Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
ÂM DƯƠNG THIỆN ÁC TRƯNG ỨNG _PHẨM THỨ MƯỜI TÁM
_Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật bảo hết thảy tất cả bậc trụở mười phương, tất cả Đại Lực tối thượng, các Tú Diệu Thiên trong tất cả Thế Giới rằng: “Thánh Giả! Ông hãy nghe cho kỹ! Nay Ta diễn nói nghĩa của tất cả Chân Ngôn Pháp. Có các người cầu thành tựu kèm nương theo sức Tú Diệu của các ông, sẽ được thành tựu. Này các Tú Diệu Thiên! Nay Giáo Sắc với các Nghi Quỹ của Diệu Cát Tường Đại Nghi Quỹ Vương này. Các Ông nên trụ, cũng nên y theo thực hành”
Khi ấy, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh, nói Tú Diệu ấy vận hành hợp với thiện ác. Trì Tụng Hành Nhân kia đối với nghĩa của Chân Ngôn với Nhất Thiết Trí, cầu thành tựu, hoặc được việc thành tựu với chẳng thành tựu
_Này Tinh Tú Thiên! Nếu Dương Cung (Meṣa) kia có Khuê Tú (Revati), Lâu Tú (Aśvini), Vị Tú (Bharaṇi), ba Tú (Nakṣatra) này trực, lại hợp với Hỏa Tinh (Aṅgāraka) trực nhật thì người trì tụng kia đối với việc của ba Phẩm Thượng Trung Hạ , tất cả chỗ mong cầu đều chẳng thành tựu. Tại sao thế? Vì duyên với chỗ chướng ngại của Ác Tinh ấy
Nếu lại Mão Tú (Kṛtikā), Tất Tú (Rohiṇi), Chủy Tú (Mṛgaśirā), Sâm Tú (Ārdrā), Tỉnh Tú (Punarvasū), Quỷ Tú (Puṣya), Liễu Tú (Āśleṣā), Tinh Tú (Maghā), Trương Tú (Pūrva-phalguni), Dực Tú (Uttara-phalguni), Chẩn Tú (Hastā), Giác Tú (Citrā), Kháng Tú (Svāti), Đê Tú (Viśākha), Phòng Tú (Anūrādhā), Tâm Tú (Jeṣṭhā), Vĩ Tú (Mūla), Cơ Tú (Pūrva-Āṣādhā), Đẩu Tú (Uttara-Āṣādhā), Ngưu Tú (Abhijit), Nữ Tú (Śravaṇā). Mọi Tú như trên thảy đều tốt thiện, đối với người trì tụng thì có lợi ích
Nếu Nguy Tú (Śatabhiṣak), Thất Tú (Pūrva-Bhādrapadā), Bích Tú (Uttara¬Bhādrapadā) ba Tú này trực nhật, nếu làm việc ác sẽđược thành tựu
Lại nữa, Khuê Tú (Revati) trực nhật, nếu người sinh vào lúc này, có đủ Phước Đức lớn, có đại dũng mãnh với nhiều hiểu biết
Lại nữa, Hư Tú (Dhaniṣṭhā) trực nhật, thì Phước Đức, Chính Hạnh đều được thành tựu
Ngoài ra có Tinh Tú tối thượng ở thời Mạt Pháp (Saddharma-vipralopa) chẳng gây tai vạ, làm Phước. Ấy là Đế Sái-Dã Ô Ba Ba Nại Tinh (Tiṣya-upapada), Ca Nễ Sắt-Tra Tinh (Kaniṣṭha), Nễ Sắt-Tra Tinh (Niṣṭha), A Lộ Ca Tinh (Āloka), Bộ Nga Nại Tinh (Bhogada), Du Bà Nại Tinh (Śubhada), A Nễ LỗĐà Tinh (Aniruddha), Dạ Du Tinh (Yaśa), Đế Nhạ La Tra Tinh (Tejarat), La Nhạ Tinh (Rāja) với Lộ Ca Tinh (Loka). Chúng Tinh như vậy, số nhiều đến 64 ngàn. Nhóm Tinh (ngôi sao) này ở thời Mạt Pháp thì chúng không có sức mạnh
_Nay Đại Nghi Quỹ Vương mà Ta đã nói, đang có sức mạnh lớn, lợi ích cho chúng sinh. Song, Thế Gian kia, lúc Kiếp Sơ (Kalpāgra) thành thời tất cả chúng sinh ở trong hư không, đi đứng tự tại. Rồi ở thời ấy không có già không có chết. Lai thời ấy không có Tú (Nakṣatra), không có mặt trời (Āditya), mặt trăng (Candra) cũng không có thời tiết, cũng không có Âm Dương, cũng không có hàng Trời, Người, A Tu La…. Lại, thời ấy tuy có chúng sinh nhưng chưa có Tộc Tính. Con người đều thanh tịnh, không có thiện không có ác, cũng không có cái để ăn, cũng không có người ăn, cũng không có trì Trai, cũng không có Chú Pháp. Phần lớn chúng sinh ấy chỉ có Tưởng của Thế Gian, do nghiệp quá khứ dẫn dắt Nhân (hetu) nên rơi xuống đất chẳng thể bay trên hư không. Lúc đó liền có cái để ăn, liền có tham lam keo kiệt, thân đã nặng trược nên Đại Lực liền bị mất. Khi ấy liền có mặt trời, mặt trăng, tinh tú… rồi phân chia ngày đêm, liền có thời tiết cùng với Âm Dương. Liền nói trên Trời, Nhân Gian hơn kém có khác… cho nên có Trời, Người, A Tu La. Ta ở thời ấy, thân là Bồ Tát nhìn thấy chúng sinh kia có việc như vậy xong, Tâm thương xót cho nên hiện thân khác. Ấy là: hiện làm thân Tiên Nhân, hoặc hiện thân Phạm Vương, thân Đại Tự Tại Thiên, thân Na La Diên, thân Ca Lâu La cho đến mọi loại thân của hàng Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả…Ở trong mỗi một đời vì tất cả chúng sinh luôn thường giải nói nghĩa của BồĐề Hạnh
Lại nữa, khi Ta ở quá khứ làm Bồ Tát thời tất cả chúng sinh trong Thế Gian: ngu si, hắc ám, không có Trí, không có Tuệ. Ta vì nhóm này nói tất cả công xảo kỹ nghệ của Thế Gian, Âm Dương, toán số, Điển Tịch Vi Đà (Veda), Chính Pháp, Tà Pháp, Giới Luật, Bản Hạnh cho đến nhóm Thanh Minh Luận..Tuy Ta ở đời quá khứ như vậy, vì Thế Gian nói như việc này, nhưng Ta cũng không có sở đắc, sở tri mà chỉ vì Bồ Đề (Bodhi) với nhóm giải thoát (Mokṣa). Như vậy tuy đi trong luân hồi nhưng luân hồi ấy chẳng thể cột trói
Ở đấy, khoảng rất lâu, vui cầu Niết Bàn vắng lặng, câu chân chính không có dính mặc không có diệt, thường y nơi Pháp tu Nhân Hạnh ấy, rồi dược Trí tự sinh, thành nghiệp giái thoát, được Phật BồĐề.
Lại nữa, quá khứ vì cầu Bồ Đề giống nhưđói khát ở xứ Ngoại đạo, cầu thoát Luân hồi mà chẳng thể được. Đối với Đạo Bồ Đề lại khó hơn gấp bội phần. Do Ta ưa thích thực hành Nghiệp thiện nên được Trí tự sinh, lại được Niết Bàn, y theo đây tu hành mà thường nói các Luận, mỗi mỗi dẫn dụ chúng sinh được thành tựu giải thoát. Kẻ kia chẳng biết Pháp và Người nên bị sợi dây dài Nghiệp Duyên của Luân Hồi cột trói. Do Nghiệp Lực này chẳng thể giải thoát Nhân Quả thiện ác, nên Ta nói một Pháp Âm Dương, Tinh Tú phân chia nơi thiện ác với nói bốn nhóm hộ thế là đất, nước, lửa, gió với chỗ mà bốn Đại này hòa hợp tạo làm, phát sinh mọi loại Tập Nhân (nhân gom chứa) của chúng sinh rồi vì lúc ấy tu Chân Ngôn Hạnh khiến được thành tựu
Người trì tụng kia chuyên tâm hộ trì, tu thiện phá ác, ở các Thế Gian là tối tôn tối thượng, ở thời Mạt Pháp được Chân Ngôn thành tựu. Lại khiến cho hàng Đế Thích với Tự Tại Thiên hiện ra. Vào lúc như vậy, Đức Phật cũng hiện tướng Đại Trí Diệu Cát Tường Đồng Tử của ông đi trong Thế Gian thương xót tất cả chúng sinh, để khiến cho chúng sinh ở trong mỗi mỗi Thời được Pháp thành tựu.
_Này Diệu Cát Tường! Có Pháp của Âm Dương Tú Diệu, 28 Tú, 12 Cung Phần, mỗi mỗi đều phân biệt. Nhóm Tú Diệu ấy cùng với Cung tương hợp, tùy theo các hữu tình mỗi mỗi đều sinh ở vị trí của Cung Phần, nhóm Tú Diệu kia hoặc đi hoặc trụ, hoặc nghịch hoặc thuận… sinh quả thiện ác.
_Nếu có chúng sinh sinh ở Dương Cung (Meṣa) hợp với Lâu Tú (Aśvini), Vị Tú (Bharaṇi). Các Tú của nhóm này có sức mạnh, rất thích hợp với việc mua bán, tài bảo phong phú
Nếu khi sinh ra, hoặc gặp mặt lời lặn thì người ấy bị việc ác, phần lớn trải qua nạn nguy hiểm, thọ nhận thân gầy xấu, ưa thích Ỷ Ngữ (Saṃbhinna-pralāpa: tất cả ngôn từ bất chính hàm chứa ý dâm dật)
Nếu khi sinh ra, thấy mặt trời làm màu hồng, với Đại Địa trong khoảng sát na chớp mắt có màu hồng thì người ấy có Trọng Đức (người có Đức lớn)
Nếu lại, sinh ra vào lúc Tú Diệu không có ai nhìn thấy thì mọi loại chúng sinh ấy từ nơi Tạp Sinh do Tạp Hạnh sinh ra, cũng được từ Tạp Khoái Lạc mà giàu có thịnh vượng
Lại giờ (thời) với nơi sinh (sinh xứ) như vậy, nói 30 loại quả báo thiện ác. Nếu Hỏa Tinh (Aṅgāraka) trực nhật là nơi sinh xấu, nhưng người ấy có cái bụng to, dung mạo sáng sủa, mắt dài, ái ngữ lại đủ Tâm Lực
Nếu Mộc Tinh (Vṛhaspati) trực nhật, sinh vào giờ Mão với được mặt trời, mặt trăng, tinh tú ở vào phần của ngày đêm, hợp với Bản Vịấy tức là nơi sinh của Hiền Thánh.
Nếu lại, khi sinh ra mà Tú Diệu đảo ngược thì Quả cảm ứng việc chẳng thật, phần lớn là Tà Ác
Nếu lại khi sinh ra mà được Chính Thuận ấy, ắt cảm được quả Thiện, ở đất sinh ra ấy mà được an trụ. Nếu lại thân tướng màu trắng là bậc Thượng Nhân
_Nếu có chúng sinh sinh ở Ngưu Cung (Vṛṣa) hợp với Mão Tú (Kṛtikā), Tất Tú (Rohiṇi). Đây là Thượng Cung nơi được Cát Tinh (sao tốt) chiếu đến, khoảng phút chốc mà chúng sinh ấy sinh ra, được phú quá, cát tường, đầy đủ nhẫn nhục, sống lâu có nhiều con, tài bảo dư thừa, lại được làm Quân Chủ. Người sinh ởđây làm Pháp thành tựu, trong khoảng phút chốc biết rõ thiện ác.
Nếu gặp Sâm Tú (Ārdrā) thì có Pháp hiểu biết là nơi mà người thế gian ưa nhìn (ái kiến)
Nếu gặp Mão Tú (Kṛtikā) thì làm Chủở trong ba biển
Nếu khi sinh ra mà Tú Diệu rõ ràng thì được làm Chủ của một nước nhỏ
Nếu khi sinh ra mà Tú Diệu đầy đủ, lớp lớp soi chiếu thì được làm Chủ của Đại Địa, hoặc năm năm hoặc mười năm ởđịa vị lớn ấy
_Nếu sinh ở Âm Dương Cung (Mithuna) hợp với sao Bà Lý Nga Phộc () trực nhật, lại sinh ra cùng với Chủy Tú (Mṛgaśirā), Sâm Tú (Ārdrā), Tỉnh Tú (Punarvasū) hợp nhật thì người này si ngu, chẳng phân rõ thiện ác, ưa thích người nữ, lại nhiều Tà Nhiễm, thọ thân màu đen hoặc màu tía, nhưng chẳng keo kiệt, ưa đại xả tiền của
Nếu Thổ Tinh (Śanaiścara) trực nhật mà sinh ở trong Cung này thì ở trong ngày ấy, hoặc trong ban đêm, tùy theo Thời Phần ấy cho đến phút chốc được gặp thẳng thì đại phú tự tại, có Tâm Lực lớn, ngoài ra việc thiện ác thì cân nhắc mà nói
_Nếu ở Giải Cung (Karkatāka) hợp với Quỷ Tú (Puṣya), Liễu Tú (Āśleṣā) mà sinh ra thì người sinh vào giờ này có sự tôn trọng, là nơi sinh bậc nhất. Nếu được sinh vào lúc nửa đêm là người Tối Thượng. Người này thọ thân màu vàng hoặc màu tía, thanh tịnh, cát tường, thù diệu… có sự khác lạ kèm có Đại Trí. Nếu y theo Pháp làm nhân (hetu) thì được thành tựu tất cả nghĩa, cho đến đại tài, đại vị đều đạt được chẳng khó
_Nếu ở Sư Tử Cung (Siṃha) hợp với Tinh Tú (Maghā), Trương Tú (Pūrva¬phalguni) với được Thái Dương (Sūrya) trực nhật mà sinh ra thì người này có đại dũng mãnh, lại ham ăn thịt, cũng lại ở chỗ hiểm nạn trong núi sâu được làm vua chốn ấy cũng được tự tại. Nếu đủ việc như trên với ở chốn ấy làm vua thì đây quyết định là sinh ra vào lúc mặt trời mọc
_Nếu sinh ở Song Nữ Cung (Mithuna) hợp với Dực Tú (Uttara-phalguni) với Chẩn Tú (Hastā) thì người này có dũng mãnh, tâm ưa thích trộm cắp, thường tán loạn, ưa hành Tà Nhiễm, cũng được làm vua, hoặc được làm Quân Chủ. Nếu y theo Cung này sinh ra, hoặc được Một Tinh (Vṛhaspati) hợp, với được Mộc (Vṛhaspati) làm Bản Mệnh thì đây là tối thượng, thường được hộ trì, gặp chuyện xấu đều thành việc tốt
_Nếu ở Xứng Cung (Tulā) hợp với Giác Tú (Citrā), Kháng Tú (Svāti), Đê Tú (Viśākha) sinh ra thì người này chuyên chú vào Nhân Nghĩa ngắn. Cung này chẳng Thiện, nếu được Nguyệt (Candra) chiếu với được Kim (Śukra), Thổ (Śanaiścara) đồng với phần của Tú này sinh ra, lại sinh vào phần đầu tiên của đêm thì hoặc được làm vua, hoặc có phú quý. Nếu giờ sinh của người này chẳng xác định được hoặc chẳng quý thìlà tính Tam Ái, cũng nhiều sân nộ. Nếu đối với Cấm Chú, ưa nơi uống rượu đánh bạc thì cũng được Đại Nhân yêu thích, xem trọng
_Nếu người sinh ở Hiết Cung (Vṛścika) hợp với Phòng Tú (Anūrādhā), Tâm Tú (Jeṣṭhā), Vĩ Tú (Mūla) sinh ra, lại được Hỏa Tinh (Aṅgāraka) làm Bản Mệnh thì người này chủ về Tâm Từ (Maitra-citta), học Nghiệp thành tựu, lại nhiều dũng mãnh, chẳng sợ nguy nan, hay nhẫn nại được sự lao khổ. Nếu được sinh vào lúc giữa ngày (giờ Ngọ) thì hoặc được làm vua, ở chiến trận lớn quyết định được thắng.
Nếu Hỏa Tinh (Aṅgāraka) như hình đồng tử, một khoảng sát na chiếu đến Cung này thì đất ấy thời ấy vẫn còn có Nhân Chủ nhưng chỉ khác con cái, cần phải hộ trì, ắt đủ Đại Trí, thông minh, ghi nhớ nhiều, hiếu thuận, có sức mạnh lại ưa thích bạn bè, thọ mệnh dài lâu. Nếu Hỏa Tinh đảo ngược thì việc liền sai khác.
_Nếu người sinh ở Nhân Mã Cung (Dhanu) hợp với Cơ Tú (Pūrva-Āṣādhā), Đẩu Tú (Uttara-Āṣādhā) sinh ra với được Mộc (Vṛhaspati) làm Bản Mệnh. Nếu người sinh ra sau giờ Ngọ với ban đêm thì hoặc cầu địa vị của vua ắt phá dòng tộc của mình, sau đó được thành. Ngay lúc Trung Niên thì được phú quý, tuy được phú quý thì cũng nên ở tại nơi nhỏ bé (tiểu xứ ) ví như ngươi bước qua tuổi Trung Niên như mặt trời đi qua giờ Ngọ, mà ở địa vị lớn, tiền của nhiều thì chút ít cũng khó được. Nếu là Tú Diệu đảo ngược mà thấy người sinh ra thì việc cũng có mọi loại sai khác
_Nếu sinh ở Ma Kiệt Cung (Makara) hợp với Ngưu Tú (Abhijit), Nữ Tú (Śravaṇā) với được Thổ (Śanaiścara) làm Bản Mệnh hoặc được sinh ra lúc đầu đêm, giữa đêm hoặc sáng sớm, lại riêng có Tinh Diệu đại cát đồng chiếu đến thì sẽ được địa vị của vua. Lại nơi người này sinh ra, chẳng chọn lựa tất cả dòng tộc sang hèn, bẩm tính nhu hòa. Pháp chủ về con mắt đỏ, thọ thân màu tía hoặc màu đen, có dũng mãnh, chẳng sợ hãi. Hoặc được địa vị của vua hợp với đất nước có nhiều nước thì làm Chủ nơi ấy, lại sống lâu, hay nhẫn được sự lao khổ. Nếu hoặc Tinh Diệu đảo ngược thì hết thảy việc ắt có sai lầm.
_Nếu người sinh ở Bảo Bình Cung (Kumbha) hợp với Hư Tú (Dhaniṣṭhā), Nguy Tú (Śatabhiṣak) sinh ra, lại được Thổ (Śanaiścara) làm Bản Mệnh. Nếu người này được sinh vào ban đêm với lúc sáng sớm, lại được Nguyệt (Candra) hoặc Kim Tinh (Śukra) chiếu đến thì người này được nhiệp ác thanh tịnh, có Đại Trí Tuệ, phú quý tự tại, thọ dụng khoái lạc. Nếu Tinh Diệu như vậy đảo ngược, chiếu đến thì người này bị nghèo túng, bệnh tật, khổ não
_Nếu người sinh ở Song Ngư Cung (Mīna) hợp với Thất Tú (Pūrva¬Bhādrapadā), Tất Tú (Rohiṇi), Khuê Tú (Revati) sinh ra, lại được Kim (Śukra) làm Bản Mệnh, lại sinh lúc nửa đêm với giữa ngày (giờ Ngọ), hoặc quá giữa ngày một chút thì sinh ra với được Kim Tinh (Śukra) với sao Diệu tốt khác đồng chiếu đến thì Pháp hợp với phạm Hạnh (Brahma-caryā) thanh tịnh, có Đại Trí Tuệ, đủ Tối Thượng Thiện, biết Pháp cát tường. Người sinh vào giờ này, thân màu trắng vàng, dung mạo thù diệu, bẩm tính nhân hiếu, quyến thuộc thuận hòa. Phàm việc đã làm thì tinh tiến bền chắc, sống lâu, có Phước lớn, tất cả vừa ý, hợp làm chủ của đất nước nhỏở phương Đông, đất ấy ít lạnh, với đất phần lớn là thấp, phần lớn ở trong nước là do Cung Phần chủ về việc này. Nếu được Thổ (Śanaiścara), Mộc (Vṛhaspati) chiếu đến thì đây là tối thượng, được làm Chủ của đất nước lớn. Nếu người như vậy, thì diều này liền quyết định biết giờ sinh của người ấy, trong Cung phần lớn có mọi loại Tinh Tú cát tường tối thượng
_Lại nữa, tiếp theo nói về năm, tháng, ngày, giờ, lượng của Thọ Mệnh. Bắt đầu từ ngày 01 đến ngày 15 là Bạch Nguyệt (Śukla-pakṣa), ngày 16 đến ngày 30 là Hắc Nguyệt (Kṛṣṇa-pakṣa), hai cái nửa tháng thành một tháng, 12 tháng làm một năm. Ở một năm này chia làm 6 phần hoặc chia làm ba Thời. Thời Mạt Pháp (Saddharma¬vipralopa) thì Thọ mệnh chính của con người là 100 tuổi. Đốii với số của thọ lượng này cũng có ngắn hoặc dài, Trung Thiên chẳng định
Lại nữa, Nhân Gian phần lớn có Phi Nhân (Amanuṣya) xâm hại Thọ Mệnh, hành các việc ác làm cho sợ hãi. Lại hàng Thiên Nhân, A Tu La kia nếu hành chẳng thiện thì cùng nhau chiến đấu. Lúc này thời nhân gian hiện các tướng ác, ấy là động đất chẳng đúng thời, đột nhiên làm gió, mưa đá, sấm chớp khác thường, nơi nơi đều dấy lên lửa Trời, mây đen… là sao KếĐô (Ketu) ấy làm Nhật Nguyệt Thực. Nếu có mọi loại các tướng ác như vậy hiện ra ở nước nào thì quyết định chúng sinh chiêu cảm có mọi lớp bệnh tật, đói khát, chết yểu, quốc vương bị chết, tất cả người dân đều rất lo sợ, các người xuất gia cũng rất sợ hãi.
_Lại nữa, phân biệt nói các loại động đất. Nếu lại Lâu Tú (Aśvini), Tỉnh Tú (Punarvasū),Tinh Tú (Maghā). Ngày của nhóm Tú này với đất của Cung Phần, nơi chốn (phương sở) bị động đất thì bên trong nước ấy: nơi nơi đều dấy lên trộm cướp, người ác làm việc xâm hại, quốc vương ở phương Nam ắt có tai vạ lớn
Lại nữa, Vị Tú (Bharaṇi), Ngang (Kṛtikā), Tất Tú (Rohiṇi), Sâm Tú (Ārdrā). Ngày của nhóm Tú này với Cung Phần ấy có động đất thì người dân rất sợ với biên giới kia có tất cả người ác tranh nhau làm trộm cướp. Các quốc vương ở bốn cảnh bên ngoài đất nước trợ nhau xâm hại để làm Oan Gia, bệnh tật lưu hành, người chết chẳng thểđếm được. Lại chủ về quốc vương ở phương Tây bị chết.
Lại nữa, Tuy Tú (Mṛgaśirā), Quỷ Tú (Puṣya),