Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
"Sau Đức Phật Thi-khí, có Đức Phật xuất thế, hiệu là Tỳ-xá-phù Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Này Trừ Cái Chướng! Vào thuở đó, ta là một vị tiên nhân tu hành nhẫn nhục và trú trong rừng sâu núi thẳm. Nơi ấy cao hẹp, sỏi đá lởm chởm, và không ai có thể đến hoặc ở lâu trong đó.
Lúc ở nơi Đức Như Lai kia, Ta đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát.
Khi Quán Tự Tại vào trong đất vàng, ngài hóa hiện thân hình và vì loài hữu tình với gương mặt bị che khuất mà thuyết diệu Pháp, khai thị Bát Thánh Đạo và đều khiến họ đắc quả địa của Niết-bàn.
Sau khi rời khỏi kim địa, ngài lại vào trong đất bạc. Chúng sanh nơi đây đều có bốn chân và đang sống trong đó. Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát cứu độ loài hữu tình kia và vì họ thuyết Pháp mà nói lời như vầy:
'Tất cả nên lắng nghe Chánh Pháp như vầy, hãy phát khởi tâm tưởng và tư duy quán kỹ. Ta nay sẽ khai thị những tư lương để các ông đạt đến Niết-bàn.'
Chúng hữu tình này đứng ở phía trước của Quán Tự Tại và thưa với Bồ-Tát rằng:
'Đối với chúng sanh không có mắt mà vì họ mở sáng để khiến thấy Đạo.
Đối với người không có chỗ nương mà vì họ làm cha mẹ để khiến có chỗ tựa.
Những ai trong tối tăm mà vì họ làm ngọn đèn sáng và khai thị Chánh Đạo giải thoát.
Nếu có hữu tình nào niệm danh hiệu của Bồ-Tát, họ sẽ được an lạc.
Chúng con thường phải thọ lấy những khổ nạn như thế, xin hãy xót thương!'
Lúc ấy, khi tất cả chúng sanh này nghe Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương xong, chúng thảy đều được an vui và chứng quả vị bất thối.
Lúc bấy giờ, khi Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rời khỏi nơi đó, ngài lại vào đất sắt. Trong ấy có một đại lực a-tu-la vương đang bị cấm chế. Đức Bồ-Tát đến nơi này và hiện ra thân Phật. Khi đó, đại lực a-tu-la vương từ nơi xa đi ra nghênh tiếp Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Ở tại cung điện của a-tu-la vương có vô số quyến thuộc, trong ấy đa số đều là gù lưng, lùn và xấu xí. Các quyến thuộc như thế đều đến thân cận cùng đảnh lễ dưới chân của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát. Sau đó, a-tu-la vương nói bài kệ rằng:
'Hiện đời con đắc quả
Sở nguyện tất viên tròn
Như đã từng ước mong
Đây là do chánh kiến
Nên mới thấy Bồ-Tát
Con cùng hàng quyến thuộc
Thảy đều được an vui'
Nói xong, đại lực a-tu-la vương lấy tòa báu của mình hiến dâng cho Quán Tự Tại Bồ-Tát cùng cung kính chắp tay và bạch rằng:
'Từ xưa đến nay, con cùng hàng quyến thuộc say đắm tà dâm, lòng thường luôn giận dữ, và còn thích giết hại chúng sanh. Do bởi tạo nghiệp tội như thế, nên lòng con lo sầu kinh hãi, sợ già chết cùng thọ các khổ não trong luân hồi. Chúng con không có chủ để nương và không có nơi để tựa. Xin hãy rủ lòng thương xót, từ bi cứu độ và vì chúng con mà chỉ bày lối thoát để rời khỏi nơi cấm chế này.'
Ngài Quán Tự Tại nói rằng:
'Thiện nam tử! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác thường hành khất thực. Nếu ai có thể cúng dường thức ăn, thời phước đức có được sẽ chẳng thể nào nói cho hết.
Thiện nam tử! Không chỉ riêng ta ở trong hang động a-tu-la này chẳng thể nào nói hết, thậm chí cho đến 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng tụ hội lại một nơi thì cũng chẳng thể nói cho hết số lượng phước đức như vậy.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.
Thiện nam tử! Lại ví như biển lớn, ta có thể đếm mỗi một giọt nước trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.
Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, trong ấy có nam tử nữ nhân, đồng nam đồng nữ, hết thảy họ đều chẳng trồng bất cứ loại cây gì, mà chỉ trồng đầy khắp bốn châu lớn đó toàn là hạt cải. Loài rồng làm mưa đúng mùa. Khi rau cải đến thời điểm thu hoạch, họ lấy một châu dùng làm sân để chứa những hạt cải và tích tụ thành một đống lớn. Thiện nam tử! Ta có thể đếm từng hạt như thế, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.
Thiện nam tử! Lại ví như vua núi Diệu Cao, phần nước ở dưới núi sâu 84.000 do-tuần, bờ mặt trên nước trải rộng 84.000 do-tuần. Thiện nam tử! Hãy lấy vua núi như thế để làm giấy, dùng tất cả nước của biển lớn để làm mực. Sau đó, hết thảy nam tử nữ nhân, đồng nam đồng nữ trong bốn châu lớn đều lấy giấy mực để biên chép, cho đến khi viết hết tất cả và số lượng ấy chất cao như núi Tu-di. Ta có thể đếm mỗi một chữ họ viết, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai. Thiện nam tử! Giả sử tất cả những người biên chép như vậy đều đắc quả Thập Địa Bồ-Tát, thì phước đức cộng chung của hết thảy Bồ-Tát như thế, chỉ bằng phước đức cúng dường thức ăn cho Như Lai một lần, số lượng đó không bao giờ sai khác.
Thiện nam tử! Lại ví như Hằng Hà sa số biển lớn, ta có thể đếm từng hạt cát trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.'
Khi nghe những lời ấy, đại lực a-tu-la vương rơi lệ than khóc, nước mắt đầm đìa, lòng ảo não lo âu, và nghẹn ngào than thở, rồi thưa với Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rằng:
'Con đã từng thực hành bố thí vào thuở xa xưa, nhưng sự bố thí ấy là cáu bẩn, hắc ám và phi pháp. Do bởi thực hành bố thí như vậy, cho nên nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm chế trong đường ác để thọ nghiệp báo. Chúng con chẳng biết rằng, dẫu chỉ cúng dường một chút thức ăn cho Như Lai thì sẽ biến thành cam lộ.
Từ xưa đến nay, con ngu si vô trí và tu tập pháp Bà-la-môn của ngoại đạo. Khi đó có một người với thân hình lùn xấu đến chỗ con cầu xin. Lúc ấy con chuẩn bị đủ các loại mũ báu, bông tai vàng bạc, y phục tuyệt đẹp, châu báu trang nghiêm, át-già khí cụ, và các phẩm vật như thế.
Lại có trăm ngàn xe ngựa và xe voi báu. Chúng được trang nghiêm bằng trân châu anh lạc, màn lưới báu và treo những sợi dây tua vi diệu dùng để trang trí.
Lại có đủ các loại lọng che báu với màn lưới báu phủ quanh, ở trên đó treo những chuông báu và chúng vang ra các âm thanh kêu leng keng.
Lại có 1.000 con bò màu vàng, lông có màu rất đẹp, móng chân trang nghiêm bằng bạc trắng, đôi sừng trang sức bằng vàng kim, và còn có trân châu cùng các loại bảo châu khác nhau dùng để trang trí nơi thân chúng.
Lại có 1.000 đồng nữ với thân hình mỹ miều, dung mạo đoan nghiêm, và hình dáng tựa như các thiên nữ. Đầu đội mũ trời và trên thân họ trang nghiêm với đôi bông tai quý báu bằng vàng, các loại y phục đẹp đẽ, dây thắt lưng báu, nhẫn đeo tay, vòng xuyến báu, xâu chuỗi anh lạc sáng chói lung linh, vòng hoa vi diệu, và các đồ trang sức như thế.
Lại có vô số trăm ngàn tòa báu khác nhau.
Lại có những loại tạp bảo bằng vàng bạc, các thứ ấy tích tụ nhiều vô số.
Lại có trăm ngàn vạn đàn bò cùng người trông coi.
Lại có vô số thượng vị ẩm thực thơm ngon như cõi trời.
Lại có vô số chuông báu, vô số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số cây phất trần vi diệu với cây cán bằng vàng, và vô số lọng che được trang nghiêm bằng thất bảo.
Khi con đã chuẩn bị đủ các thứ như vậy để sắp làm đại bố thí, lúc ấy có trăm ngàn tiểu vương đều đến hội họp, trăm ngàn Bà-la-môn cũng đến, và vô số trăm ngàn vạn sát-đế-lợi cũng đến tham dự.
Khi con thấy họ đến, trong lòng khởi lên sự hoài nghi khác thường. Vào thời đó, chỉ một mình con là tối tôn, có đầy đủ thế lực lớn và thống lãnh đại địa. Bởi con y theo pháp của Bà-la-môn để sám hối ác nghiệp đời trước, nên con muốn giết chết hàng sát-đế-lợi cùng vợ con quyến thuộc của họ, rồi moi tim mổ gan để cúng tế trời, hy vọng làm thế sẽ diệt đi tội của mình.
Lúc ấy con xiềng xích trăm ngàn vạn tiểu vương thuộc dòng sát-đế-lợi, rồi nhốt họ tại một hang bằng đồng cùng với vô số trăm ngàn kẻ hạ tiện sống nơi biên địa. Hết thảy đều bị giam ở trong hang động này. Con lại dùng dây xích sắt và chốt sắt để trói buộc tay chân của hàng sát-đế-lợi kia.
Thuở đó, trong hang động ấy con xây những lớp cổng.
- Dùng gỗ bình thường để làm lớp cổng thứ nhất.
- Dùng gỗ khư-nễ-la để làm lớp cổng thứ nhì.
- Lại dùng sắt để làm lớp cổng thứ ba.
- Lại dùng đồng tinh luyện để làm lớp cổng thứ tư.
- Lại dùng đồng chưa tinh luyện để làm lớp cổng thứ năm.
- Lại dùng bạc trắng để làm lớp cổng thứ sáu.
- Lại dùng vàng kim để làm lớp cổng thứ bảy.
Ở trên bảy lớp cổng như thế, mỗi lớp cổng con dùng 500 ổ khóa siết chặt lại và còn để một hòn núi ở trước mỗi cổng.
Rồi một hôm nọ, có một vị trời Na-la-diên bỗng nhiên hiện làm thân của một con ruồi và bay đến dò thám. Lại một hôm khác, hiện làm thân của một con ong. Rồi một ngày nọ, hiện làm thân của một lợn. Lại một ngày khác, hiện thân tướng của loài phi nhân. Cứ mỗi ngày như vậy, ngài biến đổi thân tướng khác lạ để đến dò thám.
Lúc bấy giờ trong lòng con nghĩ là sẽ thi hành pháp của Bà-la-môn. Khi vị trời Na-la-diên thấy thế, ngài vào trong hang đồng mà phá hủy. Ngài dẹp đi bảy hòn núi ở trước các cổng và ném bỏ chúng ở chỗ khác, rồi hô lớn đến những người đang bị nhốt kia:
"Vô thắng thiên tử! Thân của các người đang chịu lắm khổ não, các người vẫn còn sống hay đã chết?"
Những người ấy nghe tiếng kêu hỏi, họ liền đáp rằng:
"Chúng tôi vẫn còn sống. Thưa Na-la-diên Thiên Tôn, bậc đại lực tinh tấn, xin hãy cứu chúng tôi thoát khỏi khổ nạn."
Sau đó vị trời ấy phá hủy bảy lớp cổng của hang đồng và những tiểu vương ở trong hang được thoát khỏi nạn xiềng xích. Khi thấy vị trời Na-la-diên, trong lòng của mỗi người họ suy nghĩ rằng:
"Đại lực a-tu-la vương có phải đã chết rồi chăng? Hắn hiện vẫn còn sống hay đã chết ở nơi nào?"
Các hàng sát-đế-lợi lại nói:
"Chúng ta thà chết mà cùng hắn quyết đấu, còn hơn phải bị chết do giam cầm ở chỗ này. Bây giờ chúng ta nên y theo pháp của sát-đế-lợi, chiến đấu đánh nhau với hắn. Giả như chúng ta bị chết trong địa phận của hắn, chúng ta sẽ được sanh lên cõi trời."
Thế rồi mỗi tiểu vương từ nơi ở của mình mà chuẩn bị xe và yên ngựa. Tay họ cầm binh khí và sắp muốn khai đại chiến.
Lúc bấy giờ, vị trời Na-la-diên hiện làm Bà-la-môn với thân hình lùn xấu, da hươu quấn ở hai nách, trong tay cầm một cây chỉa ba, và đến cửa thành của con. Khi đó, người gác cửa bảo người kia rằng:
"Không được vào cửa này, ngươi là kẻ lùn xấu. Đứng lại, cấm vào trong đó!"
Bà-la-môn nói:
"Tôi từ nơi xa đến đây."
Người gác cửa hỏi Bà-la-môn:
"Ngươi từ đâu đến?"
Bà-la-môn đáp rằng:
"Tôi là một đại tiên nhân. Tôi từ hoàng cung của quốc vương nước Nguyệt Thị đến đây."
Khi đó người gác cửa đến chỗ của con và tâu rằng:
"Tâu đại vương! Hiện có một Bà-la-môn với thân hình lùn xấu đến nơi này."
Con nói:
"Ngươi có biết người đó muốn gì không?"
Người gác cửa thưa:
"Dạ, hạ thần không biết người đó muốn gì."
Con nói:
"Ngươi đi kêu Bà-la-môn đó vào đây."
Nhận được sắc lệnh, người gác cửa gọi Bà-la-môn vào trong. Khi con đã thấy, liền dâng tòa báu để người đó ngồi.
Lúc trước, con có một vị thầy, tên là Kim Tinh. Khi Bà-la-môn còn chưa vào trong, vị thầy này đã mách trước với con rằng:
"Bà-la-môn này là một kẻ ác. Hắn đến đây cốt ý là để phá hoại kế hoạch của ngài đó."
"Nay ngài làm sao có thể biết được?"
Kim Tinh đáp:
"Thần tất nhiên biết. Đại vương có biết người đang hiện thân tới đây là ai không? Đó là vị trời Na-la-diên."
Con nghe xong lời tâu ấy và suy nghĩ rằng:
"Ta luôn thực hành bố thì mà chưa hề thôi nghỉ. Tại sao hôm nay Bà-la-môn kia muốn tới đây phá hoại ta."
Sau đó con nghĩ thế này:
"Ta nên dùng lời nói khôn khéo để dò hỏi Bà-la-môn đó."
"Ngài đến chỗ của ta, thật tình ngài muốn điều gì?"
Bà-la-môn đáp:
"Tôi đến chỗ của đại vương để xin hai bước đất."
Con nói với Bà-la-môn rằng:
"Ngài cần một ít đất và nói là muốn xin hai bước đất. Được! Tôi sẽ cho ngài ba bước đất."
Sau đó con dùng bình vàng đựng nước sạch, [rót vào tay của Bà-la-môn để làm nghi thức bố thí] và nói rằng:
"Nếu ngài cần đất đai, vậy xin hãy nhận lấy!"
Bà-la-môn tiếp thọ và chú nguyện rằng:
"Nguyện đại vương sẽ hưởng an vui và đắc trường thọ."
Khi đó, Bà-la-môn với thân hình lùn xấu bỗng nhiên biến mất. Lúc bấy giờ, Kim Tinh bẩm cáo với con rằng:
"Đại vương! Nay ngài sẽ thọ quả báo do từ nghiệp ác đó."
Khi ấy vị trời Na-la-diên bỗng hốt nhiên hiện thân, trên hai vai vác mặt trời và mặt trăng, còn tay thì cầm nào là gươm bén, bánh xe, gậy, cung tên, và các khí trượng như thế. Lúc con thấy xong, liền giật mình, sợ hãi kinh hoàng, run lẩy bẩy, rồi té lăn và xỉu trên đất. Một hồi lâu sau mới tỉnh dậy và than rằng:
"Ta phải làm sao đây! Chẳng lẽ phải uống thuốc độc để chết sao?"
Khi ấy, vị trời Na-la-diên dùng bước chân đo đất đai, chỉ với hai bước mà không còn một tấc đất nào cả.
"Ta đã hứa là cho ba bước, nhưng bây giờ không đủ, ta phải làm sao đây?"
Na-la-diên nói với con rằng:
"Nay ông phải nên theo sự chỉ giáo của tôi."
Lúc đó con thưa rằng:
"Tôi xin tuân theo sự chỉ giáo của ngài."
Na-la-diên nói:
"Ông có thật là sẽ tuân theo không?"
Con thưa rằng:
"Tôi xin thật lòng. Lời nói này là thành thật, lòng tôi không bao giờ hối tiếc."
Lúc bấy giờ, con y theo lời chỉ dạy và đều phá hủy tất cả những nơi tác pháp Bà-la-môn. Tất cả vàng bạc, trân bảo trang nghiêm, đồng nữ, y phục, chuông báu, lọng che, cây phất trần quý hiếm, tòa sư tử báu, bò màu vàng với châu bảo trang nghiêm, cùng các vật báu trang nghiêm, con thảy đều đưa hết cho các tiểu vương và thả họ ra khỏi nơi tác pháp đó.'
"Đại lực a-tu-la vương thưa với Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rằng:
'Nay con tư duy và mới tỏ ngộ. Vì thuở xa xưa, con y theo pháp Bà-la-môn để làm sự bố thí rộng lớn. Nhưng do vì việc bố thí đó là cáu bẩn, đen tối, và bất tịnh. Vì thế, nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm giam ở tại hang sắt và thọ lấy lắm khổ não. Thưa Thánh Quán Tự Tại, con nay xin quy y, nguyện ngài rủ lòng thương xót và cứu chúng con thoát khỏi chốn khổ nạn này.'
Đại lực a-tu-la vương dùng kệ tán thán rằng:
'Quy mạng đại bi liên hoa thủ
Đại liên hoa vương đại cát tường
Đủ mọi trang nghiêm diệu sắc thân
Búi tóc mũ trời trang nghiêm báu
Đảnh đội Di-Đà Nhất Thiết Trí
Cứu độ chúng sanh vô số kể
Ai có bệnh khổ cầu an lạc
Bồ-Tát hiện thân làm y vương
Đại địa mắt sáng hơn mặt trời
Tối thượng thanh tịnh vi diệu nhãn
Chiếu soi hữu tình đắc giải thoát
Khi đã giải thoát sẽ tương ứng
Ví như ma-ni như ý bảo
Khéo hộ chân thật diệu Pháp tạng
Thường luôn tuyên nói Pháp Lục Độ
Xưng dương Pháp này đủ đại trí
Con nay thành khẩn xin quy y
Tán thán Đại Bi Quán Tự Tại
Chúng sanh nhớ niệm Bồ-Tát danh
Lìa khổ giải thoát được an ổn
Ai tạo ác nghiệp đọa địa ngục
Sợi dây đen cùng Đại A-tỳ
Nếu ai thọ khổ trong đường ác
Xưng danh hiệu ngài sẽ giải thoát
Nơi chốn ác đạo chúng hữu tình
Thảy đều lìa khổ được an vui
Nếu ai thường niệm Đại sĩ danh
Tất đắc vãng sanh Cực Lạc Quốc
Diện kiến Như Lai Vô Lượng Thọ
Nghe vi diệu Pháp chứng vô sanh'
Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát thọ ký cho đại lực a-tu-la vương rằng:
'Vào đời vị lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vào lúc đó, ông sẽ chứng môn Tổng Trì của Lục Tự Đại Minh. Tất cả chúng a-tu-la hiện đang ở đây, ông vào đời vị lai sẽ đều cứu độ họ. Hết thảy chúng hữu tình trong cõi nước Phật đó đều chẳng hề nghe có tiếng của tham sân si.'
Khi đại lực a-tu-la vương nghe thọ ký xong, liền cầm xâu chuỗi anh lạc với giá trị của trăm ngàn trân châu, lại dùng muôn loại diệu bảo trang nghiêm, trăm ngàn vạn số mũ trời và bông tai để dâng lên và thưa rằng:
'Xin hãy rủ lòng thương xót mà nhận lấy cho.'
Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bảo đại lực a-tu-la vương rằng:
'Ta nay sẽ vì ông mà thuyết Pháp, ông hãy lắng nghe và khéo tư duy. Đời là vô thường huyễn hóa, mạng sống ngắn ngủi và gặp nhiều khổ nạn. Trong lòng các ông thường nghĩ tưởng tham muốn có đầy đủ phước đức lớn, lòng thường yêu thích nô tỳ và nhân dân, cho đến lúa gạo, kho chứa thực phẩm cùng những bảo tàng lớn. Lòng thường yêu thích cha mẹ, vợ con cùng hàng quyến thuộc. Những việc như vậy, tuy thường yêu thích nhưng thấy chúng như đang ở trong mộng. Khi đến lúc lâm chung, không một thứ gì có thể tương trợ cứu giúp và làm cho họ sống mãi ở Nam Thiệm Bộ Châu.
Do bởi điên đảo nên sau khi mạng chung, họ thấy con sông lớn Nại Hà với tràn khắp máu mủ đang trôi chảy. Họ lại thấy những cây cối to lớn đang bốc cháy phừng phực. Khi thấy việc ấy rồi, lòng sanh kinh sợ. Lúc đó, các ngục tốt của Diêm Vương dùng dây trói cột và kéo họ đi qua các đại lộ đầy mũi nhọn mà chẳng chút thương tiếc. Nhấc chân lên hoặc bỏ chân xuống, họ đều bị đâm, bị cắt, bị xẻo. Lại còn có vô số diều hâu đen, loài chim củ-la-la và chó dại ăn thịt của họ. Họ ở trong đại địa ngục để chịu ách khổ cùng cực như thế.
Trên các đại lộ đầy mũi nhọn, lại có những cây gai lớn và dài đến 12 ngón tay. Trong mỗi bước đi có 500 cây gai đâm vào lòng bàn chân, làm cho họ khóc lóc thảm thiết và than rằng:
"Loài hữu tình chúng ta tạo nghiệp tội đều do bởi tham ái. Bây giờ phải thọ lấy ách khổ cùng cực, giờ chúng ta có thể làm gì đây?"
Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương liền nói:
"Từ xưa đến nay, các ngươi chưa từng lấy thức ăn để cúng dường Sa-môn, chưa từng nghe Pháp âm và cũng chưa từng nhiễu quanh tháp tượng."
Lúc ấy chúng tội nhân thưa với các ngục tốt của Diêm Vương rằng:
"Do bởi tội chướng, chúng tôi chẳng thể tin hiểu cùng tôn kính Phật Pháp Tăng, vì thế mà thường xa lánh."
Các ngục tốt nói rằng:
"Các ngươi tự mình tạo đủ mọi nghiệp ác, nay phải tự thọ lấy khổ báo."
Nói xong, các ngục tốt mang những người tội đến chỗ của Diêm Vương. Khi đến nơi, họ đứng ở trước và lúc ấy vua Diêm-la phán rằng:
"Đem bọn chúng đến nơi của nghiệp báo."
Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương lôi kéo người tội đến đại địa ngục sợi dây đen. Lúc đến nơi, những tội nhân này, từng người từng người một bị ném xuống đó. Khi ném vào trong địa ngục, thân thể của mỗi tội nhân bị 100 cây thương đâm vào thân xác, nhưng họ đều không chết. Tiếp đó, lại bị 200 cây thương lớn đâm vào thân, nhưng họ vẫn còn sống. Sau cùng, có 300 cây thương lớn đồng một lúc đâm vào thân xác của mỗi người tội, nhưng họ vẫn không chết.
Khi tánh mạng được phục hồi, lúc ấy họ lại bị ném vào trong vạc lửa lớn, nhưng họ vẫn không chết. Ngay lúc ấy, họ lại bị các ngục tốt bỏ những viên sắt nóng vào trong miệng và bắt nuốt, khiến cho môi, răng, thịt chân răng, hàm răng cùng cổ họng thảy đều cháy chín. Tim, ruột, và bụng bị cháy sèo sèo và làm cho toàn thân bị thiêu rụi.'
Lại bảo đại lực a-tu-la vương rằng:
'Khi thọ khổ như thế, sẽ không một ai có thể tương cứu. Ông nên biết, ta nay vì ông mà thuyết Pháp như vậy. Các ông phải nên siêng năng tu phước.'
Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bảo đại lực a-tu-la vương rằng:
'Ta nay muốn đến vườn Kỳ-đà, hôm nay đại chúng đang hội họp nơi đó.'
Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra vô số ánh sáng với màu sắc khác nhau, như là ánh sáng màu xanh, ánh sáng màu vàng, ánh sáng màu đỏ, ánh sáng màu trắng, ánh sáng màu pha lê, ánh sáng màu vàng kim, và những ánh sáng khác như thế. Những ánh sáng này chiếu đến ở trước Đức Tỳ-xá-phù Như Lai.
Khi đó có trời, rồng, dạ-xoa, la-sát, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, cùng người và phi nhân đều đến hội họp.
Lại có vô số chư Bồ-Tát Ma-ha-tát cũng đều đến hội họp.
Lúc ấy trong đại chúng có một vị Bồ-Tát, tên là Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay, rồi hướng về Đức Phật kia mà bạch rằng:
'Bạch Thế Tôn! Những ánh sáng này là từ đâu chiếu đến?'
Đức Phật kia bảo:
'Này thiện nam tử! Những ánh sáng này là từ Quán Tự Tại Bồ-Tát ở trong cung điện của đại lực a-tu-la vương phóng ra và chiếu đến nơi đây.'
Lúc đó Hư Không Tạng Bồ-Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
'Con nay phải dùng phương tiện gì mới có thể thấy Quán Tự Tại Bồ-Tát kia?'
Đức Phật kia bảo:
'Này thiện nam tử! Vị Bồ-Tát kia cũng đang đến nơi này.'
Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát rời khỏi cung điện của đại lực a-tu-la vương, vườn Kỳ-đà bỗng hốt nhiên có những cây bông hoa vi diệu cõi trời và cây trời kiếp-ba-la. Chúng được trang nghiêm với vô số châu báu cõi trời, có màu sắc khác nhau và tươi đẹp lạ thường. Treo ở trên đó là hàng trăm loại trân châu anh lạc. Lại treo áo kiều-thi-ca cùng đủ các loại y phục khác nữa. Thân cây và cành có màu đỏ rực, lá được làm bằng vàng và bạc. Lại có vô số cây tỏa mùi hương vi diệu, cây bông hoa thù thắng vi diệu, và vô số ao tắm báu với trăm ngàn vạn tạp sắc diệu hoa đầy khắp trong đó.
Khi xuất hiện các việc như thế, Hư Không Tạng Bồ-Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
'Tại sao đến giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát kia vẫn còn chưa đến?'
Đức Phật kia bảo:
'Này thiện nam tử! Sau khi Quán Tự Tại Bồ-Tát kia từ cung điện của đại lực a-tu-la vương rời khỏi, có một nơi khác mà không ai có thể đến, tên gọi là Hắc Ám.
Này thiện nam tử! Ở nơi tối tăm kia, ánh sáng của mặt trời và mặt trăng không thể rọi đến, nhưng ở đó có như ý bảo, tên là Tùy Nguyện, và luôn phát ra ánh sáng chiếu soi. Ở nơi kia có vô số trăm ngàn vạn dạ-xoa đang trú trong đó. Khi chúng thấy Quán Tự Tại Bồ-Tát vào trong ấy, tâm sanh hoan hỷ, hớn hở vui mừng và chạy đến nghênh tiếp Quán Tự Tại Bồ-Tát, đầu đảnh lễ dưới chân Bồ-Tát và thưa hỏi rằng:
'Nay Đức Bồ-Tát không mệt mỏi khi đến đây chứ? Ngài đã lâu rồi chẳng đến nơi tối tăm này.'
Quán Tự Tại Bồ-Tát nói rằng:
'Đó là bởi vì ta cần cứu độ các hữu tình.'
Khi ấy, những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia lấy tòa sư tử báu bằng vàng kim của cõi trời để mời Đức Bồ-Tát ngồi:
Lúc đó, Đức Bồ-Tát vì những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia mà thuyết Pháp:
'Các ông hãy lắng nghe. Có một bộ Kinh Đại Thừa tên là Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu có ai nghe được dù chỉ bốn câu kệ mà có thể thọ trì đọc tụng cùng giảng giải nghĩa ý và tâm thường tư duy, thì phước đức đạt được sẽ không có hạn lượng.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, nếu ai như có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được.
Ví như nước trong biển lớn, ta có thể đếm mỗi một giọt nước trong đó; nhưng nếu ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được. Không chỉ riêng ta ở nơi tối tăm này chẳng thể nói hết, dù cho 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả đều hội họp cùng một nơi và trải qua 12 kiếp, thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức như vậy.
Thiện nam tử! Lại ví như tất cả người trong bốn châu lớn đều sửa sang nhà của họ đang sống thành một tinh xá. Ở trong đó, họ dùng châu báu vàng kim cõi trời để dựng xây 1.000 cái tháp. Trong một ngày thì thảy đều hoàn tất, rồi họ dùng mọi thứ để cúng dường. Tuy nhiên, phước đức có được chẳng bằng phước đức của người có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này.
Thiện nam tử! Ví như năm con sông lớn đổ vào đại hải, sự lưu chuyển của chúng là chẳng có cùng tận. Cũng như vậy, nếu như ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong bộ Kinh Đại Thừa này, thì phước đức có được cũng như nước sông chảy vào biển và sẽ là vô tận.'
Khi đó, những dạ-xoa và chúng la-sát kia thưa với Quán Tự Tại Bồ-Tát rằng:
'Nếu có hữu tình nào mà có thể biên chép bộ Kinh Đại Thừa này, thì số lượng phước đức có được là bao nhiêu?'
'Thiện nam tử! Phước đức có được là không có bờ mé. Nếu ai có thể biên chép Kinh này thì đồng như biên chép 84.000 Pháp tạng, một chút cũng chẳng sai khác đi. Người này sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, thống nhiếp tứ đại châu cùng với diện mạo đoan nghiêm, và sẽ có 1.000 con trai vây quanh. Tất cả quân địch ngoại bang đều tự nhiên thần phục.
Nếu ai có thể thường luôn nhớ nghĩ đến danh hiệu của Kinh này, thời người ấy sẽ sớm được giải thoát của luân hồi khổ ách, xa hẳn già chết cùng ưu sầu khổ não. Ở những nơi sinh ra vào đời sau, họ sẽ nhớ việc đời trước. Trên thân thường có mùi hương của ngưu đầu chiên đàn, trong miệng thường tỏa ra mùi hương của hoa sen xanh. Họ có thân tướng viên mãn và đầy đủ uy thế lớn.'
Khi Pháp vừa thuyết xong, có những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia đắc quả Dự Lưu và có vài trong số đó đắc quả Nhất Lai. Sau đó, họ tác bạch lời như vầy:
'Cuối mong Bồ Tát hãy ở nơi này và chớ đi nơi khác. Nay chúng con sẽ ở nơi tối tăm này, lấy vàng kim báu cõi trời xây tháp và lại dùng vàng báu để tạo lập nơi kinh hành.'
Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát nói rằng:
'Ta vì phải cứu độ vô số chúng hữu tình và khiến họ đều đắc Đạo Bồ-đề nên mới muốn đi đến nơi khác.'
Khi đó các dạ-xoa và la-sát, mỗi mỗi đều cúi đầu, lấy tay kê lên má và bồi hồi suy nghĩ, rồi nói với nhau lời như thế này:
'Bây giờ Quán Tự Tại Đại Bồ-Tát sẽ rời khỏi nơi này, về sau ai sẽ là người có thể thuyết vi diệu Pháp cho chúng ta đây?'
Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rời khỏi, tất cả chúng dạ-xa cùng la-sát kia đều đi theo đưa tiễn. Sau đó, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bảo họ rằng:
'Các ông đã tiễn rất xa rồi, hãy nên trở về đi.'
Lúc ấy, những dạ-xoa cùng chúng la-sát kia, đầu đảnh lễ sát đất ở dưới chân của Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát, rồi họ trở về chốn cũ.
Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát bay lên hư không như ngọn lửa và thẳng đến thiên cung. Khi đã đến thiên cung kia, ngài hiện thân làm Bà-la-môn. Trong thiên chúng ở đó có một vị thiên tử, tên là Diệu Nghiêm Nhĩ, thường phải chịu khổ do quả báo bần cùng. Khi đó, Bà-la-môn do Quán Tự Tại Bồ-Tát hóa thân, đi đến chỗ của vị thiên tử kia. Lúc đến nơi, nói rằng:
'Tôi đang bị đói lại còn bị khát nữa.'
Khi ấy, vị thiên tử kia nghẹn ngào than khóc mà nói với Bà-la-môn rằng:
'Hiện tôi rất nghèo khốn và chẳng có vật gì để dâng cho ngài cả.'
Bà-la-môn nói:
'Tôi đã bỏ công đến đây, cho dù là ít đến đâu thì ngài cũng nên biếu một chút gì.'
Lúc đó, vị thiên tử kia vào trong cung và cố gắng lục tìm các đồ vật. Bỗng nhiên thấy có những cái rương báu lớn đựng đầy các dị bảo ở trong đó. Lại có cái rương báu đựng đầy thức ăn nước uống ngon lạ. Lại có các thượng diệu y phục đầy khắp trong cung. Khi ấy vị thiên tử kia suy nghĩ rằng:
'Hiện tại vị Bà-la-môn ở ngoài cửa nhất định là một người chẳng thể nghĩ bàn, nên mới khiến mình được những phước lợi phi thường này.'
Kế đó, vị thiên tử thỉnh đại Bà-la-môn kia vào trong cung của mình và cầm bảo châu vi diệu cõi trời cùng thượng vị ẩm thực cõi trời để dâng lên cúng dường. Khi thọ nhận xong, Bà-la-môn kia chú nguyện rằng:
'Nguyện ngài sẽ hưởng an vui và đắc trường thọ.'
Khi ấy vị thiên tử kia thưa với Bà-la-môn rằng:
'Hiền giả! Ngài từ đâu đến đây?'
Bà-la-môn nói:
'Ta từ trong đại Tinh xá Kỳ Viên mà đến đây.'
Vị thiên tử hỏi:
'Nơi đó như thế nào?'
Bà-la-môn bảo rằng:
'Trong Tinh xá Kỳ Viên, đất đai nơi đó thanh tịnh và xuất hiện những cây kiếp-ba-la được trang nghiêm bằng ma-ni báu cõi trời. Lại hiện ra muôn loại như ý ma-ni bảo châu. Lại hiện ra đủ mọi ao báu. Lại có vô số đại chúng với giới đức uy nghiêm và đầy đủ đại trí tuệ cũng xuất hiện trong ấy. Nơi đó có một Đức Phật, hiệu là Tỳ-xá-phù Như Lai. Các thánh chúng và chư thiên cũng trú nơi đó nên mới xuất hiện những sự biến hóa như vậy.'
Khi ấy vị thiên tử kia thưa rằng:
'Hiền giả! Xin hãy nói sự thật, đại Bà-la-môn ngài là trời hay là người vậy? Hiền giả! Tại sao hôm nay lại xuất hiện những điều kỳ diệu như thế?'
Bà-la-môn liền nói:
'Ta chẳng phải trời và cũng chẳng phải người. Ta là một vị Bồ-Tát muốn cứu độ hết thảy hữu tình, khiến cho họ đều thấy Đạo Bồ-đề quảng đại.'
Khi vị thiên tử này nghe xong, liền cầm mũ trời báu vi diệu cùng bông tai trang nghiêm để dâng lên cúng dường và nói kệ rằng:
'Con nay gặp được công đức địa
Xa hẳn tội chướng cùng cấu dơ
Vừa mới gieo trồng nơi phước điền
Liền được quả báo thù thắng thay'
Lúc vị thiên tử này nói lên bài kệ ấy và sự hóa độ của Bà-la-môn kia cũng đã hoàn mãn, thế nên Bồ-Tát rời thiên cung và liền đi tới nước Sư Tử. Khi đến nơi, ngài đứng ở trước các la-sát nữ với tướng mạo hóa hiện đoan nghiêm, sắc tướng thù đặc và vi diệu hiếm thấy. Khi các la-sát nữ thấy dung mạo như thế, liền khởi lòng ham muốn. Với sự hân hoan cùng ái mộ, họ đến gần và nói rằng:
'Anh có thể làm phu quân của em không? Em là đồng nữ và vẫn chưa sánh duyên với ai, mong anh hãy làm phu quân của em. Bây giờ anh đã đến đây, xin chớ dời bước đi nơi khác. Em như người có không chủ, mong anh có thể làm người chủ của em. Em lại như căn phòng tối, mong anh hãy làm ngọn đèn sáng của em. Hiện chỗ của em có thức ăn nước uống, y phục, và rất nhiều kho chứa đồ. Lại có vườn trái cây xinh tươi và ao tắm mát mẻ.'
Bồ-Tát bảo la-sát nữ rằng:
'Nay các cô hãy lắng nghe ta nói.'
Các la-sát nữ nói:
'Dạ vâng, các em rất thích nghe những gì anh bảo.'
'Hôm nay ta sẽ vì các cô mà thuyết Pháp Bát Chánh Đạo. Lại vì các cô mà thuyết Pháp Tứ Thánh Đế.'
Khi các la-sát nữ nghe Pháp đó xong, họ liền chứng quả. Có vị đắc quả Dự Lưu. Hoặc có vị đắc quả Nhất Lai. Họ chẳng còn khổ bức của tham sân si, không khởi lòng ác và không còn có ý nghĩ giết hại. Tâm họ yêu mến Pháp và vui thích trong giới luật. Sau đó, họ nói lời như vầy:
'Từ nay về sau, chúng con sẽ không bao giờ sát sanh. Chúng con sẽ sống như những người trì giới ở châu Nam Diêm-phù-đề và dùng thức ăn nước uống thanh tịnh. Kể từ bây giờ, chúng con sẽ sống y như họ vậy.'
Khi các la-sát nữ đã không còn tạo ác nghiệp và họ có thể tu học thọ trì, Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát rời khỏi nước Sư Tử, rồi đi đến đại thành Ba-la-nại. Nơi dơ bẩn xấu ác kia có vô số trăm ngàn vạn loại côn trùng và con giòi đang ở trong ấy. Quán Tự Tại Bồ-Tát vì muốn cứu độ chúng hữu tình kia nên hóa hiện thành một con ong mà bay đến đó và trong miệng phát ra âm thanh như vầy:
'Nam-mô Phật-đà-da!'
Các loài trùng kia nghe theo âm thanh đó và đều xưng niệm như tiếng ấy. Tuy sở chấp nơi thân kiến cùng các tùy phiền não của loài hữu tình kia như núi Tu-di, nhưng do bởi oai lực nên đều bị chày trí tuệ kim cang phá hủy hết sạch. Liền đó, chúng được vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và đều trở thành Bồ-Tát với đồng tên gọi là Diệu Hương Khẩu.
Khi đã cứu độ chúng hữu tình kia xong, Bồ-Tát rời đại thành Ba-la-nại và đi đến nước Ma-kiệt-đà. Lúc bấy giờ ở trong nước kia bị hạn hán suốt 12 năm ròng. Dân chúng cùng các loài hữu tình vì bị đói khát làm cho khổ não bức bách nên ăn thịt lẫn nhau. Khi thấy thế, tâm của Quán Tự Tại Bồ-Tát tư duy rằng:
'Ta phải dùng phương tiện gì để cứu những chúng sanh này?'
Lúc ấy, Quán Tự Tại Bồ-Tát giáng xuống những cơn mưa. Trước tiên, ngài mưa xuống nước để dẹp trừ cơn hạn hán. Tiếp đến, mưa xuống các loại thùng đựng và mỗi cái đều chứa đầy ẩm thực ngon lạ trong đó. Khi ấy dân chúng kia được các thức ăn nước uống như thế và thảy đều no đủ. Kế đó, Bồ-Tát lại mưa xuống thóc, đậu, và những vật dụng khác để cho dân chúng kia đều tùy ý mãn túc.
Lúc bấy giờ, hết thảy dân chúng trong nước Ma-kiệt-đà đều kinh ngạc và xem là việc chưa từng có. Lúc ấy, họ nhóm họp lại một nơi. Khi đã tụ tập đông đủ, ai nấy đều nói rằng:
'Nay việc này là sao? Đây có phải là do oai lực của trời không?'
Khi ấy, ở giữa trong đại chúng kia có một ông lão rất già, lưng còng, tay cầm gậy, và đã sống đến vô số trăm ngàn năm. Lão ông bảo dân chúng rằng:
'Đây chẳng phải là oai lực của trời đâu. Nay hiện ra điềm lành đó, nhất định là oai đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-Tát biến hiện ra.'
Dân chúng hỏi rằng:
'Làm thế nào mà Quán Tự Tại Bồ-Tát kia có thể hiện ra các điềm lành ấy?'
Lão ông liền nói:
'Công đức thần lực của Thánh Quán Tự Tại kia:
- có thể làm ngọn đèn sáng cho những ai mù lòa.
- có thể che chở cho những ai đang rơi vào đám lửa cháy phừng.
- có thể hiện làm con sông cho những ai khát nước.
- có thể ban điều không sợ hãi cho những ai đang sống trong sợ hãi.
- có thể làm y dược cho những ai mắc bệnh khổ.
- có thể làm cha mẹ cho những ai đang thọ khổ.
- có thể khiến chúng sanh trong Địa Ngục Vô Gián thấy Đạo Niết-bàn.
- có thể khiến hết thảy chúng sanh trong thế gian được công đức, lợi ích và an lạc.
Nếu lại có người niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-Tát, thì người này sẽ xa rời tất cả sự thống khổ của luân hồi.'
Khi dân chúng nghe xong, đều đồng tán dương:
'Lành thay!'
'Nếu như ai có thể kiến lập một Pháp tràng mạn-đà-la hình vuông ở trước tượng của Quán Tự Tại Bồ-Tát và thường đem hương hoa để cúng dường Quán Tự Tại Bồ-Tát, thì người này trong tương lai sẽ đắc sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương và có đầy đủ các đồ thất bảo, gồm có: kim luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, chủ tàng báu, và chủ binh báu.
Nếu lại có người có thể cúng dường Quán Tự Tại Bồ-Tát một đóa hoa, thì thân thể người này sẽ tỏa ra mùi hương vi diệu và mọi nơi sanh ra đều được thân tướng viên mãn.'
Khi ông lão này đã nói về công đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-Tát xong, lúc đó dân chúng, mỗi mỗi đều trở về nơi trú xứ của mình và ông lão cũng trở về chốn cũ.
Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-Tát bay lên hư không và suy nghĩ rằng:
'Ta đã lâu không gặp Đức Tỳ-xá-phù Như Lai. Bây giờ ta nên đi đến Tinh xá Kỳ Viên để gặp Ngài.'
Khi đó, Quán Tự Tại Bồ-Tát liền đi đến tinh xá kia và thấy có vô số trăm ngàn vạn trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân. Lại có vô số trăm ngàn vạn chư Bồ-Tát cũng đều đến hội họp.
Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Bồ-Tát bạch Đức Phật kia rằng:
'Bạch Thế Tôn! Vị Bồ-Tát đang đến là ai?'
Đức Phật kia bảo:
'Này thiện nam tử! Đó là Quán Tự Tại Bồ-Tát Ma-ha-tát.'
Hư Không Tạng Bồ-Tát nghe xong và giữ lặng yên.
Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát nhiễu quanh Đức Phật kia ba vòng, rồi ngồi sang ở bên trái. Lúc đó Đức Thế Tôn kia nói lời hỏi thăm rằng:
'Ông không mệt mỏi chứ! Thiện nam tử! Ông đến những nơi khác giáo hóa, việc ấy như thế nào?'
Quán Tự Tại liền thuật lại việc giáo hóa của mình.
'Con đã cứu độ chúng hữu tình như vầy như vầy!'
Khi Hư Không Tạng Bồ-Tát nghe xong, trong lòng kinh ngạc chưa từng có:
'Nay ta đã thấy Quán Tự Tại, vị Bồ-Tát có thể cứu độ chúng sanh ở những quốc độ như thế, khiến cho họ thấy các Đức Như Lai, và làm cho các chúng sanh ở những quốc độ như vậy đều trở thành Bồ-Tát.'
Lúc ấy, Hư Không Tạng Bồ-Tát đứng ở trước Quán Tự Tại và hỏi Quán Tự Tại Bồ-Tát rằng:
'Nhân giả đi hóa độ như thế, Nhân giả có mệt không?'
Ngài Quán Tự Tại nói:
'Tôi không mệt.'
Khi hỏi xong, Hư Không Tạng Bồ-Tát giữ lặng yên.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn kia bảo các thiện nam tử rằng:
'Các ông hãy lắng nghe, nay Ta sẽ vì các ông mà thuyết Pháp Lục Độ Ba-la-mật. Này các thiện nam tử! Phàm ai muốn làm Bồ-Tát thì trước tiên nên tu hành Bố Thí Ba-la-mật, rồi sau đó tu hành Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, và Trí Tuệ Ba-la-mật. Được như thế, họ sẽ thành tựu viên mãn và đầy đủ Lục Độ Ba-la-mật.'
Khi thuyết Pháp xong, Đức Như Lai kia giữ lặng yên. Khi ấy, các đại chúng trong Pháp hội kia, mỗi mỗi đều cáo lui và trở về bổn xứ của mình. Chư Bồ-Tát nơi đó cũng cáo lui và trở về cõi nước Phật của họ." Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Hết quyển thứ nhì
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.164.69 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.