Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông [楞嚴經宗通] »» Bản Việt dịch quyển số 10 »»

Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông [楞嚴經宗通] »» Bản Việt dịch quyển số 10

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Quyển cuối
Việt dịch: Nhẫn Tế

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

E. PHẠM VI CỦA HÀNH ẤM
Kinh: “Anan, thiện nam tử kia, tu Tam Ma Đề, khi Tưởng Ấm hết rồi thì những mộng tưởng bình thường của người ấy tiêu diệt. Thức, ngủ là một, tánh Giác Minh rỗng lặng như hư không trong trẻo, không còn những sự tướng tiền trần thô trọng. Xem những núi sông, đất liền của thế gian như gương soi sáng, đến không chỗ dính, đi không dấu vết, rỗng thọ chiếu ứng, rõ ràng không còn các tập khí, chỉ thuần một tính Tinh Chân.
“Căn nguyên của Sanh Diệt từ đó phơi lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh mười phương, rõ hết các loài. Tuy chưa thông suốt manh mối của mỗi chúng sanh nhưng đã thấy cái cơ sở sanh diệt chung, giống như bóng dã mã, vùn vụt lăng xăng sơ tượng hiện ra, làm cái then chốt phát sanh của Phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của Hành Ấm.
“Nếu cái nguồn gốc của những chớp nhoáng lăng xăng đó nhập vào tánh lặng trong bản lai, những tập khí nguồn gốc lặng trong thành một phiến, như sóng mòi diệt hóa thành nước đứng, thì gọi là Hành Ấm hết. Người đó liền vượt khỏi Chúng Sanh Trược. Xét lại nguyên do, cội gốc là Vọng Tưởng u ẩn.
“Anan, ông nên biết rằng các thiện nam tử được sự Chánh Tri trong Tam Ma Đề thì Chánh Tâm đứng lặng sáng suốt, mười loài Thiên Ma không còn được dịp khuấy phá, mới được cứu xét cùng tột cái cội gốc sanh loại. Nơi cái cội gốc sanh loại, nguồn gốc sự sống bày lộ ra. Xét cái cội nguồn máy động lăng xăng tròn khắp giản phác u ẩn kia ở trong Tánh vốn toàn vẹn lại mống tâm so đo suy diễn, thì người đó rơi lọt vào hai thứ luận Vô Nhân.
“Một là, người đó thấy cái gốc vốn không có Nhân. Vì sao thế? Người đó đã phá lộ hoàn toàn được cơ quan của Sanh Diệt, nương theo tám trăm công đức của Nhãn Căn, thấy được trong tám muôn kiếp tất cả chúng sanh đều do dòng nghiệp lực mà xoay vần, chết đây sanh kia. Chỉ thấy chúng sanh luân hồi trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không thấy gì, bèn khởi tâm suy diễn rằng những loài chúng sanh mười phương trong thế gian này trước tám vạn kiếp không có Nhân, mà tự có. Do sự suy diễn này, bỏ mất Chánh Biến Tri, rơi lạc vào ngoại đạo, mê lầm Tánh Bồ Đề.
“Hai là, người đó thấy cái ngọn không có Nhân. Vì sao thế? Người đó nơi sự Sanh Diệt đã thấy cội gốc, biết rằng người sanh người, rõ chim sanh chim, quạ xưa nay đen, hộc xưa nay trắng, người, trời thì thân đứng, súc sanh thì thân ngang, màu trắng không phải do tẩy mà thành, màu đen chẳng phải do nhuộm mà ra. Suốt tám muôn kiếp không hề dời đổi, sống hết đời này cũng lại vẫn vậy, mà mình xưa nay chẳng thấy Bồ Đề, làm sao có chuyện thành tựu Bồ Đề, rồi cho rằng tất cả sự vật ngày nay đều vốn không có Nhân.
“Do so đo suy diễn như vậy, bỏ mất Chánh Biến Tri, rơi lạc vào ngoại đạo, mê lầm Tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Nhất, lập ra luận Vô Nhân.
Thông rằng: Tưởng Ấm chưa hết thì khi thức bám lấy hình tướng, khi ngủ thành ra mộng mị, bởi thế đuổi theo bóng dáng tiền trần thô trọng. Tưởng Ấm đã hết, bên trong giữ lấy sự yên tĩnh, vắng vẻ, thức ngủ là một, sự giác minh rỗng lặng như gương soi sáng, tuy không có dấu vết tới lui, vẫn còn có bóng dáng quang minh, vẫn còn là việc bên phía pháp trần. Trước đây, tiền trần ám che quấy nhiễu, chỉ tùy sanh diệt mà trôi lăn, chẳng thấy cái gốc nguồn, nay đã rỗng thọ chiếu ứng, chỉ thuần một tính Tinh Chân, Sanh diệt đã dừng, do đó mà cái căn nguyên hiển lộ, thấy được cái cơ sở Sanh Diệt chung, miên miên mật mật, đổi dời vi tế, ấy là sóng lăn tăn mà không gió. Dã mã là bụi lăng xăng, vùn vụt là chớp nhoáng vậy. Hành Ấm vi tế giống như bụi lăng xăng khi mặt trời chiếu qua khe cửa. Vùn vụt chớp nhoáng thì rõ là không có tướng trụ, chợt sanh chợt diệt, không còn ảnh tướng nặng nề nên gọi là lăng xăng sơ tượng (thanh nhiễu). Bốn Đại, cái lăng xăng sơ tượng là căn nguyên của phù căn tứ trần, thể của nó vốn không, là cái then chốt phát sanh, thật là ở chỗ này. Dính che tánh lặng trong mà phát khởi, thì có sáu Căn. Từ người, trời cho đến trùng, kiến, không loài nào không có bốn Đại, sáu Căn, nên cái lăng xăng sơ tượng của bốn Đại là cơ sở Sanh Diệt chung của mười hai loài chúng sanh. Đây gọi là phạm vi của Hành Ấm.
Nếu thông đạt được biệt tướng thì có thể thấy mối manh của chúng sanh, Huệ Phước chẳng đồng đều vì do nhiều đời tích tập chủng tử mà phát hiện ra. Đó thuộc về phía Thức Ấm, cho nên mới đến Hành Ấm thì không có lăng xăng, nên nói là nguyên tánh. Cái chỗ không thể không bị nhiễu loạn ấy là do tập khí nhiều đời vậy, nên gọi là tập khí nguồn gốc. Tập khí không thể làm lặng đứng tập khí, chỉ có tánh về nguồn thì có thể lắng trong, dùng cái tánh lắng trong mà lắng đứng tập khí nguồn gốc thì sự trôi lăn dứt hết, như không có gió thì sóng lăn tăn diệt, liền hóa thành nước đứng vậy. Nước đứng yên cho đến chỗ lắng trong chẳng chao động thì gọi là Hành Ấm hết, người ấy liền siêu việt Chúng Sanh Trược.
Chúng Sanh Trược nghĩa là sanh diệt chẳng dừng, dòng nghiệp thường trôi dời. Nay cái chẳng dừng đã dừng, chỗ thường trôi dời ấy chẳng trôi dời nữa, hầu như vào Diệt Tận Định, nên là siêu việt. Nhưng Hành Ấm âm thầm dời đổi, chưa từng là Giác Ngộ, lấy cái Vọng Tưởng u ẩn làm gốc. Ở chỗ u nhàn ẩn mật mà phá trừ được, chẳng phải là người triệt ngộ thì không thể làm nổi. Người đó thức ngủ là một, đó là được Chánh Tri, cũng như ở trước, Động tĩnh chẳng dời, nhớ quên như một, trụ ngay chỗ ấy mà vào Tam Ma Đề, cùng một đường mạch. Dùng đó làm tầng bậc phát ngộ thì nên, còn nắm giữ mà cho là thật chứng thì không nên.
Bởi thế, Tưởng Ấm hết thì chánh tâm lặng sáng, các tà lự tự chúng không từ đâu mà sanh, ắt mười loại Thiên Ma cũng không có cơ duyên gì để vào. Thiên Ma chưa từng rời tà tưởng mà hiện được thần biến, nay Tưởng Ấm hết sạch, xem xét thấy cái cội nguồn lay động u ẩn giản phác là đã vào cõi trời Vô Tưởng vậy. Thiên Ma của sáu cõi trời Dục Giới chẳng thể trộm thấy được.
U ẩn giản phác là vốn không có chỗ động. Lăng xăng tròn khắp là động mà chưa từng động vậy, nên gọi là cội nguồn máy động. Cái cội nguồn máy động tuy là tròn khắp mà chẳng là sanh diệt, nên ở đây mà suy diễn thì đều là ở trong sanh diệt mà suy diễn ra sự Vô Nhân vậy.
Một là, thấy cái gốc vốn không có Nhân, chẳng ngộ được nghiệp duyên thiện ác là duy Thức tạo ra. Chỉ bằng vào cái sanh tướng tạm thời không có mà cái Hành Ấm trôi chảy chẳng ngừng, ở trong Định này phát ra Túc Mạng Thông, thấy trong tám vạn kiếp chúng sanh luân hồi như chiếc vòng không có đầu mối, bèn cho chúng sanh là không có Nhân, tự nhiên mà có. Ngoài tám vạn kiếp mờ mịt không thấy gì, nên chẳng biết Bồ Đề là Chánh Nhân vậy.
Hai là, thấy cái ngọn không có Nhân, chẳng ngộ được nghiệp quả thiện ác là do Tâm chiêu cảm. Chỉ cậy vào sức thần thông có thể thấy sau tám vạn kiếp, mà cái tướng chưa dời đổi của nghiệp quả lâu dài, bèn cho rằng người, vật, đen, trắng, dọc, ngang xưa nay như vậy, chẳng phải do tu mà được, nên không biết Bồ Đề là cực quả.
Mê lầm tánh Bồ Đề thì chẳng gọi là Chánh Tri. Chỉ biết trước sau tám vạn kiếp thì chẳng gọi là Biến Tri. Ngoại đạo Mạt Già Lê nói rằng khổ vui của chúng sanh không do hành vi mà được, đều tự nhiên như vậy, chính là kiến giải này. Hai cái thuyết Vô Nhân này chỉ thấy đến chỗ Thức Thứ Bảy không có gốc, nên sự truyền tống vào Thức Thứ Tám tạm ngừng mà sanh ra sự so đo này. Vì Thức Thứ Bảy bên trong chỉ nương theo Thức Thứ Tám, sanh mà không có gốc, nên cho là gốc vốn không Nhân. Vì Thức Thứ Bảy bên ngoài chỉ nương theo Thức Thứ Sáu, nên cho là vô dụng, bèn bảo là ngọn không có Nhân. Chỉ thấy sự trôi chảy không ngừng của Thức Thứ Bảy, bèn cho rằng tự nhiên như vậy.
Thầy Kính Thanh hỏi Tổ Linh Vân: “Hỗn độn chưa phân thì thế nào?”
Tổ Vân nói: “Cây lộ trụ mang thai!”
Thầy Thanh: “Phân rồi thì thế nào?”
Tổ Vân nói: “Như điểm mây trong bầu trời”.
Thầy Thanh: “Thế thì bầu trời có bị chấm không?”
Tổ Vân không đáp.
Thầy Thanh rằng: “Như thế thì cả hàm linh chẳng có đến vậy?”
Tổ Vân cũng không đáp.
Thầy Thanh: “Ngay đây được ròng trong không một điểm thì thế nào?”
Tổ Vân nói: “Vẫn còn là cái chân thường trôi chảy”.
Thầy Thanh: “Như sao là chân thường trôi chảy”.
Tổ Vân: “Tương tự gương thường sáng”.
Thầy Thanh: “Hướng thượng lại có việc gì chăng?”
Tổ Vân: “Có”.
Thầy Thanh: “Như sao là việc hướng thượng?”
Tổ Vân : “Đập vỡ gương rồi; cùng ông tương kiến!”
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Phân với chưa phân: khung cửi ngọc ban đêm động. Điểm với chẳng điểm: thoi vàng trong tối vất. Dầu là một sắc vàng ròng trong, chưa được mười phần yên ổn. Hãy nói đập vỡ gương rồi hướng về đâu tương kiến? Có hiểu chăng?
“Thỏ ngọc mất rồi trời thu sáng
Nước trong rồng thoát cốt tức thời”.
Cái chân thường trôi chảy nhặt nhiệm này vừa vặn phù hợp với Hành Ấm, Tương tự gương thường sáng, cũng là Gương soi sáng của Kinh không khác. Nếu đập vỡ gương đi mà tương kiến, như rồng nơi nước trong thoát cốt mà ra thì chuyển ngay thành Trí vậy. Đâu phải chỉ phá Hành Ấm mà thôi ư?
Kinh: “Anan, trong Tam Ma Đề đó, các thiện nam tử chánh tâm lặng trong, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, trong Tánh Viên Thường lại khởi lên so tính thì người ấy sa vào bốn cái Luận Biến Thường.
“Một là, người ấy xét cùng tánh của Tâm Cảnh, cả hai đều không có Nhân. Tu tập biết được trong hai vạn kiếp mười phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều là xoay vần, chưa hề tan mất, nên chấp đó là Thường.
“Hai là, người ấy xét cùng nguồn gốc tứ Đại, thấy bốn Đại thường trụ. Tu tập biết được trong bốn vạn kiếp, mười phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều nằm trong bản thể thường hằng, chưa hề tan mất, nên chấp đó là Thường.
“Ba là, người ấy xét cùng sáu Căn, trong Tâm, Ý và Thức của Mạt Na Thức chấp thọ thì thấy cái gốc gác nguyên do tánh vẫn thường hằng. Tu tập biết được trong tám vạn kiếp, tất cả chúng sanh xoay vần chẳng mất, bản lai thường trụ. Xét cùng cái tánh chẳng mất đó, chấp ấy là Thường.
“Bốn là, người ấy đã hết Tưởng Ấm, cái lẽ sanh diệt không còn, sự trôi chuyển dừng lặng, tâm tưởng sanh diệt nay đã vĩnh viễn diệt dứt. Trong lý tự nhiên thành ra cái chẳng sanh diệt. Do tâm so tính mà chấp đó là Thường.
“Do những sự Chấp Thường ấy, bỏ mất Chánh Biến Tri, sa vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Hai, lập ra những luận Viên Thường.
Thông rằng: Lập ra luận Vô Nhân là vì thấy Đoạn, lập ra luận Viên Thường là do thấy Thường. Suy ra Cũng Đoạn cũng Thường, chẳng phải Đoạn, chẳng phải Thường đều không ra khỏi tà kiến Đoạn-Thường. Cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại cho đến cội nguồn máy động thì thấy nó hư rỗng mà càng phát ra, động mà chẳng cùng, bèn chấp là Thường. Từ rộng đến hẹp, từ thô đến tinh, đại khái có thứ lớp : Một là, thông đạt rằng năm Ấm, bốn Đại, Tâm Cảnh cả hai đều không có Nhân mà tự có, tuần hoàn chẳng mất. Hai là, chỉ thấy cái tánh của bốn Đại thanh tịnh, có thể thành cái Sắc Ấm của chúng sanh, thể thường bất biến. Ba là, chỉ thấy Tâm Thức, sáu Căn nương vào Thức Thứ Bảy Mạt Na, chấp thọ là Tâm, chấp thọ là Ý, chấp thọ là Thức. Bổn nguyên của các thứ này là Hành Ấm. Chúng sanh tuy có tuần hoàn mà Hành Ấm chẳng mất, thì cái Thức Thứ Bảy này là tánh thường trụ. Như nhìn nước chảy xiết mà cho là đứng yên. Đây chính là Vô thủy đến nay, nguồn sanh tử. Người si lại gọi Bổn Lai Nhân.
Bốn là, nhận lầm Hành Ấm là lý Tự Nhiên, cho rằng cái tâm tưởng sanh diệt đã diệt hết, thì chỗ diệt dứt vĩnh viễn đó tự nhiên thành cái chẳng sanh diệt. Vậy là ở trong sanh diệt mà chấp là chẳng sanh diệt. Ví như thấy hư không bèn cho là Thường Trụ, chẳng biết hư không cũng có thể diệt. Lại nữa, nhân nơi tâm mà so tính cho là thường, thì chẳng thể so sánh với cái thấy chân thật cái Thường vậy.
Bốn cái chấp này còn chưa thấy được sự trôi chảy thường hằng của Thức Thứ Tám, huống là chuyển Thức để thấy Tánh Bồ Đề ư?
Thầy Thụy Nham hỏi Tổ Nham Đầu: “Như sao là lý bổn thường?”
Tổ Đầu nói: “Động”.
Thầy Nham: “Khi động thì sao?”
Tổ Đầu: “Chẳng thấy lý bổn thường!”
Thầy Nham dừng lại suy nghĩ.
Tổ Đầu nói: “Chịu thì chẳng thoát căn trần. Không chịu thì mãi chìm sanh tử”.
Thầy Nham lễ bái.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng:
“Viên châu (ngọc) chẳng xoi lỗ
Ngọc khối chẳng phải mài
Đạo nhân vốn quý không góc cạnh
Khẳng định vất đi, căn trần không
Thoát thể vô y, đời tự tại”.
Đây là chỗ xưa nay thường trụ, thấy cái cực chân. Một chữ Khẳng [Chịu] còn vất bỏ đi, huống là so đo chấp thọ Thần Ngã để sa vào hang tối Viên Thường, rốt rồi chìm đắm, há có thể Thường được ư?
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề, các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, lại khởi tâm so tính ra cái Ta và cái khác Ta, thì người ấy sa vào bốn Kiến Chấp điên đảo, là những luận Một phần Vô Thường, một phần Thường.
“Một là, người ấy xét thấy cái tâm diệu minh lặng nhiên khắp mười phương cõi, cho là Thần Ngã rốt ráo. Từ đó suy diễn rằng Ta khắp cả mười phương, lặng sáng chẳng động, còn tất cả chúng sanh, ở trong tâm Ta tự sanh tự chết. Vậy thì tâm tánh của Ta gọi là Thường, còn các thứ sanh diệt kia là tánh Vô Thường.
“Hai là, người ấy không xét xem cái tâm, lại xét xem khắp mười phương hằng sa cõi nước, thấy chỗ kiếp hoại thì cho là chủng tánh rốt ráo Vô Thường, còn chỗ kiếp chẳng hoại thì gọi là rốt ráo Thường.
“Ba là, người ấy xét xem riêng cái Tâm mình, thấy nó tinh tế nhỏ nhiệm giống như vi trần, lưu chuyển mười phương, tính không dời đổi. Có thể khiến thân này liền sanh liền diệt. Cho cái tánh chẳng hoại đó là tính Thường của mình, còn tất cả sự sanh tử từ tánh ấy sanh ra thì gọi là tánh Vô Thường.
“Bốn là, người ấy biết Tưởng Ấm hết, thấy dòng Hành Ấm, chấp rằng sự trôi chuyển không ngừng của Hành Ấm là tánh Thường, còn Sắc, Thọ, Tưởng nay đã diệt hết thì cho là Vô Thường.
“Do sự so tính Một phần Vô Thường, một phần Thường đó mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Ba, lập ra những luận Một Phần Thường.
Thông rằng: Đây là kiến chấp Cũng Thường, cũng Vô Thường vậy. Cái Tâm vốn diệu minh, khắp cả mười phương cõi chưa từng chẳng phải, chỉ vì chấp đó là Thần Ngã thì liền chẳng phải vậy. Riêng chấp đó là Ngã, chính là cái Ý Thức chấp thọ vào Mạt Na Thức, tuy nói là lặng sáng chẳng động mà thật ra trong đó trôi chảy nhỏ nhiệm, ấy là chủng tử sanh diệt lại chẳng tự hay biết. Đã lấy cái tâm tánh tạm thời chẳng động mà cho là Thường, lại lấy sự sanh diệt của tất cả chúng sanh mà cho là Tánh Vô Thường, bèn cái cùng khắp mười phương ấy hóa ra có hai cái Ngã, há chẳng điên đảo ư?
Không luận Tâm Tánh, chỉ luận về cõi nước, thì Tam Thiền trở xuống còn chịu Tam Tai nên cho là Vô Thường. Tứ Thiền trở lên chẳng còn Tam Tai nên cho là rốt ráo Thường.
Không luận về cõi nước, chỉ luận Tâm Tánh, thì tánh không dời đổi cho đó là tánh Thường của mình. Chết đây, sanh kia thì cho là tánh Vô Thường.
Ban đầu, hợp cái Ta và cái khác Ta gồm lại mà so tính Thường với Vô Thường. Rồi phân cái Ta và cái khác Ta để mỗi cái cho là Thường, Vô Thường. Rồi lại lấy Hành Ấm làm cái Ta, Sắc, Thọ, Tưởng làm cái khác Ta. Hành Ấm thường trôi chuyển, bèn cho là tánh Thường. Sắc, Thọ, Tưởng đã diệt hết thì cho là tánh Vô Thường. Ở trong Nhất Tâm mà phân ra Thường với Vô Thường, thế là Tâm có hai vậy. Há chẳng điên đảo ư? Ở đây so với luận Viên Thường ở trước thì sự không câu chấp ít hơn, nhưng cái Đầu Nguồn (Nguyên Đầu) chẳng rõ nên đều thuộc về sự so tính lầm lẫn.
Quốc sư Huệ Trung hỏi nhà sư: “Phương nào đến?”
Đáp rằng: “Phương Nam đến”.
Quốc sư rằng: “Tri thức phương Nam dạy người như thế nào?”
Nhà sư đáp: “Tri thức phương kia chỉ bày cho người học Đạo ngay đây tức Tâm tức Phật. Phật là nghĩa Giác. Hiện nay các ông hẳn sẵn đủ cái tánh của thấy, nghe, hay, biết. Cái Tánh này đây thiệt hay nhướng mày, nháy mắt, vận dụng tới lui khắp ở trong thân. Chạm đầu, đầu biết; chạm chân, chân hay nên gọi là Chánh Biến Tri. Lìa ngoài cái ấy không còn Phật nào khác. Thân này thì có sanh diệt, còn Tâm Tánh vô thủy đến nay chưa từng sanh diệt. Thân sanh diệt thì như rồng thay cốt, rắn đổi da, người ra nhà cũ. Tức thân là Vô Thường, Tánh ấy là Thường vậy. Lời dạy phương Nam đại khái là thế”.
Quốc sư nói: “Nếu vậy, thì khác gì Tiên Ni ngoại đạo đâu? - Họ nói rằng : Trong thân này của ta có một Thần Tánh. Tánh này hay biết đau, ngứa. Khi thân hoại rồi, cái Thần ắt ra đi, như nhà bị cháy thì chủ ra. Nhà thì vô thường, chủ nhà thì thường.
“Xét xem như vậy, thì tà chánh chẳng biện, gì là phải đây? Ta từng du phương, thấy nhiều loại này, gần đây lại càng thịnh hành. Nhóm lại năm, ba trăm chúng, mắt thấy mơ hồ, bảo đó là “Tông Chỉ Nam Phương”. Lấy cuốn Đàn Kinh kia mà sửa đổi, thêm thắt lộn xộn, bỏ tiêu Thánh ý, làm cho lầm loạn người hậu học, há thành lời chỉ dạy ư ? Khổ thay cho Tông Chỉ nhà ta lấp vùi đó vậy. Nếu cho thấy, nghe, hay, biết là Phật Tánh thì lẽ ra Đức Tịnh Danh chẳng có nói “Pháp lìa thấy, nghe, hay, biết. Nếu hành thấy, nghe, hay, biết thì chỉ là thấy, nghe, hay, biết chẳng phải thật là cầu pháp””.
Nhà sư lại hỏi: “Kinh Pháp Hoa Liễu Nghĩa khai Phật Tri Kiến, đó lại là tại sao?”
Quốc sư rằng: “Đấy nói “Khai Phật Tri Kiến, chẳng nói Bồ Tát, Nhị Thừa”, thì há có thể lấy chuyện si mê điên đảo của chúng sanh mà cho là đồng Tri Kiến của Phật ư?”
Thầy Hành Xương hỏi Đức Lục Tổ: “Đệ tử thường xem kinh Niết Bàn mà chưa hiểu nghĩa Thường với Vô Thường. Xin thầy giải thích cho”.
Tổ nói: “Vô Thường đó, tức là Phật Tánh vậy. Hữu Thường đó, tức là hết thảy các pháp thiện, ác của tâm phân biệt vậy”.
Bạch rằng: “Chỗ nói của Hòa Thượng rất trái với kinh văn”.
Tổ nói: “Ta truyền tâm ấn Phật, đâu dám trái kinh Phật”.
Bạch rằng: “Kinh nói “Phật Tánh là “Thường”, Hòa Thượng lại nói là “Vô Thường”. “Các pháp thiện ác cho đến Bồ Đề Tâm đều là Vô Thường”, Hòa Thượng lại nói là “Thường”. Thế là trái nhau, khiến cho học nhơn này càng thêm nghi hoặc”.
Tổ nói: “Kinh Niết Bàn ta đã nghe ni cô Vô Tận Tạng đọc tụng một lần, bèn giảng nói cho nghe, không một chữ, một nghĩa nào chẳng hợp với kinh văn. Đến nay vì ông cũng không nói khác”.
Bạch rằng: “Chỗ biết của học nhân cạn cợt tối tăm, mong Hòa Thượng chỉ bày tường tận”.
Tổ nói: “Ông biết không? Phật Tánh nếu Thường thì còn nói gì các pháp thiện ác, vì cho đến cùng kiếp cũng chẳng có một người nào phát Bồ Đề Tâm, cho nên ta nói Vô Thường, chính là cái mà Phật nói là Đạo Chân Thường vậy. Lại nữa, tất cả các pháp nếu Vô Thường thì mỗi vật đều có Tự Tánh, dung chứa sự sanh tử thì cái tánh Chân Thường có chỗ chẳng cùng khắp, cho nên ta nói Thường, chính là cái mà Phật nói là nghĩa Chân Vô Thường vậy. Xưa, Phật vì hàng phàm phu ngoại đạo chấp vào cái Tà Thường, hàng Nhị Thừa ở nơi Thường lại cho là Vô Thường, cộng lại thành Bát Đảo. Nên trong kinh Niết Bàn Liễu Nghĩa, phá các Biên Kiến kia mà hiển bày cái Chân Thường, Chân Lạc, Chân Ngã, Chân Tịnh.
“Ông nay nghịch với nghĩa kinh, lấy cái Vô Thường đoạn diệt với cái Tử Thường cố định mà hiểu lầm lời dạy tinh tế viên diệu sau cùng của Phật. Dẫu có xem cả ngàn lần, phỏng có ích gì?”
Thầy Hành Xương hốt nhiên đại ngộ, bèn đọc bài kệ:
“Bởi giữ Vô Thường Tâm
“Phật nói Hữu Thường Tánh
“Chẳng biết pháp phương tiện
“Dường lượm sỏi ao xuân
“Giờ chẳng phải thi công
“Mà Phật Tánh hiện tiền
“Chẳng phải thầy trao cho
“Tôi cũng không chỗ đắc”.
Tổ nói: “Giờ ông đã thấu triệt, nên gọi là Chí Triệt”.
Thầy Hành Xương lễ tạ, lui ra.
Cái nghĩa Thường, Vô Thường rất sâu xa như thế này, thì các hàng ngoại đạo cũng chưa hề mộng thấy.
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh so tính về phận vị, thì người ấy sa vào bốn cái luận Hữu Biên.
“Một là, người ấy so tính cái cội nguồn Sanh Diệt lưu chuyển không ngừng, chấp quá khứ, vị lai là Hữu Biên, còn cái tâm tương tục là Vô Biên.
“Hai là, người ấy xét xem trong tám vạn kiếp thì thấy chúng sanh, còn trước tám vạn kiếp thì bặt không thấy nghe gì, rồi gọi chỗ không thấy nghe gì là Vô Biên, còn chỗ có chúng sanh là Hữu Biên.
“Ba là, người ấy cho rằng mình biết cùng khắp là được cái tánh Vô Biên, còn tất cả các người kia hiện ra trong cái biết của mình mà mình không hề biết cái tánh biết của họ, vậy thì họ không được cái tâm Vô Biên, chỉ có tánh Hữu Biên.
“Bốn là, người ấy xét cùng Hành Ấm là Không, dùng chỗ thấy biết của mình mà so lường, trù tính rằng trong một thân của tất cả chúng sanh đều là nửa phần sanh, nửa phần diệt, và chấp rằng tất cả sự vật có ra trong thế giới đều một nửa là Hữu Biên, một nửa là Vô Biên.
“Do sự suy tính Hữu Biên, Vô Biên này mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Tư, lập ra những luận Hữu Biên.
Thông rằng: Đây là ở nơi Thường, Vô Thường theo đó mà khởi ra cái Hữu Biên, Vô Biên. Luận về Thường, Vô Thường thì dùng cái Tánh mà nói, thuộc về Kiến Phần. Về Hữu Biên, Vô Biên thì dùng phận vị mà nói, thuộc Tướng Phần. Một là, phận vị ba đời. Hai là phận vị Thấy, Nghe. Ba là, phận vị Ta-Người. Bốn là phận vị Sanh Diệt. Tất cả đều giới hạn trong phận vị của Hành Ấm mà vọng sanh ra so tính.
Một là, do Hành Ấm lưu chuyển không ngừng nên cho sự lưu chuyển là tam tế quá khứ, hiện tại, vị lai mà gọi là Hữu Biên. Còn cho sự không ngừng là tiếp nối không có bờ mé, mà gọi là Vô Biên.
Hai là, chỉ so tính trong chỗ thấy, nghe được chúng sanh trong tám vạn kiếp mà gọi là Hữu Biên, còn ngoài tám vạn kiếp không thấy, nghe gì nên gọi là Vô Biên.
Ba là, cho rằng mình biết cùng khắp tất cả chúng sanh, đó là tính Vô Biên, còn Tánh Biết của chúng sanh có cùng khắp hay không thì chỉ họ tự biết, chứ mình chẳng hề biết. Vậy chúng sanh bị hạn cuộc nơi sự tự biết, chẳng thể thông tiếp với mình, nên chỉ có tánh Hữu Biên.
Bốn là, xét cùng Hành Ấm là Không, thấy rằng trước có mà nay không. Do đó, so tính rằng Chánh Báo của chúng sanh nửa sanh, nửa diệt, thế giới Y Báo cũng nửa sanh, nửa diệt. Nửa sanh là Hữu Biên, nửa diệt là Vô Biên.
Bốn cái luận Hữu Biên này đều không ra khỏi sự tuần hoàn sanh diệt của chúng sanh và các kiến chấp kiếp hoại hay chẳng hoại nói ở trước, chỉ đặc biệt so tính về hữu biên và vô biên.
Có nhà sư hỏi Quốc Sư Huệ Trung (tiếp theo đoạn trước): “Có vị trí thức chỉ bày kẻ học nhân này rằng: “Chỉ tự biết Tánh. Khi rõ Vô Thường, ném bỏ cái xác phiền não một bên rồi, cái chỗ cao linh trí tánh, rỗng rang mà lui về, gọi là giải thoát”. Theo đây thì thế nào?”
Quốc sư nói: “Trước đã nói rồi, vẫn còn là cái hạn lượng của hàng Nhị Thừa, ngoại đạo. Nhị Thừa chán ghét sanh tử, ưa thích Niết Bàn. Ngoại đạo cũng nói “Ta có hoạn nạn lớn, vì ta có thân”, bèn vui về Minh Đế. Tu Đà Hoàn buộc vào tám vạn kiếp, ba quả kia buộc vào sáu, bốn, hai vạn kiếp. Bậc Bích Chi Phật trụ trong Không định một vạn kiếp. Ngoại đạo trụ trong Phi Phi Tưởng tám vạn kiếp. Nhị Thừa hết kiếp còn có thể hồi tâm hướng Đại Thừa, còn ngoại đạo liền trở lại luân hồi”.
Hỏi rằng: “Phật Tánh một giống hay khác?”
Quốc sư nói: “Chẳng thể một giống”.
Hỏi rằng: “Sao vậy?”
Quốc sư nói: “Hoặc có thứ toàn chẳng sanh diệt, hoặc nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt”.
Hỏi rằng: “Vì sao mà giải thích như vậy?”
Quốc sư nói: “Phật Tánh ngay đây của tôi hoàn toàn không có sanh diệt, Phật Tánh phương Nam của ông thì nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt”.
Hỏi rằng: “Phân biệt chỗ nào?”
Quốc sư nói: “Đây thì thân tâm nhất như, ngoài thân không có gì khác, thế nên toàn vẹn chẳng sanh diệt. Còn phương Nam của ông thì thân là Vô Thường, Thần Tánh là Thường, bởi thế mà nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt”.
Hỏi rằng: “Cái sắc thân của Hòa Thượng há đồng được với Pháp Thân chẳng sanh diệt ư?”
Quốc sư nói: “Sao ông lại vào tà đạo thế?”
Thưa rằng: “Học nhơn này sao mà vào tà đạo?”
Quốc sư nói: “Ông chẳng thấy kinh Kim Cương nói “Thấy sắc, cầu thanh đều là hành tà đạo” ư? Nay chỗ thấy của ông chẳng phải vậy sao?”
Thưa rằng: “Tôi đã từng đọc giáo lý Đại Thừa, Tiểu Thừa, cũng thấy có nói cái chỗ Trung Đạo chánh tánh chẳng sanh chẳng diệt, cũng thấy có nói rằng ấm này diệt, ấm kia sanh, thân có đổi thay mà Thần Tánh chẳng diệt. Đâu có thể bác bỏ hết giống như hai kiến chấp Đoạn, Thường của ngoại đạo?”
Quốc sư nói: “Ông học cái đạo chân chánh xuất thế Vô Thượng hay là học hai cái kiến chấp Đoạn, Thường sanh tử của thế gian? Ông há chẳng thấy Tổ Triệu Công nói “Nói chân thì ngược tục, theo tục thì ngược chân” ư ? Ngược với Chân nên mê Tánh mà chẳng quay lại. Nghịch với Tục nên lời nói đạm bạc không mùi vị. Hạng Trung Căn nghe thì như nhớ như quên. Hạng Hạ Căn nghe thì vỗ tay mà cười. Nay ông muốn học theo người hạ liệt mà cười Đại Đạo ư?”
Đáp rằng: “Thầy cũng nói “Tức Tâm là Phật”, bậc trí thức phương Nam cũng nói thế, có gì là khác đâu? Thầy lẽ ra chớ nên cho mình phải mà họ quấy”.
Quốc sư nói: “Hoặc là tên khác, thể đồng; hoặc là tên đồng mà thể khác. Bởi đó mà lầm lộn. Chỉ như Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh thì danh khác mà Thể đồng. Còn Chân Tâm, Vọng Tâm, Phật Trí, Thế Trí thì tên đồng mà thể khác. Vì phương Nam lầm đem cái Vọng Tâm mà cho là Chân Tâm: nhận giặc làm con. Nắm giữ cái Thế Trí mà xưng là Phật Trí, giống như mắt cá mà lầm lộn với ngọc minh châu. Không thể phụ họa theo được, cần phải phân biệt đúng sai rõ ràng”.
Hỏi rằng: “Làm sao lìa được lỗi ấy?”
Quốc sư nói: “Ông chỉ khéo quan sát rõ ràng trở lại Ấm, Giới, Nhập, Xứ, mỗi mỗi đều tìm xem tận cùng, còn có được mảy tơ hào nào chăng?”
Thưa rằng: “Rõ ràng quan sát đó, chẳng thấy có một cái gì khá được”.
Quốc sư nói: “Ông phá hoại tướng thân tâm ư?”
Đáp rằng: “Thân tâm tánh lìa, có gì để hoại?”
Quốc sư nói: “Ngoài thân lại có vật chăng?”
Đáp rằng: “Thân tâm không có ngoài, đâu lại có vật ư?”
Quốc sư nói: “Ông phá hoại tướng thế gian ư?”
Đáp rằng: “Thế gian tướng chính là vô tướng, nào dùng đến chuyện hoại”.
Quốc sư nói: “Như thế đó, tức lìa lỗi vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói “Một niệm quán khắp vô lượng kiếp, không đi, không đến, cũng không trụ. Như thế rõ biết sự ba đời, siêu các phương tiện thành thập lực””.
Đây là chỗ nói “Tự, Tha chẳng cách hở mảy lông, thủy chung chẳng rời ngay đương niệm”. Chẳng biết cái kiến giải Hữu Biên, Vô Biên do đâu mà kiến lập?
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, trong chỗ tri kiến lại khởi sanh so tính thì người đó sa lạc vào bốn thứ luận hư vọng Biến Kế Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn.
“Một là, người ấy quan sát cái cội nguồn biến hóa, thấy chỗ dời đổi thì gọi là Biến, thấy chỗ tương tục thì gọi là Thường. Thấy chỗ thấy được thì gọi là Sanh, chỗ không thấy được thì gọi là Diệt. Chỗ các nhân tương tục, không có gián đoạn thì gọi là Tăng, chính trong tương tục, chỗ rời nhau ở giữa thì gọi là Giảm. Chỗ sanh ra của mỗi cái thì gọi là Có, chỗ mất đi của mỗi cái thì gọi là Không. Dùng lý quán sát tất cả, dụng tâm thấy riêng biệt nhau. Có người cầu pháp đến hỏi nghĩa lý thì đáp rằng “Ta nay cũng sanh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng tăng, cũng giảm”. Trong mọi thời đều nói năng lộn xộn, khiến cho người nghe lầm loạn chữ nghĩa.
“Hai là, người ấy quán kỹ cái tâm đắp đổi không nơi chốn, nhân cái Không mà cho là chứng, có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là Không. Ngoài chữ Không ra không nói gì cả.
“Ba là, người ấy quán kỹ cái tâm mỗi mỗi đều có chỗ, nhân cái Có mà cho là chứng, có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là Phải. Trừ chữ Phải ra, không nói gì cả.
“Bốn là, người ấy chấp cả Có và Không. Cái cảnh đã phân chia như vậy thì cái tâm cũng lộn xộn. Có người đến hỏi thì đáp rằng : Cũng Có tức là cũng Không, trong cái Cũng Không chẳng phải là Cũng Có. Tất cả đều càn loạn, không thể nói hết được.
“Do những so tính, càn loạn trống rỗng như vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Năm, lập ra bốn thứ luận hư vọng Biến Kế Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn.
Thông rằng: Đây vẫn là kiến chấp Cũng Có cũng Không vậy. Ở trên nói “Thường, Vô Thường”, “Hữu Biên, Vô Biên” thì còn có phân biệt, chưa đến nổi lộn xộn. Ở đây thì nói “Tức Thường, tức Vô Thường”, “Tức Hữu Biên, tức Vô Biên” tất cả đều càn loạn, không thể nói cho cùng. Thật là một thứ lý luận hư vô hoang đường, quá sức điên đảo vậy.
Theo sự trôi dời của chỗ Hữu Biên ở trên thì gọi là Biến, chỗ Vô Biên tương tục thì gọi là Thường, chỗ thấy trong tám vạn kiếp thì gọi là Sanh, chỗ không thấy ở ngoài tám vạn kiếp thì gọi là Diệt. Lại ở trong chỗ tương tục không gián đoạn so tính cho là Tăng như mặt trăng mọc đầy dần lên, ở trong chỗ lìa nhau thì cho là Giảm như mặt trăng khuyết lần lần. Lại ở nơi chỗ sanh ra của mỗi vật mà gọi là Có, chỗ mất đi mà gọi là Không.
Ở nơi sự sanh diệt của một cái Hành Ấm mà phân làm tám nghĩa. Dùng lý quán sát tất cả thì cả hai đều đúng, không thể xác định manh mối, nên trong mọi lúc, nói năng lộn xộn. Chìm đắm trong Hành Ấm, không thể siêu vượt ra khỏi Hành Ấm nên bị sự sanh diệt làm trôi lăn vậy.
Lại nữa, do từ cái Có, Không mà phân ra, ở chỗ niệm niệm diệt mà cho là chứng thì chỉ nói là Không; còn ở chỗ niệm niệm sanh mà cho là chứng thì chỉ nói là Phải. Lại nữa, từ Hữu Vô mà hợp lại thì nói “Cũng Có tức là cũng Không, cũng Không tức là cũng Có, trong cái cũng Có chẳng phải là cũng Không, trong cái cũng Không chẳng phải là cũng Có”.
Lời nói thì thấy giống, nhưng so với trước có sai khác.
Ở trước thì hai bên đều bày ra hết nên không thể xác quyết, còn đây thì chỉ đề ra một bên mà cả hai bên đều có trong đó. Nói rằng “Cũng Có tức là cũng Không” thì không chỉ một bề nói Không. Nói rằng “Trong cái cũng Không chẳng phải là cũng Có” thì không chỉ một bề nói Phải. Chỗ tri kiến lầm lộn, chẳng thể quyết đoán, mơ hồ lung tung, rốt rồi lầm lạc.
Ngoại đạo cho rằng trời là thường trụ, gọi là bất tử, cho rằng đáp được chẳng lầm loạn thì sanh về cõi trời đó. Nếu quả thật chẳng biết mà trả lời thì e thành càn loạn. Phật quở trách rằng: “Đó thật là nghị luận càn loạn”. Cho nên gọi là thứ Luận hư vọng “Biến Kế Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn”.
Gọi là Biến Kế, nghĩa là so tính khắp cả, nào là Có-Không, Sanh-Diệt, Tăng-Giảm, Thường-Biến, thật vô ích cho sự tu chứng, đều là hý luận cả. Tuy nhiên, bậc thông suốt nhà nghề thì nói Có cũng được, nói Không cũng được, chốn chốn đều có nẻo xuất thân.
Nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu: “Con chó lại có Phật Tánh không?”
Tổ Châu nói: “Có”.
Hỏi rằng: “Đã có thì sao lại chun vào cái bì da kia?”
Tổ Châu nói: “Vì vẫn biết mà cố phạm”.
Lại có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu: “Con chó lại có Phật Tánh không?”
Tổ Châu nói: “Không”.
Thưa rằng: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, con chó vì sao lại không có?”
Tổ Châu nói: “Vì ở y có nghiệp thức”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng:
“Con chó, Phật Tánh có
Con chó, Phật Tánh không
Đi câu mà cầu tha mạng cá
Theo gió tìm hương, khách nước-mây
Om sòm, loạn xạ phân quen lạ
Bằng an trải khắp, thư thả rộng bày
Chớ lạ nhà nông chẳng biết lo
Chỉ ra vết ngọc lại đoạt châu
Vua Tần chẳng biết Tương Như Lạn!”.
Lại có bài tụng khác rằng:
“Triệu Châu nói có, Triệu Châu nói không
Con chó, Phật Tánh thiên hạ phân chia
Mặt đỏ chẳng bằng nói thẳng
Lòng ngay ắt hẳn lời thô
Cái lão thiền sư bảy trăm chúng
Cứt ngựa gặp người hóa nhãn châu [Ngọc mắt]”.
Lại có nhà sư hỏi thiền sư Duy Khoan: “Con chó lại có Phật Tánh chăng?”
Sư nói: “Có”.
Hỏi: “Hòa Thượng lại có chăng?”
Sư đáp: “Ta không có”.
Hỏi: “Cả thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, vì sao chỉ một mình Hòa Thượng lại không có?”
Sư nói: “Ta chẳng phải là cả thảy chúng sanh!”
Hỏi: “Đã chẳng phải chúng sanh thì chắc là Phật?”
Sư nói: “Chẳng phải Phật”.
Hỏi: “Rốt ráo là vật gì?”
Sư nói: “Cũng chẳng phải vật”.
Hỏi: “Thấy được, nghĩ được không?”
Sư nói: “Nghĩ chẳng tới, bàn chẳng được, nên gọi là không thể nghĩ bàn”.
Hàng ngoại đạo thì ở chỗ có thể suy nghĩ, có thể luận bàn mà muốn so đo, lập luận, há chẳng điên đảo ư?
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, ở nơi dòng sanh diệt vô tận khởi sanh so đo thì người ấy sa vào cái chấp điên đảo là sau khi chết có tướng.
“Hoặc tự củng cố sắc thân, bảo Sắc là Ta. Hoặc thấy cái Ta tròn đầy, bao trùm khắp các cõi nước, bảo ta có sắc. Hoặc thấy các tiền trần kia theo ta mà xoay trở lại, bảo sắc thuộc về Ta. Hoặc thấy cái Ta nương trong Hành Ấm mà tương tục, bảo Ta ở nơi sắc. Họ đều so tính mà cho rằng sau khi chết có tướng, tuần hoàn như vậy có đến mười sáu tướng.
“Từ đó mà suy tính rằng rốt ráo phiền não và rốt ráo Bồ Đề, hai tánh đó đi song song, không tiếp xúc nhau.
“Do sự so tính chấp rằng sau khi chết có tướng như vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Sáu, lập ra những Luận điên đảo Trong năm Ấm, sau khi chết có tướng.
Thông rằng: Năm sự suy tính ở trước thì hoặc Có, hoặc Không, hoặc Cũng Có cũng Không, chưa ra khỏi ba cú, chưa thấy cả hai đều chẳng phải, còn mắc vướng trong Hành Ấm. Nên ở đây thì so tính việc sau khi chết có Tướng hay không có Tướng, và Có, Không đều chẳng phải. Rồi lại ở sau Có và Không, khởi lên hai kiến chấp về Niết Bàn đoạn diệt. Ấy là Hành Ấm đã gần không nên trộm thấy Thức Ấm vậy. Bởi đến thì trước, đi thì sau, chỉ do Thức làm chủ, nên chỗ này nói cả năm Ấm.
Đức Long Thắng nói: “Chúng sanh trong năm đường do nhân duyên của lực Thân Kiến mà thấy có bốn thứ Ta: Sắc hợp là Ta, Sắc là Ta, Ta trong Sắc, Sắc trong Ta. Hợp lại mà nói: Chỉ duy Sắc là Ta, chỉ duy lìa Sắc là Ta, Ta ở trong Sắc, Sắc ở trong Ta. Suy tìm như thế, rốt ráo chẳng thể đắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức lại cũng như vậy”.
Thế mà ngoại đạo lại chấp là có tướng. Hoặc tự củng cố cái thân, tức Sắc là Ta vậy. Hoặc Trùm khắp cõi nước, tức là Sắc ở trong Ta. Hoặc các tiền trần xoay trở lại, ấy là Lìa Sắc là Ta. Hoặc nương theo Hành Ấm tương tục, tức là Ta ở trong Sắc vậy. Nương theo bốn lối suy tính này thì Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều vậy cả. Cho đến chỗ Hành là Ta, lìa Hành là Ta, Ta ở trong Hành, Hành ở trong Ta. Cái suy tính đó là Ta, tức là Thức Ấm vậy. Thảy đều suy tính rằng sau khi chết lại có mà thành ra mười sáu tướng [Bốn cách suy tính này lồng vào bốn Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành]. Phiền não do Ấm mà sanh, Bồ Đề do Ta mà chứng. Hai tánh Bồ Đề, phiền não song hành cho đến đời vị lai, đều rốt ráo là có, thế nên nói là lập ra luận điên đảo Trong năm Ấm, sau khi chết có Tướng. Đây là theo mỗi mỗi chỗ có, rồi nhân có mà cho là chứng, nên lập ra các Luận này.
Thủ Tọa Bổn Am Đạo Quỳnh từng nêu lên câu chuyện “Một chiếc dép đi về Tây [Chuyện Tổ Đạt Ma sau khi tịch]”, rồi nói với đại chúng: “Ngồi chết, đứng tịch, chổng ngược đầu mà hóa thì chẳng phải không có. Nhưng chưa có ai tịch rồi mà sau lại để lại chiếc dép. Vậy là con cháu đời sau không bằng Tổ Sư hay là Tổ Sư có thừa một chiếc ấy?”
Rồi cười lớn mà rằng: “Con chồn già!”
Mùa Đông Canh Thân, đời Thiệu Hưng được đón về kinh nhưng không đi, để lại bài kệ cho đệ tử đắc pháp là Huệ Sơn rằng:
“Miệng mồm chẳng trúng lão già lành
Thích hướng tùng lâm dóng thị phi
Dặn dò Tuyết Phong ông Thủ Tọa
Vì ta nhiếc mắng chớ tha y!”.
Quay về vị sứ giả đến đón, nói rằng: “Nói với quan Thị Lang giùm tôi rằng việc đi vội quá, không kịp bồi đáp!”
Dứt tiếng thì hóa.
Có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn: “Nhà sư sau khi tịch rồi thì đi đâu vậy?”
Tổ Sơn nói: “Cháy rồi một cọng tranh!”
Ngài Đầu Tử tụng rằng:
“Khi lửa đồng thiêu, thêm đổi mới
Đến nay khí nóng khó mưa, mây
Đất hạn sen hồng che nhật nguyệt
Không rễ, xanh hoài, mát bóng cây”.
Nếu biết cái “hữu tướng” này thì tuy nói là có tướng cũng chẳng sao.
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, ở trong các Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng đã diệt ở trước khởi sanh so tính, người ấy sa vào những tư tưởng điên đảo là sau khi chết không có Tướng.
“Người ấy thấy Sắc Ấm diệt, hình hài không nhân vào đâu. Xét Tưởng Ấm diệt, tâm không ràng buộc vào đâu. Biết Thọ Ấm diệt, không còn dính dáng. Tánh các Ấm được tiêu tan, dù có sanh lý mà không có Thọ, Tưởng : đồng như cỏ cây. Cái hình chất hiện tiền còn không thể nắm được, vậy sau khi chết làm sao còn có các Tướng ? Do vậy mà cho rằng sau khi chết không có Tướng. Xoay vần như vậy mà có tám thứ Vô Tướng.
“Từ đó mà suy tính rằng: Niết Bàn, Nhân Quả, tất cả đều Không, chỉ có danh tự suông, chứ rốt ráo là Đoạn Diệt.
“Do sự suy tính, chấp sau khi chết không có Tướng này mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Bảy, lập ra những luận điên đảo Trong ngũ Ấm, sau khi chết không có Tướng.
Thông rằng : Cái Đoạn Kiến này là căn cứ nơi sự tiêu diệt của các Ấm Sắc, Thọ, Tưởng mà suy tính rằng cái sanh lý của Hành Ấm về sau sẽ rốt ráo đoạn diệt. Hành Ấm diệt thì quy về Biển Tạng Thức. Chỗ so đo của người ấy chưa là vô kiến, nhưng cái Tạng Thức chẳng thể diệt. Người ấy chỉ thấy cái diệt bèn cho rằng Niết Bàn, nhân quả tất cả đều không, rốt ráo Đoạn Diệt, mà chẳng biết rằng cái Vô Tướng này không phải là không có sanh lý. Bởi thế, ước đoán cái nhân đã mất của bốn Ấm hiện tại mà cho rằng quả tương lai sẽ tiêu diệt, hợp lại thành ra tám thứ Vô Tướng, bèn lập ra những luận điên đảo Trong Ngũ Ấm, sau khi chết không có Tướng. Đây cũng là theo cái tâm Đắp đổi không nơi chốn, nhân cái Không mà cho là Chứng, mà tạo ra luận này.
Tổ Trường Sa Cảnh Sầm nhân có vị tăng qua đời, lấy tay rờ mà nói: “Này đại chúng! Vị tăng này lại chánh thực vì các ông mà đề khởi cương yếu, thương lượng đó! Hiểu không?”
Rồi đọc bài kệ:
“Trước mắt không một pháp
“Hiện đây cũng không người
“Rỗng rang Kim Cương Thể
“Chẳng vọng cũng chẳng chân!”.
Lại nói:
“Chẳng rõ Kim Cương Thể
“Lại gọi ấy duyên sanh
“Mười phương: Chân Tịch Diệt
“Ai trụ, lại ai hành?”.
Tổ Động Sơn sắp viên tịch, nói với đại chúng: “Ta có cái tên tuổi suông ở đời, người nào vì ta dẹp được?”
Đại chúng đều không đáp được.
Khi ấy, có vị Sa Di bước ra, nói: “Xin cái pháp hiệu của Hòa Thượng”.
Tổ Sơn nói: “Cái danh tiếng suông của ta đã rụng rồi!”
Tổ Thạch Sương nói: “Không có người để kẻ khác chấp nhận”.
Tổ Vân Cư nói: “Nếu có danh tiếng suông thì chẳng phải là Tiên Sư của tôi”.
Tổ Tào Sơn nói: “Từ xưa đến nay, không người biện được”.
Tổ Sớ Sơn nói: “Rồng có cách ra khỏi nước, không người biện được”.
Thầy Đại Dương Minh An hỏi Tổ Lương Sơn: “Như sao là đạo tràng vô tướng?”
Tổ Sơn chỉ tượng Quan Âm, nói: “Đây là bức họa của Ngô cư sĩ”.
Thầy An định nói, Tổ liền hỏi: “Cái đó là cái hữu tướng, như sao là cái vô tướng?”
Thầy An ngay lời nói có tỉnh ngộ, làm lễ rồi quay về chỗ đứng.
Tổ Sơn nói: “Sao không nói lấy một câu!”
Thầy An: “Nói thì chẳng từ chối, chỉ e lấm giấy mực!”
Tổ Sơn cười lớn, nói: “Lời này gắn trên đá rồi!”
Về sau quả đã khắc trên bia.
Ngài Đầu Tử nêu rằng:
“Đạo suốt cổ kim
Bộ hành khó trải
Núi cao hiểm tuyệt
Leo không chỗ nương
Hoặc chẳng phát minh dấu trước
Thuở nào dẫm bước được đâu
Thế nên ngộ ở tự mình
Ấn chứng nhờ nơi thầy
Thay nhau chứng minh
Nối Phật huệ mạng
Nơi đây tột đường hỏi lối, sức tận để chỉ bày
Vách ngất trời không cửa, sức hết chỗ tới lui
Rồng vàng đã mất nước, cánh mầu cất cánh mau!
Thấu qua sóng lớn, lại về bổn vị”.
“Này các nhân giả, chính đang lúc ấy, lại có biết chỗ thoái vị của người xưa không? Như biết được, thì có thể nói là núi muôn trượng đổ, ngàn sóng hết gầm. Long cung và cõi Trời chung mái, cung điện cùng tinh tú hợp vẻ. Nham Tùng lồng đẹp, giòng móc (mưa móc) cỏ thơm. Chẳng phạm đến hóa môn mà ngàn núi đều lộ ra hẳn. Bằng chẳng biết chỗ về thì hang rộng không người hỏi, rồng buồn biển cả sâu”.
Tụng rằng:
“Vách núi cùng đường hỏi sơn ông
Lại chỉ ngọn Tây ngọn cận Đông
Định tiến, móc rơi thêm khí núi
Quay đầu bỗng thấy mặt trời hồng”.
Nếu ở chỗ Vô Tướng này mà được cái tin tức, thì tuy nói không có Tướng cũng chẳng hề gì.
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, trong chỗ Hành Ấm còn tồn tại và Thọ, Tưởng Ấm đã diệt, lại so tính cả cái Có và Không, tự thể phá nhau, thì người ấy lọt vào những luận điên đảo Sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải.
“Người ấy trong Sắc, Thọ, Tưởng thấy Có mà chẳng phải Có, trong Hành Ấm chuyển biến thấy Không mà chẳng phải Không. Xoay vần như vậy cùng tột các Ấm thành ra tám Tướng Đều chẳng phải. Tùy gặp duyên gì đều nói sau khi chết có Tướng, không Tướng.
“Lại suy tính Hành Ấm tánh nó dời đổi nên tâm phát ra thông tỏ, cho rằng Có, Không đều chẳng phải, hư thật lộn lạo. Do sự so tính, chấp “Sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải” mà việc về sau tối tăm mù mịt, không còn lối đi, sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Tám, lập luận điên đảo: Trong ngũ Ấm, sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải.
Thông rằng: Đây là kiến chấp Chẳng phải Có, chẳng phải Không vậy. Đó là do nơi sự so tính cả Có lẫn Không, tự thể của chúng phá nhau. Không chỉ Sắc, Thọ, Tưởng Ấm diệt nên cho là Có tức chẳng phải Có mà Hành Ấm dời đổi cũng cho là Không tức chẳng Không. Ở chỗ này mà xoay vần lui tới xét xem thì thấy cái đã diệt (Sắc, Thọ, Tưởng) trước đây đã từng có, nên tuy là Không mà chẳng Không. Cái hiện tồn tại (Hành) thì rốt rồi cũng diệt, thì tuy Có mà chẳng phải Có. Do so tính nước đôi về bốn Ấm như vậy nên thành ra tám thứ Chẳng Phải. Tùy nêu ra duyên gì đều đủ cả có Tướng và không Tướng. Đây chỉ ở nơi duyên mà xem thấy sự Có-Không của Tướng, chưa phải là tinh vi vậy.
Lại ở trong sự dời đổi sanh diệt của tánh Hành Ấm, thấy trong sanh tức có diệt, nên chẳng phải Có, thấy trong diệt tức có sanh, nên chẳng phải Không vậy. Ở trên tánh Hành Ấm mà quán xét để thấy Có, Không đều chẳng phải thì chẳng phải là người tâm đã phát thông tỏ làm sao thấy được. Có mà chẳng Có, đó là Diệu Hữu. Không mà chẳng Không, đó là Chân Không. Đó mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế Diệu Chân Như Tánh vậy.
Người ấy chỉ ở nơi tánh Hành Ấm thấy Có và Không đều chẳng phải, còn Thức Ấm ở sau vẫn còn mù mịt không thấy gì, nên hư thực lộn lạo chẳng biết chỗ về. Đã không có chỗ quay về an nghỉ thì không thể trọn xong cái Đạo. Tuy muốn phát huy cái cảnh giới Chẳng phải Sanh, chẳng phải Diệt của Tạng Thức, cũng không thể được, huống nữa là cái Chân Lý bất sanh bất diệt của Chân Như Đệ Nhất Nghĩa Đế ư? Cái gọi là thông tỏ của người ấy thì gần giống với cái ngộ của bậc Duyên Giác, chứ chưa có thể nói là Chánh Ngộ.
Thứ luận Có, Không đều chẳng phải này cũng từ lối nói càn loạn ở trước: Cũng Có tức là cũng Không, trong cái cũng Không chẳng phải là cũng Có. Suy tính cùng cực về việc sau khi chết mà sáng lập ra luận này, đều gọi là điên đảo.
Ngoại đạo hỏi Phật: “Chẳng hỏi Hữu Ngôn, chẳng hỏi Vô Ngôn”.
Đức Thế Tôn im lặng chập lâu.
Ngoại đạo tán thán rằng: “Thế Tôn đại từ đại bi, mở vẹt đám mây mê mờ cho tôi, khiến được thể nhập!”
Sau khi ngoại đạo đi rồi, Ông Anan hỏi Phật: “Bạch, ngoại đạo chứng chỗ gì mà nói là được nhập?”
Đức Phật nói: “Như ngựa hay trong đời, thấy bóng roi mà chạy!”
Đức Thế Tôn ví người ngoại đạo với con ngựa hay, vì tâm ấy cũng phát thông tỏ vậy.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:
“Máy tạo chưa từng chuyển
Chuyển ắt chạy hai đầu
Gương sáng bỗng trên đài
Ngay đó phân đẹp xấu
Đẹp xấu phân, hề, mây mê vẹt
Cửa Từ sanh bụi chốn nào đâu?
Nhân đây ngựa giỏi theo roi bóng
Lướt gió dặm ngàn kêu được về
Kêu được về, búng tay ba tiếng!”
Có nhà sư hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Như sao là nhà sư tịch, trước mặt chạm mắt là Bồ Đề?”
Tổ Nhãn nói: “Đó là trước mặt ông!”
Lại hỏi: “Nhà sư tịch thiên hóa về chốn nào?”
Tổ Nhãn nói: “Nhà sư tịch thiên hóa hồi nào?”
Nhà sư hỏi: “Thế bây giờ thì sao?”
Tổ Nhãn nói: “Ông chẳng biết nhà sư tịch”.
Tổ Pháp Nhãn tận lực hô hoán mà chẳng biết quay đầu ở đây mà tỉnh ra thì có thể nói “Tứ cú đều lìa, linh căn độc lộ”.
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, sanh ra so tính rằng về sau này là Không, thì người ấy lọt vào bảy thứ luận Đoạn Diệt.
“Hoặc chấp Thân này là diệt, hoặc chấp hết Dục là diệt, hoặc hết Khổ là diệt, hoặc Cực Lạc là diệt, hoặc Tột Xả là diệt. Xoay vần như vậy cùng tột bảy cách, cho rằng hiện tiền là tiêu diệt, diệt rồi không trở lại nữa. Do sự so tính “Sau khi chết là đoạn diệt” như vậy, sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Chín lập ra luận điên đảo “Sau khi chết là Đoạn Diệt”.
Thông rằng: Ở trước thì thấy có Hành Ấm mà không có Thọ, Tưởng; ở đây thì Hành Ấm cũng không, nên nói rằng “Về sau này là Không”. Ở trước là sau khi chết Vô Tướng, chỉ thuộc về một cách Thân diệt. Ở đây cùng tột bảy cách, diệt chẳng sanh lại.
Thân thuộc về cõi Dục, gồm người và trời. Hết Dục thuộc về Sơ Thiền, hết Khổ thuộc về Nhị Thiền. Cực Vui thuộc về Tam thiền. Hết Xả thuộc về Tứ Thiền và Vô Sắc. Tuy nói năm thứ Diệt, thật ra gồm bảy Cách. Đây là vào ngoại đạo Vô Tưởng Thiên, đại khái đồng một đoạn kiến như Tỳ Kheo Vô Văn, cho rằng đã chứng quả chẳng thọ Thân đời sau, nên lập cái luận Sau khi chết là đoạn diệt.
Thiền sư Khai Tiên Chiếu thượng đường nói rằng: “Quy củ tùng lâm, gia phong cổ Phật, một tham một hỏi, một cháo một cơm. Hãy nói huỵch toẹt ra là cái gì vậy? Chỉ như các ông, tâm tâm chẳng dừng, niệm niệm chẳng trụ. Bằng như khéo dừng ở chỗ chẳng dừng, vô niệm ngay trong chỗ niệm, bèn tự hợp lý Vô Sanh. Nói thế này thì cười bể miệng người khác. Tham đi!”
Nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Không khởi một niệm, lại còn có lỗi không?”
Tổ Môn nói: “Núi Tu Di!”
Ngài Bạch Vân Đoan tụng rằng:
“Núi Tu Di, hề, nghẽn vũ trụ
Đại bi ngàn mắt nhìn không qua
Trừ phi tự biết cỡi ngược trâu
Một đời khỏi phải theo sau đít”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng:
“Chẳng khởi một niệm, núi Tu Di!
Thiều Dương thí pháp không lưu giữ
Chịu đến, hai tay phân phó cho
Định đi, ngàn tìm, không thể bám
Biển xanh rộng, mây trắng nhàn
Chớ đem mảy tóc đặt trong đây
Giả tiếng gà kia khó gạt ta
Chưa chịu mơ màng cho qua ải!”
Hai bài tụng này quả có phân biệt. Nếu bám níu “Chẳng khởi một niệm”, không biết tin tức “Cỡi ngược trâu” thì tức là “Giả tiếng gà gáy”, chẳng khỏi “Theo sau đít người” vậy, sao có thể thấu qua cái cửa ải hướng thượng ư?
Kinh: “Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng vững chắc, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh ra so tính rằng sau này là Có, thì người ấy sa vào năm luận Niết Bàn.
“Hoặc lấy Dục Giới làm cái chuyển y chánh thật, do xem thấy sáng suốt vẹn khắp mà sanh yêu mến vậy. Hoặc lấy Sơ Thiền làm cái chuyển y chánh thật, vì thấy tánh cõi này không có Lo Âu. Hoặc lấy Nhị Thiền, vì tánh nó không có Khổ. Hoặc lấy Tam Thiền, vì rất Vui Đẹp. Hoặc lấy Tứ Thiền, vì Khổ Vui đều hết, chẳng chịu luân hồi sanh diệt. Vậy là mê lầm cõi trời Hữu Lậu là tánh Vô Vi, cho rằng năm chỗ yên ẩn trên là nơi quả báo thù thẳng thanh tịnh. Xoay vần như vậy cùng tột có năm chỗ.
“Do suy tính chấp trước năm thứ Niết Bàn hiện có như vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Mười, lập ra những luận điên đảo: Trong năm Ấm có năm thứ Niết Bàn hiện có.
“Anan, mười thứ cuồng giải Thiền Na như vậy đều do Hành Ấm và tâm dụng công xen nhau, nên hiện ra những nhận thức đó. Chúng sanh mê dại, không biết tự lượng xét, gặp các cái đó hiện ra, lấy mê làm ngộ, tự cho là chứng Thánh, thành tội Đại Vọng Ngữ mà đọa ngục Vô Gián.
“Các ông quyết phải đem lời của Như Lai, sau khi Ta diệt độ rồi, truyền dạy cho đời Mạt Pháp, khắp giúp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho Tâm-Ma tự gây nên những tội lỗi sâu nặng, giữ gìn che chở cho chúng sanh tiêu diệt các tà kiến, dạy cho thân tâm họ khai mở giác ngộ Chân Nghĩa, không mắc vào các đường rẽ trong Đạo Vô Thượng. Chớ để họ được một ít đã cho là đủ, và nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh của vị Đại Giác.
Thông rằng : Đã nói “Về sau Không” rồi sao trở lại “Về sau Có” vậy nhỉ? Bởi vì, cái cội nguồn trong trẻo thường máy động kia là cái diệt chẳng được. Chẳng phải đắc đạo tràng tịch diệt chân thật, ở chỗ diệt mà vọng thấy có sự chứng đắc, nên gọi là “Về sau Có”. Bởi vì, Hành Ấm trong sát na tạm dừng, cái sáng suốt vẹn khắp thoáng hiện bày, bèn cho đó là Vô Sanh Diệt, là Niết Bàn. Rồi ở năm chỗ suy tính là quả Niết Bàn, khiến Niết Bàn mà có năm thứ, thế thì có thể gọi là Niết Bàn ư?
Bảy cách trên đã diệt hết, lại lập ra năm thứ Niết Bàn, yêu mến sự sáng suốt vẹn khắp. Đó là chỗ chung của người và trời, khổ vui đều hết, chẳng chịu sanh diệt. Tứ Thiền cùng cõi trời Vô Sắc đồng nhau. Năm chỗ yên ẩn này không ra khỏi ba cõi, ba thứ Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu vẫn ẩn náu như cũ, đó chỉ là do cái công dụng hữu vi, thuần thục mà thành tựu. Kia chỉ mới chứng Vô Tưởng Định mà cho là được quả Vô Vi, trong chốn hữu lậu mê lầm mà không tự biết, hết kiếp lại rơi vào luân hồi, há cho là Niết Bàn chân thật được ư?
Thầy Chí Đạo cầu hỏi Đức Lục Tổ rằng: “Kẻ học nhân này từ khi xuất gia, đọc kinh Niết Bàn có hơn mười năm mà chưa rõ đại ý, xin Hòa Thượng chỉ dạy”.
Tổ nói: “Ông chưa rõ chỗ nào?”
Bạch rằng: “Các Hành vô thường. Là sanh diệt pháp. Sanh diệt diệt rồi. Tịch Diệt là vui” - Dạ, nghi hoặc chỗ đó”.
Tổ nói: “Ông nghi làm sao?”
Bạch rằng: “Tất cả chúng sanh đều có hai Thân, đó là Sắc Thân và Pháp Thân. Sắc Thân thì vô thường, có sanh có diệt. Pháp Thân thì hữu thường, vô tri vô giác. Kinh nói “Sanh diệt diệt rồi. Tịch diệt là vui” thì chưa rõ thân nào tịch diệt, Thân nào hưởng vui. Nếu là sắc thân thì khi sắc thân diệt, bốn đại phân tán, hoàn toàn là khổ, khổ không thể nào nói là vui. Nếu Pháp Thân tịch diệt thì đồng với cỏ cây, ngói đá, ai hưởng vui đây? Lại nữa, Pháp Tánh là thể của sanh diệt, năm Ấm là dụng của sanh diệt. Một thể năm dụng, sanh diệt là thường. Sanh thì từ thể khởi ra dụng, Diệt thì thu nhiếp dụng về thể. Nếu cho là sanh trở lại thì loài hữu tình chẳng đoạn chẳng diệt. Nếu chẳng cho là sanh trở lại, thì vĩnh viễn quy về tịch diệt, đồng với vật vô tình. Như thế thì tất cả các pháp đều bị Niết Bàn ngăn cấm, sanh còn không được, làm sao có vui?”
Tổ nói: “Ông là con nhà Phật, sao lại huân tập tà kiến đoạn thường của ngoại đạo mà luận bàn pháp Tối Thượng Thừa! Cứ như ông nói thì ngoài sắc thân lại riêng có Pháp Thân. Lìa sanh diệt mà cầu tịch diệt. Lại từ chối Niết Bàn vốn thường lạc, nói là có riêng cái Thân để thọ dụng. Đó là tiếc rẻ sanh tử, đắm mê cái vui của đời.
“Giờ đây, ông phải biết: Phật vì tất cả những người mê lầm, họ nhận lấy năm ấm hòa hiệp cho là tướng tự thể, lại phân biệt tất cả pháp làm ra trần tướng bên ngoài, thế rồi tham sống ghét chết, niệm niệm trôi dời mà chẳng biết là mộng huyễn hư giả, để uổng chịu luân hồi. Lấy Niết Bàn thường vui đổi ra cho là tướng khổ, suốt ngày tìm kiếm bôn ba. Phật thương xót mà chỉ bày cái Niết Bàn chân lạc, không sát na nào có tướng sanh, không sát na nào có tướng diệt, lại không có sanh diệt nào khá diệt, đó là Tịch Diệt hiện tiền. Ngay đang hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới là thường lạc. Cái Lạc này không có cái thọ, mà chẳng không có cái gì chẳng thọ. Há có cái tên “Một Thể Năm Dụng”, huống lại còn nói “Niết Bàn trừ diệt các pháp, khiến cho vĩnh viễn chẳng sanh?” Nói vậy là chê Phật, phá Pháp.
“Hãy nghe kệ của ta:
“Vô Thượng Đại Niết Bàn
Sáng đầy hằng lặng chiếu
Người phàm cho là chết
Ngoại đạo chấp là Đoạn
Các người cầu Nhị Thừa
Thấy đấy là vô tác
Thảy theo tình suy nghĩ
Gốc sáu hai tà kiến
Vọng lập danh hư giả
Dính dáng gì nghĩa chơn
Chỉ người vượt suy lượng
Thấu suốt, không nắm bỏ
Vì biết pháp Năm Uẩn
Và cái Ta trong Ấm
Ngoài hiện các sắc tượng
Mỗi mỗi tướng âm thanh
Bình đẳng như mộng huyễn
Chẳng khởi thấy Thánh, phàm
Chẳng thành Niết Bàn giải (hiểu)
Nhị biên, tam tế dứt
Thường ứng (thành) dụng (của) các căn
Mà chẳng khởi dụng tưởng
Phân biệt tất cả pháp
Chẳng khởi tưởng phân biệt
Kiếp hỏa thiêu đáy biển
Gió thổi núi chạm nhau
Chân thường tịch diệt lạc
Niết Bàn là như vậy
Ta nay miễn cưởng nói
Khiến ông xả tà kiến
Ông chớ theo lời hiểu
Cho ông biết ít phần”.
Thầy Chí Đạo nghe kệ xong đại ngộ, làm lễ rồi lui ra.
Như chỗ luận của Đức Lục Tổ, chỉ thẳng chân nghĩa, thật nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh của bậc Đại Giác Vương. Khế hợp được lời nói này thì các kiến chấp rẽ nhánh chẳng sanh, tâm ma tự hết, ngõ hầu phá được Hành Ấm mà vượt khỏi chúng sanh trược vậy.
F. PHẠM VI CỦA THỨC ẤM
Kinh: “Anan, thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, Hành Ấm hết rồi thì cái then chốt chung u ẩn giản phác máy động sanh ra các loài thế gian bỗng chốc nát tan. Giềng mối vi tế, mạch ngầm gây nghiệp chịu quả báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều dứt bặt. Người ấy hầu như sắp đại minh ngộ trong bầu trời Niết Bàn, ví như gà gáy lần chót, ngắm về phương Đông đã có sắc tinh sáng. Sáu Căn rỗng sạch, không còn rong ruổi, trong ngoài trong lặng sáng suốt, nhập vào cái Không Chỗ Vào. Thấu suốt nguyên do nắm lấy cội nguồn, các loài không còn hấp dẫn được. Nơi mười phương thế giới đã được tính Đồng. Cái sắc tinh sáng chẳng chìm, phát hiện u ẩn bí mật. Đây gọi là phạm vi của Thức Ấm.
“Nếu trong tính Đồng đã chứng được của các loài mà tiêu tan sáu căn, khi hợp, khi chia được thành tựu, thấy nghe thông nhau, dùng thay lẫn nhau một cách thanh tịnh, mười phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt thì gọi là Thức Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt Mệnh Trược. Xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng điên đảo, ảo tượng rỗng không.
Thông rằng: Tánh của thế gian không ra ngoài tánh của mười hai loài sanh diệt. Cái Hành Ấm giản phác u ẩn máy động thì tuy không có tướng sanh diệt thô, nhưng cái cội nguồn máy động mỗi mỗi chẳng ngừng. Đó là then chốt chung sinh ra các loài. Hành Ấm hết thì cái then chốt này tan nát. Gọi là then chốt (cơ) vì sâu xa không thể thấy, vi tế không thể chỉ ra, như giềng mối của lưới, như bâu cổ của áo. Cái giềng mối then chốt này là căn nguyên của sanh diệt. Ngã Thể chúng sanh (Bổ Đặc Già La) là cái thân trung ấm hướng theo các nẻo, đền nhân trả quả, mạch lạc cảm ứng, mảy tóc không sai. Nay thì cái then chốt sanh khởi nát tan thì nghiệp nhân đã tiêu mất, lấy gì dẫn quả? Đã không có báo thân, lấy gì đền nhân? Nhân, quả đều mất, cảm ứng dứt bặt, ấy là tuyệt mất cái mạch ngầm sâu xa vi tế truyền tống chủng tử vậy. Sự chuyển động của mạch ngầm rất là vi tế. Mạch ngầm không dứt thì Mệnh Căn chẳng đoạn. Mạch dứt, then chốt tiêu vong, mới có thể vào cảnh Vô Sanh vậy.
Ở trước, ba Ấm hết thì như gà mới gáy, chưa phân sắc tinh quang, vẫn còn tối tăm. Ở đây, Hành Ấm hết thì như gà gáy lần chót, ngắm về phương Đông đã có sắc sáng. Thấu vào cái Thức Ấm này, sáu căn liền rỗng sạch, không còn cái tướng giong ruổi khởi động, trong lặng sáng suốt im phắc suốt ngần. Nhập vào lại vào thêm, sâu xa lại sâu thêm, cho đến nhập vào cái Không Chỗ Nhập, thẳng thấu đến chỗ bổn nguyên. Bởi thế, ở trước thì chưa rõ cái mối manh của mỗi sanh mạng, chỉ mới thấy cái then chốt sanh khởi chung. Nay thì rõ thông cái nguyên do thọ mạng của mười hai loài. Ấy là đã thấy cái Đồng mà chưa thấy cái sanh khởi. Xét thấy nguyên do nắm lấy cội nguồn, chẳng cho dời đổi, chẳng để giong ruổi. Đây đã không đầu mối, thì kia tự chẳng hấp dẫn. Hết cả mười phương cõi, duy Tâm duy Thức mà thôi. Còn đâu có được cái chẳng đồng?
Đã được tánh Đồng, thì trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật như ta một Thể, thuần nhiên một Biển Tạng Thức vậy. Ngắm qua cái sắc tinh sáng, không đến nổi mờ chìm (hôn trầm). Ắt chẳng thấy, chẳng nghe gọi là cùng cực huyền áo; không tiếng, không mùi gọi là cùng cực thâm mật. Ở đây, dần dần phát hiện lộ bày. Tuy phát hiện mà chưa đến chỗ trong suốt sáng rỡ, còn bị Thức Ấm ngăn che, nên gọi là phạm vi của Thức Ấm.
Nếu ở chỗ nguyên do thọ sanh của mười hai loài mà đã được tánh Đồng, lại dùng cái sức Định Huệ làm tiêu tan sáu căn, khiến cho sự phân chia có thể hợp lại, sự nghẽn che có thể mở ra. Mở chia, đóng hợp tự do, sáng sạch chẳng nương theo căn, cái thấy ấy, cái nghe ấy gần với chỗ viên thông thì sáu căn thanh tịnh, có thể dùng thay nhau. Đó là chỗ ở trước nói “Ngược dòng toàn nhất, sáu Dụng chẳng hành, ngay đây mười phương cõi nước rỡ ràng thanh tịnh, như ngọc lưu ly, ở trong treo trăng sáng”. Ở đây cũng nói “Mười phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly”. Đó là trứng vàng của loài chim Kim Xí, trong trẻo sáng suốt rỡ ràng như kim cương, không thể phá hoại vậy.
Trong là thân tâm, ngoài là thế giới đã trong ngần sáng suốt, thì không những cái sắc tinh sáng phát hiện ra, mà cái Mật Viên Tịnh Diệu của hết thảy Như Lai đều hiện ra trong đó. Người ấy liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức là chỗ gọi là Càn Huệ Địa. Thức Ấm mà chưa hết thì chẳng thể đến đây được. Thức Ấm là cái tế vi khó đoạn, tức là cái Mạng Căn, nguyên do thọ sanh đều bắt đầu ở đó. Nay Thức Ấm hết, ắt căn nguồn đều hết. Các loài không còn kêu mời đến được, bèn cùng với cái không-thể-mời mà vong mất. Mười phương đều đồng, bèn cùng với tính Đồng mà hết mất. Bởi thế, có thể siêu vượt Mệnh Trược vậy.
Các vị thầy xưa lấy Hơi Thở, Hơi Nóng và Thức, ba cái hòa hợp thành Mạng Căn. Lúc thọ sanh thì Thức Ấm đến trước hết. Còn Thức đã ra khỏi thì Hơi Thở và Hơi Nóng diệt theo. Cái việc Thức ra khỏi thì mạng chung này phàm phu đều vậy, đâu có thể gọi là siêu vượt Mệnh Trược được ư?
Nói “Thức Ấm hết” là đã không còn cái Thức đến trước đi sau. Nói “Vượt khỏi Mệnh Trược” là đã chứng quả A La Hán, không còn chịu thân sau, đâu có thể bàn bạc mơ hồ ư?
Trước thì Thân Trung Ấm hướng theo các nẻo, mỗi mỗi tùy theo loại, Hành Ấm hết thì đã dứt cái mạch này. Còn cái mạng mạch của Thức Ấm lại càng vi tế, nên gọi là ảo tượng rỗng không. Ảo là hình như không. Tượng là hình như có. Hình như có, hình như không, lại rốt ráo rỗng không. Rỗng không chẳng sanh chẳng diệt là cái thể Chân Như vậy. Ảo tượng là cái bóng dáng sanh diệt trong tám Thức. Thế nên, y theo Chân Như thì gọi là Chánh Giác, y vào Thức Thứ Tám liền hệ lụy với vọng giác. Trái Giác, hợp Trần nên gọi là vọng tưởng điên đảo. Thức Ấm hết sạch tức là chuyển Thức thành Trí, chuyển sanh diệt mà trụ nơi chẳng sanh diệt. Trừ cái Vọng Tưởng điên đảo vi tế Ảo tượng rỗng không này đâu có dễ gì ư?
Nhà sư hỏi Tổ Hương Nham: “Như sao là Đạo?”
Tổ Nham nói: “Rồng ngâm nga trong cây khô”.
Hỏi rằng: “Như sao là người trong Đạo?”
Tổ Nham rằng: “Con ngươi ở trong sọ khô”.
Nhà sư đem hỏi Tổ Thạch Sương: “Như sao là “Rồng ngâm trong cây khô?”
Tổ Sương nói: “Còn đeo cái vui trong ấy”.
Hỏi rằng: “Như sao là “con ngươi trong sọ khô”?”
Tổ Sương nói: “Còn mang cái thức trong ấy”.
Nhà sư lại hỏi Tổ Tào Sơn: “Như sao là “Rồng ngâm trong cây khô”?”
Tổ Sơn nói: “Huyết mạch chẳng đoạn”.
Hỏi rằng: “Như sao là con ngươi trong sọ khô?”
Tổ Sơn nói: “Chưa khô hết!”
Hỏi: “Chưa rõ lại có người được nghe chăng?”
Tổ Sơn nói: “Khắp đại địa chưa có một ai chẳng nghe”.
Hỏi: “Chưa rõ Rồng ngâm là chương cú gì?”
Tổ Sơn nói: “Chẳng cần biết đó là chương cú gì, người nghe qua đều chết mất”.
Tổ Sơn lại dùng bài kệ chỉ dạy cho:
“Cây khô rồng ngâm, thật thấy Đạo
Sọ khô không Thức, mắt tinh mơ
Vui, Thức hết rồi, tin tức hết
Đâu người để biện sạch trong dơ?”.
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Vua ở trong cửa, thần chẳng ra ngoài, nên cái vui, Thức đều hết, ắt con về với cha”.
Gọi là “Khô ráo hết” tức là Thức Ấm hết. Chẳng có chương cú như vậy làm sao rõ được chương cú này?
Kinh: “Anan, phải biết thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh Không của các Hành, về đến nguồn Thức, đã diệt sanh diệt nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Người ấy có thể khiến nơi thân mình, các Căn khác nhau khi hợp, khi chia và cùng với các loài mười phương thông chung Tánh Giác. Cái Giác Tri thông suốt một màu vắng lặng, có thể nhập vào nguồn viên mãn.
“Nếu ở chỗ quay về, lập ra cái nhân chân thường mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Nhân Sở Nhân, thành bạn bè với đám Sa Tỳ Ca La, quy về Minh Đế, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Nhất, lập ra cái tâm có chỗ đắc, thành cái quả có chỗ quy về, trái xa tánh Viên Thông, ngược với đạo Niết Bàn, sanh vào giống ngoại đạo.
Thông rằng: Cái Thức Ấm trong lặng sáng suốt, do Hành mà trôi chuyển. Hành Ấm đã Không, đã diệt cái tướng trôi chảy sanh diệt, nhưng còn nương cái nguồn Thức trong lặng chẳng trôi, nên ở chỗ tịch diệt, sự tinh diệu chưa viên mãn.
Tịch Diệt nghĩa là sanh diệt đã diệt, không còn phải dùng cái Diệt để diệt Sanh Diệt nữa vậy. Ở đây thì diệt Sanh Diệt tức là còn thuộc về sự dùng công phu, nên chưa là Diệu, nguồn Thức vẫn còn, nên chưa được Viên. Nhưng đã về nguồn Thức, tiêu tan sáu Căn, về trong một chỗ nên có thể khiến nơi thân mình sáu Căn ngăn cách nhau mà có thể dùng thay nhau, hợp chia không ngại. Mượn Căn mà phát ra sự sáng suốt, nắm bỏ tự tại như nhiên, không chỉ cái Tự Giác bên trong sáng rỡ mà còn cùng với với các loài mười phương thông chung tánh Giác. Tánh Giác của tất cả các loài tức là cái Giác của ta, Tánh Giác của ta tức là cái Giác của tất cả các loài. Cái Giác Tri thông nhau, dung hợp không hai. Có thể vào nguồn Giác, viên dung không vướng ngại. Cái cội nguồn này viên mãn cùng cực là cội nguồn thọ mạng của các loài, cũng là cội nguồn phát ra cái giác của các loài. Mạng do đấy mà lập, giác do đấy mà khởi.
Đã là phát xuất từ cái giác nhưng không thấy có tướng tri giác, nên cho cái giác này là chẳng phải thường, vô giác mới là thường. Thế nên, Giác trở về với Vô Giác đó là Chân Thường, về đến nguồn Thức, đó là cái nhân của Chân Thường. Vậy là lấy cái mơ màng mờ mịt của lúc tám Thức chưa thành hình mà làm chỗ nương náu, cái đó ngoại đạo gọi là Minh Đế vậy. Đã có chỗ trở về, lại có cái sở nhân, mà năng nhân và sở nhân đều là hư vọng. Lập cái Tâm có chỗ đắc, để thành ra cái quả có chỗ đắc thì nhân ấy quả ấy đều sa vào cái sở vọng. Có Sở thì chẳng phải Viên, có Sở tức chẳng Chân, nên nói là trái xa tánh Viên Thông, ngược với Vô Thượng Niết Bàn mà giong ruổi vậy.
Thiền sư Vân Cái Sơn Chí Nguyên nhân có Ông Đạo Chánh ở Đàm Châu dâng biểu xin Mã Vương mời sư luận nghĩa.
Nhà vua mời Ngài lên điện, ra mắt uống trà xong, sư đến xin vua cây gươm, rồi cầm gươm hỏi Đạo Chánh: “Trong giáo pháp của ông có nói “Mơ mơ màng màng trong ấy có vật”, đó là vật gì? “Mờ mờ mịt mịt trong ấy có tinh”, đó là tinh hoa gì? Nói được không chém, không nói được thì chém!”
Ông Đạo Chánh hoang mang mờ mịt, bèn lễ bái sám hối.
Thiền sư nói với Vua: “Bệ hạ biết người này không?”
Vua đáp: “Biết”.
Sư nói: “Là ai thế?”
Vua nói: “Đạo Chánh”.
Sư nói: “Chẳng phải! Đạo ấy mà chánh thì đã đối đáp khế hợp được với sơn tăng. Đó chỉ là cây hòe côi vô chủ”.
Giá như ông đạo sĩ chẳng có phân vân mà đối đáp liền được rõ ràng thì cũng chẳng ra khỏi Minh Đế! Đối cùng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cách nhau quá xa vậy.
Kinh: “Anan, lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở chỗ quay về mà ôm làm tự thể của mình, tất cả chúng sanh trong mười hai loài khắp cả hư không đều ở trong thân mình tuôn khởi ra, rồi sanh thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Năng, Phi Năng, thành bạn bè với Trời Ma Hê Thủ La, hiện thân Vô Biên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Hai, lập ra cái tâm Năng Vi, thành cái quả Năng Sự, trái xa tánh Viên Thông, ngược với đạo Niết Bàn, sanh vào giống Đại Mạn Thiên, cho cái Ta là cùng khắp viên mãn.
Thông rằng : Ở trước là luận Thường, Vô Thường, ấy là xem thấy cái tâm diệu minh cùng khắp mười phương cõi, trong lặng như nhiên mà cho là Thần Ngã rốt ráo. Từ đó suy tính rằng cái Ta thì cùng khắp mười phương, lặng sáng chẳng động, còn tất cả chúng sanh tự sanh tự chết ở trong tâm mình. Tức là ở đây nói “Đều ở trong thân mình tuôn khởi ra”. Nhưng ở trước là chỉ thấy cái Hành Ấm, nên so tính về cái Năng Vi [Cái làm ra, cái tạo ra]. Tuy chấp rằng mình có khả năng sanh các thứ loài mà thực ra không có khả năng đó, nên nói là cái chấp Năng, Phi Năng.
Nguyên do thọ sanh của mười hai loài nằm ở tại Ta, thì cho là từ Ta mà ra, không gì chẳng được. Cớ sao lại nói rằng “Phi Năng”? Bởi vì, Ba cõi duy Tâm, vạn pháp duy Thức, không có cái ngã tướng để đắc nên có thể làm chủ muôn tượng vậy. Nay ở nơi nguồn Thức mà ôm làm tự thể của mình, rồi cho rằng vũ trụ ở nơi tay, vạn vật hóa sanh từ nơi Thân. Ấy là trộm thấy biển cả sanh ra bọt nước, mà tự thân chưa lìa khỏi bọt nước, thì bọt nước có thể sanh bọt nước ư? Một khi có cái Năng Chấp thì tuy hiện thần thông quảng đại, đều quay về chỗ kiêu mạn, vì Bất Năng mà gắng gượng cho là Năng vậy.
Ma Hê Thủ La [Đại Tự Tại Thiên] ba mắt tám tay, cỡi trâu trắng, cầm phất trắng hay biến hiện vô biên thân chúng sanh, rồi nói rằng chúng sanh từ ta tuôn khởi ra. Sống ở cõi Trời Sắc Đảnh [Cao nhất cõi Sắc Giới], chưa có thể vượt khỏi Tam Giới mà cho rằng có thể sanh Tam Giới thì há chẳng ngạo mạn ư? Lập ra cái tâm Mình có thể sanh kia, cho rằng Mình có thể thành tựu chuyện của kia. Hễ còn một chút năng kiến thì chẳng tự viên mãn, nên gọi là trái xa tánh Viên Thông, ngược với đạo Niết Bàn.
Tổ Tuyết Phong khai thị đại chúng rằng: “Khắp cả đại địa giúm lại thành hạt gạo lớn, ném ngay trước mặt. Thùng sơn [Danh từ Thiền chỉ lúc chưa ngộ] chẳng hiểu thì đánh trống khắp mời xem!”
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:
“Hết đầu trâu, tới đầu ngựa
Trong gương Tào Khê tuyệt bụi trần
Đánh trống xem kìa, sao không thấy
Trăm hoa xuân đến, nở vì ai?”.
Ngày khác, Tổ Tuyết Phong lại nói: “Khắp cả đại địa là một con mắt lẻ của Sa Môn, các ông hướng về đâu mà đi cầu?”
Tổ Triệu Châu nghe kể lại, nói: “Nếu ông trở về, cho gởi cái mai!”
Ngài Hải Ấn Tín tụng rằng:
“Mắt lẻ Sa Môn không chứa vật
Muôn tượng sum la từ kia xuất
Cái mai, ai nhỉ, biết Triệu Châu
Cái chuyện “phóng hành”, cần miên mật”.
Ngài Biệt Phong Ấn tụng rằng:
“Tuyết Phong đi cầu chỗ nào
Mà Triệu Châu gởi cái mai?
Con mắt lẻ Sa Môn
Bừa bãi mới như vậy
Ha! Ha! Ha!
Trong nước Đại Đường tiếng trống nổi
Trong nước Tân La múa quá chừng!”.
Xem cái cử xướng này của Tổ Tuyết Phong, chỉ cốt yếu biết lấy cái bổn lai tuôn khởi ra tất cả, cái chỗ thật tế rốt ráo không chút bóng dáng dấu vết. Nếu nói “Hay Hiểu”, “Hay Ngộ”, “Hay làm Nguồn Cội cho muôn pháp”, ấy là tay nói tào lao, cần sử dụng cái mai của Triệu Châu mới được.
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ quay về mà có chỗ nương tựa, tự nghi rằng thân tâm mình từ chỗ kia phát sanh ra, và cả mười phương hư không cũng đều do chỗ kia sanh ra, rồi ngay nơi cái chỗ sanh ra tất cả đó cho là thể chân thường không sanh diệt. Vậy là ở trong sanh diệt sớm chấp là thường trụ. Đã lầm là chẳng sanh, mà còn mê sự sanh diệt. An trụ trong mê lầm trầm trọng mà sanh thắng giải thì người ấy sa vào cái chấp Thường, Phi Thường, thành bạn bè của những kẻ chấp Tự Tại Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Ba, lập ra cái tâm Nhân Y, thành cái quả Vọng Kế, trái xa Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra dòng giống Đảo Viên.
Thông rằng: Trước nói “Nếu y nơi chỗ quay về mà lập ra cái nhân Chân Thường”. Quay về đã có chỗ, ấy là mình có chỗ về. Cái chỗ ta trở về quả thật có thể sanh ra ta, do vậy mà tự nghi thân tâm mình từ nguồn Thức kia tuôn phát ra, mười phương hư không cũng do kia sanh khởi. Không tự mình khởi, nên nói là đều khởi. Chẳng tự mình phát, nên nói là tuôn xuất ra. Khi chưa có ta thì trước đã có Thức này, không chỉ sanh mình ra mà còn sanh tất cả. Do đó mà mơ hồ thấy Thần Ngã là Vô Thường, còn nguồn Thức là Thường. Thần Ngã còn thuộc về Thức Thứ Bảy. Nguồn Thức thuần là Thức Thứ Tám, cái ban sơ chưa động vậy; bèn lấy nguồn Thức làm cái thể Chân Thường không sanh không diệt. Ở chỗ lặng trong không động này, trong chỗ sanh diệt vi tế mà sớm chấp là Thường Trụ. Không chỉ không thấy tánh chẳng sanh chẳng diệt chân thật mà còn mê, không biết pháp sanh diệt hiện tại. An trụ trong mê lầm trầm trọng mà cho là thắng giải. Đó là lấy cái chẳng phải Thường làm Thường, nên sa vào cái chấp Thường, Phi Thường. Như cho là Tự Tại Thiên sanh ra mình mà cho đó là Thường, chẳng biết Tự Tại Thiên cũng chẳng phải là cõi trời Thường Trụ.
Đạo Thư nói: “Thái Ất là cái khí nguyên nhất. Ban đầu sanh ở trên Thái Hư, có cõi trời Ngọc Kinh. Bốn phương, mỗi phương đều có tám cõi trời, ba mươi hai vị Đế ở đó. Ở trên cõi Ngọc Kinh có ba cõi Trời Tam Thanh: Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Ở trên cõi trời Tam Thanh lại có mười cõi trời Hư Hoàng, là chỗ ở của Nguyên Lão Nguyên Tôn và Thiên Hoàng Cửu Hoàng”. Đó là cõi trời Sắc Đảnh và Không Cư, ngoại đạo không thể biết rõ, bèn cho đó là cội gốc sanh trời sanh đất. Và chỗ nói rằng “Thiên Hoàng giáng cửu khí làm ra cái Hỗn Độn” thì cũng như bên Tây Vực cho Đại Phạm Thiên làm chủ tể của vũ trụ, đều phát xuất từ kiến chấp trên. Đó là lập ra cái tâm Nhân Y [Nương cái nhân], nương vào cái nhân là nguồn Thức, cho là sanh ra mình mà thành cái quả Vọng Kế [Suy lầm], lầm cho là Thường Trụ, chẳng phải do mình vậy.
Trước kia thì suy tính rằng ta sanh ra tất cả vật, ở đây thì nghĩ rằng mình hoàn toàn do cái kia sanh, nên gọi là Đảo Viên. Đó là muốn quên Ngã, quên Năng mà không thể mất hết cái tướng sanh, nên nói là “Trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn”.
Thiền sư Đại Ninh Khoan khai thị đại chúng, đưa cây gậy lên, nói: “Tánh mạng của Phật trước, kỷ cương của Phật sau đều trọn ở trong ấy. Như nay sử dụng đến thì làm mây, làm mưa, làm điềm tốt, làm điềm lành, lợi người, lợi trời, ra sanh vào tử. Thế giới tha phương khởi chìm, cuốn mở. Dù cho suốt thân là miệng, nói cũng chẳng có, suốt thân là mắt, soi chẳng hết. Một niệm tương ưng, sát na vạn kiếp!”
Tổ Từ Minh khai thị đại chúng: “Đạo Ngô gióng trống, bốn đại bộ châu cùng dự. Trụ trượng quơ ngang, quả y hết Càn Khôn đại địa. Bình bát mà chuyển, che hết hằng sa thế giới. Thử hỏi tất cả các ông hướng về chốn nào để an thân lập mệnh? Nếu mà biết chỗ an thân lập mệnh: Bắc Cu Lô Châu ăn cơm, xơi cháo. Nếu mà chẳng biết: Ngồi mãi trên sàng xơi cháo, ăn cơm!”
Đây là các vị tôn túc chỉ thẳng ra cái Chẳng Sanh Chẳng Diệt, là thể Chân Thường. Thử nói xem là có về nương hay không về nương? Đừng ngại, nghi đi!
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi chỗ hay biết, nhân sự hay biết cùng khắp mà lập ra cái nhận thức rằng cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, không khác với người. Cây cỏ làm người, người chết rồi trở lại thành cỏ cây mười phương. Ở nơi cái hay biết cùng khắp, không có chọn lựa và cho là thắng giải. Người ấy sa vào kiến chấp Tri, Vô Tri, thành bạn bè của bọn Bà Tra, Tiển Ni chấp tất cả đều có hay biết, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Tư suy tính cái tâm Viên Tri thành cái quả sai lầm, trái xa tính Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Đảo Tri.
Thông rằng: Ở trước thì quay về Minh Đế, mờ mịt không biết, nhưng cái biết thì không thể diệt được, nên nhân cái biết lập ra nhận thức rằng Nguồn Thức có biết, mà tất cả các pháp đều do cái Biết biến khởi ra. Bởi cho rằng cái thể của tánh Biết trải khắp cùng các pháp, đến nỗi nói rằng loài vô tình đều có biết, không có chọn lựa. Đó là lấy cái Không Biết làm cái Biết, nên gọi là Đảo Tri [Biết Ngược].
Bộ Hóa Thơ của Ông Đàm Tử [Thuộc Đạo Gia] có nói: “Cây Phong già hóa làm đạo sĩ. Hạt lúa mục hóa làm bướm. Đó là từ vô tình mà thành hữu tình vậy. Cô hiền nữ hóa thành bia đá, con trùn núi hóa thành cây bách hợp. Đó là từ hữu tình mà thành vô tình vậy. Thế thì cái gì là người, gì là ta, gì là có thức, gì là vô thức? Vạn vật là một vật, vạn thần là một thần vậy”.
Đó là kiến chấp “Cỏ cây làm người, người làm cỏ cây” vậy.
Có nhà sư hỏi Quốc sư Huệ Trung: “Cổ đức nói “Xanh xanh trúc biếc trọn là Pháp Thân, rờ rỡ hoa vàng đâu không Bát Nhã”. Có người không chịu, bảo là tà thuyết. Cũng có người tin, nói bất tư nghì. Không biết như thế nào?”
Quốc sư nói: “Đây là cảnh giới của Đức Phổ Hiền, Văn Thù chẳng phải hàng phàm phu tiểu khí có thể tin nhận. Ý chỉ hợp với kinh Đại Thừa Liễu Nghĩa. Bởi thế, Hoa Nghiêm kinh nói “Phật Thân đầy tràn Pháp Giới, khắp hiện trước tất cả chúng sanh, tùy duyên cảm hiện không đâu chẳng khắp mà hằng tại tòa Bồ Đề này”. Trúc biếc đã chẳng ngoài Pháp Giới, há chẳng phải Pháp Thân đấy sao? Lại nữa, kinh Bát Nhã nói: “Vì Sắc vô biên nên Bát Nhã cũng vô biên”. Hoa vàng đã chẳng vượt ngoài Sắc, há chẳng phải là Bát Nhã đó sao? Lời nói sâu xa, kẻ chưa tỉnh ngộ khó mà hiểu được”.
Nghe xong, thiền khách làm lễ mà đi.
Lại có thầy Tòa Chủ giảng Hoa Nghiêm hỏi Hòa Thượng Đại Châu rằng: “Thiền khách cớ sao chẳng chịu “Xanh xanh trúc biếc trọn là Pháp Thân, rờ rỡ hoa vàng không chi chẳng là Bát Nhã”?”
Tổ Châu nói: “Pháp Thân không có hình tượng, ứng ra trúc biếc mà thành hình. Bát Nhã vô tri, đối hợp hoa vàng mà hiện tướng. Chẳng phải hoa vàng, trúc biếc kia mà có Bát Nhã, Pháp Thân. Thế nên, kinh nói “Chân Pháp Thân của Phật giống như hư không. Ứng vật hiện hình như trăng trong nước”. Nếu hoa vàng thật là Bát Nhã thì Bát Nhã đồng với vô tình. Trúc biếc nếu thật là Pháp Thân thì Pháp Thân là đồ ứng dụng. Tọa Chủ có hiểu không?”
Đáp rằng: “Chưa hiểu được ý này”.
Tổ Châu nói: “Như là người thấy Tánh thì nói phải cũng được, nói chẳng phải cũng được, tùy chỗ dùng mà nói, chẳng kẹt phải hay chẳng phải. Còn như người chẳng thấy Tánh, nói trúc biếc thì dính mắc trúc biếc; nói hoa vàng thì dính mắc hoa vàng; nói Pháp Thân thì kẹt Pháp Thân; nói Bát Nhã chẳng hay Bát Nhã. Bởi thế mà đều thành ra tranh luận”.
Vị Tọa Chủ lễ tạ rồi đi.
Tổ Diệu Hỷ nói: “Trong chúng thương lượng Đạo, hai vị tôn túc thiết tha thế kia. Một người được cái Thể, một người được cái Dụng. Được cái Dụng thì trên Sự mà kiến lập, được cái Thể thì trên Lý mà quét dẹp. Đó là chỗ nói là “Thật Tế Lý Địa không nhận hạt bụi, trong cửa Phật sự chẳng bỏ một pháp” vậy. Ta làm Pháp Vương, nơi pháp tự tại, hoặc đè hoặc nâng, không được không mất, cái kiến giải như vậy gọi là anh lùn xem kịch! Chỗ thấy của Diệu Hỷ, các ông cũng cần chung biết. Há chẳng nghe nói “Đập tan xương sống con lừa, leo lên chân con ruồi xanh” ư?”
Lại có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Như sao là Thanh Tịnh Pháp Thân?”
Tổ Môn nói: “Hoa Dược Lan”.
Nhà sư hỏi: “Bèn cứ như vậy thì sao?”
Tổ Môn nói: “Sư tử lông vàng”.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:
“Hoa Dược Lan, chớ mơ màng!
Vạch số ở cán, không tại bàn cân
Bèn như vậy, thật không mối manh
Sư tử lông vàng, tay tổ ngắm”.
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Giặc đến cần đánh, khách tới cần đãi. Vân Môn, Tuyết Đậu, cả hai đều là tay tổ. Trong ấy làm gì có chuyện “Bèn cứ như vậy” đâu ? Rất kỵ chạm đầu, đụng trán đấy!”
Căn cứ theo chỗ thấy của các vị tôn túc trên thì cái Viên Diệu còn không thể “Bèn cứ như vậy”, huống gì trong ấy lại so tính cái tâm “Biết hết” để thành cái quả sai lầm ư?
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở trong chỗ viên dung của các Căn dùng thay lẫn nhau đã được tùy thuận, bèn ở nơi tánh viên dung biến hóa phát sanh các thứ mà cầu cái ánh sáng của Hỏa Đại, ưa cái trong sạch của Thủy Đại, thích cái tràn khắp của Phong Đại, ngắm cái thành tựu của Địa Đại. Mỗi mỗi đều sùng phụng cho các Đại kia là bản nhân, lập thành cái nhận thức thường trụ thì người ấy sa vào cái kiến chấp sanh vô sanh, thành bè bạn của nhóm Ca Diếp Ba và Bà La Môn, đem hết thân tâm thờ nước, thờ lửa để cầu ra khỏi sanh tử, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Năm, chấp trước sùng phụng, mê tâm theo vật, lập ra cái nhân mong cầu hư vọng mà đợi cái quả giả dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Điên Hóa.
Thông rằng: Hành Ấm đã không, thì sáu Căn dùng thay nhau. Các Căn đều viên dung, phát sanh biến hóa, tùy thuận không ngại bèn ở nơi tánh viên dung biến hóa tất cả đều có thể phát sanh mà cho rằng sáu Căn này do bốn Đại thanh tịnh mà có, cái tánh của bốn Đại thanh tịnh là thường trụ ở thế gian, chưa từng ngừng diệt. Đã có thể hóa khởi sáu Căn thì tất cả tiền trần đều do đó mà phát khởi, vậy bốn Đại thanh tịnh là bổn nhân khởi ra mọi thứ. Trước mắt thì Địa, Thủy, Hỏa, Phong biến diệt vô thường mà cái Địa Bổn Nhân thì thường trụ không đổi, nên cầu cái ánh sáng của Hỏa Đại, nghĩa là cầu cái tánh thường trụ của ánh sáng vậy. Ưa cái trong sạch của Thủy Đại, nghĩa là cái tánh thường trụ của trong sạch. Thích cái tràn khắp của Phong Đại, nghĩa là cái tánh thường trụ của tràn khắp. Nắm cái thành tựu của Địa Đại, nghĩa là cái tánh thường trụ của thành tựu vậy. Ở mỗi cái đều sùng phụng, cầu ra khỏi sanh tử. Chẳng phải sùng phụng cái Tướng suông, mà muốn nhân cái Tướng mà được cái Tánh. Như đồng tử Nguyệt Quang ban đầu tu tập pháp Quán Nước, qua nhiều kiếp mới có thể làm một với nước. Cái ý sùng phụng của ngoại đạo cũng mường tượng như vậy, muốn hợp làm một với cái tánh của bốn Đại, thường trụ ở thế gian mà gọi là chẳng sanh diệt. Đây chẳng phải là chỗ cầu mà lại cầu, nên gọi là “Cầu hư vọng”, chẳng phải chỗ đợi mà đợi nên gọi là “Đợi giả dối”.
Việc sanh của bốn Đại, là cái sanh của hữu vi. Sự hóa của bốn Đại, là cái hóa của hữu vi. Bốn Đại là cái bị sanh chứ thật chẳng có thể sanh. Bốn Đại là cái bị hóa, chứ thật chẳng có thể hoá. Chấp cái không có sanh này mà cho là sanh thì điên đảo cái lý biến hóa, nên gọi là Đảo Hóa. Tâm vốn là nguồn gốc của vạn hóa. Tất cả vạn vật đều do Tâm mà có ra. Nay đây chẳng biết Tâm mà chạy theo vật, bỏ gốc theo ngọn mà muốn ra khỏi sanh tử, lại ngược vào sanh tử, bỏ mất Chánh Tri Kiến, ngu si đến nỗi như vậy thì há chẳng trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn ư? Do thế mà quên mất cái Biết, hết mất chỗ thấy thì mong cái chẳng sanh diệt quả là khó vậy!
Xưa, Ngài Lỗ Tổ hễ thấy có nhà sư đến bèn quay mặt vô vách.
Tổ Nam Tuyền nghe vậy, nói: “Tôi bình thường hướng về người khác mà nói: “Hãy nhận lãnh cái “Không kiếp về trước”, hiểu lấy cái “Thuở Phật chưa ra đời” mà còn chưa được một phần, nửa phần. Kia như vậy, thì tết Lừa thôi!”
Ngài Bửu Phước hỏi Tổ Trường Khánh: “Như Ngài Lỗ Tổ, phẩm hạnh ở chỗ nào mà bị Tổ Nam Tuyền nói như thế?”
Tổ Khánh nói: “Lui mình nhường người, trong muôn người không có được một”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng:
“Trong nhạt có vị
Diệu thoát tình phàm
Miên miên nhược tồn, hề, trước khi hình tượng
Lù đù như ngu, hề, đạo kia thật quý
Ngọc chạm mất đi thuần diệu
Châu trong vực hằng tự tươi
Mười phần khí trong, hề, nắng thu sạch bóng
Một mảnh mây nhàn, hề, xa phân trời nước”.
Chỗ này há hạng Bà La Môn “Nhìn Vách” có thể góp lời được ư?
Lại Tổ Tuyết Phong hỏi nhà sư: “Chốn nào đến?”
Đáp: “Thần Quang đến”.
Tổ Phong nói: “Ngày thì gọi là Nhật Quang. Đêm thì gọi là Hỏa Quang. Thế nào là Thần Quang?”
Nhà sư không chỗ trả lời.
Tổ Tuyết Phong tự thay thế nói rằng: “Nhật Quang, Hỏa Quang. Có nói Nhật Quang, Hỏa Quang thì hãy dẹp quách cái Thần Quang cho xong!”
Cần phải thấy các Tướng chẳng phải Tướng mới liền hợp với ý chỉ Vô Sanh!
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở nơi chỗ viên minh, chấp sự trống không trong viên minh, bác bỏ tiêu diệt các sự vật biến hóa. Lấy sự vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y, rồi sanh thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Quy Vô Quy thành bè bạn của nhóm chấp Không trong Vô Tưởng Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Sáu, vẹn thành tâm hư vô, kết nên cái quả Không Vong, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Đoạn Diệt.
Thông rằng: Ở trước thì vọng chấp bốn Đại là chẳng sanh diệt, bèn sa vào Thường Kiến. Ở đây thì phá diệt các sự vật biến hóa mà nương về cái vĩnh viễn diệt mất, đó là sa vào Đoạn Kiến.
Cái trống không trong cái sáng, cái sáng trong cái trống không, thì hình như bày hiện tánh Viên Minh, độc chỉ chấp chặt cái trống rỗng ở trong tánh sáng, lấy cái vô quy làm quy, trụ yên nơi tánh không bèn sa vào quả Vô Tưởng Thiên.
Nhóm Chấp Không không có thân cảm xúc, ở trong hào quang của Phật, ánh sáng khiến tạm thấy. Do lấy Không làm Nhân, nên cũng lấy Không làm Quả, thế bèn dứt mất chủng tánh Như Lai, nên gọi là “Cháy mầm, hư giống” vậy. Ngoại đạo lấy đó làm Niết Bàn, nên cách xa Niết Bàn chân thật ngàn dặm muôn dặm!
Có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Khi cây héo lá rụng thì thế nào?”
Tổ Môn nói: “Thể lộ gió vàng!”
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:
“Hỏi đã có Tông
Đáp cũng tương đồng
Ba câu rõ được [Vân Môn có tam cú]
Một cú rộng không
Đồng rộng hề, gió mát rào rào
Trời cao hề, mưa xa lất phất
Anh chẳng thấy
Thiếu Lâm ngồi mãi, khách chưa về
Yên nương Hùng Nhĩ, chùa rộn rịp”.
Tổ Huyền Sa thượng đường rằng: “Phật Đạo mênh mông không đường lối nhất định. Không có cửa là cửa giải thoát, không có ý là ý đạo nhân. Chẳng ở ba mé [Quá khứ, hiện tại, vị lai] nên không thể thăng trầm. Kiến lập thì trái với Chân nên chẳng thuộc về tạo tác. Động ắt khởi lên cội gốc sanh tử, Tịnh thì mê muội nơi chốn hôn trầm. Động Tĩnh đều mất thì lạc vào Không Vong. Động tĩnh đều thâu thì mơ hồ Phật Tánh. Hẳn phải đối trần, đối cảnh như tro lạnh, cây khô. Lúc đến hạp dùng, chẳng mất phép tắc. Như gương soi hình tượng, chẳng loạn ánh sáng. Chim bay trong không chẳng lấm vẻ không. Bởi thế, mười phương không có ảnh tượng, ba cõi bặt dứt hành tung. Chẳng sa vào cái cơ lui tới, chẳng trụ nơi cái ý trung gian. Trong chuông không có tiếng vang của trống, trong trống không có tiếng vang của chuông. Chuông trống chẳng tương giao, câu câu không sau trước. Như tráng sĩ duỗi tay chẳng nhờ tha lực, sư tử dạo chơi nào cần bạn lứa? Hư không hết nhặm, nào do soi suốt! Một dải quang minh chưa hề mờ tối. Đến vào trong ấy, thể bặt bặt, thường sáng quắc, mặt trời chói rực, bày bố vô biên! Trong Viên-Giác-Không chẳng động lay. Nuốt sáng Càn Khôn soi tột khắp”.
Tổ Huyền Sa, Vân Môn thấy suốt chân thể Niết Bàn vốn không sanh diệt, phát huy chỗ tinh diệu như vậy đủ cho hàng ngoại đạo dựng tóc gáy.
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi tánh Viên Thường củng cố cái thân cho thường trụ như tánh ấy, mãi không suy mất mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Tham Phi Tham, thành bè bạn của nhóm A Tư Đà, cầu được mạng sống lâu dài, mê muội Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Bảy, bám níu cái Mệnh Căn, lập cái Nhân Củng cố vọng thân hướng theo cái Quả Khổ nhọc lâu dài, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Vọng Diên [Kéo dài sự hư vọng].
Thông rằng: Thoáng thấy tánh Viên Minh, bèn chấp theo tướng “Trống không trong cái sáng”. Thoáng thấy chỗ Viên Thường bèn chấp theo cái tướng Thường chẳng hư hoại. Chỗ này thì người trí cũng không tránh khỏi. Nhưng tánh Viên Minh chưa từng chẳng trống không, mà cái trống không đó chẳng thể chấp níu. Chấp nắm cái trống không ấy thì sa vào Không. Cái tánh thuần trong toàn vẹn chưa từng chẳng Thường, mà cái Thường kia không thể chấp níu. Chấp nắm cái Thường ắt chạy theo khổ nhọc.
Trang Tử nói “Đại khối làm nhọc ta vì cái sống”. Các cách tu luyện như gấu vươn vai, chim ngẩng cổ, nôn cũ thâu mới cũng là chuyện nhọc nhằn, nên gọi là “Khổ nhọc lâu dài”. Vả chăng, cái sắc thân bốn Đại này bị định nghiệp ràng buộc. Cái phân đoạn sanh tử chẳng thể làm cái biến dịch sanh tử, cái biến dịch chẳng thể làm cái phân đoạn. Thân vốn vô thường, thật chẳng thể tham mà nay lại bám níu muốn được lâu dài, nên gọi là cái chấp Tham Phi Tham. Tuy các vị tiên trường thọ có được cái thuật này mà chứng sự trường thọ chẳng qua là củng cố cái vọng thân mà thôi, đối với tánh Chân Thường không hư hoại rất là xa cách, nên gọi là trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn.
Bám níu Mạng Căn, lặng đứng cái Thức Tinh, lắng trong chẳng giao động bèn có thể vượt khỏi Vô Tưởng Thiên mà sanh cõi trời Phi Phi Tưởng. Đây gọi là hạng ngoại đạo Đệ Nhất ở Tây Vực, trọng việc củng cố thân cho thường trụ, cùng lắm là hết tám vạn kiếp lại lọt vào luân hồi. Thế thì sao có thể thường trụ ư?
Tổ Huyền Sa nhân uống lầm thuốc, cả người đỏ rần, có nhà sư hỏi: “Thế nào là Pháp Thân kiên cố?”
Tổ Sa nói: “Cõi đất mủ giọt lộp độp!”
Hòa Thượng Hoài tụng rằng:
“Nhểu nhểu suốt thân là mủ thối
Trên thuyền câu cá, hiển gia phong
Người đời chỉ ngó trên dây nhợ
Chẳng thấy hoa lan đối liễu hồng”.
Hòa Thượng Đoan nói: “Từng có người hỏi Ngài Pháp Hoa “Thế nào là thanh tịnh Pháp Thân?”, thì Ngài chỉ đáp “Cứt thúi ngất trời”. Lại nói: “Trên lá hoa sen hóa làm trẻ nhỏ”. Thử nói là đồng hay khác với cổ nhân?”
Ngài Pháp Hoa cũng có bài tụng:
“Cứt thúi ngất trời cũng ngẫu nhiên
Pháp Hoa đâu dám vì ông tuyên
Mũi kia mà có thông thiên khiếu [Lỗ thông trời]
Cứ việc hoành hành khỏi xỏ xiên”.
Ở đây, các vị tôn túc đối với cái Pháp Thân kiên cố trong đàm luận mà còn muốn nôn ra, huống gì cái sắc thân thô lậu này mà muốn giả dối kéo dài ư?
Nhưng cũng có vị nương nguyện lực mà trở lại, chẳng phải nhờ tu luyện mà đắc.
Như Ngài Thiên Tuế Bảo Chưởng người Trung Ấn, sanh năm Thứ Mười Hai đời Châu Uy Việt, bàn tay trái nắm lại, đến năm bảy tuổi làm lễ cạo tóc mới mở ra, do đó mà có tên là Bảo Chưởng [Nắm tay quý báu]. Khoảng đời nhà Ngụy Tấn, sang Trung Hoa, vào đất Thục làm lễ Đức Phổ Hiền. Thường không ăn, hằng ngày tụng các kinh Bát Nhã hơn ngàn cuốn, có bài vịnh rằng:
“Nhọc nhằn răng ngọc lạnh
Tợ giòng suối tuôn nhanh
Có lúc đêm thâu ngồi
Trước thềm quỉ thần khóc”.
Một hôm, Ngài bảo đại chúng: “Ta có lời nguyện ở thế ngàn tuổi, năm nay là sáu trăm hai mươi sáu năm!”
Bởi thế có danh xưng là Thiên Tuế [Ngàn năm].
Kế đó, Ngài dạo núi Ngũ Đài, dời đến ở chùa Hoa Nghiêm, núi Chúc Dung, núi Song Phong ở Hoàng Mai; rồi chùa Đông Lâm ở Lư Sơn, đều tìm đến để xây dựng. Gặp lúc Tổ Đạt Ma vào nước Lương, bèn đến hỏi ý chỉ, được khai ngộ. Vua Võ Đế tôn kính tuổi đạo cao, mời vào trong triều. Chẳng bao lâu lại vào đất Ngô, có bài kệ rằng:
“Thành Lương gặp Đạo Sư
Tham thiền rõ tâm địa
Rong chơi hai xứ Triết
Hết trọn non nước đẹp”.
Thuận dòng xuống miền Đông giáp Thiên Trúc, ở núi Mậu Phong, lên non Thái Bạch, vượt qua núi Nhạn Đảng, bàn luận ở núi Thúy Phong, cả thảy bảy mươi hai cái Am. Trở về Xích Thành, dừng nghỉ ở các nơi Vân Môn, Pháp Hoa. Trở lại núi Phi Lai, ngụ ở non Thạch Đậu, đi hết bốn trăm Châu của Trung Hoa. Trong xứ này gọi là Đạo Nhân du phương. Đó là năm Thứ Mười Lăm niên hiệu Trinh Quán. Sau ở chùa Bửu Nghiêm đất Phổ Giang, kết bạn hiền với Lãng thiền sư. Mỗi khi thăm hỏi thì cho con chó trắng mang thơ sang, Ngài Lãng cũng sai một con vượn xanh làm sứ giả. Nên nơi vách sư Lãng có câu “Chó trắng ngậm thơ đến. Vượn xanh rửa bát về”.
Ngày mồng Một Tết năm Thứ Hai niên hiệu Hiển Khánh, Ngài tự đắp một bức tượng, đến mồng Chín thì xong, mới hỏi đệ tử là Huệ Vân: “Cái này giống ai?”
Đáp rằng: “Dạ, chẳng khác Hòa Thượng”.
Liền đó đi tắm, thay áo, ngồi kiết già, bảo Huệ Vân: “Ta trụ thế một ngàn lẽ bảy mươi hai năm, nay sắp từ giã.
“Hãy nghe kệ ta:
“Bổn lai không sanh tử
Nay cũng bày sanh diệt
Ta đặng tâm ở-đi
Lại về đây năm khác”.
Chốc lát lại dặn dò: “Sau khi ta tịch sáu mươi năm, có nhà sư đến lấy hài cốt ta thì đừng ngăn cản”.
Nói xong, thì đi thoát.
Hơn năm mươi bốn năm sau, có Trưởng Lão Thích Phù từ Vân Môn đến tháp, làm lễ rồi nói: “Xin tháp mở rộng ra”.
Chốc lát cửa tháp quả nhiên mở rộng, bộ xương liền nhau như màu vàng ròng. Thích Phù bèn mang sang đất Tần Vọng xây tháp chôn thờ.
Từ năm Đinh Mão đời Châu Uy Liệt đến năm Đinh Tỵ niên hiệu Hiển Khánh đời Đường Cao Tông đúng một ngàn lẽ bảy mươi hai năm! Đến nước này trải qua hơn bốn trăm năm. Hàng ngoại đạo cầu sống lâu mà có thể như Ngài Bảo Chưởng có mấy người ư?
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Xét Mệnh Căn thông lẫn với nhau, lại muốn giữ lại nơi trần lao, sợ nó tiêu hết. Bèn ở giới hạn này, ngồi cung liên hoa, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ nữ, buông lung tâm mình mà sanh thắng giải. Người ấy sa vào cái chấp Chân Vô Chân thành bè bạn của nhóm Tra Chỉ Ca La, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Tám, lập cái nhân Tà Tư [Nghĩ Bậy] thành cái quả Xí Trần [Trần Cảnh Lẫy Lừng], trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Thiên Ma.
Thông rằng: Thức Ấm là cái cội nguồn mạng sống của mười hai loài chúng sanh. Mệnh của mình thông với kia, mệnh của kia thông với mình, nên gọi là thông lẫn nhau. Nếu Thức Ấm hết thì mạng của chúng sanh mười phương lập tức hết ráo, mạng mình cũng hết, ai chứng lý Chân Thường? Ai giáo hóa chúng sanh? Chỉ có Chân Thường mà không có người chứng Chân Thường, nên sợ tiêu hết, muốn ở lại nơi trần lao mà độ thoát chúng sanh. Ban đầu ngồi cung liên hoa, biến hóa ra nhiều các thứ bảy báu, ý chẳng phải xấu. Kế rồi thêm nhiều mỹ nữ, phóng túng tâm mình thì cái tà tư xen vào rồi vậy. Nương theo cái tà tư này mà muốn chứng Chân Thường, khởi ra cái Dụng biến hóa mà không biết lỗi lầm nên gọi là cái chấp Chân Vô Chân.
Tra Chỉ Ca La là trời Tha Hoá Tự Tại ở trên đỉnh Dục Giới, hay biến hóa ra cảnh Dục để tự vui thích. Trời Tha Hóa chưa hẳn đều là ma, nhưng việc thần biến của Ma Vương cũng cùng loại nên có ở chung. Chỉ vì dục trần như lửa nên gọi là Xí Trần. Mười loại Thiên Ma ở trước (Tưởng Ấm) đều lén làm việc tham Dục, đó là chỗ phát ra của Tà Tư, chẳng thể cấm ngăn. Không bám trước thì gọi là Trời, có bám trước thì gọi là Ma. Kinh Pháp Hoa nói: “Các ông chớ nên thích ở cái nhà lửa của ba cõi. Không nên tham các thứ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc thô tệ. Nếu tham bám sanh ra Ái liền bị thiêu đốt”.
Xưa, Ông Uất Đầu Lam Phất dùng cái trí thế tục hàng phục được những mê lầm bậc thấp, được Phi Tưởng Định, đủ năm thứ Thần Thông. Nhà vua bấy giờ tôn trọng, mời vào cung, các cung nữ đón lấy chân ông mà làm lễ. Ông Uất Đầu Lam Phất tiếp xúc với tay người nữ, bèn sanh ham muốn, liền mất Thần Thông. Ăn xong, đi bộ từng bước về núi.
Nên chi có bài kệ rằng:
“Vừa sanh một niệm Dục
Liền mất Ngũ Thần Thông”.
Loại Thiên Ma thích biến hóa này, do trấn áp Thức Ấm mà được, nên hễ nghĩ bậy phát ra là mất. Quả báo Thần Thông đã hết thì rơi vào sự chìm đắm. Cái vui này đâu có thể thường, nên gọi là Chân Vô Chân vậy.
Như chỗ hiện thần lực của đại sĩ Duy Ma, lúc ấy Phật Tu Di Đăng Vương khiến cho ba vạn hai ngàn tòa sư tử rộng lớn nghiêm tịnh đến nhập vào thất của Đức Duy Ma Cật. Các vị Bồ Tát, Đại Đệ Tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương thấy điều xưa giờ chưa từng thấy là cái thất rộng lớn mênh mông chứa trọn ba vạn hai ngàn tòa sư tử không hề trở ngại.
Thiền sư Bảo Giác nói: “Cho tòa sư tử là cao rộng, thất Tỷ Da là nhỏ hẹp, nghĩ đến cái khoảng chất chứa liền thành ra trở ngại. Đây là lực Thần Thông chân thật, nên chẳng thể nghĩ bàn!”
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Ở trong chỗ cội gốc rỗng sáng của Mạng Căn, phân biệt cái tinh, cái thô để quyết rõ Chân, Ngụy. Nơi nhân quả đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái ngược với đạo thanh tịnh là thấy Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo mà ở nơi chỗ Diệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh thắng giải. Người ấy sa vào hàng Định Tánh Thanh Văn, thành bạn bè của nhóm tăng Vô Văn là những người tăng thượng mạn, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Chín, cố viên thành cái tâm Tinh Ứng, thành cái quả Thú Tịnh, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Triền Không.
Thông rằng: Thức Ấm hiển lộ nên gọi là gốc Mạng Căn rỗng sáng. Cái Thức thì ngậm chứa chủng tử hữu lậu và vô lậu. Nay ở trong đó phân biệt lựa chọn: Khổ, Tập là hữu lậu, gọi rằng thô, rằng ngụy; Đạo, Diệt là vô lậu, gọi rằng tinh, rằng chân. Chọn bỏ đi cái Khổ, Tập thô, ngụy mà giữ lại cái Diệt, Đạo tinh, chân. Tu Đạo là cảm, chứng diệt là ứng. Ý chỉ muốn nắm lấy điều này, chẳng chịu tiếp thêm. Đây là pháp luân Tứ Đế, vốn tu viên quán Pháp Giới bình đẳng, lìa cái dơ nhị biên, gọi là Thanh Tịnh Đạo.
Nay lại phát khởi cái tri giải “Ưa, Ghét” của Tiểu Thừa, chẳng rời nhân quả, dừng ở chỗ Diệt Đế mà ngừng nghỉ, đó là cái dơ của phía thanh tịnh, nên gọi là trái ngược. Hướng về chỗ tịnh lặng, bị ràng buộc nơi cái trống không, chứng nơi pháp Chân riêng lệch, so với cái đoạn diệt ở trước có hơi khác. Ở trước là một bề hướng về Không, thuộc về trời Vô Tưởng. Còn đây thì có Diệt Đế để chứng, thuộc về Tứ Không Thiên hay là ràng buộc nơi cái Không, mong viên thành tâm cảm ứng nên bị sự tịch lặng ràng buộc, không thể hướng về Đại Thừa.
Hàng định tánh Thanh Văn đã chứng Bát Định nhưng chưa chứng Lậu Tận, vướng mắc vào giáo pháp Tứ Đế, nên Phật gọi là Thanh Văn, không thể phát ngộ cầu tiến đến Vô Thượng Bồ Đề. Khi nghe đức Phật nêu lên pháp môn Đốn Giáo thì bèn bỏ chỗ rút lui, ấy gọi là Tăng Thượng Mạn. Chưa đắc cho là đắc, rốt rồi thuộc về nhóm Tỳ Kheo Vô Văn.
Người xưa nói “Chớ giữ cỏ lạ xanh hang lạnh. Mây trắng ngồi yên chẳng nhiệm mầu”. Bởi thế, am chủ Liên Hoa đưa cây gậy lên, chỉ bày đại chúng: “Người xưa đến trong ấy, vì sao chẳng chịu trụ?”
Đại chúng không có lời đáp.
Tổ tự thay thế nói rằng: “Vì kia đường lối chẳng đắc lực!”
Lại nói: “Rốt ráo là sao?”
Lại tự thay thế nói rằng: “Đòn gánh vác ngang chẳng đoái người. Thẳng vào ngàn, muôn đỉnh núi đi”.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:
“Trong mắt: cát bụi; trong tai: đất
Ngàn ngọn, muôn ngọn nào chịu ở
Hoa rơi nước chảy cùng man mác
Dựng đứng lông mày, chỗ nào đi?”.
Lại có nhà sư hỏi thiền sư Vân Cư Giản: “Đỉnh côi độc ở thì thế nào?”
Tổ Cư nói: “Trong chín gian tăng đường chẳng có nằm, ai dạy ông đỉnh côi độc ở?”
Ngài Đơn Hà tụng rằng:
“Pháp thế, không tu, vốn trọn phần
Bình thường thù đáp quá phân minh
Tuy rằng chỉ thẳng Trường An lối
Khổ nỗi khách chơi chẳng bộ hành!”.
Bậc Thanh Văn hướng về Tịch Lặng, còn thuộc về công phu tu tập. Pháp là như thế, chẳng có sự Tu, đó là chân Tịch Diệt. Hạng độn căn kia chẳng chịu rõ chỗ này.
Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở trong tánh Giác Minh thanh tịnh viên dung phát minh chỗ thâm diệu bèn lập đó là Niết Bàn mà không tiến tới, sanh làm thắng giải, thì người ấy sa vào hàng định tánh Bích Chi, thành bạn bè của các vị Duyên Giác, Độc Giác chẳng hồi tâm hướng Đại Thừa, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Mười, viên thành Giác Tâm vắng lặng, thành cái quả Trạm Minh, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra hạng giác Viên Minh, mà không dung hóa được tánh Viên.
Thông rằng: Đã thanh tịnh viên dung, thì những gì trái ngược với Đạo chẳng thể bì kịp. Đối trong bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đã gần rồi vậy, chỉ vì chấp mà chưa dung hóa đó thôi. Kia lấy Giác làm Minh, thấy cái Viên thì vướng kẹt nơi Viên, thấy cái Minh thì vướng kẹt nơi Minh. Minh nên không lầm nơi chỗ cảm ứng nhân quả. Viên nên chẳng lẫn nơi chỗ Diệt cho là xong, ở chỗ này mà phát minh được sự thâm diệu. Thâm lại càng thâm nên chẳng sa vào cái Có, Diệu lại càng Diệu nên chẳng lọt vào cái Không. Ngay nơi cái Chẳng phải Có, chẳng phải Không này mà lập làm Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt rồi chẳng còn tiến thêm, đó là quả định tánh Bích Chi.
Bích Chi có hai hạng: Ra đời có Phật, gọi là Duyên Giác. Ra đời không có Phật, gọi là Độc Giác. Cả hai đều do quán sát nhân duyên mà ngộ Đạo, đến chỗ chẳng còn giao động, tiếp hợp với Viên Giác. Nhưng chỉ một chữ Giác không thể trừ được, mắc vướng nơi một đường Viên Minh, cố chấp chẳng dung hóa nên nói là Chẳng Hồi Tâm. Đó là chỗ thiền gọi là “Ngoài rèm đêm sáng, khó chuyển thân” vậy.
Nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí: “Bốn biển lặng trong thì thế nào?”
Tổ Phong nói: “Còn là kẻ dưới thềm”.
Ngài Đơn Hà tụng rằng:
“Bốn biển khói trần đã lặng nhiên
Ngang hiên trăng sáng chiếu người nhàn
Tướng quân công lớn, không ban thưởng
Ngựa quý, thương vàng bỗng biếng xem”.
Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Trăng sáng trời không thì thế nào?”
Tổ Sơn nói: “Còn là kẻ dưới thềm”.
Thưa rằng: “Xin thầy tiếp lên thềm”.
Tổ Sơn nói: “Trăng lặn rồi đến tương kiến, chính lúc ấy đồng”.
Tổ Đầu Tử khai thị chúng rằng: “Nếu luận đến chuyện này, như chim loan, chim phụng bay ngút trời, chẳng hề để vết; dê rừng treo sừng, đâu thấy tăm hơi. Mặt trời chẳng giữ lại nơi đầm lạnh, mặt trăng há trú ở tại vết đen. Hoặc như lập ra Khách, Chủ thì phải ngoài nẻo Oai Âm lắc đầu. Hỏi, đáp, nói bày là việc đề xướng một bên huyền lộ [Đường huyền]. Nếu được như vậy, vẫn còn tại giữa đường. Bèn mới đứng tròng, chẳng phiền tương kiến”.
Tụng rằng:
“Trăng đầy, nước lặng, đạo nhân sầu
Hết diệu, không nương giống chẳng thâu
Ngoài kiếp: “Chánh, Thiên kiêm đới” nẻo
Trên cành không nảy (mầm), biện xuân thu”.
Bằng như ở các công án này có nẻo thấu triệt, bèn có thể làm thầy cho các bậc Duyên Giác, Độc Giác. Bậc Duyên Giác, Độc Giác này vốn là một giống hạng, trước kia phân ra thì chẳng phải.
Kinh: “Anan, mười loại Thiền Na như vậy, giữa đường hóa điên, do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ lại cho đã chứng đủ, đều do Thức Ấm và tâm dụng công xen nhau mà sanh các thứ vị như thế. Chúng sanh mê dại, không biết tự xét, gặp cái đó hiện tiền, mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo, tự bảo đã đầy đủ Vô Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ. Các tà ma ngoại đạo khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi thì sa vào ngục Vô Gián. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thì không thể tiến tới thêm.
“Các ông để tâm giữ gìn Đạo Như Lai, sau khi Ta diệt độ rồi, đem pháp môn này truyền bày trong đời mạt pháp, khiến khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma tà kiến tự gây ra nạn lớn cho mình. Giữ gìn thương cứu, tiêu dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm vào Tri Kiến Phật, từ bắt đầu đến thành tựu, không mắc các lối rẽ.
Thông rằng: Mười loại Thiền Na của Hành Ấm ở trước cho đến năm thứ Niết Bàn hiện ra là cùng tột, đã có cơ duyên tỏ ngộ nhưng còn chưa chứng quả. Ở đây, mười loại Thiền Na của Thức Ấm thì đến Niết Bàn của bậc Bích Chi là cùng tột, đã vào quả vị nên gọi là “Sanh các thứ vị như thế”.
Tám loại trước là ngoại đạo, trái với hai lý Chân và Trung, khởi lên các tà kiến Trong Tam Giới, hết nghiệp báo thì lại vào luân hồi. Hai loại sau là hàng Nhị Thừa, trái với Trung Đạo Đế, khởi cái tà kiến Ngoài Tam Giới, hồi tâm liền vào Đại Thừa, nên có thể tăng tiến. Hồi về Trí, hướng về Bi, tức là đạo Bồ Tát. Trước bảo rằng Tâm Ma, đây nói rằng Kiến Ma. Tâm thì còn lưu động gồm cả Thức Thứ Sáu. Kiến thì chỉ nắm giữ, gồm cả Thức Thứ Bảy. Tóm lại, không ra ngoài hai tập khí từ vô thủy là Kiến Hoặc và Ái Hoặc. Do nương theo mê hoặc nên chẳng thể rốt ráo. Trong chỗ chưa đủ mà sanh tâm cho là đã chứng đầy đủ. Đã đến chỗ trong lặng chẳng chao động của Thức Thứ Tám, nhưng chưa thể chuyển Thức thành Trí nên gọi là “Mê Lầm Tánh Bồ Đề”, bỏ mất Chánh Tri Kiến. Tri kiến này là Phật Tri Kiến, chẳng phải đắc quả mà mất đi vậy. Mê nơi Thức Ấm, chẳng được sáng suốt, vì bị Thức ngăn che, nên trái xa tánh Viên Thông.
Thức Thứ Tám là tánh của Như Lai Tạng. Ngộ nó thì chuyển được Thức thành Chánh Quả, mê nó thì bị Thức chuyển mà vào luân hồi. Bởi vậy, có thể “Khai, Thị, Ngộ, Nhập” Tri Kiến Phật thì từ bắt đầu vào cửa là được thành tựu, chẳng bị các Kiến Chấp ngõ rẽ làm mê lầm.
Tổ Vân Phong Duyệt thượng đường rằng: “Gốc của loài hữu tình là nương Biển Trí làm nguồn. Loài hàm thức đều lấy Pháp Thân làm Thể. Chỉ bởi Tình sanh nên Trí cách; Tưởng biến hóa mà Thể sai thù. Đạt Gốc thì Tình vong, biết Tâm thì Thể hợp. Quý thiền đức hiểu chăng? Cổ Phật cùng cây lộ trụ tương giao, điện Phật cùng cây đèn lồng cụng trán. Như nếu chẳng hiểu thì: Đơn, Trùng, Giao, Chiết!” [Đơn, Trùng, Giao, Chiết dùng để chỉ các hào trong quẻ bói Dịch. Đơn: hào dương, Trùng: hào dương động. Giao: hào âm động. Chiết: hào âm]
Nhà sư hỏi Hòa Thượng Ba Tiêu Triệt: “Có một người chẳng xả sanh tử, chẳng chứng Niết Bàn, thì thầy có nắm tay nhau với y không?”
Đáp rằng: “Chẳng nắm tay nhau”.
Hỏi: “Vì sao chẳng nắm tay?”
Đáp rằng: “Lão tăng cũng biết chút ít tốt xấu!”
Ngài Đầu Tử tụng rằng:
“Trẻ thơ trăm tuổi ra cửa rồi
Đầy người rần đỏ rước trần ai
Trong lửa dạo nhàn nơi mát mẻ
Người biết không sao dám gần nâng”.
Nếu biết “Người Ấy”, liền nhập Tri Kiến Phật, không mắc vào lối rẽ.
Kinh: “Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ đều nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc đạo Vô Thượng. Khi Thức Ấm hết sạch rồi thì ngay hiện tiền, các Căn của ông đều có thể dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các Căn dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim Cương Càn Huệ Địa Bồ Tát, cái Tâm tinh diệu viên minh ở trong đó phát hóa ra như ngọc lưu ly thanh tịnh bên trong ngậm mặt trăng báu. Như thế mà vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm và Thập Địa Kim Cương là chỗ Hành của Bồ Tát, cho đến địa vị Đẳng Giác Viên Minh mà thể nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, viên mãn Bồ Đề, về trong Vô Sở Đắc.
“Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp Chỉ Quán. Nếu cảnh ma hiện ra mà ông rõ biết thì sự dơ nhiễm của tâm được rửa trừ, không lạc vào tà kiến, Ấm Ma tiêu diệt, Thiên Ma tan tác, Đại Lực Quỉ Thần hết hồn chạy trốn, Ly Mỵ, Vọng Lượng chẳng còn sanh ra, thẳng đến Bồ Đề, không có những thiếu sót. Hàng hạ liệt cũng được tăng tiến, đối trong Đại Niết Bàn Tâm không mê buồn. Nếu các chúng sanh mê dại trong đời mạt pháp chưa hiểu Thiền Na, chẳng rõ lời thuyết pháp mà ưa tu Tam Muội, ông e rằng họ lạc vào đường tà thì phải một lòng khuyên bảo họ trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa có thể tụng niệm, hãy viết nơi thiền đường hoặc đeo trong thân thì tất cả các ma không thể động đến. Ông nên kính vâng sự dạy bảo cuối cùng về đường tiến tu rốt ráo của mười phương Như Lai.
Thông rằng: Đoạn kinh này đầu đuôi tương ứng với đoạn ở trước, chỗ Ông Anan thành khẩn thưa hỏi các phương tiện ban đầu Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề, Thiền Na để thành tựu Bồ Đề của mười phương Như Lai. Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp Chỉ Quán, nên Ma không vào được. Nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc đạo Vô Thượng. Cần yếu là Thức Ấm hết sạch mà thôi vậy.
“Đà Na Thức [Thức Ấm] vi tế, tập khí thành dòng xiết, sợ mê Chân, phi Chân; Ta thường chẳng khai diễn”. Bởi thế, nên không biết Thức Ấm thì giữa đường thành ra cuồng mà các Ma lừng lẫy. Hễ ngộ được thì chuyển Thức thành Trí, Bồ Đề hiện tiền. Nếu mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, chưa đắc mà cho là đắc, chưa chứng mà cho là chứng. Có đắc có chứng đấy thuôïc về Ma. Thức Ấm nếu hết, thì Thần Ngã đều tiêu tan, ngược dòng toàn nhất, các Căn dùng thay nhau. Trong chỗ dùng lẫn nhau thấu vào Kim Cang Càn Huệ Địa, ở trong đó phát khởi cái Chân Trí, như ngọc lưu ly thanh tịnh, trong ngậm mặt trăng báu. Cái mật viên tịnh diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó. Ngay đó liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm cho đến Kim Cang Thập Địa là chỗ Hành của hàng Bồ Tát, chứng nơi Đẳng Giác. Đẳng Giác viên minh, thể nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, tức là địa vị Diệu Giác. Ở đoạn trước nói rằng “Có Tam Ma Đề, tên Đại Phật Đảnh, Thủ Lăng Nghiêm Vương sẵn đủ muôn hạnh, mười phương Như Lai nẻo diệu trang nghiêm, nhất môn siêu xuất” là chỗ này vậy.
Kinh Lăng Nghiêm nói “Viên mãn Bồ Đề, về Vô Sở Đắc”. Kinh Kim Cang nói “Nếu có một Pháp để đắc thì Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho Ta”. Thế nên, đắc Vô Sở Đắc, chứng Vô Sở Chứng đó là thấy Tánh. Thấy Tánh tức thành Phật vậy. Do Càn Huệ Địa chứng ngay Bồ Đề, gọi là Siêu. Siêu nên Đốn vậy. Do Càn Huệ Địa mà an lập Thánh vị cho đến chỗ viên mãn Bồ Đề là Đốn mà Viên vậy. Đây là pháp môn Viên Đốn, lập tức chuyển Thức thành Trí. Các ma sự gốc gác ở Thức Ấm, từ đâu mà sanh ra? Bởi thế, nói rằng “Chẳng bám giữ thì không có cái phi huyễn, cái phi huyễn còn chẳng sanh thì pháp huyễn nương đâu lập?” Huyễn còn không có, sao có được ma sự? Nên chi, người phàm phu mà biết điều này thì thẳng đến Bồ Đề, không còn thiếu sót. Hàng Nhị Thừa mà biết chỗ này thì hồi tâm tiến tới, đắc Đại Niết Bàn. Cái pháp Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề, Thiền Na vi diệu này bởi thế là phương tiện ban đầu, cũng là sự dạy bảo cuối cùng, chỉ có thể bỗng nhiên tự ngộ, chẳng do bởi người mà đắc được, cũng chẳng phải quán hạnh tu chứng tầm thường mà đắc. Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Như tu Tam Muội mà trì chú thì tất cả các Ma không có thể động đến. Điều ấy cũng không thể nghĩ bàn, nên ở đây lấy sự trì chú để kết thúc, tương ứng với Đại Phật Đảnh ở trước, vì để bày tỏ cái pháp môn Đệ Nhất cực tôn cực quí vậy.
Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư hỏi Đức Lục Tổ rằng : “Nên làm gì để không rơi vào thềm bực Giai cấp]?”
Tổ nói: “Ông từng làm gì?”
Hành Tư đáp: “Thánh Đế cũng chẳng làm”.
Tổ nói: “Rơi vào thềm bực nào?”
Hành Tư đáp: “Thánh Đế còn chẳng làm thì có giai cấp nào đâu!”
Tổ bằng lòng và khiến Ngài cầm đầu trong chúng, rồi dạy đi hóa độ một nơi khác.
Kệ rằng:
“Tâm địa chứa các giống
Mưa khắp ắt mầm sanh
Đốn ngộ hoa tình ấy
Bồ Đề, quả tự thành”.
Ngài Đầu Tử tụng rằng:
“Vô Kiến Đỉnh lộ, mây vẹt nhanh
Cành linh ngoài kiếp chẳng hơi xuân
Chẳng ngồi mé ấy, Không Vương điện
Đâu chịu cày bừa hướng vầng hồng”.
Ngài Đơn Hà tụng rằng :
“Cao trổi khó đem chánh nhãn nhìn
Siêu việt xưa nay chẳng sánh bằng
Rêu phong cổ điện không hầu cận
Trăng phủ cây già, phụng chẳng nương”.
Có nhà sư hỏi Tổ Thụy Nham: “Thương lượng làm sao để không rơi vào thềm bực?”
Tổ Nham nói: “Bày chẳng ra!” [Hay: “Đuổi chẳng ra”]
Hỏi rằng: “Vì sao bày chẳng ra?”
Đáp rằng: “Kia xưa nay không giai cấp”.
Hỏi rằng: “Chưa rõ ở vị thứ nào?”
Đáp rằng: “Chẳng ngồi điện Phổ Quang”.
Hỏi rằng: “Vậy có sửa sang giáo hóa không?”
Tổ Nham nói: “Danh nghe đầy ba cõi, chốn nào chẳng chầu về?”
Biển Diệu Trang Nghiêm đầy đủ Phước Huệ, vạn hạnh sẵn đủ, thật không thể nghĩ bàn. Thánh Đế còn chẳng đủ nói, huống là tục đế ư?
CHƯƠNG V:PHÂN BIỆT CÁC NGHIỆP QUẢ TẠO THÀNH TAM GIỚI. CHỈ RÕ CÁC CẢNH GIỚI TU CHỨNG VÀ CÁC CHƯỚNG NGẠI
VIII. SANH TỬ LÀ VỌNG TƯỞNG NĂM ẤM MÀ CÓ, LÝ TUY ĐỐN NGỘ, SỰ PHẢI TIỆM TRỪ
Kinh: Ông Anan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy bảo, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót, ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng: “Như lời Phật dạy, trong Tướng Ngũ Ấm có năm thứ hư vọng làm cái tâm tưởng cội gốc. Chúng tôi bình thường chưa được nhờ Đức Như Lai khai thị tỉ mỉ. Lại năm Ấm ấy là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như vậy đến đâu là giới hạn? Xin nguyện Đức Như Lai phát rộng đại từ làm cho con mắt Tâm của đại chúng này được trong sáng để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp”.
Phật bảo Ông Anan: “Tánh Tinh Chân thì Diệu Minh, tánh Bản Giác là Viên Tịnh, chẳng có vết tích của sanh tử và các trần cấu, cho đến hư không cũng đều nhân vọng tưởng mà có ra. Tất cả cái ấy nguyên là Bản Giác diệu minh chân tinh vọng phát sanh ra các khí thế gian, như chàng Diễn Nhã Đa mê cái đầu mà nhận bóng trong gương. Vọng vốn không có nhân, mà ở trong vọng tưởng lập ra tánh Nhân Duyên. Mê lầm Nhân Duyên thì gọi đó là Tự Nhiên. Cái tánh của hư không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra huống là Nhân Duyên hay Tự Nhiên đều là sự so tính của vọng tâm chúng sanh.
“Anan, biết là hư vọng khởi ra mà nói nhân duyên hư vọng. Như hư vọng gốc vốn không có thì cái nhân duyên hư vọng đó không chỗ có, huống gì là không biết mà suy rằng Tự Nhiên.
Thông rằng: Chỗ hỏi của Ông Anan: “Tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà hết?”, là chọn lựa dứt khoát hai pháp môn Đốn, Tiệm để làm con mắt Đạo cho hàng trời, người tương lai. Đức Thế Tôn trước hết dùng một đường tối thượng, nương Ngộ mà tiêu trừ hết một lượt để khai thị cho. Độc chỉ tại ngộ, Thể nhập Tánh Tinh Chân diệu minh của Bản Giác viên tịnh. Cái Thấy này chẳng dung chứa vọng nghiệp sanh tử và các vọng duyên trần cấu nào. Cho đến cả hư không chẳng phải Nghiệp, chẳng phải Duyên. Thể Tánh ấy như biển lớn chẳng chứa thây ma, tức là các tướng hư không, tử sanh, trần cấu cũng không có chỗ nào mà dính bám. Thấy rõ được tánh Diệu Minh vốn tự tinh chân như thế thì còn có vọng gì? Tánh Bản Giác hằng nhiên tự toàn vẹn trong sạch, có dơ nhiễm nào đâu?
Cho nên sự trôi lăn sanh tử của thế gian đều thuộc nơi Thọ, Tưởng và Hành Ấm, trần cấu vẩn đục thuộc Sắc Ấm. Nương hư không mà khởi lập thuộc nơi Thức Ấm. Tất cả đều do Vọng Tưởng sanh khởi. Đã là Bản Giác diệu minh chân tinh thì nhân đâu mà khởi vọng để phát sanh các khí thế gian, Kiến Phần, Tướng Phần v.v...? Vọng vốn không có nhân, như ở trước đã nói “Chàng Diễn Nhã Đa mê cái đầu mà nhận bóng”. Ai ai cũng biết là Vọng, thì cái Vọng ấy từ đâu mà khởi ra?
Cho là nhân duyên thì chẳng phải là nhân duyên, cho là tự nhiên thì chẳng phải là tự nhiên. Chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên thì không phải là tánh hư không ư? Cũng chẳng phải là tánh hư không vậy. Tánh hư không kia như một bọt nước phát ra trong biển. Trong tánh Đại Giác mà xem thì rõ ràng là Huyễn, huống gì các thứ sanh tử trần cấu nương nơi hư không mà khởi lập, há chẳng phải là Huyễn ở trong Huyễn ư? Thế nên, nói tánh nhân duyên, nói tánh tự nhiên đều là sự so tính của Vọng Tâm, vốn nào thật có. Đã chẳng phải Nhân Duyên, Tự Nhiên thì cái Vọng của năm Ấm nguyên không có Tự Tánh. Đã không có Tự Tánh thì vốn chẳng sanh. Vọng vốn chẳng sanh, chốn nào tìm Vọng? Cho nên biết chỗ khởi của Vọng mới có thể nói Nhân Duyên của Vọng. Cái Vọng này làm sao mà sanh, rồi phải làm sao mà dứt?
Nghĩ thế mới có chuyện năm Ấm tiêu diệt theo thứ lớp. Bằng như Vọng vốn không có thì từ đâu mà gọi là Nhân Duyên, lại từ đâu mà suy tính là Tự Nhiên? Như mắt không có bệnh nhặm, độc chỉ thấy một mặt trăng. Vốn làm gì có mặt trăng thứ hai, thì chốn nào lại tìm mặt trăng thứ hai để luận nhân duyên với tự nhiên?
Cái chỗ nương Ngộ mà tiêu hết một lượt đây là pháp môn Viên Đốn Tối Thượng. Bởi thế mà chẳng luận làm sao tiêu trừ mà chẳng chưa từng không tiêu trừ hết một lượt! Chỉ việc ngộ nhập Bổn Giác tinh chân diệu minh viên tịnh thì chẳng còn chuyện gì khác.
Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa Cảnh Sầm rằng: “Con người bổn lai thành Phật phải chăng?”
Tổ Sa nói: “Ông nói Thiên Tử nước Đại Đường trở lại cắt cỏ, cắt tranh sao?”
Ngài Đầu Tử tụng rằng:
“Trùng trùng khí tía thẳm điện rêu
Sao phân ngôi vị trị Càn Khôn
Kim Luân [Phật] chẳng ngự Diêm Phù cảnh
Há với chư hầu bảo ấn tôn”.
Lại có nhà sư hỏi thiền sư Cửu Phụng Mãn: “Ai ai cũng nói “Xin dạy nghĩa”, chưa rõ Thầy có cứu giúp không?”
Tổ Mãn nói: “Ông nói núi lớn kia lại thiếu tấc đất nào ư?”
Hỏi: “Bốn biển tìm cầu là vì chuyện gì thế?”
Tổ Mãn nói: “Diễn Nhã mê đầu, tâm tự cuồng”.
Hỏi rằng: “Lại có người (hoặc: Cái) chẳng điên không?”
Tổ Mãn nói: “Có”.
Hỏi rằng: “Thế nào là người chẳng điên?”
Tổ Mãn nói: “Hốt nhiên hiểu giữa đường, mắt chẳng mở”.
Đây là trong Giác Minh mà làm ra lỗi, rồi lìa dứt Vọng Căn. Thế nên, chàng Diễn Nhã mê cuồng, đâu có từ đâu mà khởi. Chẳng phải là người thật thấy Bản Lai Diện Mục, dễ gì thấu rõ chỗ này.
Kinh: “Thế nên Như Lai phát minh cho các ông rằng bản nhân của năm Ấm đồng là Vọng Tưởng. Thân thể của ông trước hết nhân cái Tưởng của cha mẹ mà sanh. Tâm của ông nếu chẳng phải là Tưởng thì đâu có đến trong Tưởng mà gá mạng. Như Ta đã nói ở trước, Tâm tưởng đến vị chua thì trong miệng chảy nước bọt. Tâm tưởng việc lên cao, trong lòng bàn chân thấy ghê ghê. Dốc cao không có, vật chua chưa tới, thân thể của ông nếu chẳng cùng loài hư vọng thì cớ sao nghe nói tới chua thì nước miếng chảy ra?
“Thế nên, phải biết Sắc Thân hiện giờ của ông chính là Vọng Tưởng kiên cố Thứ Nhất.
Thông rằng: Tưởng sanh ra ở đâu? Sanh ở nơi Thức vậy. Chỗ Thức vừa bắt đầu động, đó là nguồn gốc cái Tưởng. Thức là Mệnh Căn, nương Tưởng mà truyền. Thức động ắt Tưởng sanh, Tưởng sanh thì Mạng lập, Mạng lập thì bốn Đại đầy đủ, đó là chỗ nói “Ba thứ Mệnh, Tưởng, Thức hòa hợp mà thành người” vậy. Bởi thế, cái Tưởng của mình hợp với Tưởng của cha mẹ thì phước đức tốt xấu tùy theo chỗ nguyện mà cái Sắc Thân kiên cố ở đó hiện ra vậy. Trước khi chưa sanh thì chỉ có Tưởng. Trước khi chưa có Tưởng thì chỉ có Thức. Cái Thức Thần chẳng chết gọi là Mệnh Căn. Mệnh Căn muốn sự kiên cố trường cửu, nên đã hiện ra Sắc Thân thì chỉ sợ tiêu mất. Đây là chứng cớ rõ ràng của Vọng Tưởng kiên cố.
Nếu cho rằng nương cái khí Âm Dương trời đất mà thật có thân này, chứ chẳng phải hư vọng mà lập ra, thì nghe nói đến me hẳn không sanh nước miếng, nghe nói đến bờ vực không cảm thấy ghê ghê, không theo vọng mà trôi lăn được. Đàng này trong miệng thì nước miếng chảy ra, dưới chân thấy rợn rợn; chưa hẳn là cảnh thật, chỉ nhân Tưởng mà sanh ra thì quả thân này rõ ràng thuộc cùng loại Vọng Tưởng, nên cùng với Vọng Hoặc tương ứng. Thế thì còn lạ gì thân này chẳng do cái Tưởng của cha mẹ mà sanh ra ư ? Chỉ có Tưởng theo với Tưởng, như tưởng me sanh ra thì có nước miếng, tưởng vực thì ghê chân. Cái Sắc Thân hiện có đây rõ ràng là một Vọng Tưởng kiên cố. Thế nên nói đến Sắc Ấm thì gốc là Vọng Tưởng kiên cố. Nếu biết rõ cái Tưởng này chẳng phải nhân duyên sanh, chẳng phải tự nhiên sanh, toàn là hư vọng, ngay đó là tịch diệt, vốn tự không có Sắc, thì có cái gì đan dệt mà làm ra Kiếp Trược ư? Bởi thế mà hóa Không cái Kiếp Trược vậy.
Huệ Trung Quốc Sư thượng đường rằng: “Cây thanh la bám nương lên trên đỉnh cây tòng khô. Mây trắng lững lờ tụ tán trong Thái Hư. Muôn pháp vốn nhàn mà người tự náo!”
Tổ Vân Môn thượng đường: “Này quí Thượng Tọa, chớ có vọng tưởng! Trời là trời, đất là đất, núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục!”
Im lặng giây lát, rồi nói: “Cùng ta đem đặt vững ngọn núi lại đây!”
Có nhà sư bèn hỏi: “Kẻ học nhơn thấy núi là núi, nước là nước thì thế nào?”
Tổ Môn nói: “Ba cửa để làm gì mà lại cỡi Phật điện từ trong ấy đi qua?”
Hỏi rằng: “Như vậy thì đừng có vọng tưởng vậy”.
Tổ Môn nói: “Trả lại thoại đầu của ta đây!”
Phàm kẻ học nhơn rõ biết muôn pháp vốn nhàn, Sắc Ấm chẳng có, biết rõ Vọng Tưởng là hư vọng, ăn nhằm gì đến ta thì có gì mà chẳng “Không” cái Sắc Ấm. Chỉ vì chưa rõ thoại đầu của Vân Môn. Tham đi!
Kinh : “Ngay nơi cái tâm tưởng tượng lên cao vừa nói đó mà có thể khiến thân ông thật thọ sự ghê rợn. Do các Thọ sanh ra mà có thể giao động Sắc Thân.
“Vậy hiện nay hai thứ Thuận Ích và Trái Tổn đang giong ruổi nơi ông chính là Vọng Tưởng hư minh Thứ Hai.
Thông rằng: Tưởng ở tâm mà Thân thấy ghê rợn, thì ắt là có Thọ rồi sau mới làm giao động Sắc Thân. Có Tưởng tức có Thọ, có Thọ tức có Hiện Hành. Bởi thế, Thọ vui là Thuận, là Ích. Thọ khổ là Trái, là Tổn. Bởi thế, hai thứ hiện hành đắp đổi, giong ruổi chẳng ngừng. Cái gì là Thọ? Hễ Hư thì Thọ, hễ Minh thì Lãnh Nạp. Cái Hư Minh Vọng Tưởng này thuộc năm Thức trước, tức là Kiến Phần. Kiến Phần và Tướng Phần lẫn lộn nên gọi là Kiến Trược. Nếu biết cái Thọ này chẳng phải nhân duyên sanh, chẳng phải tự nhiên sanh nên là hư vọng; tuy hư minh nhưng vốn không có Tự Thể. Đã không có Tự Thể thì vốn tự chẳng sanh. Đã vốn chẳng sanh thì cái gì là Thọ, cái gì là Kiến Phần? Thế nên, có thể phá tan Kiến Trược vậy.
Tổ Triệu Châu thượng đường rằng: “Bồ Đề Niết Bàn, Chân Như Phật Tánh đều là y phục dính nơi thân, cũng gọi là phiền não. Chỗ Thật Tế Lý Địa có gì mà bám níu? Một tâm chẳng sanh, vạn pháp không lỗi. Ông chỉ tham cứu cho suốt, ngồi xét xem hai, ba mươi năm, nếu chẳng hội cứ chặt đầu lão tăng đi. Mộng huyễn, Không hoa uổng công nắm bắt! Tâm mà chẳng khác, vạn pháp nhất như. Đã không từ ngoài mà được thì còn nắm giữ làm gì? Tương tự như con dê, tóm lung tung thứ bỏ vào miệng. Lão tăng nghe Hòa Thượng Dược Sơn nói : “Có người hỏi đó, chỉ bảo: “Ngậm mõm chó lại!” Lão tăng cũng dạy: “Ngậm mõm chó lại!” Giữ lấy cái Ta là dơ, chẳng giữ cái Ta là sạch. Thật như con chó săn chuyên muốn có được vật gì để ăn. Phật Pháp ở tại chốn nào? Ngàn người, vạn người đều là những tên tìm Phật, trong đó tìm một đạo nhân cũng không có. Nếu cùng Không Vương làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh nan y!”
Lại có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn: “Mỗi mỗi siêng chùi lau”[Bài kệ của Thần Tú], vì sao chẳng được y bát?”
Tổ Sơn nói: “Dù cho nói “Xưa nay không một vật” cũng chẳng được y bát kia!”
Hỏi rằng: “Chưa rõ người nào thì được?”
Tổ Sơn nói: “Kẻ chẳng nhập môn”.
Hỏi rằng: “Chỉ như kẻ chẳng nhập môn lại có đắc không?”
Tổ Sơn nói: “Tuy vậy, chẳng được thì chẳng trao kia”.
Lại nói tiếp: “Dù cho nói “Bổn lại vô nhất vật” vẫn còn chẳng được y bát. Hãy nói người như sao thì hợp được? Trong ấy hợp được, hạ một chuyển ngữ, hãy nói hạ được lời gì?”
Một vị Thượng Tọa hạ chín mươi sáu chuyển ngữ mà chẳng khế hợp, sau cùng nói: “Giả sử có đem lại đi nữa, kia cũng chẳng lãnh thọ”.
Tổ Sơn rất chịu.
Ngài Tuyết Đậu nói: “Kia đã không nhận là có mắt, đem đến thì ắt hẳn là mù”.
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Trường Lư [Tự xưng] thì không thế! Cần nên đem lại, nếu chẳng đem lại, làm sao biết chẳng thọ? Cần nên chẳng thọ, nếu chẳng có chẳng thọ làm sao khỏi đem lại? Đem lại hẳn nhiên là mắt, chẳng thọ đích thật là mù. Có hiểu chăng?
“Chiếu khắp, thể không nương
Thông thân hợp Đại Đạo”.
Đây là từ hai chỗ thua rớt của Tỳ Kheo Trường Trảo [Cậu của Ông Xá Lợi Phất tên là Kausthila. Ông nói với Phật: “Này Thầy Cù Đàm, ta đây chẳng lãnh thọ các pháp”...] mà giáo hóa hàng vị lai. Cần phải ngay cái “Chẳng thọ” cũng chẳng thọ nhận, mới có thể siêu khỏi Kiến Trược.
Kinh: “Do những niệm lự sai khiến Sắc Thân của ông, nếu Sắc Thân chẳng phải cùng loại với Niệm thì cớ sao thân ông lại theo Niệm mà bị sai sử, mỗi mỗi nhận lấy hình tượng, tâm khởi nắm giữ hình tượng tương ứng với Niệm? Thức là tưởng Tâm, ngủ làm chiêm bao.
“Vậy Vọng Tình, Tưởng Niệm giao động của ông chính là Vọng Tưởng dung thông Thứ Ba.
Thông rằng: Niệm lự thì vô hình, thân thể có hình chất. Niệm động thì thân theo, do đâu lại bị sai sử? Do cái Tưởng dung thông vậy. Tâm sanh cái Tưởng hư vọng mà thân giữ nhận vật thật, mỗi mỗi thù đáp, tương ứng với Niệm. Do cái Tưởng dung thông nên khiến tâm theo cảnh, khiến cảnh tùng tâm. Cái Vọng Tình giao động, thức ngủ không gián đoạn, đó thuôïc về gốc rễ Vọng Tưởng, sức có thể dung thông không ngăn ngại. Ấy là tác dụng của Thức Thứ Sáu, là sào huyệt của phiền não.
Nếu rõ cái Tưởng này chẳng phải nhân duyên sanh, chẳng phải tự nhiên sanh, đương thể hư vọng, tức đương thể không tịch. Tưởng vốn không sanh thì phiền não nào có ra gì nữa?
Xưa, Ngài Ngưỡng Sơn đang chánh định trong tăng đường, nửa đêm không thấy núi sông, đất đai, chùa chiền, người vật cho đến mất luôn thân, toàn vẹn đồng như hư không.
Sáng hôm sau Ngài kể lại với Tổ Quy Sơn.
Tổ Quy Sơn nói: “Tôi hồi ở với Tổ Bách Trượng cũng được như vậy, đó là công dụng tiêu minh cái Vọng Tưởng dung thông. Ông về sau thuyết pháp, có người vượt hơn thì không đâu có chuyện đó”.
Ngài Thiên Đồng nêu kinh Viên Giác: “Ở tất cả mọi thời, chẳng khởi vọng niệm chăng? Ở nơi vọng tâm cũng chẳng dứt diệt chăng? Trụ cảnh viên thông chẳng thêm sự hiểu biết chăng? Ở chỗ không hiểu biết chẳng phải biện chân thực chăng?” (Ở đây Tổ thêm các chữ “chăng” để thành câu hỏi).
Tụng rằng:
“Đường đường nguy nga, lỗi lỗi lạc lạc
Chỗ náo cắm đầu, chỗ ổn hạ chân
Dưới chân dây đứt, tự do thay!
Đầu mũi hết bùn, ông khỏi cạo!
Đừng động đậy,
Giấy cũ ngàn năm đúng là thuốc!”.
Tổ Lang Nha Giác có lần hỏi một vị tăng giảng kinh: “Thế nào là ở tất cả mọi thời chẳng khởi vọng niệm?”
Đáp rằng: “Khởi tức là bệnh”.
Lại hỏi: “Thế nào là ở nơi vọng tâm cũng chẳng dứt diệt?”
Đáp rằng: “Dứt tức là bệnh”.
Lại hỏi: “Thế nào là trụ cảnh vọng tưởng chẳng thêm sự hiểu biết?”
Đáp rằng: “Biết tức là bệnh”.
Lại hỏi: “Thế nào là ở chỗ không hiểu biết chẳng phân biện chân thực?”
Đáp rằng: “Phân biện tức là bệnh”.
Tổ Giác cười mà rằng: “Ông biết thuốc đấy, nhưng chưa biết cái kỵ trong thuốc vậy”.
Ngài Bửu Giác làm bài kệ:
“Hoa vàng ắp ắp, trúc xanh ràng ràng
Giang Nam đất ấm, ải Bắc xuân hàn
Khách du đi rồi không tin tức
Còn lại Vân Sơn ngắm đến già!”.
Các vị tôn túc ở đây có thể nói là “Dưới chân dây đứt”, tung hoành tự do, đủ để làm quy tắc phá Tưởng Ấm.
Kinh: “Sự chuyển hóa không dừng, xoay vần âm thầm dời đổi, móng tay dài, tóc mọc lên, khí lực tiêu, dung mạo nhăn, ngày đêm thay thế, không hề hay biết. Anan, nếu cái đó không phải là ông thì cớ sao thân ông lại thay đổi? Còn nếu nó thật là ông, thì cớ sao ông không hay biết?
“Vậy các Hành Ấm của ông niệm niệm chẳng dừng chính là Vọng Tưởng u ẩn Thứ Tư.
Thông rằng: Vọng Tưởng kiên cố thì chẳng rời Sắc Trần. Vọng Tưởng hư minh còn đối đãi với Sắc Trần. Vọng Tưởng dung thông thì thuộc về Nội Trần, có hình tượng để nắm giữ, có cảnh để đắc. Đến cái Vọng Tưởng u ẩn thì không còn hình tượng để nhìn thấy, không có cảnh để bám giữ, thay đổi chẳng dừng, xoay vần âm thầm dời đổi. Về phương diện sanh thì móng tay mọc, tóc dài ra; về phương diện diệt thì khí lực suy, dung mạo nhăn, ngày đêm thay nhau biến dịch trước mắt mà ta chẳng hay biết. Nếu cho rằng chẳng phải là mình thì thân thể ngày mỗi thay đổi, nếu cho rằng tức là mình thì mình lại chẳng hay biết ! Bởi cái Vọng Tưởng rất u ẩn, niệm niệm trôi lăn không thể xác định, kẻ không biết thì chỉ quy cho sự chuyển hóa mà thôi.
Hành Ấm thuộc Thức Thứ Bảy, đã lìa các Tưởng nên không thể biết, mà sự sanh diệt trôi chuyển rất là vi tế cũng đều chẳng ra khỏi sự luân chuyển của ba cõi, nên gọi là Chúng Sanh Trược. Nếu nơi chỗ “niệm niệm chẳng dừng” mà có chỗ dừng thì chẳng chịu sự luân chuyển của chúng sanh.
Có nhà sư hỏi thiền sư Long Nha Độn: “Khi hai con chuột cắn dây leo thì sao?”
Tổ Nha nói: “Cần có chỗ ẩn thân mới được”.
Nhà sư hỏi: “Thế nào là chỗ ẩn thân?”
Tổ Nha nói: “Lại thấy nhà ta không nhỉ?”
Ngài Đơn Hà tụng rằng:
“Đỉnh xa trăng lạnh trổi mơ màng
Bình Hồ muôn mẫu sáng miên man
Ngư ca đánh thức cò sông bãi
Bay khỏi Lư Hoa, dấu chẳng còn”.
Bởi thế mà biết chỗ ẩn thân kia quỷ thần nhìn ngó cũng chẳng ra, nên Hành Ấm đâu còn có thể mê hoặc. Bởi vì sự sanh diệt vi tế, tức là hai cảnh sáng tối, ngày đêm thay nhau mà hình thể đổi dời, như hai con chuột cắn dây, ngày càng tiêu diệt. Chỗ này thuộc về Vọng Tưởng u ẩn, nhưng cái chỗ ẩn thân không tung tích thì đủ để phá đi vậy.
Kinh: “Lại chỗ tinh minh đứng lặng không giao động của ông mà gọi là thường hằng thì nơi thân ông chẳng ra ngoài những sự Thấy, Nghe, Hay, Biết. Nếu nó thật là tính tinh chân thì chẳng chứa nhóm hư vọng, vì sao các ông trong năm xưa đã từng thấy một vật lạ, trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến, về sau bỗng nhiên thấy vật lạ đó thì nhớ lại rõ ràng, không hề sót mất. Vậy trong cái tinh minh đứng lặng không lay động này, niệm niệm chịu sự huân tập không thể tính toán hết được.
“Anan, nên biết cái trong lặng này chẳng phải chân thật, như dòng nước chảy xiết, trông như đứng yên, vì chảy nhanh nên không thấy chứ chẳng phải không chảy. Nếu chẳng phải là nguồn Tưởng thì đâu chịu tập khí hư vọng. Nếu sáu Căn của ông chưa được chia hợp, dùng thay lẫn nhau thì cái Vọng Tưởng đó không khi nào diệt được. Vậy nên hiện nay cái tập khí tập hợp quán xuyến những sự Thấy, Nghe, Hay, Biết của ông là cái Tưởng tinh vi tế nhiệm, điên đảo, ảo tượng rỗng không Thứ Năm trong tánh trong lặng thấu suốt của ông.
“Anan, năm cái Thọ Ấm đó do năm Vọng Tưởng tạo thành.
Thông rằng: Sự sanh diệt của Hành Ấm, niệm niệm chẳng dừng, chỉ là u ẩn không thể thấy. Còn đến chỗ lặng trong chẳng giao động là đã diệt sự sanh diệt, vì sao còn gọi là Vọng Tưởng? Vì còn cái Thức Thể tinh minh vậy. Cái Thức Thể tinh minh này, thiện ác chẳng manh động, Ý Thức đều mất, trong lặng thường ngưng, tương tự cùng loại với Bản Giác tinh chân nhưng thật chẳng phải là Bản Giác tinh chân. Cái Bản Giác tinh chân chẳng rơi vào Thấy, Nghe, Hay, Biết nên không chịu sự huân tập. Nay cái chỗ lặng trong chẳng giao động, cái biết không còn, lạc vào chỗ vô ký. Tánh của vô ký thông với Hiện Lượng, chẳng ra ngoài cảnh giới Thấy, Nghe, Hay, Biết của năm Thức trước. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết này tuy không suy nghĩ so tính, nhưng có thể lãnh nạp, chịu sự huân tập. Bởi thế hễ thấy vật lạ, dầu không nghĩ đến, nhưng một lần thấy lại là nhớ rõ ràng. Thật giống như con cá bị băng giá ép, gặp cảnh bèn nhảy ra, thì sự Sanh Diệt chưa từng mất hết vậy. Thế nên biết rằng cái trong lặng này chẳng phải chân thật, niệm niệm chịu sự huân tập, quán xuyến tập hợp các tập khí, tinh vi tế nhiệm thường huân tập chẳng ngừng, giống như xâu chuỗi kết nhau vậy.
Có cái Tinh Minh này tức là có cái Thấy, Nghe, Hay, Biết này. Có cái Thấy, Nghe, Hay biết này tức là chẳng lìa căn trần thì hay quấy loạn cảnh mà chịu huân tập, dung chứa kết tập vọng nghiệp, nên chẳng phải là tánh trong lặng chân thật. hẳn phải ngược dòng toàn nhất, tiêu tan sáu cửa, thoát suốt căn trần, sáu căn dùng lẫn nhau. Chỉ một cái Tinh Chân, nương căn phát sáng, đóng mở tự do, tập khí hư vọng không có chỗ nương tựa. Bởi thế, miệng như lỗ mũi, mắt tựa lông mày! Lấy tai xem sắc, sắc chẳng động lay. Lấy mắt nghe thanh, thanh không níu kéo. Như thế mới là Diệu Trạm Tổng Trì, vọng tưởng không do đâu mà vào được.
Năm Thức trước chưa hợp vào tư duy thì cái thể gần với Thức Thứ Tám. Cho nên Thức Thứ Sáu và Thức Thứ Bảy chuyển ở trên nhân thì Thức Thứ Tám và năm Thức trước mới viên mãn ở trên quả. Nếu chẳng có Hậu Đắc Trí thì không thể chuyển năm Thức trước. Cho đến khi chuyển Thức thành Trí, đắc cái trong lặng chân thật thì sau đó mới tin Thức Thứ Tám là chủng tử vi tế sanh diệt, chảy nhanh nên không thấy, chứ không phải không chảy, tuy giống như lặng yên, không thể gọi là trong lặng chân thật. Trong Tánh trong lặng thấu suốt cái Tưởng tinh vi tế nhiệm, ảo tượng rỗng không, hình như có hình như không, nhưng chưa từng không có cái Tưởng. Cho nên cũng gọi đó là Vọng Tưởng vậy. Thức Thứ Tám nương nơi cái Chẳng Sanh Chẳng Diệt hòa hợp với cái Sanh Diệt mà thành. Bằng như ngược Trần hợp Giác, y vào cái Chẳng Sanh Diệt thì gọi là Chánh Trí. Nếu ngược Giác hợp Trần y vào nơi Sanh Diệt thì gọi là Điên Đảo. Cội nguồn Tưởng tức là cái chỗ động ban sơ của Thức, năm thứ Vọng Tưởng đều do đây mà khởi. Do một niệm mê lầm hư vọng, nhận lấy nó, giữ lấy nó mà tự che khuất. Thế nên mới gọi là năm Thọ Ấm, hay năm Thủ Ấm đều do Vọng Tưởng làm gốc vậy.
Thiền sư Vĩnh Gia nói: “Biết rõ trong một Niệm đủ cả năm Ấm : Rành mạch phân minh tức là Thức Ấm. Thu lãnh nơi Tâm tức là Thọ Ấm. Tâm duyên theo lý ấy tức là Tưởng Ấm. Hành dụng lý ấy tức là Hành Ấm. Làm dơ Chân Tánh tức là Sắc Ấm. Năm Ấm này toàn thể là một Niệm. Một Niệm khởi lên toàn là năm Ấm. Rõ ràng thấy trong một Niệm không có gì là chủ tể, tức là Huệ Nhân Không. Thấy như huyễn hóa tức là Huệ Pháp Không”.
Hẳn như chỗ Tổ Vĩnh Gia nói: “Nhân Pháp đều Không thì Thức Ấm mới hết rồi sau mới có thể siêu vượt Mệnh Trược vậy”.
Ngài Triệu Châu hỏi Tổ Đầu Tử: “Khi người chết sống lại thì sao?”
Tổ Đầu Tử nói: “Chẳng được đi đêm, đến trong chỗ sáng”.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:
“Trong “sống” có mắt lại như “chết”
Thuốc kỵ khỏi cần khám “tác gia”
Phật xưa còn nói “chưa từng đến”
Chẳng biết ai đây thoát trần sa”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng:
“Thành (hạt) cải kiếp đá diệu tột sơ
Mắt “sống” “trong Không chiếu rỗng hư
Chẳng được đi đêm, về ngày sáng
Tin nhà chưa khứng phó chim, sò”.
Cái Diệu này tuyệt hết “Nguồn Tưởng”, không dung chứa tập khí hư vọng. Ấy là Thật Tế Lý Địa, không động bước mà tới, rõ ràng cái cách chuyển Thức thành Trí vậy.
Kinh: “Ông nay muốn biết nhân do và giới hạn sâu cạn, thì Sắc và Không là biên giới của Sắc Ấm; Xúc và Lìa là biên giới của Thọ Ấm; Nhớ và Quên là biên giới của Tưởng Ấm; Diệt và Sanh là biên giới của Hành Ấm; lặng trong nhập hợp với lặng trong là biên giới của Thức Ấm.
Thông rằng: Ở trước, Ông Anan hỏi rằng “Năm lớp như vậy đến đâu là giới hạn?” Ở đây trả lời rõ ràng, có nguyên nhân, có giới hạn từ cạn đến sâu. Sắc không tự nó là Sắc, nhân Không mà hiển Sắc. Biên giới của Sắc và Không là Sắc Giới vậy. Thọ chẳng tự nó là Thọ, nhân Xúc Chạm mà có Thọ, thì biên giới của Xúc và Lìa là Thọ Giới. Tưởng chẳng tự nó là Tưởng, nhân Nhớ mà gọi là Tưởng, thì biên giới của Nhớ và Quên là Tưởng Giới. Hành không tự nó là Hành, nhân Sanh Diệt chẳng ngừng mà gọi là Hành, biên giới ấy của Sanh Diệt là Hành Giới. Thức gọi là trong lặng thấu suốt đã diệt sự Sanh Diệt, tánh nó nhập với nguồn tánh bất động mà hợp với lặng trong. Mà có nhập, có hợp tức là có biên giới, đó là Thức Giới vậy. Vì cái “Trong lặng nhập vào” là Thức Ấm, còn tánh “Trong lặng chân thường” là Tánh Thức Minh Tri. Minh Tri là Trí. Giữa Thức và Trí còn có biên giới vậy.
Chân Tánh không gọi là “Trong lặng nhập vào” vì toàn khắp pháp giới không hề có ra vào. Cái trong lặng mà xuất ra là Hành, cái trong lặng mà nhập vào là Thức. Suốt cả bên trong lặng sáng, nhập không-chỗ-nhập, tức là địa chẳng sanh diệt. Đây là lần lần vào chỗ tinh diệu. Từ năm Trần, năm Thức trước, Thức Thứ Sáu, Thức Thứ Bảy cho đến Thức Thứ Tám là giới hạn cạn sâu của năm Ấm vậy. Đã hợp cùng tánh lặng trong rồi, được Vô Sanh Pháp Nhẫn thì còn có biên giới nào để xem xét nữa ư? Đã không biên giới, tức không năm Ấm, năm Ấm đều Không, tức siêu năm Trược. Ở trước, nói “Các ông phân Diệu Giác Minh Tâm trong lặng toàn vẹn của mình làm ra cái Thấy, cái Nghe, cái Hay, cái Biết từ đầu đến cuối thành năm lớp vẫn đục”. Đến đây thì đồng quy về tánh trong lặng vậy.
Sách Hoàn Nguyên Quán nói “Do nơi Trần Tướng mà niệm niệm dời đổi, đó là Sanh Tử. Do quán Trần Tướng mà tướng sanh diệt dứt hết, rỗng không, không có thật, đó là Niết Bàn”.
Cuốn Trí Chứng Truyện viết: “Nơi sắc thanh các pháp niệm niệâm phân biệt, gọi là Dời Đổi. Quán sắc thanh các pháp ấy không từ đâu khởi lên, không từ đâu diệt mất, ngay đây Giải Thoát”.
Cuốn Tiên Quán Kỹ Nhãn viết: “Thật vậy, con mắt không thể tự thấy cái Thể của nó. Tự Thể còn chẳng thể thấy, làm sao thấy gì khác?”
Cuốn Thứ Quán Tiền Cảnh viết: “Nếu cái thấy là cây thì đâu còn cây?”
Cuốn Thứ Quán Tam Tế viết: “Nếu hiện tại là có thì quá khứ, vị lai đáng lẽ cũng có. Nếu quá khứ, vị lai là không có thì hiện tại đáng lẽ cũng không”.
Đây là yếu chỉ về nguồn vậy.
Tổ Quy Sơn thượng đường: “Phàm cái tâm của đạo nhân thì thẳng ngay không giả dối, không sau, không trước, không dối trá hư vọng. Trong hết mọi thời, thấy nghe bình thường, không quanh co khuất lấp, cũng chẳng bịt mắt bưng tai. Chỉ là tình chẳng dựa vật, thì thật như Chư Thánh xưa nay chỉ nói cái lầm hại bên phía dơ uế. Như không có các thứ tưởng tập, biết bậy, tình kiến bèn như nước Thu trong lặng, thanh tịnh vô vi, trong ngần không ngại. Gọi đó là đạo nhân, cũng gọi là người vô sự”.
Đôi lời của Tổ Quy Sơn chỉ thẳng cái tin tức của Lặng trong nhập hợp lặng trong. Chỉ việc tiêu hết Thức Ấm thì đâu còn chuyện gì nữa?
Kinh: “Năm Ấm ấy vốn trùng điệp sanh khởi. Sanh thì nhân Thức mà có, diệt thì từ Sắc mà trừ. Lý ắt đốn ngộ, nương Ngộ tiêu sạch. Sự chẳng phải đốn trừ, theo thứ lớp dứt hết.
“Ta đã chỉ cho ông về cái nút khăn Kiếp Ba La, có chỗ nào chẳng suốt tỏ, mà phải hỏi lại như vậy. Ông nên dùng cái tâm được khai thông về căn nguyên Vọng Tưởng này, truyền dạy cho tương lai những người tu hành trong đời mạt pháp, khiến cho họ rõ hư vọng, tự sanh nhàm chán sâu xa, biết có Niết Bàn, chẳng luyến mê ba cõi.
Thông rằng: Ở trước, Ông Anan hỏi là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà hết? Trước hết, đáp ngay rằng “Một đường hướng thượng, độc chỉ ở chỗ ngộ nhập Tánh Tinh Chân Diệu Minh, Bản Giác Viên Tịnh, thì chẳng còn Vọng Tưởng nào để trừ, không còn thứ lớp nào để chỉ bày”. Ấy là chỗ nói “Nương ngộ tiêu sạch”.
Ở đây trả lời rằng “Sự chẳng phải đốn trừ, theo thứ lớp dứt hết”, là do lòng từ bi, lắc rắc chút mưa phùn, chỗ gọi là Đốn mà chẳng sót Viên vậy.
Căn nguyên này của năm Ấm trùng điệp sanh khởi, đã sanh thì có nguyên nhân. Cái Sở Nhân là Nguồn Tưởng của Thức Thứ Tám, sanh khởi ra Kiến Phần và Tướng Phần. Do trong tạo ngoài, từ tế đến thô. Nay muốn diệt năm Ấm này, sự diệt phải lần lần. Trước hết từ Sắc Ấm tiêu trừ, do ngoài vào trong, từ thô vào tế, không phải là không có thứ lớp.
Nếu luận cái lý Chân Như thì một Ngộ liền đến Phật Địa, có đâu tầng bậc giai cấp? Rõ Ấm không có tự thể, đương thể toàn Không, nên nương Ngộ tiêu sạch một lượt, ngay đây vô sự. Thế nhưng tập khí từ vô thủy huân tập ô nhiễm lâu ngày, cái vô minh đang hiện hành, năm lớp buộc ràng đâu thể nhổ sạch một sớm một chiều. Bởi thế, phải đào thải dần dần, theo thứ lớp mà hết sạch. Giống như cái nút của khăn Kiếp Ba, khăn vốn không khác mà nút phải mở tháo lần lượt. Trước được Nhân Không, kế đắc Pháp Không, sau nữa là đắc Không Không, bèn được Vô Sanh Pháp Nhẫn, tịch diệt hiện tiền.
Cho nên, chẳng rõ căn nguyên hư vọng thì tâm đuổi theo Thức mà chuyển, chẳng thể khai thông. Nay biết rõ ràng là Vọng, Vọng vốn không có nguyên nhân, ngay ấy tâm khai, chứng cái vui Niết Bàn. Đã chứng Niết Bàn, vào chỗ chẳng sanh diệt, thấy năm Ấm kia là hư vọng, không nhân tự sanh, nguyên không tự tánh, quả đáng nhàm chán sâu xa vậy. Nếu năm Ấm chẳng diệt thì lưu chuyển ba cõi, sanh tử xoay vần, có gì mà vui để mê luyến chẳng bỏ ư? Sự Giác Ngộ căn nguyên hư vọng này, xa lìa năm mươi thứ Ma Sự lại là phương tiện ban đầu : các pháp Xa Ma Tha, Tam Ma, Thiền Na vi diệu của Phật Thế Tôn xưa trước, phải theo thứ lớp mà tu, đều đủ để làm lời minh huấn cho đời mạt pháp, nên Thế Tôn dặn dò khiến cho lưu thông.
Thiền sư Khuê Phong trả lời mười câu hỏi của Ông Sử Sơn Nhân:
Câu hỏi Một: Thế nào là Đạo? Thế nào là Tu? Phải Tu mới thành hay chẳng cần mượn công dụng?
Đáp: Vô Ngại là Đạo. Biết Vọng là Tu. Đạo tuy vốn tròn đầy mà vọng khởi thành vướng mắc. Vọng niệm hết ráo tức là Tu thành.
Câu hỏi Hai: Đạo nếu do Tu mà thành, tức là tạo tác, thì giống pháp thế gian, giả dối chẳng thật, thành rồi lại hoại, sao gọi là xuất thế được?
Đáp: Tạo tác là kết nghiệp, gọi là “Thế gian giả dối”. Vô Tác là tu hành, tức xuất thế chân thật.
Câu hỏi Ba: Sự Tu đó là Đốn hay Tiệm? Tiệm thì quên trước, mất sau, làm sao tập hợp mà thành tựu. Đốn thì vạn hạnh đa phương, làm sao một lúc mà viên mãn được?
Đáp: Chân Lý thì Ngộ mà Đốn Viên. Vọng tình dứt mà hết lần lần. Đốn Viên như trẻ nhỏ sơ sanh, trong một ngày mà cơ thể đã đầy đủ. Tiệm Tu như nuôi lớn thành người, nhiều năm thì chí khí mới lập.
Ba câu trả lời này có thể chú giải cho đoạn kinh văn này.
Lại nữa, thiền sư Khuê Phong trả lời cho quan Thượng Thư Ôn Tháo: “Chân lý tuy là đốn đạt, vọng tình ấy khó trừ ngay. Như gió tạm ngừng, sóng mòi tạm lặng, đâu có thể chỗ tu một đời bèn đồng với cái Dụng của Phật. Chỉ khá lấy Không Tịch làm tự thể, chớ nhận sắc thân; lấy Chân Như làm Tự Tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm khởi lên đều trọn chẳng theo. Như vậy thì khi mệnh chung tự nhiên nghiệp không thể ràng buộc”.
Tổ Hoàng Long Hối Đường đáp lời hỏi của quan Thị Lang Hàn Tông Cổ rằng: “Như thế, ngoài Tâm không có pháp gì nữa. Chẳng biết phiền não, tập khí là gì mà muốn dứt hết đi, thì nếu khởi cái tâm như vậy bèn thành ra nhận giặc làm con. Từ xưa đến nay chỉ có lời nói, ấy là tùy bệnh cho thuốc. Nếu có tập khí phiền não mà chỉ cần dùng Tri Kiến Như Lai để đối trị, đó đều là lời nói dẫn dụ, phương tiện thiện xảo quyền biến. Nếu thật có tập khí để trị, bèn là ngoài tâm có pháp để dứt diệt, giống như con linh quy kéo lê cái đuôi trên đường, quét dấu mà dấu sanh! Có thể nói rằng “Lấy tâm dùng tâm, càng thấy bệnh nặng!” Bằng như rõ suốt ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm, tâm pháp đã Không lại còn muốn dạy ai chóng hết đây?”
Cứ theo chỗ Thấy của Tổ Hối Đường thì “Xưa nay không một vật. Chỗ nào nhuốm bụi trần”. Cứ vào chỗ đáp của Tổ Khuê Phong thì “Thường thường siêng lau sạch. Chớ để nhuốm bụi trần”. Hối Đường chủ về Đốn, ví như người nằm mộng thấy bị xiềng xích, tỉnh dậy lại phải cởi thoát xiềng xích ư? Hiển nhiên không có chuyện đó vậy. Khuê Phong chủ về Tiệm, ví như nước kết thành băng, không dùng tắm rửa được, phải gần ánh mặt trời mới thấy lưu thông.
Tông Cảnh Lục nói: “Vào Tông ta, trước tiên cần biết có. Sau đó giữ gìn. Lại đầu đuôi cần phải tương xứng, không thể Lý, Hạnh có chỗ thiếu sót, tâm miệng trái nhau. Nếu vào Tông Cảnh, Lý Hạnh đều tròn vẹn”.
Căn cứ theo sự quyết đoán của bộ Tông Cảnh thì Ngài Đại Giám (Huệ Năng) chỉ đủ một con mắt lẻ, Ngài Đại Thông (Thần Tú) thì hai mắt tròn sáng. Sao thế? Ngài Đại Giám đầy đủ Lý mà không có Hạnh, vì “Xưa ngay thường thanh tịnh, chẳng mượn lau chùi”. Ngài Đại Thông, “Đã ngộ cần phải tu, lau bụi thì gương sáng”. Bởi thế mà nói “Chánh tuy Chánh lại Thiên, Thiên tuy Thiên lại Viên”. Chẳng tham dự lâu ngày cái Tông tỏ suốt thì chưa dễ bàn luận chỗ này.
PHẦN THỨ BA: PHẦN LƯU THÔNG
I. ĐƯỢC PHƯỚC, TIÊU TỘI HƠN CẢ.

Kinh: “Anan, ví như có người đem các thứ thất bảo đầy dẫy hư không cùng khắp mười phương, dâng lên Chư Phật như số vi trần, vâng thờ cúng dường, Tâm không lúc nào xao lãng. Ý ông thế nào? Người ấy do nhân duyên cúng dường Phật như vậy được phước nhiều chăng?”
Ông Anan đáp rằng: “Hư không vô tận, trân bảo vô biên. Ngày xưa có chúng sanh cúng Phật bảy đồng tiền, đến lúc bỏ thân rồi còn được địa vị Chuyển Luân Vương, huống gì hiện tiền hư không cùng tột, cõi Phật đầy khắp, đều là trân bảo, thì dù suy nghĩ cùng kiếp còn chẳng thể thấy, phước ấy làm sao có bờ bến”.
Phật bảo Ông Anan: “Chư Phật Như Lai lời không hư vọng. Nếu lại có người thân đủ các tội Tứ Trọng, thập Ba La Di, giây lát phải trải qua địa ngục A Tỳ phương này phương khác, cho đến cùng hết các địa ngục Vô Gián mười phương, không đâu chẳng trải mà có thể trong một niệm đem pháp môn này khai thị cho người chưa học đời mạt pháp, thì tội chướng người ấy trong niệm đó liền được tiêu diệt, biến cái nhân phải chịu khổ địa ngục thành An Lạc Quốc, được phước siêu vượt trăm lần, ngàn lần, vạn lần, ức lần hơn người thí cúng trước, như thế cho đến toán số thí dụ không thể nói hết được.
Thông rằng: Đầy dẫy thất bảo khắp cả hư không, thế gian làm sao có chuyện ấy ư? Lấy Phật Nhãn mà xem, quậy sông dài làm thành tô lạc, biến đại địa thành vàng ròng cũng là chuyện tầm thường vậy. Huống chi Tánh Diệu Chân Như, thanh tịnh bổn nhiên toàn khắp pháp giới, đó là gia bảo. Chứng Thanh Tịnh Pháp Thân thì đến kho báu (bảo sở), kho báu đó há chẳng toàn khắp hư không ư? Bởi thế, dùng bảy báu: vàng, bạc, trân châu, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách của thế gian để cúng Phật còn được phước vô lượng huống là “Nguyện đem toàn thể thân tâm này phụng sự cõi nước nhiều như bụi, thế mới gọi là báo Phật Ân”, thì có thể khiến cho người người đều đến kho báu. Cái của báu xuất thế này phân biệt với đồ báu của thế gian, nên đồ báu thế gian nào so sánh được. Không chỉ được phước, mà còn tiêu tội. Phước thì có phước báo, tội thì có tội báo. Phước, tội cả hai không đo lường nhau được. Nên tuy được phước cõi trời, cũng chẳng miễn khỏi cái khổ địa ngục. Tội thì không gì nặng hơn tội ngũ nghịch: giết cha, hại mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá sự hòa hợp của Tăng Già, đốt thiêu kinh tượng. Đây chỉ nêu ra bốn, vì cha mẹ xem như một, còn Tam Bảo thì không thể thay đổi. Ở trước, nói Tứ Khí là chỉ Sát, Đạo, Dâm, Vọng, lại nói Bát Khí; ở đây nói mười tập nhân và sáu giao báo ở trước. Tội nghiệp nặng thì địa ngục Vô Gián mười phương, mỗi mỗi đều trải qua, khổ sở biết bao.
Chỉ một niệm hồi tâm, đem pháp bảo này chỉ bày cho người chưa học, chuyển mê thành ngộ, chuyển phiền não thành Bồ Đề thì tuy ở trong biển sanh tử mà tự có cái vui Niết Bàn. Đây là tự gây tội thì tự sám hối, tự gây nghiệp thì tự giải thoát, tuy Phật cũng không thể giúp cho sức về chỗ đó. Không có tội, tức là được phước. Không có khổ tức là hưởng an vui. Bởi thế, đem pháp bảo mà chỉ bày cho người thì không những tự mình khỏi tội mà còn khiến người người được phước. Không chỉ tự mình được của báu mà còn khiến người người đều được cái rất báu. Cái báu đầy ngập thế gian, nào có nơi chốn. Há chỉ lấy cái phước do cúng Phật bảy thứ báu mà so sánh được ư?
Lời Phật chân thật, khỏi tội được phước, có vô lượng công đức như thế rõ ràng tán thán kinh này, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, không cùng không tận, tôn quý không gì so sánh nổi.
Có nhà sư hỏi thiền sư Đại Lãnh: “Sao là tất cả chốn thanh tịnh?”
Tổ Lãnh nói: “Bẻ cành cây quỳnh, tấc tấc là của báu. Cắt cây chiên đàn, miếng miếng toàn là hương”.
Ngài Đơn Hà tụng rằng
“Khắp cùng trời đất thiệt xá lợi
Vạn hữu toàn bày tịnh diệu thân
Ngọc Nữ ngược trần không khéo vụng
Linh miêu hoa trổ chẳng hay xuân”.
Nếu vậy thì không còn các tướng địa ngục ư? Cớ sao Ông Điều Đạt [Tức Đề Bà Đạt Đa] đang sống mà sa vào địa ngục?
Điều Đạt báng Phật, nên đang sống mà sa vào địa ngục.
Phật khiến Anan hỏi rằng: “Ông ở trong địa ngục yên ổn chăng?”
Ông Điều Đạt đáp: “Tôi tuy ở trong địa ngục mà vui như trời Tam Thiền”.
Phật lại khiến Ông Anan hỏi: “Ông có cầu ra khỏi không?”
Ông Điều Đạt đáp: “Tôi chờ Thế Tôn đến thì ra khỏi!”
Ông Anan nói: “Thế Tôn là Đại Sư ba cõi há có phận vào địa ngục ư?”
Ông Điều Đạt nói: “Tôi há có phận ra khỏi địa ngục ư?”
Tổ Thúy Nham Chân nói: “Lời thân quen xuất từ miệng thân quen!”
Ông Điều Đạt là anh em chú bác với Đức Phật, là anh ruột của Ông Anan, đã đắc thần thông, xô núi đè Phật, khi ấy có thần Kim Cang hộ trì, nhưng cũng làm Phật bị thương, ngón chân út bị thương chảy máu. Ông muốn hại Phật để thu nhiếp hết đại chúng, mới đi nửa đường, thân đang sống mà sa vào địa ngục. Nhưng Ông Điều Đạt từ khi làm Lộc Vương đã cùng tu hành với Phật, nay tình bà con ruột thịt thì lại có sự biến đổi này. Cũng là tâm mê quá nặng, chưa dễ quay đầu, cần phải thiêu sạch nơi lửa nghiệp địa ngục mới có thể phát ngộ.
Phật thọ ký cho Ông Điều Đạt sau nhiều kiếp cũng sẽ thành Phật. Ngay trong địa ngục mà không thấy có chuyện ra vào thì làm sao biết biến địa ngục thành cõi an lạc ư?”
II. TRỪ MA HƠN CẢ
Kinh: “Anan, nếu có chúng sanh tụng được kinh này, trì được chú này như Ta nói rộng ra thì cùng kiếp chẳng hết. Y theo lời dạy của Ta, như lời dạy mà hành đạo, thẳng vào Bồ Đề, không còn ma nghiệp.
Thông rằng: Một niệm chuyển hóa bèn tiêu tội nghiệp, phước đức vô lượng. Nếu thường tụng được kinh này, thường trì chú này phước đức cùng kiếp chẳng hết. Như y theo giáo pháp mà hành đạo ắt thành Chánh Giác, không còn nghiệp ma. Kinh này, chú này phát huy tánh Diệu Giác đến sáng rõ hoàn bị, chỗ đề phòng Ấm Ma chu đáo, Ma không thể mê hoặc mà đạo Giác thành tựu vậy.
Nếu trì chú, tụng kinh mà không rõ ở trong Tự Tánh thì lại bị Ma trói buộc.
Nhà sư hỏi Tổ Bách Trượng: ““Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan. Lìa kinh một chữ, liền đồng Ma thuyết”. Thì thế nào?”
Tổ Trượng nói: “Do giữ động niệm, tam thế Phật oan. Ngoài đây riêng cầu liền đồng Ma thuyết”.
Sau này, nhà sư hỏi Tổ Đồng An: ““Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan. Lìa kinh một chữ, liền đồng Ma thuyết”. Lý ấy thế nào?”
Tổ An nói: “Cô phong (đỉnh cô) ngút mắt, chẳng khoác ráng, sương. Vầng nguyệt giữa trời, bạch vân tự khác”.
Ngài Đơn Hà tụng rằng:
“Mây tự cao bay, nước tự xuôi
Mênh mông trời nước lắc thuyền không
Đêm khuya chẳng hướng bờ lau đậu
Khỏi hẳn trung gian với hai đầu”.
Chỗ này nơi nghĩa kinh, chẳng tức, chẳng lìa, tự có chỗ xuất đầu. Nếu ngộ chỗ này thì Ma không thể mê hoặc.
Thiền sư Thọ Châu Đạo Thụ dưới lời của Ngài Thần Tú biết được chỗ vi diệu, bèn cất am cỏ ở Thọ Châu Tam Phong. Thường có con dã nhân, mặc đồ trắng đơn giản, nói năng kỳ dị, ngoài chuyện cười nói còn hóa ra hình Phật, cho đến các hình Bồ Tát, La Hán, Trời, Tiên... hoặc phóng hào quang, hoặc phát lộ âm thanh tiếng dội. Hàng học trò thấy vậy đều không thể đo lường được. Như vậy trải qua mười năm, sau lặng mất, không còn hình ảnh.
Sư nói với đại chúng: “Dã nhân làm lắm màu mè mê hoặc người tu. Chỉ phải lão tăng không thấy, không nghe. Màu mè của y thì có chỗ cùng mà cái không thấy, không nghe của ta thì vô tận”.
Nếu hiểu cái ý chỉ “Chẳng thấy, chẳng nghe vô tận” này thì thẳng vào Bồ Đề không hề thiếu hụt, Ấm Ma tiêu ráo, Thiên Ma nào để phải lo!
III. LƯU THÔNG CHUNG
Kinh: Phật nói kinh này xong, hàng Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La cùng các vị Bồ Tát, Nhị Thừa, Thánh Tiên, Đồng Tử ở phương khác và các Đại Lực Quỉ Thần mới phát tâm thảy đều hoan hỷ, làm lễ mà lui.
Thông rằng: Phật nói kinh này là pháp môn Tối Thượng Viên Đốn. Phật dùng một âm diễn pháp, tùy mỗi loại đều riêng hiểu, nên tùy chỗ chứng lượng đều được cái vui của pháp, hớn hở mà đi. Vì sao thế? Tánh là cái vốn có, ai ai đều sẵn đủ.
Cho nên, Tổ Triệu Châu khai thị đại chúng rằng: “Xem kinh cũng ở trong sanh tử, chẳng xem kinh cũng ở trong sanh tử. Vậy các ông làm sao ra cho khỏi?”
Một nhà sư bèn hỏi: “Vậy như trọn chẳng lưu lại thì sao?”
Tổ Châu nói: “Thật vậy thì được, còn chẳng thật vậy làm sao ra khỏi sanh tử”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng:
“Xem kinh cũng ở trong sanh tử
Ngồi trong rá cơm không biết ăn
Không xem kinh cũng trong sanh tử
Ngập đời áo ấm không ai mặc
Bỗng nhiên chim khách kêu một tiếng
Quay thân nhảy nhót khắp nhà vui
Thôi suy nghĩ!
Như nay vất ra trước mọi người
Đại Bi ngàn tay không giở nổi!”.
Vị Tọa Chủ Tây Xuyên đến Ngài Hoa Nghiêm hỏi rằng: “Tổ Ý, Giáo Ý là đồng hay khác?”
Ngài Hoa Nghiêm nói: “Như hai bánh của xe, như hai cánh của chim”.
Tòa Chủ nói: “Ngỡ rằng Thiền Môn riêng có chỗ kỳ đặc, té ra chẳng ra ngoài giáo ý!”
Sau này, nghe Tổ Giáp Sơn giáo hóa thịnh hành, lại bảo đệ tử sang hỏi câu trên.
Tổ Sơn nói: “Chạm cát không đủ bàn chạm ngọc, đền ơn trái với ý đạo nhân!”
Đệ tử về kể lại với Tòa Chủ, vị này khen ngợi, hướng về phía Tổ Sơn làm lễ mà nói: “Ngỡ rằng Thiền Môn và giáo ý chẳng khác, té ra có chuyện kỳ đặc”.
Há chẳng nghe có nhà sư hỏi Tổ Mục Châu: “Tổ Ý, Giáo Ý là đồng hay khác?”
Tổ Châu nói: “Núi xanh tự núi xanh, mây trắng tự mây trắng”.
Ngài Thiên Đồng nêu rằng: “Nếu hướng về trong ấy biết được Mục Châu thì Thích Ca ra đời, Đạt Ma Tây sang đều là tay không biết thủ phận! Lại biết được chăng? Tay dài, ống áo ngắn; chân gầy, giày cỏ dư (rộng)!”
Có nhà sư hỏi Tổ Lạc Phố: “Tổ Ý, Giáo Ý là đồng hay khác?”
Tổ Phố nói:
“Trời, trăng cùng xoay sáng
Ai nói có riêng đường”.
Nhà sư hỏi: “Như vậy thì sáng tối khác đường, phải quấy một lối?”
Tổ Phố nói: “Chỉ tự chẳng quên dê, nào phải là đường rẽ!”
Ngài Đơn Hà tụng rằng:
“Trăng rọi bóng tùng, cây cao thấp
Nhật chiếu lòng ao, trời dưới trên
Rực rỡ đương không, chẳng chánh Ngọ
Đêm thu vành vạnh, biết chi tròn”.
Hiểu chỗ này thì chỗ mặt trời, mặt trăng chẳng đến, riêng có một Càn Khôn! Đâu phải hạng bo bo Tông Giáo làm kế sanh nhai có thể nghĩ lường sao!

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Ba điểm tinh yếu trên đường tu tập


Công đức phóng sinh


Vua Là Phật, Phật Là Vua


Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.133.154.2 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập