Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavaṃ: Thế Tôn) ngự trong Tiên Nhân Đọa Xứ Thí Lộc Lâm (Mṛgadāva: Rừng dành cho loài nai vui sống) tại nước Ba La Nhiếp Kỳ (Vārāṇasi)
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo năm vị Bật Sô (Bhikṣu) rằng: “Các ông nên biết hình thể vật chất (Rūpa-skandha: Sắc uẩn) chẳng phải là Ta (Ātma: ngã). Nếu là Ta thời hình thể vật chất chẳng nên bệnh với nhận chịu khổ não. Ta muốn hình thể vật chất như vậy, Ta chẳng muốn hình thể vật chất như vậy. Đã chẳng như vậy để tùy theo điều ước muốn của Tình. Chính vì thế cho nên biết hình thể vật chất chẳng phải là Ta. Cảm Giác (Vedanā-skandha: Thọ uẩn), Tri Giác (Saṃjñāskandha: Tưởng uẩn), Lưu Chuyển Tạo Ứng (Saṃskāra-skandha: Hành uẩn), Nhận Thức (Vijñāna-skandha: Thức uẩn) cũng lại như vậy
Lại nữa Bật Sô. Ý của ông thế nào ? Hình thể vật chất (Sắc) là Thường (Nitya) hay là Vô Thường (Anitya)?
Bạch rằng: “Đại Đức ! Hình thể vật chất (Sắc) là Vô Thường (Anitya)”
Đức Phật nói: “Hình thể vật chất (Sắc) đã Vô Thường (Anitya). Đây tức là Khổ (Duḥkha: cái gì xấu bởi vì nó trống rỗng, không thật, bất toàn, vô thường, hư giả, không làm thỏa mãn), hoặc là Khổ Khổ (Duḥkha-duḥkha: sự khổ não dồn dập khiến cho thân tâm bị tổn thương), Hoại Khổ (Vṛtti-duḥkha:Sự khổ não do Vô Thường chuyển biến, phân hóa mất mát), Hành Khổ (Saṃskāra-duḥkha: Sự khổ não do chấp thân có năm Uẩn, Sự khổ đau phiền não khi bị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi). Như thế Đệ Tử Thanh Văn (Śrāvaka), Đa Văn (Bahu-śrūta) của Ta chấp có cái Ta (Ātma: Ngã) chăng. Hình thể vật chất (Sắc) tức là cái Ta. Cái Ta có các hình thể vật chất (Sắc), hình thể vật chất (Sắc) thuộc về cái Ta, cái Ta ở ngay trong hình thể vật chất (Sắc) chăng ?”
“Bạch Đức Thế Tôn ! Chẳng phải như thế”
“Nên biết Cảm Giác (Vedanā: Thọ), Tri Giác (Saṃjñā: Tưởng), Lưu Chuyển Tạo Ứng (Saṃskāra:Hành), Nhận Thức (Vijñāna: Thức), Thường (Nitya) cùng với Vô Thường (Anitya) cũng lại như vậy
Phàm hết thảy hình thể vật chất (Sắc) hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô sơ, nhỏ nhiệm, hoặc hơn, hoặc kém, hoặc xa hoặc gần thảy đều không có cái Ta (Vô ngã: Anātman, hoặc Nir-ātman). Các ông nên biết, nên dùng Chính Trí (Samyag-jñāna: Trí Tuệ khế hợp với Lý chính đúng) mà khéo quán sát. Như vậy hết thảy Cảm Giác (Vedanā: Thọ), Tri Giác (Saṃjñā: Tưởng), Lưu Chuyển Tạo Ứng (Saṃskāra:Hành), Nhận Thức (Vijñāna: Thức) quá khứ hiện tại vị lai… đều nên như lúc trước Chính Trí quán sát.
Nếu chúng Thanh Văn Thánh Đệ Tử của Ta, quán năm Thủ Uẩn (Pañcaskandha) này, biết không có cái Ta (Ngã: Ātma) cùng với cái của Ta (Ngã sở: Mama-kāra) liền biết Thế Gian không có Năng Thủ (Grāhaka: chủ thể nhận biết phân biệt đối tượng), Sở Thủ (Grāhya:đối tượng đã được nhận biết phân biệt) cũng chẳng chuyển biến, chỉ do tự mình tỏ ngộ mà chứng Niết Bàn (Nirvāṇa). Ngã Sinh (hành vi của Ta, điều sinh ra Ta) đã hết, Phạm Hạnh (Brahma-caryā) đã dựng lập, chỗ cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ nhận Hậu Hữu (Punarbhava: quả báo đời vị lai, thân tâm của đời sau)”
Khi Phật nói Pháp này thời nhóm năm vị Bật Sô đối với các phiền não (Kleśa), Tâm được giải thoát (Vimokṣa, vimukti, mukti), tin nhận, phụng hành.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.188 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.