Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
38. PHẨM LY THẾ GIAN THỨ BA MƯƠI TÁM
(Hán Bộ Từ Ðầu Quyển 53 Ðến Hết Quyển 59)
Bấy giờ Ðức Thế Tôn ở nước Ma Kiệt Ðề trong đạo tràng Bồ Ðề A Lan Nhã điện Phổ Quang Minh, ngồi tòa Liên Hoa Tạng Sư Tử diệu ngộ viên mãn, tuyệt hẳn hai hạnh, đạt pháp vô tướng, an trụ nơi chỗ trụ của Phật, được Phật bình đẳng, đến chỗ không chướng ngại pháp chẳng thể chuyển, chỗ làm vô ngại lập bất tư nghì, thấy khắp tam thế, thân hằng đầy khắp tất cả quốc độ, trí hằng sáng thấu tất cả pháp, rõ tất cả hạnh, hết tất cả nghi, thân không thể lường, trí đồng với chỗ cầu của tất cả Bồ Tát, đến bỉ ngạn rốt ráo không hai của Phật, đầy đủ bình đẳng giải thoát của Như Lai, chứng bực Phật bình đẳng không trung biên, tột nơi pháp giới, khắp hư không giới, cùng bất khả thuyết trăm ngàn na do tha Phật sát vi trần số đại Bồ Tát câu hội.
Chư đại Bồ Tát nầy đều là bực một đời sẽ được vô thượng bồ đề, đều từ những cõi nước phương khác mà đồng đến tập họp, đều đủ Bồ Tát phương tiện trí huệ: những là khéo hay quán sát tất cả chúng sanh, dùng sức phương tiện khiến họ điều phục trụ nơi pháp Bồ Tát. Khéo hay quan sát tất cả thế giới, dùng sức phương tiện đều khắp qua đến. Khéo hay quán sát cảnh giới Niết Bàn, tư duy suy lường lìa hẳn tất cả hí luận phân biệt mà tu diệu hạnh không có gián đoạn. Khéo hay nhiếp thọ tất cả chúng sanh. Khéo vào vô lượng pháp phương tiện. Biết các chúng sanh rỗng không chẳng có mà chẳng hoại nghiệp quả. Khéo biết tâm sử, chư căn, cảnh giới, phương tiện các loại sai biệt của chúng sanh. Ðều hay thọ trì tam thế Phật pháp, tự được hiểu rõ lại vì người giải thuyết. Ðều khéo an trụ nơi vô lượng pháp thế và xuất thế, biết tánh chơn thiệt của tất cả pháp. Nơi tất cả pháp hữu vi vô vi đều khéo quán sát biết không có hai. Ở trong một niệm đều có thể chứng được trí huệ của tam thế chư Phật. Ở trong mỗi niệm đều hay thị hiện thành đẳng chánh giác, làm cho tất cả chúng sanh phát tâm thành đạo. Nơi cảnh sở duyên của một chúng sanh đều biết cảnh giới của tất cả chúng sanh. Dầu nhập Như Lai nhứt thiết trí địa mà chẳng bỏ hạnh bồ tát, cũng chẳng bỏ sự nghiệp, trí huệ, phương tiện của Bồ Tát, mà vẫn không sở tác. Vì mỗi mỗi chúng sanh trụ vô lượng kiếp, mà trong vô số kiếp khó gặp được. Chuyển chánh pháp luân, điều phục chúng sanh đều không bỏ luống. Hạnh nguyện thanh tịnh của tam thế chư Phật đều đã đầy đủ.
Thành tựu vô lượng công đức như vậy. Tất cả Như Lai trong vô biên kiếp nói chẳng hết được.
Tên của các ngài là:
Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát, Phổ Hóa Bồ Tát, Phổ Huệ Bồ Tát, Phổ Kiến Bồ Tát, Phổ Quang Bồ Tát, Phổ Quán Bồ Tát, Phổ Chiếu Bồ Tát, Phổ Tràng Bồ Tát, Phổ Giác Bồ Tát.
Mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số chư đại Bồ Tát như vậy, thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền, thâm tâm đại nguyện đều đã viên mãn. Chỗ của tất cả chư Phật xuất thế đều có thể qua đến thỉnh chuyển pháp luân. Khéo hay thọ trì pháp nhãn của chư Phật. Chẳng dứt chủng tánh của tất cả chư Phật. Khéo biết tất cả chư Phật ra đời, thứ đệ thọ ký danh hiệu, quốc độ, thành Phật chuyển pháp luân. Thế giới không Phật hiện thân thành Phật. Hay khiến chúng sanh tạp nhiễm đều được thanh tịnh. Hay diệt tất cả nghiệp chướng của Bồ Tát, vào nơi pháp giới thanh tịnh vô ngại.
Bấy giờ Phổ Hiền đại Bồ Tát nhập quảng đại tam muội tên là Phật hoa trang nghiêm.
Lúc Bồ Tát nhập tam muội nầy, tất cả thế giới mười phương chấn động sáu cách mười tám tướng, pháp âm thanh lớn không đâu chẳng nghe. Sau đó Bồ Tát mới từ tam muội xuất định.
Bấy giờ Phổ Huệ Bồ Tát biết đại chúng đã vân tập, hỏi Phổ Hiền Bồ Tát rằng:
Thưa Phật tử! Xin ngài diễn thuyết:
Những gì là y chỉ của đại Bồ Tát? Những gì là kỳ đặc tưởng? Những gì là hạnh? Những gì là thiện tri thức? Những gì là siêng tinh tấn? Những gì là tâm được an ổn? Những gì là thành tựu chúng sanh? Những gì là giới? Những gì là tự biết thọ ký? Những gì là nhập Bồ Tát? Những gì là nhập Như Lai? Những gì là nhập tâm hành của chúng sanh? Những gì là nhập thế giới? Những gì là nhập kiếp? Những gì là nói tam thế? Những gì là biết tam thế? Những gì là phát tâm không mỏi nhàm ? Những gì là trí sai biệt? Những gì là đà la ni? Những gì là diễn thuyết Phật? Những gì là phát tâm Phổ Hiền? Những gì là Phổ Hiền hạnh pháp? Do những cớ gì mà sanh lòng đại bi? Những gì là nhơn duyên phát bồ đề tâm? Những gì là sanh tâm tôn trọng đối với thiện tri thức? Những gì là thanh tịnh? Những gì là các ba la mật? Những gì là trí tùy giác? Những gì là chứng tri? Những gì là lực? Những gì là bình đẳng? Những gì là Phật pháp thiệt nghĩa cú? Những gì là thuyết pháp? Những gì là trì? Những gì là biện tài? Những gì là tự tại? Những gì là tánh vô trước? Những gì là tâm bình đẳng? Những gì là xuất sanh trí huệ? Những gì là biến hóa? Những gì là lực trì? Những gì là được đại hân ủy? Những gì là thâm nhập Phật pháp? Những gì là y chỉ? Những gì là phát tâm vô úy? Những gì là phát tâm không nghi hoặc? Những gì là bất tư nghì? Những gì là xảo mật ngữ ? Những gì là xảo phân biệt trí? Những gì là nhập tam muội? Những gì là biến nhập? Những gì là môn giải thoát? Những gì là thần thông? Những gì là minh? Những gì là giải thoát? Những gì là viên lâm? Những gì là cung điện? Những gì là sở nhạo? Những gì là trang nghiêm? Những gì là phát tâm bất động? Những gì là chẳng bỏ tâm thâm đại? Những gì là quán sát ? Những gì là thuyết pháp? Những gì là thanh tịnh? Những gì là ấn? Những gì là trí quang chiếu? Những gì là vô đẳng trụ? Những gì là tâm không hạ liệt? Những gì là tâm tăng thượng như núi? Những gì là trí như biển nhập vô thượng bồ đề? Những gì là như thiệt trụ? Những gì là phát tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang? Những gì là đại phát khởi? Những gì là cứu cánh đại sự? Những gì là bất hoại tín? Những gì là thọ ký? Những gì là thiện căn hồi hướng? Những gì là được trí huệ? Những gì là phát tâm vô biên quảng đại? Những gì là phục tạng? Những gì là luật nghi? Những gì là tự tại? Những gì là vô ngại dụng? Những gì là chúng sanh vô ngại dụng? Những gì là quốc độ vô ngại dụng? Những gì là pháp vô ngại dụng? Những gì là thân vô ngại dụng? Những gì là nguyện vô ngại dụng? Những gì là cảnh giới vô ngại dụng? Những gì là trí vô ngại dụng? Những gì là thần thông vô ngại dụng? Những gì là thần lực vô ngại dụng? Những gì là lực vô ngại dụng? Những gì là du hí? Những gì là cảnh giới? Những gì là lực? Những gì là vô úy? Những gì là pháp bất cộng? Những gì là nghiệp? Những gì là thân? Những gì là thân nghiệp? Những gì là ngữ? Những gì là tịnh tu ngữ nghiệp? Những gì là được thủ hộ? Những gì là thành xong việc lớn? Những gì là tâm? Những gì là phát tâm? Những gì là tâm châu biến? Những gì là chư căn? Những gì là thân tâm? Những gì là thâm tâm tăng thượng? Những gì là siêng tu? Những gì là quyết định giải? Những gì là quyết định giải nhập thế giới? Những gì là quyết định giải nhập chúng sanh giới? Những gì là tập khí? Những gì là thủ? Những gì là tu? Những gì là thành tựu Phật pháp? Những gì là thối thất Phật pháp đạo? Những gì là ly sanh đạo? Những gì là quyết định pháp? Những gì là xuất sanh Phật pháp đạo? Những gì là đại trượng phu danh hiệu? Những gì là đạo ? Những gì là vô lượng đạo? Những gì là trợ đạo? Những gì là tu đạo? Những gì là trang nghiêm đạo? Những gì là chưn? Những gì là tay? Những gì là bụng? Những gì là tạng? Những gì là tâm? Những gì là mặc giáp? Những gì là khí trượng? Những gì là đầu? Những gì là mắt? Những gì là tai? Những gì là mũi? Những gì là lưỡi? Những gì là thân? Những gì là ý? Những gì là đi? Những gì là đứng? Những gì là ngồi? Những gì là nằm? Những gì là chỗ sở trụ? Những gì là chỗ sở hành? Những gì là quán sát? Những gì là khắp quán sát? Những gì là phấn tấn? Những gì là sư tử hống? Những gì là thanh tịnh thí? Những gì là thanh tịnh giới? Những gì là thanh tịnh nhẫn? Những gì là thanh tịnh tinh tấn? Những gì là thanh tịnh định? Những gì là thanh tịnh huệ? Những gì là thanh tịnh từ? Những gì là thanh tịnh bi? Những gì là thanh tịnh hỉ? Những gì là thanh tịnh xả? Những gì là nghĩa? Những gì là pháp? Những gì là phước đức trợ đạo cụ? Những gì là trí huệ trợ đạo cụ? Những gì là minh túc? Những gì là cầu pháp ? Những gì là minh liễu pháp? Những gì là tu hành pháp? Những gì là ma? Những gì là ma nghiệp? Những gì là bỏ rời ma nghiệp? Những gì là thấy Phật ? Những gì là Phật nghiệp? Những gì là mạn nghiệp? Những gì là trí nghiệp ? Những gì là ma nhiếp trì? Những gì là Phật nhiếp trì? Những gì là pháp nhiếp trì? Những gì là công nghiệp trụ Ðâu Suất thiên? Cớ gì nơi Ðâu Suất Thiên Cung mất? Cớ gì hiện ở thai? Những gì là hiện vi tế thú? Cớ gì hiện sơ sanh? Cớ gì hiện vi tiếu? Cớ gì hiện đi bảy bước? Cớ gì hiện đồng tử? Cớ gì hiện ở nội cung? Cớ gì hiện xuất gia? Cớ gì hiện khổ hạnh ? Qua đến đạo tràng thế nào? Ngồi đạo tràng thế nào? Những gì là tướng kỳ đặc khi ngồi đạo tràng? Cớ gì hiện hàng ma? Những gì thành Như Lai lực? Chuyển pháp luân thế nào? Cớ gì nhơn chuyển pháp luân được pháp bạch tịnh? Cớ gì Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác hiện nhập Niết Bàn?
Lành thay Phật tử! Những pháp như vậy xin ngài diễn nói cho.
Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát bảo Phổ Huệ và chư Bồ Tát rằng:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chỗ y chỉ:
Dùng bồ đề tâm làm y chỉ, vì hằng chẳng quên mất.
Dùng thiện tri thức làm y chỉ, vì hòa hiệp như một.
Dùng thiện căn làm y chỉ, vì tu tập tăng trưởng.
Dùng ba la mật làm y chỉ, vì tu hành đầy đủ.
Dùng nhứt thiết pháp làm y chỉ, vì rốt ráo xuất ly.
Dùng đại nguyện làm y chỉ, vì tăng trưởng bồ đề.
Dùng các hạnh làm y chỉ, vì khắp đều thành tựu.
Dùng tất cả Bồ Tát làm y chỉ, vì đồng một trí huệ.
Dùng cúng dường chư Phật làm y chỉ, vì tín tâm thanh tịnh.
Dùng tất cả Như Lai làm y chỉ, vì như từ phụ dạy răn chẳng dứt.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp y chỉ nầy thời được là chỗ sở y đại trí vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ tưởng kỳ đặc:
Nơi tất cả thiện căn tưởng là tự thiện căn.
Nơi tất cả thiện căn tưởng là chủng tử bồ đề.
Nơi tất cả chúng sanh tưởng là căn khí bồ đề.
Nơi tất cả nguyện tưởng là tự nguyện.
Nơi tất cả pháp tưởng xuất ly.
Nơi tất cả hạnh tưởng là tư hạnh.
Nơi tất cả pháp tưởng là Phật pháp.
Nơi tất cả pháp ngữ ngôn tưởng là đạo ngữ ngôn.
Nơi tất cả Phật tưởng là từ phụ.
Nơi tất cả Như Lai tưởng không hai.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi mười pháp tưởng nầy thời được tưởng thiện xảo vô thượng.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ hạnh:
Tất cả chúng sanh hạnh, vì làm cho khắp được thành thục.
Tất cả cầu pháp hạnh, vì tu học tất cả.
Tất cả thiện căn hạnh, vì đều khiến tăng trưởng.
Tất cả tam muội hạnh, vì nhứt tâm bất loạn.
Tất cả trí huệ hạnh, vì không chi chẳng biết rõ.
Tất cả tu tập hạnh, vì không chi chẳng tu được.
Tất cả Phật sát hạnh, vì thảy đều trang nghiêm.
Tất cả thiện hữu hạnh, vì cung kính cúng dường.
Tất cả Như Lai hạnh, vì tôn trọng thừa sự.
Tất cả thần thông hạnh, vì biến hóa tự tại.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi mười hạnh nầy thời được hạnh đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười bực thiện tri thức:
Thiện tri thức khiến an trụ bồ đề tâm.
Thiện tri thức khiến sanh thiện căn.
Thiện tri thức khiến thật hành các môn ba la mật.
Thiện tri thức khiến giải thoát tất cả pháp.
Thiện tri thức khiến thành thục tất cả chúng sanh.
Thiện tri thức khiến được quyết định biện tài.
Thiện tri thức khiến chẳng nhiễm trước tất cả thế gian.
Thiện tri thức khiến trong tất cả kiếp tu hành không nhàm mỏi.
Thiện tri thức khiến an trụ hạnh phổ hiền.
Thiện tri thức khiến nhập nơi trí của chư Phật đã nhập.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười sự siêng tinh tấn:
Siêng tinh tấn giáo hóa tất cả chúng sanh.
Siêng tinh tấn thâm nhập tất cả pháp.
Siêng tinh tấn nghiêm tịnh tất cả thế giới.
Siêng tinh tấn tu hành tất cả sở học của Bồ Tát.
Siêng tinh tấn diệt trừ tất cả ác của chúng sanh.
Siêng tinh tấn ngăn dứt tất cả ba ác đạo khổ.
Siêng tinh tấn dẹp phá tất cả quân ma.
Siêng tinh tấn nguyện vì tất cả chúng sanh làm mắt thanh tịnh.
Siêng tinh tấn cúng dường tất cả chư Phật.
Siêng tinh tấn khiến tất cả Như Lai đều hoan hỷ.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi mười pháp siêng tinh tấn nầy thời được đầy đủ tinh tấn ba la mật vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ tâm được an ổn:
Mình trụ bồ đề tâm cũng phải khiến người trụ bồ đề tâm, nên tâm được an ổn.
Mình rốt ráo rời giận hờn đấu tranh cũng phải khiến người rời giận hờn đấu tranh, nên tâm được an ổn.
Mình rời pháp phàm ngu cũng khiến người rời pháp phàm ngu, nên tâm được an ổn.
Mình siêng tu thiện căn cũng khiến người siêng tu thiện căn, nên tâm được an ổn.
Mình trụ đạo ba la mật cũng khiến người trụ đạo ba la mật, nên tâm được an ổn.
Mình sanh tại nhà Phật cũng phải khiến người sanh tại nhà Phật, nên tâm được an ổn.
Mình thâm nhập pháp chơn thiệt không tự tánh cũng khiến người nhập pháp chơn thiệt không tự tánh, nên tâm được an ổn.
Mình không phỉ báng tất cả Phật pháp, cũng khiến người không phỉ báng tất cả Phật pháp, nên tâm được an ổn.
Mình viên mãn nhứt thiết trí bồ đề nguyện cũng khiến người viên mãn nhứt thiết trí bồ đề nguyện, nên tâm được an ổn.
Mình thâm nhập trí tạng vô tận của tất cả Như Lai cũng khiến người nhập trí tạng vô tận của tất cả Như Lai, nên tâm được an ổn.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi tâm an ổn nầy thời được sự an ổn đại trí vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười cách thành tựu chúng sanh:
Dùng bố thí để thành tựu chúng sanh.
Dùng sắc thân để thành tựu chúng sanh.
Dùng thuyết pháp để thành tựu chúng sanh.
Dùng đồng hạnh để thành tựu chúng sanh.
Dùng không nhiễm trước để thành tựu chúng sanh.
Dùng khai thị bồ tát hạnh để thành tựu chúng sanh.
Dùng thị hiện rõ ràng tất cả thế giới để thành tựu chúng sanh.
Dùng thị hiện oai đức lớn của Phật pháp để thành tựu chúng sanh.
Dùng những thần thông biến hiện để thành tựu chúng sanh.
Dùng những phương tiện vi mật thiện xảo để thành tựu chúng sanh.
Bồ Tát dùng mười pháp nầy để thành tựu chúng sanh giới.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười loại giới:
Giới chẳng bỏ bồ đề tâm.
Giới xa lìa bực nhị thừa.
Giới quán sát lợi ích tất cả chúng sanh.
Giới khiến tất cả chúng sanh an trụ nơi Phật pháp.
Giới tu tất cả sở học của Bồ Tát.
Giới nơi tất cả pháp vô sở sắc.
Giới đem tất cả thiện căn hồi hướng bồ đề.
Giới chẳng tham trước tất cả thân Như Lai.
Giới tư duy tất cả pháp lìa nhiễm trước.
Giới chư căn luật nghi.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi giới nầy thời được giới quảng đại ba la mật vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp thọ ký, Bồ Tát do đây mà biết mình thọ ký:
Dùng ý thù thắng phát bồ đề tâm, tự biết thọ ký.
Trọn chẳng nhàm bỏ hạnh bồ tát, tự biết thọ ký.
Trụ tất cả kiếp thật hành hạnh bồ tát, tự biết thọ ký.
Tu tất cả Phật pháp, tự biết thọ ký.
Nơi tất cả Phật giáo một bề thâm tín, tự biết thọ ký.
Tu tất cả thiện căn đều khiến thành tựu, tự biết thọ ký.
Ðặt tất cả chúng sanh nơi Phật bồ đề, tự biết thọ ký.
Với tất cả thiện tri thức hòa hiệp không hai, tự biết thọ ký.
Nơi tất cả thiện tri thức tưởng là Phật, tự biết thọ ký.
Hằng siêng thủ hộ bổn nguyện bồ đề, tự biết thọ ký.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp nhập Bồ Tát:
Nhập bổn nguyện. Nhập hạnh. Nhập tụ. Nhập ba la mật. Nhập thành tựu. Nhập sai biệt nguyện. Nhập các thứ tri giải. Nhập trang nghiêm Phật độ. Nhập thần lực tự tại. Nhập thị hiện thọ sanh.
Bồ Tát dùng mười pháp nầy nhập khắp tam thế tất cả Bồ Tát.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp nhập Như Lai:
Nhập vô biên thành chánh giác. Nhập vô biên chuyển pháp luân. Nhập vô biên pháp phương tiện. Nhập vô biên âm thanh sai biệt. Nhập vô biên điều phục chúng sanh. Nhập vô biên thần lực tự tại. Nhập vô biên những thân sai biệt. Nhập vô biên tam muội. Nhập vô biên lực vô úy. Nhập vô biên thị hiện Niết Bàn.
Bồ Tát dùng mười pháp nầy nhập khắp tam thế tất cả Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp nhập chúng sanh hạnh:
Nhập tất cả chúng sanh quá khứ hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh vị lai hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh hiện tại hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh thiện hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh bất thiện hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh tâm hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh căn hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh giải hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh phiền não tập khí hạnh.
Nhập tất cả chúng sanh giáo hóa điều phục thời phi thời hạnh.
Bồ Tát dùng pháp nầy vào khắp hạnh của tất cả chúng sanh.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười cách nhập thế giới:
Nhập thế giới nhiễm. Nhập thế giới tịnh. Nhập thế giới nhỏ. Nhập thế giới lớn. Nhập thế giới trong vi trần. Nhập thế giới vi tế. Nhập thế giới úp. Nhập thế giới ngửa. Nhập thế giới có Phật. Nhập thế giới không Phật.
Bồ Tát dùng đây vào khắp tất cả thế giới ở mười phương.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ nhập kiếp:
Nhập kiếp quá khứ. Nhập kiếp vị lai. Nhập kiếp hiện tại. Nhập kiếp đếm được. Nhập kiếp không đếm được. Nhập kiếp đếm được tức là kiếp không đếm được. Nhập kiếp không đếm được tức là kiếp đếm được. Nhập tất cả kiếp tức là phi kiếp. Nhập phi kiếp tức là tất cả kiếp. Nhập tất cả kiếp tức một niệm.
Bồ Tát dùng pháp nầy vào khắp tất cả kiếp.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp nói tam thế:
Quá khứ thế nói quá khứ thế. Quá khứ thế nói vị lai thế. Quá khứ thế nói hiện tại thế. Vị lai thế nói quá khứ thế. Vị lai thế nói hiện tại thế. Vị lai thế nói vô tận. Hiện tại thế nói quá khứ thế. Hiện tại thế nói vị lai thế. Hiện tại thế nói bình đẳng. Hiện tại thế nói tam thế tức một niệm.
Bồ Tát dùng pháp nầy nói khắp tam thế.
Ðại Bồ Tát có mười pháp biết tam thế:
Biết những an lập. Biết những ngữ ngôn. Biết những luận nghi. Biết những quy tắc. Biết những xưng tán. Biết những chế lịnh. Biết kia giả danh. Biết kia vô tận. Biết kia tịch diệt. Biết tất cả không.
Bồ Tát dùng đây biết khắp tất cả những pháp tam thế.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phát mười thứ tâm không mỏi nhọc nhàm chán:
Cúng dường tất cả chư Phật tâm không mỏi nhàm.
Gần gũi tất cả thiện tri thức tâm không mỏi nhàm.
Cầu tất cả pháp tâm không mỏi nhàm.
Nghe chánh pháp tâm không mỏi nhàm.
Tuyên nói chánh pháp tâm không mỏi nhàm.
Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh tâm không mỏi nhàm.
Ðặt tất cả chúng sanh nơi Phật bồ đề tâm không mỏi nhàm.
Nơi mỗi mỗi thế giới trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp thật hành bồ tát hạnh tâm không mỏi nhàm.
Du hành tất cả thế giới tâm không mỏi nhàm.
Quán sát tư duy tất cả Phật pháp tâm không mỏi nhàm.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được đại trí vô thượng không mỏi nhàm của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ sai biệt trí:
Trí sai biệt biết chúng sanh. Trí sai biệt biết các căn. Trí sai biệt biết nghiệp báo. Trí sai biệt biết thọ sanh. Trí sai biệt biết thế giới. Trí sai biệt biết pháp giới. Trí sai biệt biết chư Phật. Trí sai biệt biết các pháp. Trí sai biệt biết tam thế. Trí sai biệt biết tất cả đạo ngữ ngôn.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp nầy thời được trí sai biệt quảng đại vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ đà la ni:
Văn trì đà la ni, vì trì tất cả pháp chẳng quên mất.
Tu hành đà la ni, vì như thiệt khéo quán tất cả pháp.
Tư duy đà la ni, vì biết rõ tánh của tất cả pháp.
Pháp quang minh đà la ni, vì chiếu bất tư nghì Phật pháp.
Tam muội đà la ni, vì ở khắp chỗ hiện tại tất cả Phật nghe chánh pháp tâm chẳng loạn.
Viên âm đà la ni, vì hiểu rõ bất tư nghì âm thanh ngữ ngôn.
Tam thế đà la ni, vì diễn nói tam thế những Phật pháp bất tư nghì.
Chủng chủng biện tài đà la ni, vì diễn nói vô biên những Phật pháp.
Xuất sanh vô ngại nhĩ đà la ni, vì đều có thể nghe được pháp của bất khả thuyết chư Phật đã nói.
Nhứt thiết Phật pháp đà la ni, vì an trụ nơi lực vô úy của Như Lai.
Nếu chư Bồ Tát muốn được đà la ni nầy phải siêng tu học.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát nói mười Phật:
Thành chánh giác Phật. Nguyện Phật. Nghiệp báo Phật. Trụ trì Phật. Niết Bàn Phật. Pháp giới Phật. Tâm Phật. Tam muội Phật. Bổn tánh Phật. Tùy nhạo Phật.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phát mười tâm Phổ Hiền:
Phát tâm đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.
Phát tâm đại bi, vì chịu khổ thay cho tất cả chúng sanh.
Phát tâm thí tất cả, vì đều xả bỏ tất cả sở hữu.
Phát tâm nhớ nhứt thiết trí làm trước nhứt, vì thích cầu tất cả Phật pháp.
Phát tâm công đức trang nghiêm, vì học tất cả hạnh Bồ Tát.
Phát tâm như kim cang, vì tất cả chỗ thọ sanh không quên mất.
Phát tâm như biển, vì tất cả pháp trắng trong đều chảy vào.
Phát tâm như Tu Di sơn, vì tất cả ác ngôn đều nhẫn thọ.
Phát tâm an ổn, vì ban sự vô úy cho tất cả chúng sanh.
Phát tâm bát nhã ba la mật cứu cánh, vì khéo quán sát tất cả pháp vô sở hữu.
Nếu chư Bồ Tát an trụ tâm nầy thời mau được thành tựu trí thiện xảo của Phổ Hiền.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười Phổ Hiền hạnh pháp:
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện trụ tất cả kiếp vị lai.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện cúng dường cung kính tất cả Phật vị lai.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện an trí tất cả chúng sanh nơi hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện chứa nhóm tất cả thiện căn.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện nhập tất cả ba la mật.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện đầy đủ tất cả Bồ Tát hạnh.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện trang nghiêm tất cả thế giới.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện sanh tất cả cõi Phật.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện khéo quán sát tất cả pháp.
Phổ Hiền hạnh pháp nguyện nơi tất cả Phật quốc độ thành vô thượng bồ đề.
Nếu chư Bồ Tát siêng tu pháp nầy thời mau được viên mãn hạnh nguyện Phổ Hiền.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát dùng mười pháp quán sát chúng sanh mà khởi đại bi:
Quán sát chúng sanh không nương không dựa mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh nghèo không căn lành mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mãi ngủ mê mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh làm pháp bất thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh bị trói bởi dục phược mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh chìm biển sanh tử mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh không muốn pháp lành mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mất những Phật pháp mà khởi đại bi.
Bồ Tát hằng dùng tâm nầy quán sát chúng sanh.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười nhơn duyên phát bồ đề tâm:
Vì giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh mà phát bồ đề tâm.
Vì trừ diệt tất cả khổ cho chúng sanh mà phát bồ đề tâm.
Vì ban cho tất cả chúng sanh đầy đủ sự an lạc mà phát bồ đề tâm.
Vì dứt sự ngu si của tất cả chúng sanh mà phát bồ đề tâm.
Vì ban Phật trí cho tất cả chúng sanh mà phát bồ đề tâm.
Vì cung kíng cúng dường tất cả chư Phật mà phát bồ đề tâm.
Vì thuận theo Phật giáo cho chư Phật hoan hỉ mà phát bồ đề tâm.
Vì thấy sắc thân tướng hảo của tất cả Phật mà phát bồ đề tâm.
Vì nhập trí huệ quảng đại của tất cả Phật mà phát bồ đề tâm.
Vì hiển hiện lực vô úy của tất cả Phật mà phát bồ đề tâm.
Nếu Bồ Tát phát tâm vô thượng bồ đề để được ngộ nhập nhứt thiết chủng trí, lúc thân cận cúng dường thiện tri thức phải khởi mười tâm:
Khởi tâm cung cấp hầu hạ. Tâm hoan hỉ. Tâm không trái. Tâm tùy thuận. Tâm không cầu lạ. Tâm nhứt hướng. Tâm đồng thiện căn. Tâm đồng nguyện. Tâm Như Lai. Tâm đồng viên mãn hạnh.
Nếu đại Bồ Tát đã khởi tâm như vậy thời được mười thứ thanh tịnh:
Thâm tâm thanh tịnh, vì đến nơi rốt ráo không mất hư.
Sắc thân thanh tịnh, vì tùy sở nghi để thị hiện.
Âm thanh thanh tịnh, vì rõ thấu tất cả ngữ ngôn.
Biện tài thanh tịnh, vì khéo nói vô biên Phật pháp.
Trí huệ thanh tịnh, vì bỏ rời tất cả tối ngu si.
Thọ sanh thanh tịnh, vì đầy đủ sức tự tại của Bồ Tát.
Quyến thuộc thanh tịnh, vì thành tựu những thiện căn cho các chúng sanh đồng hạnh thuở quá khứ.
Quả báo thanh tịnh, vì trừ diệt tất cả những nghiệp chướng.
Ðại nguyện thanh tịnh, vì cùng chư Bồ Tát tánh không hai.
Công hạnh thanh tịnh, vì dùng hạnh Phổ Hiền mà xuất ly.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ ba la mật:
Thí ba la mật, vì xả bỏ tất cả sở hữu.
Giới ba la mật, vì thanh tịnh Phật giới.
Nhẫn ba la mật, vì an trụ Phật nhẫn.
Tinh tấn ba la mật, vì tất cả chỗ làm chẳng thối chuyển.
Thiền ba la mật, vì nhớ một cảnh.
Bát nhã ba la mật, vì như thiệt quán sát tất cả pháp.
Trí ba la mật, vì nhập Phật lực.
Nguyện ba la mật, vì đầy đủ những đại nguyện Phổ Hiền.
Thần thông ba la mật, vì thị hiện tất cả công dụng tự tại.
Pháp ba la mật, vì sao khắp tất cả Phật pháp.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được đầy đủ đại trí ba la mật vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười trí tùy giác:
Trí tùy giác tất cả thế giới vô lượng sai biệt.
Trí tùy giác tất cả chúng sanh giới bất tư nghì.
Trí tùy giác tất cả pháp, một vào nhiều pháp, nhiều vào một pháp.
Trí tùy giác tất cả pháp giới rộng lớn.
Trí tùy giác tất cả hư không giới rốt ráo.
Trí tùy giác tất cả thế giới nhập quá khứ thế.
Trí tùy giác tất cả thế giới nhập vị lai thế.
Trí tùy giác tất cả thế giới nhập hiện tại thế.
Trí tùy giác tất cả Như Lai vô lượng hạnh nguyện đều ở nơi một trí mà được viên mãn.
Trí tùy giác tam thế chư Phật đều đồng một hạnh mà được xuất ly.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được tất cả pháp tự tại quang minh, sở nguyện đều viên mãn, trong khoảng một niệm đều hay hiểu rõ tất cả Phật pháp thành đẳng chánh giác.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều chứng tri:
Biết tất cả pháp một tướng.
Biết tất cả pháp vô lượng tướng.
Biết tất cả pháp tại một niệm.
Biết tất cả chúng sanh tâm hành vô ngại.
Biết tất cả chúng sanh các căn bình đẳng.
Biết tất cả chúng sanh phiền não tập khí hiện hành.
Biết tất cả chúng sanh tâm sử hiện hành.
Biết tất cả chúng sanh thiện và bất thiện hiện hành.
Biết tất cả Bồ Tát nguyện hạnh tự tại trụ trì biến hóa.
Biết tất cả Như Lai đầy đủ thập lực thành Ðẳng Chánh Giác.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được tất cả phương tiện thiện xảo.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ năng lực:
Năng lực nhập tự tánh của tất cả pháp.
Năng lực nhập tất cả pháp như hóa.
Năng lực nhập tất cả pháp như huyễn.
Năng lực nhập tất cả pháp đều là Phật pháp.
Năng lực nơi tất cả pháp không nhiễm trước.
Năng lực nơi tất cả pháp rất hiểu rõ.
Năng lực nơi tất cả thiện tri thức hằng chẳng bỏ rời tâm tôn trọng.
Năng lực làm cho tất cả thiện căn thuận đến trí vương vô thượng.
Năng lực nơi tất cả Phật pháp thâm tín chẳng hủy báng.
Năng lực làm cho nhứt thiết trí tâm bất thối thiện xảo.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời đủ những năng lực vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ bình đẳng:
Nơi tất cả chúng sanh bình đẳng. Tất cả pháp bình đẳng. Tất cả cõi bình đẳng. Tất cả thâm tâm bình đẳng. Tất cả thiện căn bình đẳng. Tất cả Bồ Tát bình đẳng. Tất cả nguyện bình đẳng. Tất cả ba la mật bình đẳng. Tất cả hạnh bình đẳng. Tất cả Phật bình đẳng.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được pháp vô thượng bình đẳng của chư Phật.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười câu thiệt nghĩa Phật pháp:
Tất cả pháp chỉ có danh. Tất cả pháp dường như huyễn. Tất cả pháp dường như bóng. Tất cả pháp chỉ duyên khởi. Tất cả pháp nghiệp thanh tịnh. Tất cả pháp chỉ văn tự làm ra. Tất cả pháp thiệt tế. Tất cả pháp vô tướng. Tất cả pháp đệ nhứt nghĩa. Tất cả pháp là pháp giới.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời khéo nhập nhứt thiết chủng trí vô thượng chơn thiệt nghĩa.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát nói mười pháp:
Nói pháp thậm thâm. Nói pháp quảng đại. Nói các loại pháp. Nói pháp nhứt thiết trí. Nói pháp tùy thuận ba la mật. Nói pháp xuất sanh Như Lai lực. Nói pháp tam thế tương ưng. Nói pháp làm cho Bồ Tát chẳng thối. Nói pháp tán thán Phật công đức. Nói pháp tất cả Bồ Tát học tất cả Phật bình đẳng, tương ưng với cảnh giới của tất cả Như Lai.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được pháp xảo thuyết vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp trì:
Trì tất cả phước đức thiện căn đã chứa nhóm.
Trì pháp của tất cả Như Lai diễn thuyết.
Trì tất cả ví dụ.
Trì môn lý thú của tất cả pháp.
Trì tất cả môn xuất sanh đà la ni.
Trì tất cả trừ nghi hoặc.
Trì pháp thành tựu tất cả Bồ Tát.
Trì môn bình đẳng tam muội của tất cả Như Lai nói.
Trì môn chiếu minh của tất cả pháp.
Trì năng lực thần thông du hí của tất cả chư Phật.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp nầy thời được năng lực trụ trì đại trí vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ biện tài:
Biện tài vô phân biệt nơi tất cả pháp.
Biện tài vô sở tác nơi tất cả pháp.
Biện tài vô sở trước nơi tất cả pháp.
Biện tài thấu rõ tánh không nơi tất cả pháp.
Biện tài không nghi tối nơi tất cả pháp.
Biện tài Phật gia bị nơi tất cả pháp.
Biện tài tự giác ngộ nơi tất cả pháp.
Biện tài văn cú sai biệt thiện xảo nơi tất cả pháp.
Biện tài nói chơn thật nơi tất cả pháp.
Biện tài tùy theo tâm của tất cả chúng sanh làm cho họ hoan hỷ.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được biện tài xảo diệu vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ tự tại:
Tự tại giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh.
Tự tại chiếu khắp tất cả pháp.
Tự tại tu tất cả hạnh thiện căn.
Tự tại trí quảng đại.
Tự tại cấm giới vô sở ý.
Tự tại tất cả thiện căn hồi hướng bồ đề.
Tự tại tinh tấn bất thối chuyển.
Tự tại trí huệ dẹp phá tất cả chúng ma.
Tự tại tùy sở thích khiến phát tâm bồ đề.
Tự tại tùy sở ưng hóa hiện thành chánh giác.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp nầy thời được tự tại đại trí vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp vô trước:
Vô trước nơi tất cả thế giới.
Vô trước nơi tất cả chúng sanh.
Vô trước nơi tất cả pháp.
Vô trước nơi tất cả sở tác.
Vô trước nơi tất cả thiện căn.
Vô trước nơi tất cả chỗ thọ sanh.
Vô trước nơi tất cả nguyện.
Vô trước nơi tất cả hạnh.
Vô trước nơi tất cả Bồ Tát.
Vô trước nơi tất cả Phật.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp nầy thời có thể mau chuyển tất cả tưởng được trí huệ thanh tịnh vô thượng.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ tâm bình đẳng:
Tâm bình đẳng chứa nhóm tất cả công đức.
Tâm bình đẳng phát tất cả nguyện sai biệt.
Tâm bình đẳng nơi tất cả thân chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi nghiệp báo của tất cả chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi tất cả pháp.
Tâm bình đẳng nơi tất cả quốc độ tịnh uế.
Tâm bình đẳng nơi tất cả tri giải của chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi tất cả hạnh không phân biệt.
Tâm bình đẳng nơi lực và vô úy của tất cả Phật.
Tâm bình đẳng nơi trí huệ của tất cả Như Lai.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tâm đại bình đẳng vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp xuất sanh trí huệ:
Biết tất cả chúng sanh tri giải xuất sanh trí huệ.
Biết tất cả cõi Phật nhiều thứ sai biệt xuất sanh trí huệ.
Biết chừng ngằn mười phương xuất sanh trí huệ.
Biết tất cả thế giới úp ngửa vân vân xuất sanh trí huệ.
Biết tất cả pháp một tánh, nhiều tánh, trụ rộng lớn xuất sanh trí huệ.
Biết tất cả nhiều loại thân xuất sanh trí huệ.
Biết tất cả thế gian điên đảo vọng tưởng đều vô sở trước xuất sanh trí huệ.
Biết tất cả pháp rốt ráo đều do một đạo xuất ly xuất sanh trí huệ.
Biết Như Lai thần lực hay nhập tất cả pháp giới xuất sanh trí huệ.
Biết tam thế tất cả chúng sanh Phật chủng không dứt xuất sanh trí huệ.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp đều hiểu thấu tất cả.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp biến hóa:
Tất cả chúng sanh biến hóa. Tất cả thân biến hóa. Tất cả cõi biến hóa. Tất cả cúng dường biến hóa. Tất cả âm thanh biến hóa. Tất cả hạnh nguyện biến hóa. Tất cả giáo hóa điều phục chúng sanh biến hóa. Tất cả thành chánh giác biến hóa. Tất cả thuyết pháp biến hóa. Tất cả gia trì biến hóa.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời được đầy đủ tất cả pháp biến hóa vô thượng.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp lực trì:
Phật lực trì. Pháp lực trì. Chúng sanh lực trì. Nghiệp lực trì. Hạnh lực trì. Nguyện lực trì. Cảnh giới lực trì. Thời lực trì. Thiện lực trì. Trí lực trì.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp được lực trì tự tại vô thượng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.142.200.247 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.