánh đạo tám chi?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Không phải Thánh đạo tám chi thâu nhiếp ba tụ, nhưng ba tụ thâu nhiếp Thánh đạo tám chi. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, ba chi Thánh đạo này được nhiếp về Thánh giới tụ. Chánh niệm, chánh định, hai chi này được thâu nhiếp vào Thánh định tụ. Chánh kiến, chánh chí, chánh phương tiện, ba chi này thân nhiếp vào Thánh tuệ tụ. Đó là nói rằng không phải Thánh đạo tám chi ba tụ, nhưng ba tụ nhiếp Thánh đạo tám chi."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư." Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong, hoan hỷ phụng hành. Lại thưa:
"Bạch Ni sư, diệt là hữu đối chăng?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Diệt là vô đối."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành, lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, Sơ thiền có bao nhiêu chi?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
"Sơ thiền có năm chi là giác, quán, hỷ, lạc và nhất tâm.[11] Đó là năm chi của Sơ thiền."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại thưa:
"Bạch Ni sư, sao gọi là đoạn, sao gọi là tưởng, sao gọi là định lực, sao gọi là định công, sao gọi là tu định?"[12]
Pháp Lạc Tỳ-kheo-ni đáp rằng:
"Nếu có thiện tâm thuần nhất [13] được gọi là định. Bốn niệm xứ được gọi là định tưởng. Bốn chánh đoạn được gọi là định lực. Bốn như ý túc được gọi là định công. Nếu tu tập các thiện pháp này rồi lại thường chuyên tu tập tinh cần, đó gọi là tu định.
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, có bao nhiêu sự kiện mà sanh thân sau khi chết rồi, thân bị liệng ngoài gò đống như cây gỗ vô tình?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Có ba sự kiện khiến sanh thân sau khi chết, thân bị liệng ngoài gò đống như cây gỗ vô tình. Những gì là ba? Một là tuổi thọ, hai là hơi ấm, ba là thức. Đó là ba pháp khiến sanh thân sau khi chết thân bị liệng ngoài gò đống như cây gỗ vô tình."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, một người chết và nhập diệt tận định khác nhau như thế nào?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Chết là mạng đã dứt, hơi ấm lìa thân, các căn bại hoại. Còn Tỳ-kheo nhập diệt tận định thì tuổi thọ chưa dứt, hơi ấm cũng không lìa thân, các căn không bại hoại. Đó là sự khác biệt giữa một người chết và nhập diệt tận định."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, một người diệt tận định và một người nhập vô tưởng định khác nhau thế nào?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Một người nhập diệt tận định thì tưởng và tri [14] đều diệt còn một người nhập vô tưởng định thì tưởng và tri không diệt. Đó là sự khác biệt giữa một người nhập diệt tận định và nhập vô tưởng định."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, một người từ diệt tận định ra và từ vô tưởng định ra khác nhau như thế nào?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Tỳ-kheo từ diệt tận định ra không khởi suy nghĩ này, 'Ta từ diệt tận định ra'. Tỳ-kheo khi từ vô tưởng định ra, khởi ý nghĩ này, 'Ta là hữu tưởng? Hay ta là vô tưởng?' Đó là sự khác nhau giữa một người từ diệt tận định ra và từ vô tưởng định ra."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong, hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Tỳ-kheo khi nhập diệt tận định có khởi ý nghĩ rằng, 'Ta nhập diệt tận định không'?"
Pháp lạc Tỳ-kheo đáp:
"Tỳ-kheo khi nhập diệt tận định không khởi ý nghĩ rằng, 'Ta nhập diệt tận định,' nhưng do theo tâm thức đã tu tập từ trước, y như vậy mà tiến tới."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, tỳ-kheo từ diệt tận định ra có khởi ý nghĩ rằng, 'Ta từ diệt tận định ra' hay không?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Tỳ-kheo khi từ diệt tận định ra không khởi ý nghĩ, 'Ta từ diệt tận định ra", nhưng bởi thân này và sáu xứ duyên mạng căn, cho nên từ định mà ra."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, Tỳ-kheo từ diệt tận định ra, tâm lạc những gì? Thú hướng những gì? Và thuận những gì?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Tỳ-kheo từ diệt tận định ra, tâm lạc đối với viễn ly, thú hướng viễn ly và tùy thuận viễn ly."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư có bao nhiêu thọ?" [15]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Có ba thọ, là cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc không khổ. Chúng duyên vào đâu mà có? Duyên vào xúc." [16]
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, thế nào là cảm thọ lạc? Thế nào là cảm thọ khổ, và thế nào là cảm thọ không khổ không lạc?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Nếu lạc được cảm xúc bởi lạc xúc [17] mà sanh, thân và tâm cảm giác rất khoái lạc, thì thọ này gọi là cảm thọ lạc. Nếu khổ được cảm xúc bởi khổ xúc mà sanh, thân và tâm cảm thọ khổ, không khoái lạc, thì thọ này gọi là cảm thọ khổ. Nếu không khổ không lạc được cảm xúc bởi xúc không khổ không lạc mà sanh, thân và tâm cảm thọ không khổ không lạc, không phải khoái cảm hay không khoái cảm, thì cảm thọ này gọi là cảm giác không lạc không khổ."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, Đối với cảm thọ lạc, thế nào là lạc? Thế nào là khổ? Thế nào là vô thường? Thế nào là tai hoạn? Thế nào là sử? Đối với cảm thọ khổ, thế nào là lạc, thế nào là khổ, thế nào là vô thường, thế nào là tai hoạn, thế nào là sử? Đối với cảm thọ không khổ không lạc, thế nào là lạc, thế nào là khổ, thế nào là vô thường, thế nào là tai hoạn, thế nào là sử?"[18]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Đối với cảm thọ lạc, sanh là lạc, trụ là lạc; biến dịch là khổ; vô thường tức là tai hoạn, và dục là sử; đối với cảm thọ khổ, sanh là khổ, trụ là khổ, biến dịch là lạc, vô thường tức là tai hoạn, sân nhuế là sử. Đối với cảm thọ không khổ không lạc, khổ hay lạc không được biết đến, vô thường tức là biến dịch và vô minh là sử vậy."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, phải chăng tất cả cảm thọ lạc đều là dục sử?[19] Tất cả cảm thọ khổ đều là nhuế sử? [20] Tất cả cảm thọ không khổ không lạc đều là vô minh sử?"[21]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Không phải tất cả cảm thọ lạc đều là dục sử, không phải tất cả cảm thọ khổ đều là nhuế sử; không phải tất cả cảm thọ không khổ không lạc đều là vô minh sử. Vì sao cảm thọ lạc không phải là dục sử? Nếu Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc do ly dục sanh, chứng Sơ thiền, thành tựu an trụ. Đó là cảm thọ lạc không phải là dục sử. Vì sao vậy? Vì đã đoạn dục. Vì sao cảm thọ khổ không phải là nhuế sử? Như mong cầu vô thượng giải thoát lạc, do sự nguyện cầu canh cánh mà sanh ra ưu khổ. Đó là cảm thọ khổ không không phải là nhuế sử. Vì sao? Vì nó đoạn sân nhuế. Vì sao cảm thọ không khổ không lạc không phải là vô minh sử? Khi lạc diệt, khổ diệt, ưu hỷ đã có trước cũng diệt, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, đắc đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Đó là cảm thọ không khổ không lạc không phải là vô minh sử. Vì sao? Vì nó đoạn vô minh."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, cảm thọ lạc đối đãi với cái gì?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Cảm thọ lạc lấy cảm thọ khổ làm đối đãi."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, cảm thọ khổ đối đãi với cái gì?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Cảm thọ khổ lấy cảm thọ lạc làm đối đãi."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, cảm thọ vừa lạc vừa khổ đối đãi với cái gì?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Cảm thọ lạc khổ lấy không khổ không lạc làm đối đãi."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, cảm thọ không khổ không lạc đối đãi với cái gì?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Cảm thọ không khổ không lấy vô minh làm đối đãi."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, vô minh đối đãi với gì?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Vô minh lấy minh làm đối."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, minh đối đãi với gì?"
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Minh lấy Niết-bàn làm đối."
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!"
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi rằng:
"Bạch Ni sư, Niết-bàn đối đãi với cái gì?"
"Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
"Ông [22] muốn hỏi những việc vô cùng, nhưng việc ông hỏi không thể cùng tận giới hạn của tôi được. Niết-bàn không có đối đãi. Niết-bàn không có quái ngại, vượt qua quái ngại, diệt trừ quái ngại, do nghĩa này nên tôi theo Thế Tôn hành phạm hạnh."
Bấy giờ Ưu-bà-di Tì-xá-khư, khi nghe Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc nói, khéo léo thọ trì, tụng tập, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ dưới chân Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc, đi nhiễu ba vòng rồi lui về.
Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc sau khi tiễn Ưu-bà-di Tì-xá-khư đi cách đó không lâu, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, rồi lui đứng một bên, đem hết những điều thảo luận cùng Ưu-bà-di Tì-xá-khư bạch lại với Phật, chấp tay thưa rằng:
"Bạch Thế Tôn, con nói như vậy, đáp như vậy, không vu báng Thế Tôn chăng? Nói chân thật, nói như pháp, không có trái nhau, không có tranh cãi, nhầm lẫn chăng?"
Thế Tôn đáp rằng:
"Này Tỳ-kheo-ni, ngươi nói như vậy, đáp như vậy, không vu báng Ta, ngươi nói chân thật, ngươi nói như pháp, nói theo thứ lớp của pháp. Đối với như pháp, không có chống trái nhau, không tranh, không lỗi vậy. Này Tỳ-kheo-ni, nếu Ưu-bà-di Tì-xá-khư đến hỏi Ta, Ta cũng bằng những văn cú như vậy, Ta cũng trả lời Ưu-bà-di Tì-xá-khư bằng nghĩa này, bằng văn cú này. Này Tỳ-kheo-ni, nghĩa này đúng như ngươi đã nói, ngươi cứ như vậy mà thọ trì. Vì sao, những lời này tức là giáo nghĩa vậy."
Phật thuyết như vậy, Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc và chư Tỳ-kheo nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
Chú thích:
[01] Tương đương Pāli: M.44. Cūḷa-vedalla-suttaṃ.
[02] Bản Pāli nói tại Rājagaha, Veḷuvana, Kalandakanivāpa.
[03] Tì-xá-khư Ưu-bà-di 毗 舍 佉 優 婆 夷. Trong bản Pāli: Visākho upāsako, nam cư sĩ Visākha chứ không phải nữ cư sĩ Visākha.
[04] Pháp Lạc Tỳ-kheo-ni 法 樂 比 丘 尼. Pāli: Dhammadinnā bhikkhunī. Bà được xếp vào hàng những Tỳ-kheo-ni có tài biện thuyết. Trước kia bà là vợ của Visākha ở Rājigaha. Bản chữ Hán có thể nhầm Visākha này với Visākā, một nữ cư sĩ hộ đạo nhiệt thành ngang Cấp Cô Độc.
[05] Hiền Thánh. Pāli: ayye, "bạch Thánh ni!"
[06] Tự thân 有 身. Pāli: sakkāya, hữu thân, hay "tát-ca-da".
[07] Ngũ thạnh ấm, hoặc nói là ngũ thủ uẩn. Pāli: pañca upādānakkhandhā.
[08] Tự thân kiến 自 身 見, cũng nói là hữu thân kiến, hay tát-ca-da tà kiến, có hai mươi trường hợp. Pāli: sakkāya-diṭṭhi.
[09] Bất ngự Thánh pháp 不 御 聖 法. Pāli: ariyadhamme avinīto.
[10] Hán: hữu thọ 有 受.
[11] Giác, quán, hỷ, lạc, nhất tâm; hay tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm hay tâm nhất cảnh tánh. Pāli: vitakka, vicāra, pīti, sukha, cittekaggatā.
[12] Đoạn, theo trả lời đây là định. Pāli: samādhi (định), samādhinimittā (định tướng), samādhiparikkhāra (định lực, định công hay tư trợ, tư cụ của định), samādhibhavana (định tu, tu định).
[13] Đắc nhất 得 一 hay nói là tâm nhất cảnh tánh, hay tâm nhất thú tánh. Pāli: ekaggatā.
[14] Tưởng tri 想 知, hay tưởng và thọ. Pāli: saññā-vedayita.
[15] Hán: giác 受, tức thọ, hay cảm thọ. Pāli: vedanā.
[16] Hán: cánh lạc 更 樂. Pāli: phassa.
[17] Lạc cánh lạc sở xúc sanh 樂 更 樂 所 觸 生.
[18] Sử 使, kết sử, hay tùy miên. Pāli: anusaya.
[19] Dục sử 欲 使, hay tham dục tùy miên. Pāli: rāgānusaya.
[20] Nhuế sử 恚 使, hay sân tùy miên. Pāli: paṭighānusaya.
[21] Vô minh sử 無 明 使, hay vô minh tùy miên. Pāli: avijjānusaya.
[22] Hán: quân 君. Có thể nam, có thể nữ. Có sự bất nhất về phái tính nhân vật trong bản Hán. Pāli: avuso.
211. KINH ĐẠI CÂU-HY-LA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại thành Vương xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử vào lúc xế từ tĩnh tọa dậy, đi đến chỗ Tôn giả Đại Câu-hy-la, [02] chào hỏi nhau xong rồi ngồi xuống một bên.
Tôn giả Xá-lê Tử nói rằng:
"Này Hiền giả Đại Câu-hy-la, tôi có điều muốn hỏi, Hiền giả nghe cho chăng?
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng:
"Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, muốn hỏi xin cứ hỏi, tôi nghe xong sẽ suy nghĩ."
Tôn giả Xá-lê Tử hỏi rằng:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, bất thiện, được nói là bất thiện; bất thiện căn, được nói là bất thiện căn. Thế nào là bất thiện? Thế nào là bất thiện căn?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Thân ác hành, khẩu và ý ác hành, đó là bất thiện vậy. Tham, nhuế, si, đó là bất thiện căn vậy. Đó là bất thiện và bất thiện căn."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Hay thay! Lành thay! Hiền giả Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong, hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Câu-hy-la, thiện, được nói là thiện; thiện căn, được nói là thiện căn. Thế nào là thiện? Thế nào là thiện căn?
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Thân diệu hạnh, khẩu và ý diệu hạnh, đó là thiện vậy. Không tham, không nhuế, không si, đó là thiện căn vậy. Đó là thiện và thiện căn."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Trí tuệ, được nói là trí tuệ. Thế nào là trí tuệ?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng:
"Biết như vậy, cho nên nói là trí tuệ. Biết những gì? Biết như thật 'Đây là Khổ', biết như thật 'Đây là Khổ tập', 'Đây là Khổ diệt', 'Đây là Khổ diệt Đạo'. Biết như vậy cho nên được nói là trí tuệ."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, thức, được nói là thức; thế nào là thức?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Thức, nhận thức, cho nên nói là thức. [3] Nhận thức những gì? Nhận thức, sắc, nhận thức thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thức, nhận thức, cho nên nói là thức."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, trí tuệ và thức, hai pháp này hiệp nhất hay riêng biệt? Có thể thi thiết hai pháp này riêng biệt chăng?"[4]
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Hai pháp này hiệp nhất chứ không riêng biệt. Không thể thi thiết hai pháp ấy riêng rẽ. Vì sao vậy? Những gì được biết bởi trí tuệ cũng được biết bỡi thức. Cho nên hai pháp này hiệp nhất chứ không riêng biệt, và không thể cho rằng hai pháp này riêng rẽ."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, người biết, ngài lấy gì để biết?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Biết, tôi do trí tuệ mà biết."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Tôn giả Đại Câu-hy-la!"
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, trí tuệ có nghĩa gì? Có sự thù thắng gì? Có công đức gì?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Trí tuệ có nghĩa yểm ly, có nghĩa vô dục, có nghĩa thấy như thật.[5"]
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, thế nào là chánh kiến?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Biết như thật về Khổ, biết như thật về Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo. Đó gọi là chánh kiến."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu nhân, có bao nhiêu duyên sanh chánh kiến?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có hai nhân, có hai duyên sanh chánh kiến. Những gì là hai? Một là duyên từ người khác, hai là nội tâm tư duy. Đó là có hai nhân, có hai duyên sanh chánh kiến."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu chi thâu nhiếp chánh kiến để đạt được tâm giải thoát quả, tuệ giải thoát quả, đạt được tâm giải thoát công đức, tuệ giải thoát công đức?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có năm chi thâu nhiếp chánh kiến để đạt được tâm giải thoát quả, tuệ giải thoát quả; đạt được tâm giải thoát công đức, tuệ giải thoát công đức. Những gì là năm? Một là được thâu nhiếp bởi chân đế, hai là được thâu nhiếp bởi giới, ba là được thâu nhiếp bởi bác văn, bốn là được thâu nhiếp bởi chỉ, năm là được thâu nhiếp bởi quán. Đó gọi là năm chi thâu nhiếp chánh kiến để đạt được tâm giải thoát quả, tuệ giải thoát quả, đạt được tâm giải thoát công đức, tuệ giải thoát công đức."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, như thế nào sanh sự hữu trong tương lai [06]?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Phàm phu ngu si, vô tri, không đa văn, bị vô minh che lấp, bị ái kết trói buộc, không gặp thiện tri thức, không hiểu biết Thánh pháp, không điều ngự Thánh pháp, đó gọi là làm phát sanh sự hữu trong tương lai."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, thế nào là không sanh sự hữu trong tương lai?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Nếu vô minh đã diệt, minh đã sanh, tất diệt tận khổ. Đó gọi là không phát sanh sự hữu trong tương lai."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu thọ?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có ba thọ, là khổ thọ, lạc thọ và không khổ không lạc thọ. Thọ này duyên đâu mà có? Duyên xúc mà có."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la!"
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, thọ, tưởng, tư, ba pháp này hiệp nhất hay riêng biệt? Có thể thi thiết ba pháp này riêng biệt chăng?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng:
"Thọ, tưởng, tư, ba pháp này hiệp nhất không riêng biệt. Không thể thi thiết ba pháp này là riêng biệt. Vì sao? Những gì được cảm thọ bởi thọ, cũng được tưởng bởi tưởng, được tư bởi tư. Cho nên nói ba pháp này hiệp nhất không riêng biệt, và không thể thi thiết ba pháp này riêng biệt."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Diệt có sự đối ngại gì?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Diệt không có sự đối ngại."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có năm căn với hành dị biệt [07], cảnh giới dị biệt, mỗi căn lãnh thọ cảnh giới riêng. Nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn. Năm căn hành tướng dị biệt, cảnh giới dị biệt, mỗi căn tự lãnh thọ cảnh giới riêng. Vậy cái gì lãnh thọ tất cả cảnh giới cho chúng? Cái gì làm sở y cho chúng?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng:
"Năm căn với hành tướng dị biệt, với cảnh giới dị biệt, mỗi căn lãnh thọ cảnh giới riêng. Nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn. Năm căn này với hành tướng riêng biệt, với cảnh giới riêng biệt, mỗi căn lãnh thọ cảnh giới riêng; ý lãnh thọ tất cả cảnh giới cho chúng. Ý làm sở y cho chúng."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Ý nương tựa vào đâu mà tồn tại?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Ý nương tựa vào tuổi thọ mà tồn tại."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, tuổi thọ nương vào đâu mà tồn tại?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng:
"Tuổi thọ nương vào hơi ấm mà tồn tại."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, tuổi thọ và hơi ấm, hai pháp này hiệp nhất hay riêng biệt? Có thể thi thiết hai pháp này riêng biệt chăng?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Tuổi thọ và hơi ấm hai pháp này hiệp nhất không riêng biệt. Không thể cho rằng hai pháp này riêng biệt. Vì sao? Nhân tuổi thọ mà có hơi ấm; nhân hơi ấm mà có tuổi thọ. Nếu không có tuổi thọ thì không có hơi ấm, nếu không có hơi ấm thì không có tuổi thọ. Cũng như do dầu do bấc mà đốt được đèn; và ở đây do ngọn mà có ánh sáng, do ánh sáng mà có ngọn. Nếu không có ngọn thì không có ánh sáng, không có ánh sáng thì không có ngọn. Cũng vậy, nhân tuổi thọ mà có hơi ấm, nhân hơi ấm mà có tuổi thọ. Nếu không có tuổi thọ thì không có hơi ấm, không có hơi ấm thì không có tuổi thọ. Cho nên hai pháp này hiệp nhất không riêng biệt, và không thể cho rằng hai pháp này riêng biệt."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu pháp khi sanh thân chết rồi bỏ xác ngoài bãi tha ma như cây gỗ vô tình?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có ba pháp khi sanh thân chết rồi bỏ xác ngoài bãi tha ma như cây gỗ vô tình. Những gì là ba? Một là tuổi thọ, hai là hơi ấm, ba là thức. Ba pháp này sau khi sanh thân chết rồi, bỏ xác ngoài bãi tha ma như cây gỗ vô tình."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, chết và nhập diệt tận định khác nhau như thế nào?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Chết là thọ mạng đã diệt, hơi nóng ấm đã đi, các căn tan rã. Tỳ-kheo nhập diệt tận định, tuổi thọ chưa hết, hơi ấm cũng chưa đi, các căn chưa tan rã. Chết và nhập diệt tận định khác nhau như vậy."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, nhập diệt tận định và nhập vô tưởng định khác nhau như thế nào?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Tỳ-kheo nhập diệt tận định thì tưởng và tri đã diệt. Tỳ-kheo nhập vô tưởng định thì tưởng và tri không diệt. Nhập diệt tận định và nhập vô tưởng định khác nhau như vậy."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, ra khỏi diệt tận định và ra khỏi vô tưởng định khác nhau như thế nào?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Tỳ-kheo ra khỏi diệt tận định không nghĩ như vầy, 'Ta ra khỏi diệt tận định'. Tỳ-kheo ra khỏi vô tưởng định suy nghĩ như vầy, 'Ta có tưởng hay ta không có tưởng?' Ra khỏi diệt tận định và vô tưởng định khác nhau như vậy."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, Tỳ-kheo nhập diệt tận định trước hết diệt pháp nào, thân hành, khẩu hành hay ý hành?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Tỳ-kheo nhập diệt tận định trước hết diệt thân hành, kế đến khẩu hành và sau hết là ý hành."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, Tỳ-kheo ra khỏi diệt tận định, pháp nào phát sanh trước hết? Thân hành, khẩu hành hay ý hành?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Tỳ-kheo ra khỏi diệt tận định, trước hết sanh thân hành, kế đến sanh khẩu hành và sau cùng sanh ý hành."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Tỳ-kheo khi ra khỏi diệt tận định, xúc bao nhiêu loại xúc?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Tỳ-kheo ra khỏi diệt tận định, xúc ba loại xúc. Những gì là ba? Một là xúc không di động; hai là xúc vô sở hữu; ba là xúc vô tướng. Tỳ-kheo khi ra khỏi diệt tận định xúc ba loại xúc này."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, không, vô nguyện, vô tướng, ba pháp này khác nhau về nghĩa, về văn? Hay cùng một nghĩa một văn?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Không, vô nguyện, vô tướng, ba pháp này khác nghĩa, khác văn."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong, khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu nhân, bao nhiêu duyên phát sanh bất động định?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có bốn nhân, bốn duyên phát sanh bất động định. Những gì là bốn? Nếu Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho đến chứng đắc Tứ thiền thành tựu an trụ. Đó gọi là bốn nhân bốn duyên phát sanh bất động định."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu nhân, bao nhiêu duyên phát sanh vô sở hữu định?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có ba nhân, ba duyên phát sanh vô sở hữu định. Những gì là ba? Nếu Tỳ-kheo vượt tất cả sắc tưởng cho đến chứng đắc vô sở hữu xứ thành tựu an trụ. Đó gọi là ba nhân ba duyên phát sanh vô sở hữu định."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu nhân, bao nhiêu duyên phát sanh vô tưởng định?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có hai nhân, hai duyên phát sanh vô tưởng định. Những gì là hai? Một là không suy niệm tất cả mọi tưởng, hai là suy niệm vô tưởng giới. Đó gọi là có hai nhân, hai duyên phát sanh vô tưởng định."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu nhân, bao nhiêu duyên trụ vô tưởng định?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có hai nhân, hai duyên trụ vô tưởng định. Những gì là hai? Một là không niệm tất cả tưởng, hai là niệm vô tưởng giới. Đó là hai nhân duyên hai duyên trụ vô tưởng định."
Tôn giả Xá-lê Tử nghe xong khen rằng:
"Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu-hy-la."
Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
"Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu nhân bao nhiêu duyên ra khỏi vô tưởng định?"
Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp:
"Có ba nhân ba duyên ra khỏi vô tưởng định. Những gì là ba? Một là niệm tất cả tưởng; hai là không niệm vô tưởng giới; ba là do thân này và do sáu xứ duyên mạng căn. Đó gọi là có ba nhân, ba duyên ra khỏi vô tưởng định."
Như vậy, hai vị Tôn giả tán thán lẫn nhau rằng: "Lành thay! Lành thay!" và những điều được thảo luận đó, hoan hỷ phụng hành, rồi rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy mà đi.
Chú thích:
[01] Tương đương Pāli. M.43. Mahā-vedalla-suttaṃ. Phần lớn, những vấn đề được thảo luận trong kinh, đối chiếu và xem chú thích ở Kinh 210 trên.
[02] Đại Câu-hy-la 摩 訶 拘 絺 羅. Pāli: Mahā-Koṭṭthika.
[03] Thức thức, thị cố thuyết thức 識 識 是 故 說 識. Pāli: vijānāti vijānātī'ti kho āvuso tasmā viññāṇan ti vuccati.
[04] Pāli: labbhā ca panimesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetun ti, có thể chăng sau khi phân tích rồi phân tích các pháp này mà giả thiết hành tướng sai biệt của chúng?
[05] Pāli: paññā kho āvuso abhiññatthā pariññatthā pahānatthā ti, trí tuệ có nghĩa thaéng tri, có nghĩa biến tri, có nghĩa đoạn trừ.
[06] Đương lai hữu 當 來 有. Pāli: āyatiṃ punabbhavābhimibbatti, sự tái sanh xảy ra trong tương lai.
[07] Hành dị 行 異. Pāli: nānāgocarāni, có môi trường hoạt động sai biệt, sai biệt sở hành cảnh giới.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 60 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 13.59.35.116 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập