Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Như thật tôi nghe: Một hôm đức Bạc-già-phạm ngự tại thành lớn Phiệt-la-nê-tư, trong vườn cây rộng lớn, cùng với các vị Tỳ-khưu chúng gồm năm ngàn người cu hội, đều là bậc đại A-la-hán đã dứt các lậu, đã làm xong việc cần làm, về phần tự lợi đã đoạn dứt các kiết sử phiền não, và còn có các đại Bồ-tát 500 người đều đầy đủ.
Bấy giờ nhằm ngày 15 trăng tròn của tháng, đức Thế Tôn ngồi nói Pháp. Trong chúng hội ấy có vô lượng câu-chi na-dữu-đa trăm ngàn hữu tình, Bà-la-môn, Sát-lợi, Phạm Chí, Ni-càn-tử …vv, và các ngoại đạo Hý Luận, Huyễn Thuật, ở thi lâm mặc nạp y, trì ngưu giới (giới không ăn trâu bò), hoặc ở trong hang núi trì cấm giới. Lại còn cùng đại Thiên chúng ở trong hội đều ngồi trước Phật.
Lúc ấy trong chúng hội có Da Kiến Dị Đạo ôm lòng nghi nan bèn xin thưa hỏi. Đức Như Lai thương xót đều an ủy hết. Lại có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhơn …vv, trước sau đoanh vây rồi ngồi chung quanh.
Lại có Thiên Đế Thích với Đao Lợi Thiên tử, với trăm ngàn quyến thuộc Thiên chúng trước sau nhiễu quanh nơi đức Phật ngự. Lại có Phạm Vương với Sa-ha thế giới chủ Phạm chúng Thiên Tử và trăm ngàn quyến thuộc đều đến tập hội. Lại có Nhật Nguyệt Thiên tử, Bảo Hiền, Mãn Hiền, Hiền Lực Thiên …vv, cùng chúng đại Dược-xoa tướng với Đại Tự Tại Thiên, Na-la-diên Thiên, Diệm-ma Thiên, Thủy Thiên, Câu-vĩ-la Thiên, Tứ đại Thiên vương, Kiết Tường Thiên nữ, Biện Tài Thiên nữ, Ha-lợi-đế mẫu, Thương-khí-ni Thiên nữ, Hoa Xỉ Thiên nữ, cùng 500 người con của Ha-lợi-đế, đều cùng quyến thuộc ngồi trong chúng hội.
Lại có Ta-già-la Long Vương, Nan-đà Long Vương, Ô-ba-nan-đà Long Vương và
vô lượng trăm ngàn Long chúng vây quanh. Lại có Khẩn-na-la Vương, Ma-hầu-la-gia Vương cùng vô lượng quyến thuộc trước sau vi nhiễu, làm lễ đại cúng dường rồi an trụ để nghe Pháp.
Trong đại chúng hội ấy có vị Bà-la-môn tên là Tỳ-nữu-đạt-đa ở thành Ba-tra-ly Tử. Bà-la-môn ấy có nhiều tiền tài, của báu, giàu có vào hàng cự phú… sánh ngang với hàng Tỳ-sa-môn Thiên vương. Bà-la-môn ấy đa văn, thông triết, trí tuệ thâm sâu, tu các thiện phẩm bền chắc, ý ưa tịnh tín, hết lòng quy y Tam Bảo, là bậc tối vi đệ nhất trong hàng Ưu-bà-tắc.
Vị Bà-la-môn ấy vì không có con nên ngày đêm suy nghĩ “Nếu không có con ta sẽ phải làm thế nào, sẽ đoạn giòng giống ta chăng?” Bà-la-môn lại suy nghĩ nữa rằng: “Đại sư Phật, Thế Tôn tức là cha ta, ta là Phật tử, diệu pháp chân chính là mẹ ta, Tăng-già thánh chúng là anh em của ta. Nay ta sanh ra may mắn gặp đại cát tường mãi mãi với đời mai sau. Nay ta xin thưa hỏi đức Phật Thế Tôn nên tu Pháp nào? Ta sẽ xin tu hành một pháp thâu nhiếp tất cả căn lành, hồi hướng nơi Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường hằng gieo trồng giống Tam Bảo vĩnh viễn chẳng đoạn dứt. Do nhơn duyên phước này được có con cái. Nay ta muốn thưa hỏi đức Thế Tôn nên dạy ta tu hành pháp nào.”
Khi ấy Tỳ-nữu-đạt-đa đại Bà-la-môn qua đến chỗ Phật, nhiễu Phật ba vòng, chắp tay lễ Phật mà bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, xin Thế tôn cho biết một pháp nào hay gom chứa tất cả căn lành, nghĩa là chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tức thành chung các căn lành vô tận của Tam Bảo, khiến cho con có được con cái.”
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay đại Bà-la-môn! Ông hay hỏi nghĩa như vậy! Nay ông hãy khéo lắng nghe suy nghĩ! Nay ta vì ông mà rộng khen ngợi diễn bày. Này đại Bà-la-môn, có Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Đại Giáo Vương, do đà-ra-ni này gieo trồng tất cả căn lành, hay mãn tất cả ý nguyện.
Ta nhớ đời quá khứ, bên ngoài cửa Đông của thành Bà-tra-ly Tử có một khu vườn lớn. Vườn đó tên là A-tô-ly Viên, bên trong có một nữ La-sát cư ngụ, tên là Hoa A-tô-ly. Nữ La-sát ấy có bẩm tính oai nộ bạo ác, cướp đoạt tinh khí của kẻ nam người nữ, đồng nam, đồng nữ trong vòng một ngàn do-tuần. Người dân trong thành Bà-tra-ly Tử thường bị kinh hãi, ôm lòng lo sợ cùng ngó nhau mà nói lên rằng: “Phải dùng phương tiện nào đây?”
Thời đó có nhiều kỳ cựu bảo với mọi người là: “Các người hãy lắng nghe! Chúng tôi nghe nói có đức Phật ra đời. Đức Phật ấy hiệu là Diệu Quang Tràng Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Các người phải đến chỗ đức Phật Thế Tôn ấy mà thưa hỏi, xin ngài cứu khỏi nạn lo sợ này.” Thời các nhơn chúng bạch các kỳ cựu rằng: “Nay đức Thế Tôn ngự tại chốn nào?” Các kỳ cựu đáp rằng: “Nay đức Thế Tôn ngự tại tụ lạc Bán-già-la.” Các nhơn chúng đó lại bạch với các kỳ cựu rằng: “Chúng tôi phải dùng phương tiện nào?”
Kỳ cựu bảo rằng: “Các ông hãy trở về, có thể ở nơi thanh tịnh, dùng Cù-ma-di (phân trâu trắng ở Tuyết Sơn) hoà với đất thoa đắp làm một cái đàn vuông, bốn mặt vuông bằng nhau, rải các thứ hoa, để bốn lò hương, bốn bình nước thơm với bốn cái bát đựng thức ăn, thắp bốn chén đèn. Lại lấy một bình Tần-già chứa đầy nước thơm, lấy một xỉ mộc (như cây tăm xỉa răng) để ở trên bình. Cần phải khải thỉnh đức Như Lai ấy rằng: “Nguyện xin đức Thế Tôn, sáng mai, vào giờ ăn hãy giáng lâm chốn này. Như Lai biết tất cả việc quá khứ, hiện tại, vị lai. Như Lai cứu vớt tất cả hữu tình bị đọa nơi nẻo hiểm ác, thường khiến giải thoát khỏi nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Đức Như Lai quyết sẽ giáng phó vào giờ ăn buổi sáng, dùng đại thần thông cùng các quyến thuộc đi đến thành Bà-tra-ly Tử.”
Khi nghe lời này xong, các nhơn chúng đều tụ tập nơi trong sạch cao hiển, lấy Cù-ma-di hòa với đất thoa đắp đàn tràng, lấy các thứ hoa tán rải trên ấy, nghiêm sức Hiền bình, bày mọi thứ ăn uống, hương thoa, hương đốt, thắp đèn đặt ở bốn phương. Mọi thứ âm nhạc, bình báu Tần-già vàng trang nghiêm chứa đầy nước thơm, để xỉ mộc ở trên bình, đặt chính giữa đàn, dùng âm thanh hòa nhã, dùng giọng hòa nhã cao thinh xướng rằng:
“Khể thủ quy mạng Diệu Quang Tràng Như Lai Thế Tôn Ứng Chánh Đẳng Giác.
Khể thủ quy mạng Lân mẫn nhứt thiết hữu tình Đại Mâu-ni Thế Tôn.
Khể thủ quy mạng Kỳ Đặc Pháp Tánh Phật Thế Tôn.
Cúi mong cứu vớt chúng con là những chúng sanh đang chịu khổ. Nguyện xin ngày mai, vào bữa ăn buổi sáng, ngài hãy thọ sự cúng dường của chúng con, an ủy chúng con và tất cả hữu tình. Ngài làm nơi theo về, làm chỗ nương tựa, là chỗ trọn lành, giải thoát chúng con khỏi những nơi có nạn hiểm ác, nhiều sự sợ hãi.”
Lúc đại chúng vừa phát lời này, thời đất ở nơi ấy chấn động theo sáu cách. Bình báu Tần-già nghiêng đổ xuống đất, liền thành ao hoa sen lớn, trong ao đó tràn đầy nước tám công đức mầu nhiệm của cõi Trời. Nước ấy trong sạch, chẳng lạnh chẳng nóng khiến người vừa lòng thích ý. Trong ao nước ấy đầy mãn các loại hoa, ấy là: hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, cát vàng trải đất, bốn phía bờ đường là các báu xen nhau trang nghiêm. Còn cây xỉ mộc biến thành cây báu cao sáu do-tuần, ngang rộng bằng nhau đến tám do-tuần. Rễ, cọng, cành, lá, hoa, trái của cây ấy đều do bảy báu hợp thành. Lại ở chốn ấy, mặt đất rộng rãi nghiêm tịnh, mỗi mặt đều cao 12 do-tuần thành một đại mạn-đà-la. Chốn ấy khiến người yêu thích, đẹp đẽ, đoan nghiêm. Nơi nơi đều có mọi loài hoa trên bờ dưới nước. Ở trên cây hoa có các giống chim anh vũ, khổng tước, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mệnh với các loài chim Cát Tường khác. Mỏ vàng, mồng vàng, lông cánh đều là bảy báu tạo thành, phát ra âm thanh hòa nhã.
Mặt đất thì lại trang nghiêm bằng các thứ hoa như là cây Đa-ma-la, cây Chiêm-bặc, cây Ba-tra-la, cây Vô Ưu, cây A-đê-mộc-đa-ca, cây Tô-ma-na, cây Ca-nam-ma-nỉ-la, cây Đại-nỉ-la, cây Khiết-nhũ-la, cây hoa tường vi, cây Thượng-lam-nỗ-ca, cây Dữu-thể-ca, cây Tín-noa-ca-phộc-ly …vv, đều do bổn nguyện của đức Diệu Quang Tràng Như Lai và thần lực gia trì của Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni làm đại thần biến.
Lúc ấy mọi người tại thành Bà-tra-ly Tử sanh tâm đặc biệt lạ kỳ, cùng nhau nói rằng: “Nay đã có hiển hiện tướng đại thần thông, mà do oai lực của ai? Thần thông của ai? Ở Thiệm Bộ châu này hiện lợi ích lớn, hiện công đức lớn, nên ở thế gian hiện ra điềm lành này thành lợi ích lớn cho các hữu tình.”
Lúc ấy mọi người nhìn nhau nói rằng: “Chúng ta nên đi bày biện mọi thức ăn uống thù thắng, ngày mai thỉnh Phật để cúng dường rộng lớn.” Thời mọi người đều quay về nhà, đêm ấy chuẩn bị mọi thức ăn uống sắc hương mỹ vị, hương thơm hoa đẹp, hương thoa, hương bột, tràng phan, âm nhạc, rồi cùng nhiều quyến thuộc đến đứng giữa đường chờ đón đức Thế Tôn.
Bấy giờ Diệu Quang Tràng Như Lai ngự tại đại tụ lạc Bán-già-la cùng với đại chúng hội nói Pháp giáo hóa. Ở trước mặt đại chúng thoạt hiện bảy báu làm thành bình Tần-già cùng với cây xỉ mộc. Khi ấy đức Thế Tôn thấy rồi mỉm cười, liền duỗi cánh tay màu vàng ròng được trang nghiêm bằng trăm ngàn phước, lấy cái bình Tần-già với cây xỉ mộc, rồi lặng yên an trụ. Bấy giờ khi nhìn thấy việc này rồi, đại chúng đều sinh tâm lạ kỳ khen chưa từng có, nói điềm lành này hiện ra, chưa biết phương nào để nghinh thỉnh Thế Tôn.
Lúc ấy trong chúng có một vị đại Bồ-tát tên là Diệu Thanh Tịnh Huệ đến nơi Phật ngự, đầu mặt sát đất, lễ bàn chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi bạch Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn! Điềm lành này từ đâu mà đến? Hiện ra bình nước Tần-già với cây xỉ mộc để phụng thỉnh Thế Tôn!”
Phật dạy: “Bình Tần-già này với cây xỉ mộc đến từ đại thành Bà-tra-ly Tử.” Lại bảo Diệu Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát rằng: “Ông có thể đem đồ hành trù tùy tùng theo hầu ta, dùng đại thần lực, sáng sớm ngày mai vào đại thành Bà-tra-ly Tử.”
Khi nghe lời đó xong, Diệu Thanh Tịnh Tuệ đại Bồ-tát tìm các thứ hành trù, rồi bảo các chúng Thanh văn, chúng Bồ-tát có đại thần thông, hay làm ra các cảnh thần thông, có thể thọ trù, sáng sớm ngày mai vào thành Bà-tra-ly Tử. Bấy giờ Diệu Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát biến các thứ hành trù rồi, liền thỉnh đức Thế Tôn.
Khi ấy vào lúc sáng sớm đức Thế Tôn chỉnh trang y phục, dùng đại oai uy nghiêm, đem đại quyến thuộc, dùng đại thần lực du hý gia trì cùng với đại chúng nương theo hư không mà đi. Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người và phi nhơn tấu đại âm nhạc, đem mọi thứ hương hoa, hương thoa, hương bột, y phục nghiêm sức đầy đủ, ở trong hư không, cúng dường Như Lai.
Do thần thông của đức Phật nên trong chốc lát đã đến đại thành Bà-tra-ly Tử, từ hư không hạ xuống nơi có đại mạn-đà-la rộng rãi nghiêm tịnh, ngồi tòa sư tử. Đại chúng kia mỗi mỗi đều tự nương theo hóa cung điện mà đến ngồi trong hội này. Lúc ấy mọi người trong thành, do sức oai thần của Phật, đều mọi thứ cúng dường đức Thế Tôn với các Bồ-tát, Thanh Văn, tám bộ Trời rồng. Đức Thế tôn biết đã đến giờ ăn, liền cho hết thảy ngồi ăn, các món ẩm thực thơm ngon mỹ vị, tùy ý đầy đủ.
Khi đại chúng ăn xong, rửa tay súc miệng, sửa lại y phục, dùng đại thần thông nhiễu quanh ba vòng để cúng dường, rồi lần lượt ngồi ở trước Phật, liền đem việc trên mà bạch Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, ở ngoài cửa Đông của thành này có khu vườn tên là A-tô-ly, trong khu vườn ấy có một nữ La-sát tên là Hoa A-tô-ly, tính tình bạo ác, thường đoạt tinh khí của kẻ nam người nữ, đồng nam, đồng nữ. Ngày đêm thường ôm tâm hãm hại. Cúi mong đức Thế Tôn mở bày phương tiện để trừ bỏ tai hại ấy.”
Khi ấy Diệu Quang Tràng Như Lai an ủy đại chúng, lặng thinh an trụ, vẻ mặt mỉm cười. Từ diện môn của đức Phật phóng ra các hào quang sáng, ánh sáng này chiếu diệu ba ngàn đại thiên thế giới, và chiếu đến vườn A-tô-ly của nữ La-sát cùng trăm ngàn quyến thuộc. Do oai thần của đức Phật nên khu vườn ấy bị thiêu đốt như một đám lửa. Nữ La-sát và các quyến thuộc chạy trốn khắp bốn phương, buồn than kêu khóc: “Chúng ta biết nương tựa vào ai? Ai sẽ cứu chúng ta?”
Lúc đó trong thành có các Thiên chúng ở trong hư không phát ra tiếng nói, bảo rằng: “Các ngươi có thể đến nơi đức Diệu Quang Tràng Như Lai ngự, cúi đầu quy y, khiến cho các ngươi đạt được sự an vui.”
Bấy giờ nữ La-sát Hoa A-tô-ly ấy cùng với trăm ngàn quyến thuộc vội vã đến nơi Phật ngự, đầu mặt lễ chân Phật rồi bạch Phật rằng: “Cúi mong đức Thế Tôn cứu con! Cúi mong đức Bạc-già-phạm cứu con! Cúi mong đức Tu-già-đà (Sugata:Thiện Thệ) cứu con! Bạch đức Thế Tôn! Từ nay về sau con không dám làm hại các hữu tình, chẳng dám xâm não hữu tình nữa!”
Thời đức Diệu Quang Tràng Như Lai lặng yên chấp nhận, liền nhập vào Bồ-đề Trường Du hý Thần thông Gia trì Tam-ma-địa. Do vào Tam-ma-địa này cho nên chiếu diệu tất cả cõi Phật ở mười phương. Tất cả Như Lai trong cõi ấy thảy đều hiển hiện và vì đại chúng mà diễn nói Pháp âm. Khi đức Diệu Quang Tràng Như Lai nói Bồ-đề Trang Nghiêm đà-ra-ni thì các đức Như Lai trong mười phương thế giới kia đều khen rằng: “Lành thay, lành thay, Diệu Quang Tràng Như Lai khéo nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Giáo Vương khiến điều phục nữ La-sát Hoa A-tô-ly cùng với quyến thuộc, an lập mười nghiệp đạo lành, và khiến cho các nhơn chúng được địa Bất Thoái Chuyển, đặt vào nẻo lành.”
Tức đất của cái thành ấy đều biến thành bảy báu và trời mưa bảy báu. Người dân của cõi Thiệm Bộ Châu đều giàu có an vui. Này đại Bà-la-môn! Ngay tại thời đó, ta là Bà-la-môn đồng tử mới được bảy tuổi, nghe đà-ra-ni này, ở trong Phật giáo được sanh tịnh tín, liền chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề. Đại Bà-la-môn còn do dự sanh nghi, nữ La-sát Hoa A Tô Ly xưa kia đâu phải ai khác mà chính là thân của ông vậy. Bởi vì sao? Vì nữ La-sát Hoa A-tô-ly gây tổn hại cho chúng sanh, không có tâm từ nên phải trải qua vô lượng kiếp bị đọa ở nẻo ác! Đại Bà-la-môn đừng sinh nghi hoặc! Những người trong thành Ba-tra-ly Tử xưa kia, nay là Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, đến vân tập tại đây vậy. Vậy đại Bà-la-môn, hoặc sinh do dự, hoặc sinh nghi hoặc, đương thời lúc đó, trăm ngàn quyến thuộc của nữ La-sát không làm những điều chính kiến như thế, vì vậy hôm nay họ ở trong tập hội của ta, thì họ chính là nhóm Bà-la-môn, Sát-lợi, Phạm Chí, Ni-kiền-tử với các ngoại đạo khác như Hý Luận Huyễn Thuật, ở trong thi lâm mặc nạp y, trì Ngưu giới, hoặc ở trong hang núi trì cấm giới vậy.”
Khi ấy đức Thích Ca Mâu-ni Như Lai nói nhơn duyên xưa xong, liền lẳng lặng an trụ. Thời tất cả đại chúng nghe nhơn duyên xa xưa này đều sanh tâm đặc biệt lạ kỳ, đem mọi thứ hương hoa, hương thoa, hương bột, tràng hoa, y phục, tràng phan đi đến nơi đức Thế tôn ngự mà làm lễ cúng dường, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, đầu mặt sát đất lễ bàn chân Phật mà thưa rằng: “Cúi mong Thế Tôn nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Giáo Vương. Cúi mong đức Thế Tôn nói cho! Cúi mong đức Tu-già-đà nói Đại Minh Vương này, khiến cho tất cả hữu tình được đại quang minh, hay mãn các nguyện của tất cả hữu tình ở đời mạt thế.”
Lúc đó nghe đại chúng thỉnh xong, đức Thế Tôn mặc nhiên an trụ nhận lời thỉnh cầu và mỉm cười. Sau khi mỉm cười thì nơi diện môn của Ngài phóng ra các hào quang chiếu diệu mười phương thế giới. Chiếu diệu xong thì tất cả chư Phật trong thế giới ấy thảy đều hiển hiện, lại nghe các Như Lai ấy nói các Pháp ngữ. Ở trong khu đất này liền sanh cây bảy báu. Rễ, cành, nhánh, lá, hoa, quả của cây ấy rất thù thắng, mầu nhiệm của cõi Trời, lòng ý ưa thích thọ dụng an vui , ở cõi Thiệm Bộ Châu, cây ấy hiện đại du hí thần thông gia trì.
Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát thấy thần thông này và thấy đức Như Lai mỉm cười, liền đến nơi Phật ngự, đầu mặt lễ chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, chắp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Cúi mong ngài nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Giáo Vương! Cúi mong đức Thiện Thệ nói để cho tất cả hữu tình được lợi ích lớn, trồng và nuôi lớn tất cả hạt giống căn lành.”
Khi ấy đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai nhận lời thỉnh cầu của Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát, ngài liền nhập vào Quán Phật Tam-ma-địa. Do vừa vào Tam-ma-địa này, trong khoảng sát-na thấy tất cả sát độ của chư Phật trong mười phương thế giới ở như một đường tên bay, thấy 90 câu-chi trăm ngàn Hằng hà sa số chư Phật ở mười phương thế giới ấy đều đến tập hội, đồng thanh khen đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai rằng: “Lành thay, lành thay! Thích-ca Mâu-ni Như Lai khéo nói đà-ra-ni Giáo vương này! Tất cả Như Lai đời quá khứ đã nói, thảy đều gia trì tùy hỉ. Kính mong đức Thế Tôn rộng vì tuyên nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Pháp yếu đại Giáo vương Nghi quỹ !”
Lúc đó Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát lấy pháp giới đã sanh của Như Lai chứa đầy trong cái bát, rồi dùng hai tay nâng bát phụng hiến Như Lai. Bấy giờ Thích-ca Mâu-ni Như Lai duỗi cánh tay sắc vàng nhận bát của Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát, nhận xong liền ném lên không trung. Trong khoảng sát-na, cái bát ấy tràn đầy khắp hư không, đầy pháp giới xá-lợi, hình tượng của Như Lai tràn khắp hư không của ba ngàn đại thiên thế giới. Các đức Như Lai kia đều cùng nhau khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni rằng: “Lành thay, lành thay Thích-ca Mâu-ni Phật!” Thấy trước mặt tất cả Như Lai ấy đều có đức Thích-ca Mâu-ni và đại chúng hội. Ở trước mặt mỗi đức Thích-ca Mâu-ni Phật lại có Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát dâng hiến cái bát mãn đầy pháp giới, hiện đại thần thông, hiện đại thần biến.
Lúc bấy giờ Đại Kim Cang Thủ Bồ-tát bạch Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát rằng: “Thật lạ kỳ đặc biệt thay Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát! Như Lai thần biến đã hiện ra trong đại chúng hội. Nay tướng ánh sáng ấy là ai hiện ra? Do nhơn duyên gì? Là oai thần của ai mà hiện tập hội hình tượng của đại Như Lai?”
Văn-thù-sư-lợi nói: “Kim Cang Thủ! Ông há chẳng biết thần biến hiện ra tướng ánh sáng này sao?” Kim Cang Thủ nói: “Văn-thù-sư-lợi! Xưa kia tôi chưa từng thấy nghe đại thần thông, tất cả Như Lai tập hội như vậy. Đây là điều hiếm có, chưa từng thấy nghe, nay mới được thấy.”
Lúc đó Kim Cang Thủ Bồ-tát Ma-ha-tát cầm chày kim cang, nhiễu quanh đức Thế Tôn theo bên phải, rồi dừng trước Phật mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn muốn nói Pháp gì, nay hiện tướng mà con chưa từng thấy nghe. Nơi thế gian hiện rõ ràng tướng đại thần thông!”
Đức Phật nói: “Kim Cang Thủ hãy chờ chốc lát, sẽ tự chứng thấy.”
Trong khoảng sát-na, trước mặt đức Phật, đột nhiên có cây cột bảy báu từ dưới đất vọt lên, cao bảy ngàn du-thiện-na, rộng năm ngàn du-thiện-na, rực rỡ ánh sáng trang nghiêm màu nhiệm của cõi Trời, rũ treo tơ lụa nhiều màu xinh đẹp, màn lưới chơn châu phủ che bên trên. Linh lạc khua rung phát ra âm thanh hòa nhã, vòng hoa trang nghiêm. Vô lượng câu-chi trăm ngàn Thiên tử từ trên không hạ xuống, cầm những thứ bảy báu, vật dụng cúng dường để cúng dường cây bảo tràng.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bồ-tát rằng: “Ông có thể đến mở cửa của tràng.”
Khi ấy khắp thân của Kim Cang Thủ Bồ-tát tỏa ra hào quang sáng chói như đám lửa rực rỡ, đầu đội mão anh lạc nghiêm thân, cầm chày kim cang, diện mạo phẫn nộ khiến người sợ hãi, đến gần bảo tràng, duỗi cánh tay phải mở cửa của bảo tràng ấy. Mở cửa bảo tràng xong. Ở trong bảo tràng ấy có tòa sư tử, tòa ấy làm bằng vàng của cõi Diêm Phù Đề tạo thành, bảy báu trang nghiêm, dùng các thứ y phục mầu nhiệm của cõi Trời mà trải trên tòa ấy. Quảng Bác Kim Khẩu Cao Dũng Quang Minh Tràng Đảnh Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri, Như Lai hiện ngồi nhập Tam-ma-địa ở trên tòa ấy.
Bấy giờ Quảng Bác Kim Khẩu Cao Dũng Quang Minh Tràng Đảnh Như Lai khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni Phật rằng: “Lành thay, lành thay! Thích-ca Mâu-ni Như Lai ở trong thế gian hiện đại thần biến, hiện đại Như Lai tập hội. Kính mong Thế Tôn nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Giáo Vương này cho nhiều người được lợi ích an vui. Mong ngài xót thương! Đây là thần thông du hý tập hội hình tượng của Như Lai hiện ra tướng bảo tràng này, đều là do oai lực của Bồ Đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni. Hiện thần biến này cũng do đà-ra-ni này gia trì mà hiện ra điềm lành ấy trước. Kính mong Thế Tôn nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Đại Giáo Vương.”
Bấy giờ đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai nhận lời thỉnh cầu của Quảng Bác Diện Kim Khẩu Cao Dũng Quang Minh Tràng Đảnh Như Lai, liền nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni rằng:
Nẵng mô bà nga phạ đế, vĩ bổ la, phạ na nẵng, kiến tán nỗ đắc cật sử bát đa, bát ra bà ta kế đổ, mẫu la đa ninh, tát phạ đát tha nghiệt đá tả Nẵng mô bà nga phạ đế, xả chỉ dã mẫu nẵng duệ, đát tha nghiệt đa dạ, ra hạ đế, tam miểu tam một đà dã Đát nễ dã tha Úm mạo địa, mạo địa, mạo địa, mạo địa Tát phạ đát tha nghiệt đa ngu giả la, đà la đà la, ra hạ ra hạ, ra bát la hạ ra bát la hạ, la ma hạ mạo địa tức đa đà la, chủ lô chủ lô, xả đát la thấp nhị, tán tổ nễ đế Tát phạ đát tha nghiệt đa tỳ sắc ngật đế, ngu niển, ngu nỏa phạ đế, một đà ngu nỏa phạ bà tế, nhĩ lý nhĩ lý, nga nga nẵng đát lệ Tát phạ đát tha nghiệt đa, địa sắt sỉ đế, nẵng bà nghiệt đa lệ, xả ma xả ma, bát la xả ma bát la xả ma Tát phạ bá bả, bát la xả ma ninh Tát phạ bá bả, vĩ du đà ninh Hổ lô hổ lô, ma hạ mạo địa, mạt nga, tam bát la tất thể đế Tát phạ đát tha nghiệt đa, bát la đế sắt sỉ đa thuật đệ, ta phạ ha.
Đức Thích-ca Mâu-ni Phật vừa nói Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Đại Giáo Vương này xong, tất cả chư Phật ở mười phương đều khen rằng: “Lành thay, lành thay!” và tất cả Như Lai đã hiện đều xưng rằng: “Lành thay, lành thay! Thích-ca Mâu-ni Như Lai khéo nói đà-ra-ni Giáo Vương này lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.”
Lúc đó đại địa chấn động theo sáu cách, tuôn mưa các thứ hoa, mưa hương thoa, hương bột, y phục, vật dụng trang nghiêm, chân châu đầy đủ, vòng xuyến đeo tay, mão đội trên đầu, anh lạc. Chư Thiên ở không trung tấu các thứ âm nhạc phát ra âm thanh vi diệu. Tuôn mưa các thứ hoa như: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Lô-giá, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, hoa Tô-ma-na, hoa Bà-lợi-sư-ca, hoa Chiêm-bặc, hoa Tao-kiền-địa… dùng mọi thứ hoa để cúng dường đức Phật. Nay ở trong đại tập hội này của Như Lai, nghe đà-ra-ni xong, có vị hoặc chứng đắc quả A-la-hán, hoặc chứng quả Duyên giác Bồ-đề, hoặc có kẻ chứng Tư-đà-hàm, hoặc chứng quả A-na-hàm, hoặc chứng quả Tu-đà-hoàn, hoặc có kẻ trụ tâm Bồ-đề, hoặc có kẻ được địa Bất Thoái Chuyển, hoặc có kẻ được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc có kẻ được quả báo sanh về cõi Trời, hoặc có kẻ tại địa ngục chịu các khổ não nay thảy đều giải thoát. Hoặc có kẻ sanh ở cõi Diêm-ma, hoặc sanh ở nẻo bàng sanh, hoặc sanh ở nẻo ngạ quỷ, những chúng sanh này thảy đều được giải thoát, an trú nơi Phật đạo. Ở cõi Diêm Phù Đề này thị hiện mọi thứ thần thông lớn, chúng sanh của thế giới ấy đều vui mừng, người dân đầy đủ, giàu có, an vui.
Khi ấy, Kim Cang Thủ Bí mật Chủ đảnh lễ chân Phật rồi chắp tay bạch Phật rằng: “Rất là khó được nghe Đức Thế Tôn nói đà-ra-ni Giáo Vương này. Nếu có Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, kẻ trai lành, người gái tín nghe đà-ra-ni này, thọ trì, đọc tụng, vì người khác tuyên nói, như lý tác ý … thì được bao nhiêu phước báo đã thành tựu?”
Phật dạy: “Lành thay, lành thay! Kim Cang Thủ Đại Bí mật Chủ khéo hỏi nghĩa mầu như thế! Lời hỏi này rất đoan nghiêm, hỏi rất mầu nhiệm lành tốt. Này Kim Cang Thủ! Ông có thể đi đến hỏi Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, vị ấy sẽ vì ông rộng phân biệt nói.”
Bấy giờ Kim Cang Thủ liền đến chỗ Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, nhiễu quanh Văn-thù-sư-lợi theo bên phải rồi bạch rằng: “Nếu có người thọ trì đọc tụng, vì người khác tuyên nói, tác ý như lý Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni này thì được bao nhiêu phước báo?”
Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát bảo Kim Cang Thủ rằng: “Hãy lắng nghe, nay tôi dùng ví dụ để nói. Hết các chốn của ba ngàn đại thiên thế giới có bao nhiêu đất đai, núi, sông, gò đồi, đập nát thành trăm phần, ngàn phần cho đến nhỏ như sợi lông, thì chẳng có bụi nhỏ nào mà tôi chẳng thấy vòng khắp. Tôi lại dùng thiên nhãn quán Xá-lợi thân phần của Như Lai cũng khắp tất cả chỗ. Tất cả thân phần Xá-lợi của Pháp thân Như Lai, Xá-lợi của pháp giới, Xá-lợi xương, Xá-lợi thịt nhỏ như một hạt cải, khắp cõi không giới, thì không có gì mà tôi không thấy. Hoặc có người đủ đại oai đức thần thông có thể tính đếm, quan sát đo lường mà có thể biết số lượng ấy. Kim Cang Thủ, người ấy ắt phải là bậc trí tuệ, là bậc thông triết chứ gì?”
Kim Cang Thủ nói: “Văn-thù-sư-lợi, người ấy rất đặc biệt, hiếm có.” Văn-thù-sư-lợi lại bảo: “Kim Cang Thủ hãy lắng nghe! Số xá-lợi như bụi nhỏ bên trên, nếu quan sát đo lường thì có thể biết số ấy. Lại nữa Kim Cang Thủ, tất cả hạt bụi nhỏ, tất cả thân phần Xá-lợi dựa theo số như trên. Hạt bụi nhỏ dựa theo số như trên mà tính số lượng Xá-lợi của Như Lai. Hoặc trụ một kiếp, hoặc hơn một kiếp, hoặc cả ngàn kiếp để khen ngợi công đức của Bồ Đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Giáo Vương này, thì cũng chẳng thể ví dụ ước tính so lường cho hết số lượng công đức ấy. Kim Cang Thủ! Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Giáo Vương này có oai đức lớn như vậy. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, vì người khác tuyên nói, cúng dường kinh quyển, nên biết người đó thu hoạch vô lượng vô biên công đức chẳng thể tính xiết cùng tận được.”
Tất cả đại chúng tập hội như Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cùng với những hữu tình trong chúng theo Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát, nghe công đức đã nói này đều được địa vị Bất thoái chuyển Vô thượng Bồ-đề, nghĩa là được thọ ký quả vị Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, thảy đều cùng nhau “Tam-độ-ốt-đà-nẫm” tán thán:
“Nam mô quy mạng Thích-ca Mâu-ni Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Phật, Thế Tôn! Nam mô quy mạng Kỳ Đặc Thần Thông Phật, Thế Tôn! Nam mô quy mạng Tác Kỳ Đặc Nghiệp Phật, Thế Tôn!”
Bấy giờ Kim Cang Thủ Đại Bí mật Chủ bạch Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát rằng: “Làm sao đối với Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Đại Giáo Vương này mà gieo trồng được căn lành?” Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát nói: “Này Kim Cang Thủ! Nghĩa này nên hỏi đức Như Lai. Đức Như Lai ắt biết nghĩa đó.”
Tức thì Kim Cang Thủ Bí mật Chủ đến nơi Phật ngự, nhiễu quanh đức Phật ba vòng rồi bạch Phật rằng: “Làm sao đối với Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni Đại Giáo Vương này mà gieo trồng được căn lành?”
Đức Phật bảo: “Này Kim Cang Thủ, nay ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói pháp gieo trồng căn lành của đà-ra-ni này. Kim Cang Thủ! Nếu có kẻ trai lành, người gái tín muốn cầu gieo trồng căn lành, tu tư lương của đạo Vô thượng Bồ-đề thì Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hoặc kẻ trai lành, người gái tín có tâm lành có lòng tin trong sạch ấy nên thọ trì đà-ra-ni này, vì đây là nơi tích tụ căn lành. Nếu kẻ trai lành, người gái tín, hoặc Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có niềm tin trong sạch, nên tắm gội sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, dùng Cù-ma-di hòa với đất thoa đắp một mạn-đà-la vuông. Rải tán năm thứ tịnh, tùy sức mà rải hoa, đốt hương cúng dường. Tụng Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni gia trì vào nước thơm bảy biến rồi tắm rửa hình tượng của đức Phật, lại gia trì vào bạch đàn hương rồi thoa trên tượng. Lại gia trì vào uất kim hương thoa trên ấy. Tùy sức cúng dường, nhiễu quanh lễ bái. Đối trước tượng Phật, tụng một biến thì thắp một chén đèn. Kim Cang Thủ, nay ta nói kẻ ấy tức là gieo trồng căn lành.
Kim Cang Thủ, nay ta dùng ví dụ mà nói: Đại Long Vương trong ba ngàn đại thiên thế giới tuôn xuống những hạt mưa phùn rất nhỏ, giả sử có một người có đại thần lực có thể tính đếm được những hạt mưa ấy. Ta lại lấy một ví dụ nữa: kẻ đó có thể tính đếm được số lượng ấy, hoặc có kẻ trai lành, người gái tín, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thừa sự lễ bái cúng dường chỗ của đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nhiều lần như số những hạt mưa kể trên, hoặc trong một kiếp, hoặc hơn một kiếp cho đến trăm kiếp, phát sanh bao nhiêu công đức tích tụ như vậy, thì đều có thể đếm biết được. Còn công đức phát sanh khi tắm tượng Phật, gieo trồng căn lành như trên đã nói, thì tất cả Như Lai chẳng thể biết được số lượng ấy!
Lại nữa Kim Cang Thủ, nay ta nói về phước đức so sánh thứ hai, chỉ dùng chút nhơn duyên căn lành mà có thể thành tựu quả báo căn lành rộng lớn. Chép viết Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni này trên vỏ cây hoa, hoặc đặt trong Kim cang xử, hoặc để trong tượng Phật, hoặc trong tượng vẽ, hoặc để trong ấn tháp, hoặc để trong Suất-đổ-ba (tháp nhiều tầng), tùy theo một việc an trí đà-ra-ni này, tức thành tựu trăm ngàn việc khác. Nếu để trong một Suất-đổ-ba thì kẻ trai lành, người gái tín ấy tức cũng như kiến tạo trăm ngàn Suất-đổ-ba. Người ấy thu hoạch được công đức tạo tháp như vậy. Kim Cang Thủ, nếu có Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, kẻ trai lành, người gái tín, ở ngã tư đường, hoặc đỉnh núi cao, hoặc bên bờ sông, hoặc ở cửa thành, hoặc nơi vương đạo lộ, làm một cái Suất-đổ-ba lớn, viết chép đà-ra-ni mà Kinh này nói, đặt ở trong tướng luân đường. Như ta đã nói ví dụ như trên, về số lượng Xá-lợi như bụi nhỏ của Pháp thân, pháp giới Xá-lợi, Xá Lợi xương, Xá-lợi thịt đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, thì kẻ trai lành, người gái tín kia liền thành tựu việc kiến tạo một số lượng Suất-đổ-ba ngang bằng với số lượng Xá-lợi nhiều như bụi nhỏ đã nói như trên, tức thành tất cả Như Lai Xá-lợi Tạng Suất-đổ-ba, tức thành Phật mạn-đà-la Suất-đổ-ba, tức thành tất cả Như Lai Tạng tháp. Đây là lời thành thật Như Lai nói lên sự thọ ký riêng biệt như vậy.
Kim Cang Thủ, nếu có kẻ trai lành, người gái tín đối với cái tháp đã được Như Lai thọ ký riêng ấy, mà cúng dường hoặc hương hoa, hoặc chắp tay cúi đầu làm lễ, hoặc nhiễu quanh một vòng, thì kẻ trai lành, người gái tín, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kia tức đã gieo trồng vô lượng vô biên căn lành, tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. đều được giải thoát tất cả địa ngục, bàng sanh; chứng được Bất thoái tướng Trang nghiêm Tam-ma-địa, thân được thanh tịnh cho đến Bồ-đề Trường, tất cả căn lành không có cùng tận, lại chẳng sanh lại trong thai của mẹ. Kim Cang Thủ, đà-ra-ni này rất khó được nghe. Kim Cang Thủ, nếu có người tạo hình tượng Phật, hoặc bằng bùn đất, hoặc vẽ, hoặc bằng gỗ, hoặc bằng vàng chạm trổ, hoặc dùng bùn thơm, hoặc dùng du thạch, hoặc dùng đồng tốt, hoặc dùng ba thứ kim loại quí như vàng, bạc, đồng, hoặc sắt, hoặc bạc, hoặc vàng tạo Suất-đổ-ba; hoặc giấy, hoặc lụa viết chép đà-ra-ni và công đức kinh này rồi để trong tháp Xá-lợi và trong tượng Phật, cần phải cúng dường lễ bái. Kim Cang Thủ, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, kẻ trai lành, người gái tín ấy, nếu lấy ví dụ số lượng trước kia của Như Lai để so lường, nếu lấy số lượng công đức để so lường, nếu dùng mắt Phật quan sát số lượng Xá-lợi, nếu lấy số lượng giọt nước trong đại hải mà so lường, thì ngang bằng số lượng của hình tượng Như Lai. Nếu có Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, kẻ trai lành, người gái tín đặt đà-ra-ni này ở một tượng Phật, hoặc trong một cái tháp rồi cung kính cúng dường lễ bái, thì người đó tức thành cúng dường lễ bái số lượng hình tượng Phật như vừa kể, đồng thời đạt được phước đức tích tụ như đã nói.”
Bấy giờ Kim Cang Thủ Bí mật Chủ bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Đại đà-ra-ni Giáo Vương này có đại oai đức, có đại phước lợi, có đại thần thông. Người vừa mới xưng tên đều được căn lành lớn, thành tựu phước lớn.”
Khi ấy đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí mật Chủ Bồ-tát rằng: “Này Kim Cang Thủ, nếu có Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, kẻ trai lành, người gái tín muốn có đủ nhóm công đức to lớn ấy, nếu muốn cúng dường tất cả chư Phật Như Lai của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai thì nên viết chép hết đà-ra-ni Kinh này, đặt trong cái tráp, ngày ngày cúng dường và dùng nước thơm tắm rửa, nhiễu quanh, lễ bái. Kẻ trai lành, người gái tín, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ấy, đối với hết thảy Như Lai ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai như số lượng đã ví dụ trước kia, thảy đều thành tứ sự cúng dường. Nên biết kẻ trai lành, người gái tín ấy được tất cả Như Lai gia trì, là nơi thọ ký của tất cả Như Lai, tất cả Như Lai đều an uỷ. Người ấy được bất thoái chuyển.”
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát và Kim Cang Thủ Bí mật Chủ Bồ-tát, cùng Tứ Đại Thiên Vương rằng: “Nay ta phó chúc đà-ra-ni Giáo vương này cho Phật tử các ông. Vào thời mạt thế sau này, các ông nên lưu truyền đừng để cho ẩn mất. Nên hộ trì cho hữu tình nào thọ trì kinh này, ủng hộ trưởng dưỡng. Đem mỗi một chân ngôn, nghi quỹ, ấn khế của mình gia trì ban cho người ấy.”
Khi ấy Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát, Kim Cang Thủ Đại Bí mật Chủ Bồ Tát với Tứ Đại Thiên Vương từ tòa đứng dậy, đầu mặt lễ chân Phật mà nói rằng: “Thế Tôn, chúng con xin thọ lãnh kim ngôn của Như Lai phó chúc đà-ra-ni Đại Giáo vương này. Chúng con sẽ giữ gìn thủ hộ kẻ đại trượng phu nào thọ trì đà-ra-ni này, không để cho người ấy thiếu thốn tất cả vật dụng cần thiết. Thảy đều cứu giúp kẻ không có nơi nương tựa, cho đến Bồ-đề trường chuyển bánh xe Pháp, chúng con thảy đều hộ trì.”
Lúc ấy đức Thế Tôn khen Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát, Kim Cang Thủ Đại Bí mật Chủ Bồ-tát, và Tứ Đại Thiên Vương rằng: “Lành thay, lành thay! Các ông cần phải làm việc như vậy!”
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng: “Đà-ra-ni này hay hoàn thành tất cả sự nghiệp, hay ban cho tất cả tất địa, hay tiêu diệt tất cả tội chướng, ra làm tất cả sự nghiệp đều thông đạt vô ngại. Nên giữ cho thân khí trong sạch, tắm rửa sạch sẽ, mặc y mới sạch, mỗi ngày tụng 108 biến tức thấy tất cả chư Phật, viễn ly tất cả bệnh tật, được tất cả Hiền Thánh thường theo ủng hộ. Kim Cang Thủ Bí mật Chủ, Tứ Đại Thiên Vương cũng thường theo ủng hộ, tất cả ý nguyện đều được đầy đủ, sau khi chết sẽ sanh về thế giới Diệu Hỷ, chẳng ở trong thai mẹ sanh ra, thường được hoa sen hóa sanh, đắc Túc mệnh trí. Nếu tụng 21 biến, sẽ xa lìa nghiệp quyết định ở địa ngục, tất cả tội thảy đều trừ diệt, quyết định chẳng bị rơi vào nẻo ác, ở trong các oán địch đều đắc thắng. Nếu tụng bảy biến thì tất cả đấu tranh, ngôn tụng, luận lý đắc thắng. Nên vào ngày 15 của kỳ bạch nguyệt, một ngày một đêm không ăn, tắm rửa trong sạch, mặc y sạch mới, ngồi kiết già trước tượng Phật, dùng hương hoa, đèn sáng cúng dường đức Thế Tôn, tụng Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni này một ngàn biến. Đủ một ngàn biến xong liền thấy đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai duỗi cánh tay màu vàng ròng xoa đảnh đầu của hành giả mà an ủy, khen rằng: “Lành thay, lành thay đại trì minh đại trượng phu! Ông đã tác pháp Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni thành tựu. Ông, người trì minh, nên đại dũng tinh tấn. Ông đã làm việc siêng năng cần khổ đó, đã viên mãn nhiều căn lành, muốn về thế giới của Phật nào thì tùy theo nguyện mà về.”
Người trì minh ấy, thân có hào quang rực rỡ chiếu diệu, thành tựu tất cả giáo pháp chân ngôn. Từ đó ngày ngày mãn tất cả nguyện. Do tác pháp này nên thành tựu tiên hạnh. Giả sử hành giả có phạm năm tội vô gián, do một ngày một đêm nhịn ăn, niệm tụng thì tội ấy thảy đều tiêu diệt, đời này được thành tựu. Nếu ở nơi tháp Xá-lợi, vào ngày 14 của tháng, một ngày một đêm chẳng ăn, tắm rửa sạch sẽ, mặc y mới sạch, dùng vật khí bằng đồng tốt chứa đầy hạt cải trắng, tụng đà-ra-ni này gia trì một ngàn biến, tức pháp thành tựu, sẽ ứng dụng được tất cả chỗ.
Lấy một nắm hạt cải trắng rải tán ở trong ao rồng, tất cả rồng liền vui vẻ tùy thuận người trì tụng. Nếu người trì tụng muốn vào Long cung, thời Long vương hứa cho vào, thảy đều tiếp đón lễ bái người trì chú một cách nồng hậu, người ấy đi đến xứ nào thảy đều phụng giáo.
Lấy hạt cải trắng ném vào hư không thì sương muối, mưa đá liền ngưng, cũng có thể chận đứng gió bão.
Nếu ném hạt cải trắng rải tán bốn phương thì tất cả gió mây, muỗi mòng, các thứ chim bất tường như cú, vọ, các loài trùng bọ, cào cào, châu chấu, những trùng thú bạo ác …vv, thảy đều bị cấm khẩu.
Nếu lấy hạt cải trắng ném vào trong lửa thì lửa chẳng thể thiêu đốt, ném vào sông nước thì dòng nước chẳng tuôn chảy, ném vào trong đồ vật đi buôn thì chẳng bị giặc cướp, chẳng nhìn thấy bọn ấy.
Nếu ném ở cửa cung của vua thì quốc vương, đại thần, hậu cung đều khiến vui vẻ; ném ở đại chúng thì đại chúng đều cùng cúng dường người ấy; ném vào đất địch thì địch quân ấy liền bị cấm chỉ; ném nơi cửa ải có lính canh giữ thì có thể ẩn thân mà đi qua.
Nếu rải tán trên lúa mạ thì chẳng bị sâu trùng làm tổn thương; nếu trời hạn hán thời ném ở ao rồng, tức giáng mưa lớn; nếu mưa mạnh bạo thời ném ở không trung, thì mưa rất mạnh bạo ấy liền dứt.
Nếu ném vào nhà của oan gia thì họ không còn hận nữa.
Nếu ném ở cửa thành, bên trong thành thì tất cả bức bách thảy đều tiêu diệt, tất cả Dạ-xoa, La-sát đều bỏ chạy mất.
Nếu lúc chiến đấu thời rải ném địch quân, chúng liền bị cấm chỉ, quân của ta được thắng. Nếu ngậm trong miệng thì tất cả đấu tranh, ngôn tụng, luận lý đều đắc thắng.
Nếu bỏ trong nước rồi cho người bệnh tắm rửa thì tất cả bệnh tật đều được trừ khỏi. Nếu có người bị bệnh quỷ mỵ, lấy hạt cải trắng hòa với đường cát rồi thiêu xông người bệnh, liền được giải thoát tất cả quỷ mỵ.
Nếu có dịch bò, hoặc người bị dịch, hoặc đồng nam đồng nữ bị dịch, ở ngã tư đường, lấy hạt cải trắng hòa với đất rồi thiêu đốt thì tất cả bệnh dịch thảy đều chấm dứt.
Nếu rải tán ở tất cả nơi trong tóc trên đầu của mình, sẽ được người cúng dường, tất cả người nhìn thấy đều sanh yêu mến.
Nếu người trì tụng từ ngày 14, dùng hai tay đè chân của tượng Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, từ đầu hôm cho đến hết ngày rằm, sáng chiều niệm tụng không gián đoạn thì Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát hiện thân đứng trước mặt hành giả, tất cả ý nguyện đều được viên mãn.
Nếu đè lên bàn chân của Kim Cang Thủ Bồ-tát, tụng đà-ra-ni gia trì 1008 biến, hòa an tức hương với bơ thiêu đốt thì Kim Cang Thủ Bồ-tát liền hiện ở trước mặt, tất cả ý nguyện, mọi việc đều được thành tựu, trao giáo pháp chân ngôn cho người ấy, dưỡng dục như con của mình.
Lại có pháp: Lấy hai tay đè lên chân của Ma-ni-bạt-đa-la Dược-xoa, tụng đà-ra-ni 1008 biến sẽ được tài bảo rộng lớn, liền hiện thân ấy, lời đã nói ra liền làm theo.
Nếu dùng tay đè trên đảnh của Tỳ-sa-môn, đốt hương trầm thủy, tụng đà-ra-ni 80 biến, liền được một ngàn đồng tiền vàng.
Nếu quán gương mặt của Cát Tường Thiên nữ, tụng đà-ra-ni 1008 biến sẽ được một ngàn đồng tiền vàng.
Lại có pháp: Nếu vẽ Dược-xoa, dùng năm màu mà họa thành, tụng đà-ra-ni 1020 biến, thiêu hương Tát-lạc-chỉ (huân lục hương) thì nữ Dược-xoa hiện thân trước người trì chú, thề làm nữ sứ giả, những việc làm đều hoàn thành, cho đến bảo vệ tánh mạng, hoàn thành trăm ngàn loại việc, thành tựu tất cả nghĩa lợi.
Nay ta nói pháp họa tượng, hay thành tựu tất cả:
Lấy một mảnh lụa trắng không được cắt nối (nguyên khổ), dài bốn thước. Dùng màu sắc đẹp tươi, không được dùng keo nấu bằng da thú. Người vẽ phải thọ tám giới thanh tịnh, sau đó mới được họa. Chính giữa vẽ Thích-ca Mâu-ni Phật ngồi trên tòa sư tử đưới gốc cây báu. Ở phía trên Thích-ca Mâu-ni Phật lại vẽ một đức Phật đang thuyết Pháp. Cây Bồ-đề kia có mọi loại báu trang nghiêm. Bên tả Thích-ca Mâu-ni vẽ thánh Văn-thù-sư-lợi với các thứ báu anh lạc trang nghiêm, quỳ hai gối ngồi trên hoa sen, hai tay nâng cái bát theo thế hiến Phật. Bên hữu đức Phật, vẽ thánh Kim Cang Thủ Bồ-tát với diện mạo phẫn nộ, tướng giận dữ, tất cả báu nghiêm thân, tay cầm chày kim cang làm thế triền chuyển, quỳ hai gối trên hoa sen, chiêm ngưỡng đức Như Lai. Phía sau Văn-thù-sư-lợi, vẽ bảo tràng trang nghiêm giới đạo rộng lớn. Ở trong bảo tràng, vẽ đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử, tác tướng an ủy. Phía sau Kim Cang Thủ, vẽ cái tráp đựng kinh Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni, đặt ở trong bảo tràng. Vòng quanh bốn mặt của tràng, vẽ đức Phật an trí trên tòa sư tử. Ở bên dưới bảo tràng, vẽ Kim Cang Sứ giả, ra vẻ oai nộ. Phía bên dưới bảo tràng, vẽ Cát Tường Thiên nữ. Ở bên dưới giữa Phật đường, vẽ Tứ Đại Thiên Vương đều mặc giáp trụ, hình tướng ra vẻ oai nộ. Phía dưới Thiên Vương, vẽ người trì tụng với tay trái bưng lò hương, tay phải cầm tràng hạt, ra vẻ niệm chú, nhìn ngắm đức Thế Tôn. Nhờ vẽ tượng này, người nào đáng bị đọa vào nẻo ác, tội phỉ báng Đại thừa Phương đẳng, hủy báng thánh nhơn, năm tội vô gián, thảy đều tiêu diệt, người ấy được địa vị bất thoái chuyển, huống chi kẻ hay tu trì, người ấy ngang bằng với Như Lai.”
Bấy giờ đức Thế Tôn nói pháp kiến lập mạn-đà-la của Bồ-đề Trường Trang nghiêm đà-ra-ni như sau:
Muốn xây dựng mạn-đà-la này, hoặc nơi trong chùa, hoặc ở miếu thờ Trời, hoặc tại rừng núi, hoặc ở nơi thanh tịnh, tùy theo nơi mình thích, y theo giáo, bang bằng mặt đất ấy. Dùng Cù-ma-di hòa với đất gia trì xong, sau đó thoa đắp đàn tràng với chu vi khoảng 16 khuỷu tay (vuông 16 thước mộc Trung Quốc). Người vẽ đàn ấy phải tắm rửa sạch sẽ, sau đó mới nhờ vẽ. Bốn cửa, bốn góc vẽ Tứ Thiên Vương, chính giữa vẽ hình tượng đức Phật, ở giữa cửa vẽ cây báu. Ở cửa Đông vẽ Cát Tường Thiên nữ, cửa Nam vẽ Biện Tài Thiên nữ, cửa Tây vẽ Thương-khí-ni Thiên nữ, cửa Bắc vẽ Hoa Xỉ Thiên nữ.
Vẽ đàn xong rồi, lấy hoa lúa nếp hòa với hạt cải trắng rải tán trên đàn, rải kèm bông hoa, hương thoa, hương bột. Bốn góc để bốn cái bình nước thơm. Lấy bốn vật khí chứa đầy thức ăn uống cúng dường. Bốn cửa an bốn lò hương kèm các thức ăn uống, các thứ vòng hoa với ba món bạch thực. Bốn góc để bốn chén đèn. Người niệm tụng ngồi hướng mặt về phương Đông, đợi đến cuối đêm vào mạn-đà-la, hộ thân kết giới. Vừa vào mạn-đà-la này thì tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả Tất địa đều được thành tựu, tất cả nhóm phước đều được sanh trưởng, đắc được Phật Bồ-đề, xa lìa các nẻo ác, chẳng bị tất cả quỷ thần xâm nhiễu, tất cả chư Thiên thảy đều ủng hộ, ngày đêm thường được an ổn và các trợ bạn được đại ủng hộ. Do vào mạn-đà-la này được địa vị Bất thoái chuyển.
Nay ta nói Tâm đà-ra-ni:
Úm tát phạ đát tha nghiệt đa, vĩ dã phạ lộ chỉ đế, nhạ dã, nhạ dã, ta-phạ ha.
Tâm trung tâm đà-ra-ni:
Úm, hổ rô hổ rô, nhạ dã mục khế, ta-phạ ha.
Tháo dục sái tịnh đà-ra-ni:
Úm, nhạ lý nễ, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Kiết giới đà-ra-ni:
Úm, tam mạn đa bố la-noa, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Kiết mạn-đà-la giới đà-ra-ni:
Úm, mãn noa la, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Cúng dường thực đà-ra-ni:
Úm, tỷ lý, nhĩ lý, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Nghinh thỉnh đà-ra-ni:
Úm, tát phạ tán đà lệ, nhĩ lý, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Cúng dường hoa đà-ra-ni:
Úm, một đà củ tố minh, ta-phạ ha.
Cúng dường thiêu hương đà-ra-ni:
Úm, nhạ dã, hiến đệ, ta-phạ ha.
Quán đảnh đà-ra-ni:
Úm, vĩ nhạ duệ, nghiệt bệ, ta-phạ ha.
Kết đảnh kế đà-ra-ni:
Úm, đát tha nghiệt đa, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Gia trì y phục đà-ra-ni:
Úm, nhạ dã, vật lị đệ, ta-phạ ha.
Hộ đệ tử thân gia trì đà-ra-ni:
Úm, củ la đà lý, ta-phạ ha.
Phụng tống thánh chúng đà-ra-ni:
Úm, đà la đà la, nhĩ lý, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Gia trì niệm châu đà-ra-ni:
Úm, tố tam bà phạ, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Hiến tòa đà-ra-ni:
Úm, tố na lý, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Phược Tỳ-na-dạ-ca đà-ra-ni:
Úm, tô lý, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Nghinh thỉnh nhứt thiết Như Lai đà-ra-ni:
Úm, bát la phạ la, nhạ dã, tất đệ, ta-phạ ha.
Hộ thân đà-ra-ni:
Úm, la khất xoa ni, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Cúng dường đăng đà-ra-ni:
Úm, nhạ dã, nễ tỉ ninh, ta-phạ ha.
Hộ-ma đà-ra-ni:
Úm, ma lê, vĩ ma la, nhạ duệ, ta-phạ ha.
Thỉnh nhứt thiết Như Lai đà-ra-ni:
Úm, ta ra ta ra, nhạ duệ, tất đệ, ta-phạ ha.
Nay ta nói công năng tu hành Tâm đà-ra-ni và Tâm trung tâm đà-ra-ni: Nếu tụng Tâm đà-ra-ni 100.000 biến sẽ được làm Chước-yết-la-phạt-đế trong hàng Trì minh tiên. Lấy hùng hoàng bỏ vào trong đồ đựng bằng đồng tốt, gia trì một ngàn biến rồi chấm trên trán, liền được bay trong hư không, tất cả của cung điện của Thiên Long bát bộ đều mở ra cho nhìn thấy, được vào bên trong tùy ý du hành, thọ mệnh một kiếp.
Nếu gia trì vào nhãn dược Tảo-vĩ-la 100.000 biến rồi đem chấm vào mắt, liền được An-đát-na, tất cả cung điện của quỷ thần sẽ mở ra, đều được vào bên trong.
Lại có pháp: Tụng một vạn biến sẽ được thấy tất cả Như Lai. Lại có pháp: Gia trì vào Suất-đổ-ba đường tám ngàn biến rồi để ở trên tháp, thời tất cả Xá-lợi của Như Lai đều đến vào tháp này, tức thành Đại Xá-lợi Suất-đổ-ba.
Lại có pháp: Lấy Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát bát, gia trì tám ngàn biến, chứa đầy cháo sữa, đặt ở bàn tay của Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, rồi cúi xin Bồ Tát cho cầm lui về, thì một ngàn người ăn cháo này chẳng hết.
Lại có pháp: Các bộ pháp chân ngôn khác, dùng đà-ra-ni này gia trì thì tùy theo tâm mong muốn, tùy làm tùy thành.
Nay ta nói ấn pháp: Hai tay dang bằng nhau, tay phải đè tay trái, ngửa lòng bàn tay an trên ngực. Đây gọi là Bồ-đề Trường Trang Nghiêm đà-ra-ni căn bản ấn. Vừa mới kết ấn này thì diệt tất cả tội, tất cả Như Lai an ủi người đó, cũng thành thỉnh tất cả Như Lai. Kết ấn này thì tất cả Như Lai càng thêm kính trọng người ấy.
Như Căn bản ấn trên, nâng bàn tay phải lên, thông tất cả sử dụng, liền thành tất cả ấn, là nơi gia trì của tất cả Như Lai. Đem bàn tay phải an ở dưới rốn, đem ngón cái vịn đầu ngón trỏ. An này thông tất cả ấn, là nơi gia trì của tất cả Như Lai. Do kết ấn này xa lìa tất cả tội chướng.
Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát nói đà-ra-ni, vì để hộ trì (người tu hành) giáo pháp đà-ra-ni này cho nên nói đà-ra-ni rằng:
Nẵng mô mạn thù thất-lý dã gia, câu ma la bộ đá gia Đát nễ dã tha Nhạ duệ vĩ nhạ duệ, nhạ duệ thất lị nhu sắt tri, hồng ta-phạ ha.
Nếu lúc niệm tụng, lúc tu tiên hạnh mong cầu thành tựu, thì trước hết nên tụng đà-ra-ni này bảy biến tức không có chướng ngại, mau được thành tựu.
Bấy giờ Kim Cang Thủ Bí mật Chủ Bồ-tát nói Đại minh đà-ra-ni rằng:
Đát nễ dã tha Phạ nhựt la mẫu sắt tri ha nẵng na ha, bả già, phạ nhựt la,
hồng, phấn tra, ta-phạ ha.
Dùng đà-ra-ni này gia trì vào hạt cải trắng bảy biến rồi rải tán khắp bốn phương ở nơi niệm tụng liền thành đại kết giới.
Lúc đó Tứ Đại Thiên Vương nói chơn ngôn rằng:
Đát nễ dã tha địa lị đế, hế lị, nhĩ lý, ta ra, bát ra ta ra, tỳ lý tỳ lý, ta-phạ ha.
Dùng chân ngôn này gia trì vào hạt cải trắng, nước 21 biến rồi tự mình hoán đảnh thì tất cả quỷ thần, Dạ-xoa thảy đều hàng phục, cúi đầu sát chân, kính lễ mà lui ra.
Bấy giờ đức Thế tôn nói kinh này xong, Văn-thù-sư-lợi Đồng Chơn Bồ-tát, Kim Cương Thủ Đại Bí mật Chủ Bồ-tát, Tứ Đại Thiên Vương với tất cả Thiên Long bát bộ, người cùng phi nhơn …vv, nghe Phật nói đều đại hoan hỉ, tín thọ phụng hành.
KINH BỒ-ĐỀ TRƯỜNG TRANG NGHIÊM ĐÀ-RA-NI (Hết) Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra tiếng Việt năm Ất Mão (1975), bản thô, chưa hiệu đính
Nhập liệu: Nguyễn Minh Hoàng
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.222.98.91 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.