Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bản Việt dịch Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh [佛說法華三昧經] »»

Kinh điển Bắc truyền »» Bản Việt dịch Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh [佛說法華三昧經]

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.86 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.45 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Pháp Hoa Tam Muội

Việt dịch: Nguyên Hiển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phật ở trong núi Kì-xà-quật, thành La-duyệt-kì cùng chư tôn đệ tử một ngàn hai trămnămmươi Tì-kheo, bảy vạn ba ngàn Bồ-tát, các Đế Thích, Phạm thiên không thể tính kể từ mười phương tụ hộivề,tấtcả đều có thần thông vi diệu. Lại có hằng sa chư thiên, người, cùng chư Bồ-tát từ phương khác. Như vậy trăm ngàn ứchằng sa đềutụ hội trước Phật.
Bấy giờ Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề cùng chư tôn Bồ-tát trong lòng sinh nghi, nghĩ rằng vì nhân duyên gì các vị thượng nhân đềutậphọpvềđây. Có điềm lành tốt gì đây. Các đệ tử sinh nghi quỳ thẳng làm lễ muốn thưahỏi Phật.
Bấy giờ Phật đã phóng vô số hào quang, từ miệng phát ra ngàn ức ứcdầndần chiếu sáng khắphư không, xa đếnhằng sa quốc độ.Rồimặt đất chấn động, ánh sáng tắt, tức thì không thấy thân tướng Phậtnữa. Đại chúng kinh ngạc cùng bàn nhau tự nghĩ không biết Tam-muộicủa Phật đã đivềđâu. Rồi liền trở lại nhập định tìm đến chỗ Phật.
Trong pháp hội có Bồ-tát tên Tuệ Tướng liềnbảo: Hay lắm!Hay lắm ! Nay các hiền giả suy nghĩ không biết Tam-muộicủa Phật đã đivềđâu. Chốcnữa vua, hoàng hậu, thái tử, công chúa và các cung nữ phu nhân nước La-duyệt, ba vạn hai ngàn người đều đến vào núi cũng sẽ không trông thấy Phật.
Lại có Bồ-tát BấtTưởng hỏi : Vua làm gì mà mang quân tùy tùng đông thế ? Vua tên Biện Thông đáp : Thấy hào quang Phật nên đến đây. Vương nữ tên LợiHạnh bèn hỏiBồ-tát Phật nay đang ở phương nào. Đáp đã tìm nhưng không biết ởđâu. Vương nữ nói : Khanh là người thần thông đệ nhấtcủa Phật phải biết Phật ởđâu chứ ! Bồ-tát đáp :Xin ngồitạm chốc lát.
Đất liền rúng động. Từ lòng đấtvọt lên, Phật an tọa tự tại trên tòa sen báu lớn. Các thượng nhân và đại chúng đều kinh ngạc. Vương nữ LợiHạnh đứng dậy đảnh lễ Phật xong, đứng trước Phật nói kệ hỏi Phậtrằng :
Thấy Phật phóng hào quang, Nghi có điềm lành tốt, Nên đem đại chúng đến, Muốnhỏi chỗ nghi tâm. Nhưng lại không thấy Phật, Trong lòng rất phân vân. Nguyên xin được giải thuyết, Khiến chúng giải trừ nghi. Mọi người nhập Tam-muội, Tìm kiếm thân tướng Phật. Nhưng rồi không biết đâu, Mọi người cùng ngồi bàn. Nên nhập Tam-muội gì, Mớicầu được ýPhật. Con đếnhỏi đại chúng, Phật nay ngự nơi đâu ? Vì chí tâm thuần thành, Nên muốnhỏi điều đó. Xin được thấy Thế Tôn, Khiến tâm hếthồ nghi. Vì đại chúng đầy đủ, Xin phân biệt giải thuyết. Nơicủa Tam-muội ấy, Đượcgọi danh hiệu gì ?
Phậtbảonữ vương LợiHạnh :Câu hỏicủa người rất sâu. Ta sẽ vì người phân biệt nói rõ. Nơicủa Tam-muội này gọi là Pháp Hoa. Ví như trong mộtnướclớn có một cái cây, cây có một cái hoa che trùm ba ngàn đại thiên quốc độ,hương thơm lan tỏahằng sa cõi Phật. Nếu có người được nghe tên và biết ý nghĩa, tự nhiên sẽ nhanh chóng được Tam-muội này. Nếu những kẻ bệnh tật được nghe Tam-muội này, liền khi ấysẽ tự khỏi, các bệnh căn trong người tiêu hết.
Nữ vương LợiHạnh hỏi Phật : Oai đứccủa hoa là gì mà có được tuệ như vậy ? Phậtbảonữ vương LợiHạnh : Hoa là sắc đẹpcủa cây, người ai chẳng yêu thích muốn được. Pháp hoa Tam-muội là sắc đẹp, là ánh sáng lớn hữu hình trong sinh tử. Người không nghe không biết không tin Tam-muội này, không phụng hành không phải là Bồ-tát, không thấy tuệ,mấtcănbảncủa con người, trở lạibị cuốn trôi theo bèo bọt, rốt cuộc mình không thấy được ánh quang minh.
Nữ vương LợiHạnh lạihỏi Phật : Nay muốn được Tam-muội này thì tu pháp gì, có bao nhiêu việc người có thể thực hành được ? Xin Phậttừ bi, rộng mở hành nghi khai hóa, khiếntấtcả được nghe hiểu, đều ngộ nhập Tam-muội.
Phật nói : Hay thay ! Hay thay ! Đasố chúng sinh được độ thoát, vĩnh viễn đếnbờ kia là có hai việc. Những gì là hai ? Một là biết pháp thân như huyễn như hóa. Hai là biết dâm nộ silà vô căn vô hình.
Bấy giờ Phật nói kệ rằng :
Pháp thân có tấtcả, Huyễn hóa hiệnnổi chìm. Dâm nộ si không hình, Như nước hiện bèo bọt.
Quán sát thân ngườivật, Như diệt vô hình trụ. Ly tán hợptự thành, Phân biệt chấp đều không.
Phậtbảonữ vương LợiHạnh : Lại có bốn việc cho người tu Tam-muội. Những gì là bốn?Một là thực hành giới, tưởng không sắc. Hai là hành bố thí, không thấy có người nhận. Ba là không chán nản, không loạn tâm. Bốn là tu trí tuệ không ngu si. Đó là bốn.
Bấy giờ Phật nói kệ rằng :
Không phạm giới phá giới, Bố thí không để tâm. Không chán, không si loạn, Không ngu, không trí tuệ. Không nói không tu hành, Tu hành thì không nói. Có thể vào Tam-muội, Không ở giữa, hai bên.
Phậtbảonữ vương LợiHạnh : Lại có ba mươi sáu việc Tam-muội này trông thấy. Ba mươi sáu việc là nhữnggì? Là không thấy sinh, không thấytử, không tăng, không giảm, không ra, không vào, không ở ngoài, không ở trong, không trụ, không dừng, không sắcnước, không sắclửa, không sắc gió, không sắc đất, không đau, không ngứa, không nghĩ, không tưởng, không sinh, không tử, không thức, không tham, không dâm, không giận, không tức, không ngu, không si, không keo kiệt, không bố thí, không ác, không thiện, không tâm hành, không ý hành, không thức hành. Không khởi các việc trên, không diệt các việc trên, tấtcả như một không hình tượng. Đó là ba mươi sáu việc Pháp hoa Tam-muội thấy được.
Bấy giờ Phật nói kệ rằng :
Không tưởng niệm không niệm, Không hành sắctướng ác. Không hành Pháp hoa tịnh, Vắng lặng không ta đây. Không vào cảnh giới nào, Tuyệt diệt không hình tướng. Không quán thiện cùng ác, Đềutự nhiên như không.
Phậtbảovương nữ LợiHạnh : Pháp hoa Tam-muội thấycũng ví như vậy. Khi Phật nói ba mươi sáu việc này, vô số người trời và người trong đại chúng thế gian và đoàn tùy tùng của nhà vua lớn nhỏ có bốnmươi ứcvạn đều phát vô thượng chính chân đạo ý. Nữ vương Lợi Hạnh cùng các cung nhân ba vạn hai ngàn thể nữ đều được pháp lạc vô sở tùng sinh. Nữ nhân trong pháp hội thấyvậy đều phát đạo tâm, trong lòng rất hoan hỉ lễ Phật đi nhiễu ba vòng rồi đứng trước Phật nói kệ rằng :
Thế Tôn thật thần diệu, Dạy biết việc ba đời. Dứt trừ tham sân si, Độ chúng sinh trôi nổi. Đều đến thành Vô Vi, Khoái lạc và an ổn. Trong cõi trời và người, Đất liền khởi chấn động. Hôm nay cả đại chúng, Ức ức trăm ngàn vạn. Vị lai và quá khứ, Hiệntại đượctự nhiên. Nguyện khắp được ơnlớn, Sức oai thần Pháp hoa. Tấtcả người ba cõi, Đều được Tam-muội này.
Khiến chúng con ở đời, Thường hành trì Pháp hoa. Cho đời không suy diệt, An vụi không sầu não. Ba khổ tự nhiên trừ, Như nhập vào Tam-muội. Nguyện biết đượctướng không, Tướng tốttự nhiên hiện. Dạydỗ người trôi nổi, Đều đượchạnh từ tâm. Xán lạn oai nghi tốt, Đồng như thân Như Lai. Họp chúng sinh trôi nổi, Khiến tu tập Tam-muội. Khiến trụ trong tính không, Được tuệ giác tối thắng.
Nữ vương LợiHạnh nóikệ xong nghĩ rằng nay muốndạybảo ngứời không thấy chính pháp phải làm sao khai hóa ? Phật biết suy nghĩ trong tâm nữ vương, liền bảonữ vương : Muốn hành trì pháp gì, dạy người pháp gì, lạinữa là người ởđâu, đến đâu thìdừng lại?Nữ vương bạch Phật : Như Thế Tôn nói là không có pháp, không có giáo, không có người. Phậtbảonữ vương : Không có pháp, có tám việc phải hành trì. Không có giáo, có sáu việc phải trừ bỏ. Không có người, có bảy việc phải xua tan. Nữ vương hòi Phật : Thế nào là tám việc phải hành trì, sáu việc phải trừ bỏ,bảy việc phải xua tan ? Phật nói : Một là thấy ngay thẳng không tà vạy. Hai là nghe ngay thẳng không lén lút. Ba là hành xử ngay thẳng không quanh co. Bốn là nói thẳng không phiền hà. Năm là việc làm ngay thẳng không mê muội. Sáu là ý niệm ngay thẳng không suy nghĩ vu vơ.Bảy là tâm ngay thẳng không dao động. Tám là thụ nhận ngay thẳng không tìm cầu. Đó là thực hành tám việc không có pháp. Thế nào là loại trừ sáu việc không có giáo ? Một là không ý niệm có thấy không thấy. Hai là không ý niệm có tiếng không tiếng. Ba là không ý niệm có mùi vị không mùi vị.Bốn là không ý niệm có mùi hương không mùi hương. Năm là không ý niệm có cảm xúc không cảm xúc. Sáu là không ý niệm có ý thức không ý thức. Đó là sáu việc phải trừ bỏ. Thế nào là xua tan bảy việc không có người ? Là không sắc thái củanước, không sắc thái của gió, không sắc thái củalửa, không sắc thái của đất, không sắc thái của tâm, không sắc thái của thức, không sắc thái của hành vi. Đó là bảy việc phải xua tan, không có người để có thể giáo hóa, phải hiểu như vậy.
Bấy giờ Phật nói kệ ràng :
Nếu có hiểu Pháp hoa, Ph�mcốtyếu Tam-muội, Phải chuyên cần tinh tiến, Hiểu rõ được nghĩa đúng. Bảy, tám, sáu đều đủ, Chấpvốn không hình tích. Không thụ,tự muốn được, Bỏ tưởng an tịch nhiên. Thuyết pháp không ngôn giáo, Không thấy có thọ mạng. Ngườivốn không vắng lặng, Mê bèo bọt nói có. Không trừ không đoạndục, Ra vào không chỗ trú. Không đau đớn không tưởng, Không sinh không diệtmất. Có niệm là lao khổ, Không chấp trước nhân duyên. Thị hiện có sắcdục,
Đã không luyếnbụi trần. Quán thấy có bệnh đau, Thường ý cùng gốchợp. Tuệ thấy niệmbất không, Tịch tịch an không không. Pháp hoa Tam-muội hiện, Trụ bất xuấtbất nhập. Không thấy chẳng thấy không, Là mau được chân như. Mới có thể hành thí, Lấy tuệ làm bố thí. Nói tuệ đều như vậy, Chư Phật đều ngợi khen.
Bấy giờ nữ vương nghe nói càng thêm vui mừng hớnhở, đứng dậylễ Phậtrồivọt lên không trung cách đất bảybước, ngồi trên đài sen kim cứơng. Khi ấy có một Tì-kheo trong lòng nghĩ rằng đây đúng là người ảo, rồi đứng dậylễ Phật quỳ thẳng chấp tay dùng kệ hỏi Phật:
Vốn sinh từ ngu si, Không biết nghĩa đạo tuệ. Chẳng hay LợiHạnh này, Đúng thật nam hay nữ. Xác thật đúng là người, Dùng pháp gì, xin hỏi. Đúng là thân ngườinữ, Sao hỏi quá thâm sâu. Trước nay theo Phật pháp, Chưa thấy người như vậy. Kiến thức thật phi phàm, Và trí tuệ cũng vậy. Ngườitừ phương nào đến, Mà sinh vào vương gia ? Kiếp trước tu pháp gì,
Đãgặp bao nhiêu Phật, Tinh tiếndũng kiệnvậy? Như Lai đáp câu hỏi: Đầy đủ giới đứchạnh, Hỏi được nhưđã nói. Nhẫn được tâm nhu nhuyến, Chỉ nói được làm được. Giữ tâm ý ra sao ? Thật muốn sang hỏi đó. Nêu trụ bao nhiêu pháp, Trụ cảnh không sinh tâm. Nếu thật có trí tuệ, Ta sẽ giải thích cho. Hiểu rõ chỗ nói pháp, Giảng rộng cho đạotục. Có tâm ý gì khác, Riêng được trí tuệđây ?
Phật liềnbảo Tì-kheo rằng :
Từ bao nhiêu nhân duyên , Mới nói kệ trả lời. Tâm nữ vương LợiHạnh, Lập đức biếtbảnxứ. Đời sau một ngàn năm, Thường tu tập Tam-muội. Tâm hiểutấtcả sắc, Vắng lặng như thiền định. Chính là thân nữ nhân, Chẳng phải thân hóa hiện. Vốntừ cõiVô sắc, Nay đến thế giới này. Nối tiếp như hạnh xưa, Phương tiệnlập chính pháp. Không thân mà hiện thuyết,
Niệm khắp các hạnh từ. Niệm pháp không là gốc, Không khởitướng nhân duyên. Tì-kheo do chẳng rõ, Quái lạ nữ thân này. Chẳng thấyvốn không có, Lạitự chịu trói buộc. Thiền chính là bỏ sắc, Lạibị sắc làm loạn. Lìa khổ tránh ba độc, Là vào khổ ba độc. Ông không biết rõ thân, Tự cho thường an ổn. Vạnvật nhưảo hóa, Xuất nhậptựa vô hình. Bốnsắcvốnhư không, Tự nhiên chấp hình tướng. Tham ái tự buộc ràng, Bởibỏ gốc theo ngọn.
Bấy giờ tám vạnbốn ngàn Tì-kheo nghe hiểuýkệ liền phát vô thượng chính chân đạo ý. Vô số kể thiên nhân rải hoa và hương thơm đến cúng dường Phật. Khi ấy Xá-lợi-phất nghĩ rằng ngườinữ này có biện tài như vậy, sao không xả bỏ thân nữ làm thân nam ? Phật liền biết tâm niệmcủa Xá-lợi-phất bèn bảo Xá-lợi-phất : Ông nên hỏi ngườinữấy. Xá-lợi-phất liềnhỏi: Thưanữ vương LợiHạnh ! Ngài đã nói ra những điều phi thường và cùng Như Lai đối đáp được như vậy, sao ngài không từ bỏ thân nữ làm thân nam ? Nữ vương LợiHạnh đáp : Thưa ngài Xá-lợi-phất! Điều thiếtyếucủa đạo đức là khéo dùng trí tuệ mà thấy chứ không thấybằng bốn thứ hình sắc như đấtnước gió lửa. Năm tình hợpvới sáu nhập là suy. Tâm ý thức nhưảo như hóa, xuất nhập vô hình, ý si không hết. Cho nên đối trị ba dòng chảy thì ra khỏicảnh nổi chìm. Nào có gì quý báu đâu. Tuy lậu đã hết, kết đã giải, mà còn có tư tưởng bấttịnh thì nhưở Vô sắccũng xấu ác. Ở trong khổ mà lấy làm vui. Xá-lợi-phất hỏi : Pháp học Phật có nên hủy báng chăng ? Nữ vương hỏi : Hiền giả Xá-lợi-phất ! Thế nào là hủy báng ? Đáp : Mỗimột cái tốtmỗimột cái xấu đều là hủy báng. Nữ vương nói : Chưa hiểu, chưa rõ. Đại nhân có nói không cho nhỏ là nhỏ lớn là lớn, tốtxấu không hai, bình đẳng không khác. Chê thân, thân là sắc. Chê ý, ý vô hình. Bốn sắc pháp không, không hình, không tạo tác, thì cái gì chịusự hủy báng ? Xá-lợi-phất đáp rằng : Những điều người nói là hạnh củaBồ-tát đại nhân. Người chưa phải là Bồ-tát vì duyên gì nói những điều này ? Nữ vương nói : Đại nhân lấy gì lập? Đáp : Phổ biến bình đẳng lập. Thế nào là phổ biến ? Giáo hóa cho nhân loạimười phương lìa khổ được đạo là phổ biến. Tuy nhiên những điều hiền giả nói không gọi là phổ biến mà là nói sinh tử cần khổ thôi. Nữ vương bảo Xá-lợi-phất : Nói phổ biến nghĩa là không nghĩ thấy có người không người, có giáo không giáo, có pháp không pháp. Như thế là phổ biến. Không vì thấy sinh tử khổ muốn giáo hóa khiến đắc đạo là phổ biến. Xá-lợi-phất không đủ biện tài để đối đáp. Bấy giờ nữ vương nóikệ khen rằng :
Người do ba trần loạn, Bèn chấp trước sáu suy. Đốinăm ác mười giặc, Ba ách đọa khốn cùng. Mười hai liên tụcnối, Bốnsắc trói buộc ba. Không hiểu là điên đảo, Ngồi chịu đựng trống rỗng. Vô cố chìm ba dâm,
Sa lưới xuống vực sâu. Kiên tạng sợ hai ba, Tự diệtlại thụ sinh. Bị cái không trói buộc, Hằng ôm tưởng bấttịnh. Tự hô là thường an, Là được chân tự nhiên. Bọn chúng đầy Diêm-phù, Ức ức trăm ngàn vạn. Đi khắpcả mười phương, Chẳng lợi ích một ai. Nếu có người làm theo, Đều cùng rơi biển khổ. Nếu thực hành chính pháp, Vào biển không dụccăn, Quyết biển khổ diệthết, Bình ổn không xao động. Đem nguồngốcdụccăn, Khiến ngườivề quê cũ. Quê cũ là vô vi, Gọilà bản thanh tịnh. An lạc nhiều ánh vàng, Ra vào đều chiếu sáng. Trong hằng sa kiếp Phật, Tán thán cũng không cùng. Pháp không, không hý luận, Vô tướng với vô nguyện, Như nước biểnrộng sâu, Đều không thể nói hết. Rộng khai hóa mọi người, Tự nhiên thường an ổn. Chỉ mong các hiền nhân Hãy tự mình phảntỉnh.
Không rõ là tự trói, Chịu báo ứng như huyễn.
Bấy giờ bốnvạn hai ngàn La-hán đều được chính ý đệ thất trụ, tám vạnnăm ngàn Thích Phạm đều được vô sở tùng sinh, sáu vạnbốn ngàn hiềnnữ đứng dậylễ Phật, đứng trước Phật nói kệ rằng :
Nay nữ vương LợiHạnh, Vì chúng con nói pháp. Nghe Phật pháp sâu xa, Tâm chúng con rộng mở. Thật chúng con muốn biết, Đạo đứctừđâu đến. Tậphọp được đại chúng, Do đức thần diệu nào. Khiếntấtcả đại chúng, Chẳng ai không kinh ngạc. Tâm hoan hỉ phục tùng, Theo giáo pháp tu tập. Nguyện xin đức Thế Tôn, Xót thương cho rửasạch. Chí tâm thụ đại tu, Như Lai hiện thầnlực, Liền khiến các nữ nhân, Chuyển nguyệnbỏ sắcdục, Đều muốn làm Sa-môn. Phật biết tâm chúng con, Ắt giác ngộ chân lý, Khiến thân như Bồ-tát, Giảng nói giáo pháp Phật, Để chuyển hóa mọi người. Các đại chúng hiềnnữ, Đều ở trước đức Phật, Nhất tâm cung kính lễ,
Nguyện được đồng như Phật.
Phậtbảo các nữ nhân : Lời các vị thật chí thành. Nay muốn được như nguyện, trước phải báo xin cha mẹ, rồi phải được vua chuNn cho mới có thể xuất gia. Bấy giờ các nữ nhân nói kệ rằng :
Muốn xin làm Sa-môn, Trước được phép mẹ cha, Sau được phép vua cho, Mới xuất gia hành đạo. Vì đạo không ngại khổ, Chỉ phảigắng khai tâm. Hiểu rõ gốc tâm ý, Tấtcả đều như nhau. Liền quyết định ý nguyện, Tâm hiểumới đến đạo. Đạotừ tâm hiểu phát, Không trụ nơi trói buộc. Quán chúng sinh khai hóa, Nếu do tâm xuất sinh, Từ gốc biếtvốn không, Biết khổ chẳng thường còn, Do tâm loạnlưu chuyển, Sở kiến phải đối trị, Không sinh tưởng thiện ác, Thế mới làm Sa-môn.
Các hiềnnữ đến nhà cha mẹ quỳ thẳng thưa cha mẹ và quốcvương :Hômnay được ơn đứccủa vua đến chỗ Phật. Vì tôn nữ LợiHạnh hỏi Phật pháp sâu xa vi diệu, muốncầu đạo vô vi. Hiện thân và tấtcả chư Phật vì nữ vương nói nguồngốc khổđau sinh tử là do đam mê sắc dục không biết nguồngốc đạo đức. Do đó khi vô thường đếnsẽ sinh vào ba đường khổ. Nguyện muốn làm Sa¬môn xin cha mẹ cho phép con làm Sa-môn, sau khi đắc đạosẽ trở về độ cha mẹ. Các cha mẹ nói với các nữ nhân :Cầu đạotự nhiên, mỗi người tùy theo điều kiện thuận tiện tùy ý tu hành. Các người hãy đi, ta cũng sẽđi theo các người. Các ngườitự tâu lên vua, được vua chuNn cho thì cứđi không phảihỏi ta nữa. Các nữ nhân cúi đầu trước Đạivương nhỏ lệ tâu rằng : Người trong ba cõi khổ vì tham dụcsắctướng, không đượctự tại. Vô thường thoạt đến không ai thay thế mình được, nên thật muốn làm Sa-môn cùng với các cung nữđây. Nguyện khi đắc đạo vô vi sẽ trở về độ cha mẹ, xin Đạivương chsáp thuận cho bảnýcủa chúng thần. Vua bảonữ vương LợiHạnh cùng các cung nhân sẽ sớm cho các người đi xuất gia làm Sa-môn. Nhưng vì các ngươi chưa đầy đủ ba việc nên chưa cho đi. Một là chưahọchết các lễ giáo. Hai là thường vui chơi chưa thấy khổ. Ba là ăn, nói còn phóng túng. Do đó trẫm không muốn cho các người đi. Nhưng nếu có ý chí thì cứđi, chớ nghi ngờ ý của trẫm. Trẫmcũng muốn làm Sa-môn. Vua liền đi đến chỗ Phật làm lễ bạch Phậtrằng : Nghe nói trí tuệ,ýrất muốn nghe, việcnước giao phó cho thái tử, nguyện đem thân quy y Tam Bảo, cung cấphầuhạ hai bên và thụ nhận giáo pháp, muốn làm Sa-môn cầu đạo như Phật.
Phật liền phóng hào quang nhiềusắc chiếu sáng mười phương, mặt đất phát ra sáu thứ chấn động, chư thiên tấu nhạc đày khắphư không, rải hoa và các thứ báu bao phủ ba ngàn cõi Đại thiên. Gò nổng trở thành đất bằng. Nơi có núi cao hóa thành vàng ròng. Cây khô sống lại. Mọi người trở nên khôi ngô đẹp đẽ như ý muốn. Cây khô ra lá, tự nhiên gió thổi đều nghe tiếng ca tụng công đức Phật. Hoa nở liềnrơi xuống mang hương thơm đến chỗ Phật la liệt trên không, mốimỗi nói kệ ca ngợi công đức Phật:
Nay nhờ thầnlực Phật,
Đã chết đượccứusống. Sắctươilại như xưa, Quả thật nhờ đạo thành. Sinh tử sắc dâm loạn, Ví như cậy khô héo. Gặp được âm thanh Phật, Trở về hợpbản tính. Sáu sắc mê chìm đắm, Bốnsắchợpnămdục. Pháp phân biệt là không, Hiểu đạo thành pháp hạnh. Là được chân định trí, Được khoái lạc an ổn. Tấtcả đều hoan hỉ, Cúi đầulễ chân Phật.
Bấy giờ các vị có lục thông và các La-hán thấy hoa có nóikệ như vậy, Nữ vương LợiHạnh liền hóa ra nam tử,rồilại làm mộtnữ tử Bồ-tát, làm ra hai biến hóa như vậy, cử tọacả chúng không ai không hoan hỉ. Khi ấy trong một cõi Phật, không có ngườinữ, các vị đắc đạo lục thông có mườivạnnăm ngàn người, ba vạn Tu-đà¬hoàn đều được A-duy-việt-trí. Tám vạn sáu ngàn người và A-na-hàm đều được pháp nhẫn nhu thuận. Không thể tính kể số La-hán lại phát vô thượng chính chân đạo ý. Lạicó cả Bích-chi-phật, hạnh như đức Di-lặc.
Vua liền giao nước cho thái tử. Thái tử tên Biện Tích quỳ thưa Đạivương :Vua vìmuốnbỏ cái tai ương cho con cháu với cái phúc củasắc thân. Cho con cháu nên dùng lợi pháp tài. Mang cái đạitội oán giao cho con cháu đời đời cai trị nướclớn là lọtmấtcănbản con người, không biết trí tuệ lớn là con đường diệtmấtlẽ thiện. Giao cho con cháu rồi thì biết làm sao ? Vua cha đãbảo, không thể không vâng lời. Liềnlạy vua cha mà cáo từ trở về cung điện, ngồi lên ngai vàng lãnh lấy quốc gia. Bèn bố cáo khắpnướcnếu ai không đến chỗ Phậtcầu đạo vô vi làm ngườitốt hiếu thảo thì bị tội đồng với ba tội nghịch.
Thái tửở trong cung điện tinh tiếndũng tuệ,rộng mở ý nghĩa đạolớn, phát tâm còn quá hơn vô lượng, liền diệttấtcả ác. Đại địa liền phát ra sáu thứ chấn động.
Bấy giờ nhân dân đều nói nguyện cho thái tử liền được làm Phật, tôi và đại chúng đềusẽ lầnlượt được làm Phật. Khi ấy Phậtmỉmcười phóng ra nămsắc hào quang chiếu đếnmười phương cõi Phật. Nhân dân đều phát nguyện khiến mình đắc đạo như Phật, việc Nm thựctự nhiên hiện tiền như trên cõi trời Đao-lợi, các Bồ-tát nơi nước ấy đều nhưở nước A-di-đà.
Thái tử Biện Tích được công đức, ở trong cung bảy ngày rồi xuất cung đến chỗ Phật, cùng đại chúng quần thần nhân dân lớn nhỏ vô số kể, đảnh lễ đứng trước Phật nói ức ứcvạn ngàn kệ ca ngợirằng :
Phật khai pháp Tam-muội, Công đức cao vòi vọi. Hào quang oai thần chiếu, Cảm động ba ngàn cõi. Cho đời vô thượng tuệ, Đứcbủa khắp nhân tâm. Cảm hóa kẻ sơ cơ, Không ai không được phúc. Giảng diễn cùng ngợi khen, Pháp hoa đổi đời trược. Hàng phụckẻ ngoan cường, Thành hiền hòa nhu thuận. Đều tìm ánh sáng đạo, Tạo thiện nghiệp dài lâu.
Bỏ tuổi già không tịch, Bấttử lại hoàn sinh. Trừ bệnh lìa ô uế, Hếtsắctưởng, lao nhọc. Ấm cái liền diệt trừ, Thanh tịnh, dục trầnhết. Tư tưởng thụ dục định, Lưubố hoàn vô vi. Không định thường vắng lặng, Không trụ cũng không hành. Không hành không pháp thức, Thị hiệntướng quang minh. Pháp vốn không tăng giảm, Thường an tịch không không. Như Lai hiện thần hóa, Tấtcả được chân đạo. Ngu si tịch nhiên định, Tâm đồng với vô sinh. Tôi nay nghe thuyết pháp, Diễn xuất tuệ Pháp hoa. Tâm hiểu nên phát nguyện, Tấtcả được như Phật. Nay muốn thành cõi nước, Nguyện xin nói Pháp hoa. Thực hành pháp nào được? Phải hiểu bao nhiêu việc? Chóng được Pháp hoa này, Y nghĩa mà nói tuệ. Đều khiến phân biệt rõ, Tấtcả tâm được hiểu. Hiểu rõ việc các pháp, Sẽ đượctừ trong ngoài. Và đượccả xa gần,
Thì sẽ được làm Phật. Rồi trải qua số kiếp, Dài lâu theo Phậthọc. Trí tuệđiềucốtyểu, Khoảnh khắc được thành tựu. Xin diễn nói đầy đủ, Cho đại chúng đều biết. Thái tử và mọi người, Đảnh lễ rồian tọa.
Phậtbảonữ vương LợiHạnh : Muốn biếtsự thị hiện khai giải Pháp hoa củavị lai quá khứ hiệntại chư Phật, đều phải do từ PhNm tán thân thí dụ này mà đắc đạo hiểu chân lý. Bấy giờ có ứcvạn trăm ngàn chư thiên, Phạm thiên và nhân dân vô số kể,bốnmươi tám vạnBồ-tát đều được vô sở tùng sinh. Còn có các Thanh Văncũng đều phát tâm vô thượng.
Bấy giờ Bồ-tát BấtTưởng bạch Phậtrằng :Hôm nay đại chúng nghe Pháp hoa Tam-muội, giải thuyết các pháp yếu nhưng chưa được thụ ký. PhậtbảoBồ-tát : Hôm nay nói Pháp hoa Tam-muội là các vịđã có thụ ký từ nhiều kiếpsố,mỗivị tự có cõinướcxứ sở của mình nên không phải nói nữa. Nếu người chưa rõ, hãy tự về xứ sở của mình mà hỏi.
Bấy giờ thái tử và nữ vương LợiHạnh liền thưavới Bồ-tát những điều trong tâm muốnhỏi liền nói kệ trả lời rằng :
Thưa hiền giả trí tuệ,
Sao không hiểu pháp yếu.
Nếu muốncầutưởng báo,
Đều chẳng phải trí tuệ.
Nếu nói có xứ sở,
Tức chẳng phải Pháp hoa.
Cần phải dùng miệng nói,
Muốn nghe tiếng cao quý, Mà không hiểugốc ngọn, Thì nói cũng không biết. Dạy đạo con đường tắt, Cũng như người mù lòa. Âm vang tiếng sư tử, Mà còn kêu tiếng nhỏ, Thụ ký cho thành Phật, Không biếtlễ chính đạo, Thụ ký có cõinưỡc, Cũng như tuồng ảo hóa. Có đáp thì có ứng, Tư tưởng không do dự. Phụ giúp việc giáo thụ, Đến khứ lai hiệntại. Biếttấtcả thần thông, Không cần có ngôn thuyết. Thụ ký tại không không, Trong vắng lặng vô vi. Thường định không động chuyển, Riêng, nhỏ người không biết. Khai diễn điều chưatỏ, Vắng lặng không tạo tác. Đó là nước an lạc, Thanh tịnh chứng chính pháp. Không nghĩ có tư tưởng, Đó là pháp thụ ký. Tỏ tướng hảo quang minh, Chính là cần khổ hiện. Đệ tử có nhân dân, Là vàodụcuế trược. Nghĩ không cần không khổ, Tấtcả không khởi diệt.
Đáp mười tám vạn ứckệ như vậy, Bồ-tát liền hoan hỉ nói kệ khen rằng :
Ta tự sinh ngu si, Không hiểulời thượng nhân. Không biết pháp âm ấy, Lại nói chưa thụ ký. Nay nghe nói kệ này, Rất sâu khó bày tỏ. Nguyện phát bản tâm này, Tham luận cùng tri thức.
Khi ấy thái tử bạch Phậtrằng : Nay các hiền giả còn không rõ pháp yếu, xin dùng phương tiện khéo léo khai giải. Phật liềnmỉmcười, nămsắc hào quang từ miệng phóng ra, mười phương đều chiếu sáng.
A-nan bạch Phật : Phật không cười suông, ắt có tôn ý, nguyện xin đượclắng nghe. Phậtbảo A-nan : Ông trông thấy đại chúng không ? A-nan đáp : Có thấy. Nay Như Lai hỏi đều đáp đầy đủ,mỗimỗi giáo hóa trong mười phương, độ hằng sa chư thiên nhân dân đều khiến tu hành thành Phật.
Bấy giờ tự nhiên trờimưahương hoabảy báu che trùm ba ngàn đại thiên quốc độ kín cả hư không. Phật bảo thái tử : Hiểu Pháp hoa này cũng như thân ngườivậy. Bấy giờ vô số hằng sa trăm ngàn nhân dân đều phát vô thượng chính chân đạo ý, được tâm vô sở tùng sinh, vô số ngàn Thanh Văn đều đượcbậc A-duy-việt-trí.
A-nan quỳ thẳng bạch Phật : Kinh này tên gì, phụng hành như thế nào ? Phậtbảo A-nan : Tên Pháp hoa Tam¬muội, kinh tậphọp những điềucốtyếucủanữ vương Lợi Hạnh hỏi Phật giải thích về thân phận tình người. Nếu có kẻ nam ngườinữ sao chép đọctụng, còn hơntu hạnh bố thí tám mươi kiếp. Nếu đối trước kinh điển cúng dường lễ bái còn hơnBồ-tát thực hành hạnh từ bi ba ngàn ức vạn kiếp. Nếu hiểu rõ nghĩa kinh lầnlượt giảng dạy người khác, phúc đức còn hơn cúng dường hằng sa Phật. Nếu có ngườimột khi nghe kinh này thì sẽ không c̣n sinh tử cần khổ.Nếu ngườihủy báng không tin, sẽ trôi lăn theo dòng sinh tử không trở về đượcbản nguyên. Phậtbảo A-nan : Phú chúc cho ông Pháp hoa Tam-muội này, nói sơ lược pháp yếu ngàn kiếp còn không hết được. Nhận kinh phụng hành, chớ giảmmột chữ, câu kinh lời kinh phải rõ ràng đúng đắn.
Thái tử và đại chúng đều hiểu rõ, đều được đạo tuệ như bậc thượng thủ, đứng dậylễ Phật lui ra.
KINH PHÁP HOA TAM MUỘI

« Kinh này có tổng cộng 1 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.225.209.152 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập