Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Kinh văn: "tôi nghe như thế ". Lời người thuật: Kinh gồm có ba phần:
- Phần đầu từ "Tôi nghe như thế ... phạm hạnh thanh bạch" đây là phần tựa.
- Phần chánh tôn từ "Lúc bấy giờ đức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà nói pháp thậm thâm vi diệu ... lược nói một ít như thế ".
- Phần lưu thông (kết) từ "Lúc bấy giờ đức Bạc Già Phạm ... hoan hỷ tin tưởng phụng hành ".
Phật Địa Luận chia ba mục từ xưa đã định rõ để thuyết minh. Nay giải ba phần riêng biệt nầy như sau:
1- Phần đầu: Tự thuật
2- Phần hai: Theo căn cơ mở rộng nói pháp
3- Phần ba: Cảm nhận tu hành
Trong ba phần nầy xưa nay đều cùng ý nghĩa. Song phần đầu y cứ bài kệ Đăng Luận của ngài Thiên Thân Bồ tát chia làm 6 điểm. Ngài nói rằng trước nêu cho đệ tử rõ ba điểm, sau thầy trình bày ba điều chứng minh.
Thứ nhất: Niềm tin của người đệ tử là như vậy. Nói "như thị" mà ngày nay chúng ta gọi là không hư dối, đúng như thật.
Thứ hai: "ngã văn" chính tôi chứ không ai khác hư truyền.
Thứ ba: "nhứt thời" thời gian nghe pháp. Luận Trí Độ giải rằng, lúc nói có người nghe khiến sanh niệm tin đúng sự thật.
- Thứ tư: chủ (đức Phật)
- Thứ năm: nơi chốn nói kinh
- Thứ sáu: căn cơ người nghe
Nay căn cứ bộ Phật Địa Luận thì phần đầu có 5 mục:
1- Nêu việc đã nghe: Tôi nghe như thế ...
2- Thời gian
3- Chủ trì
4- Nơi chốn
5- Căn cơ chúng hội.
Bây giờ theo như kinh nầy phân thành sáu mục; năm phần như Phật Địa Luận đã nêu trên, phần thứ sáu: tán thán pháp với 10 công đức thù thắng. Tuyên nói chánh pháp đầu, giữa, cuối đều thiện. Tiếp theo thứ tự thuật lời Phật dạy, xác định vị trí, cũng là lời Phật thuyết. Tập Pháp Kinh ghi: A Nan hỏi Phật bốn việc: - lấy ai làm thầy, - y pháp nào an trú, - làm thế nào đối trị tánh ác, - đầu các kinh nên để lời gì ?
Phật dạy: giới để răn dè, nên lấy giới làm thầy. Nên an trú trong việc xử phân đúng pháp. Xử phạt kẻ phạm lỗi xấu. Nơi đầu các kinh nêu lên sáu việc: một là chánh hạnh, hai là chánh giải, ba là giải hạnh khéo đối trị chướng ngại tu hành. Ba pháp nầy y theo thánh giáo, bốn là việc hỏi không tăng giảm.
Luận Trí Độ luận rằng: Ngài A Nậu Lâu Đà dạy A Nan thưa thỉnh Phật bốn việc; còn theo như Kinh Đại Bi thì nói ngài Ưu Ba Ly dạy. Nay ta có thể nói: cả hai Ngài cùng dạy để nêu rõ việc kết tập. Như mục ghi chú, ngài Chân Đế nói: giới luật nêu rõ những việc tinh tế, ngài A Nan lúc thăng tòa tuyên dương pháp, thân như thân Phật đầy đủ tướng tốt. Nay tra cứu thấy việc kết tập kinh tạng lưu truyền cũng nêu lại thuyết nầy - Lúc ngài A Nan rời tòa ngồi trở lại vị trí, chúng hồ nghi ba việc:
1- nghi Phật từ bi từ cõi Niết Bàn hiện thân nói pháp.
2- nghi có một đức Phật từ phương khác đến cõi nầy thuyết pháp.
3- nghi ngài A Nan biến hình thành Phật, nói pháp cho thính chúng nghe.
Cho nên nơi đầu các kinh đề: "như thị ngã văn" (ta nghe như thế nầy) để mọi người tin tưởng, không nghi.
Kinh Pháp Hoa giải thích: như thị là điềm tốt của sự cảm ứng. Theo đúng căn cơ là "như", đúng thật không sai là "thị". Chúng sanh do sự thật mà cảm, chư Phật do hợp căn cơ mà ứng. Người truyền kinh nêu danh dạy điều cảm ứng cho nên nói như thị. Ứng đây đương nhiên đã tỏ rõ. Theo kinh Vô Lượng Nghĩa giải thích: chí như người giảng pháp làm hiển như, duy chỉ "như" là thật, nên nói như thị.
Dao Công nói: Xa lìa hẳn năm sự hủy báng là như thị. Trước hết lìa bốn việc: tăng-ích-đẳng-báng, và thứ năm là "như thị". Kinh nầy nhân quả không phi hữu chẳng phi không nói là phạm lỗi hý luận, thứ tư lỗi ngu dốt.
Ngài Quang Trạch nói rằng: Như thị là phần mở đầu kinh nêu lên tường thuật những lời, những điều đã được nghe. Như thế toàn bộ kinh chính tôi (A Nan) đích thân nghe từ đức Phật, tức là tôi nghe thấu triệt vậy.
Lương Võ Đế nói: Như là lời, người đang nói; thị là những gì Phật đã nói, cho nên gọi là như thị. Trở lên là năm giải thích của ngài Kiết Tạng Pháp sư đã dẫn giải. Ngài Chân Đế và Trường Nhỉ đều nhận định: Như thị có ba điểm: 1- Tin theo Phật, ba đời chư Phật đều nói không khác là "như", giống nhau nên gọi là "thị". Do đó có thể tin các đức Phật thuyết như nhau, không sai khác. Đúng theo nghĩa lý rõ ràng thật tướng mọi pháp xưa nay không khác. 2- Tin lý rõ ràng minh bạch: thật tướng vạn pháp xưa nay không khác nên gọi là như, đúng thật mà nói nên gọi là thị. Nói theo lý thì không tăng không giảm, quyết định phải tin nên gọi là như thị. 3- Tin người, ngài A Nan cầu Phật truyền dạy có thật nên là như, không sai là thị.
Bên trên là ba lối giải thích rõ của các pháp sư đã dẫn cũng giải thích thêm như thị nêu lên một phần của huyền tông tức là chân đế và tục đế, chân là như, tục là thị, tức muốn nêu ra điểm rõ ràng không hai khác. Hay cũng có thể nói: thuận theo lý là như, tìm ra chỗ hư vọng là thị hoặc nêu rõ đối với hai trí chỉ bày là nhân của cả hai, chẳng hạn sở hữu tánh là như, trừ hết tánh sở hữu là thị, cho nên sau đây nói: trí biết mọi lẽ tức tướng, biết rõ mọi tướng là thị. Cũng có thể nói: nhân của hai món trang nghiêm là phước và trí, mà phước là như, còn trí là thị vậy. Hoặc dạy những điều thuận lý là như, y theo lời dạy để tu hành là thị. Nêu lên hàng đầu quán chiếu thật tướng các pháp sở năng, tức cảnh là như, trí là thị.
Từ như thị cũng có thể gọi là điềm lành vậy. Muốn nêu rõ đầu đề kinh đều phải để lời nầy vào. Những kinh điển của các đạo khác mở đầu để hai chữ: a ưu. Lại nữa, như thị là từ khẳng định bác chỗ sai lầm để nêu rõ phần đúng tiếp sau. Trở lên là tám cách giải thích được lưu truyền từ các bậc tiên đức.
Sau đây cũng giải thích như thị theo bốn nghĩa để chuyển ý. Một: y thí dụ, chẳng hạn nói: giàu sang như thế chẳng khác trời Tỳ Sa môn. Như thế được truyền lại những pháp đã nghe đúng như lời Phật thuyết, quyết định là nhân làm phương tiện lợi lạc. Hoặc nói câu như thế nầy: như tôi trước đây đã nghe ... Hai: y lời dạy, như có người bảo: ngươi nên đọc tụng kinh luận như thế. Trong câu đó, lời dạy bảo như của Phật mà kỳ thật là lời dạy của người truyền pháp. Hoặc có lúc bảo đại chúng nên nghe những gì tôi đã nghe như thế. Ba: y theo lời vấn đáp. Tôi nghe như vầy, diễn thuyết thế nầy. Như có người hỏi ngươi nên đáp rằng trước đây đã được nghe thế. Lời đáp đây nói là tôi nghe như vậy. Bốn: y lời chấp thuận, như có người nói: tôi vì ông (ngươi) mà làm như thế, nghĩ như thế. Khi kiết tập kinh điển các vị Bồ tát chung hợp lại thỉnh cầu lời nầy: như ngài đã nghe như thế nào nên nói lại như thế. Vị Bồ tát truyền pháp hứa: tôi chỉ nói những gì đã được nghe hoặc tin những gì đã được nói. Việc đó như thế, nghĩa là tôi từng nghe pháp như vậy. Việc như thế nào thì nên nói như thế quyết định không có sai khác. Bốn cách giải thích trên dựa vào Phật Địa Luận như Thân Quang Bồ tát đã giải.
Cũng có lối giải thích như thị là lời tín thuận như Luận Trí Độ giải rằng: tôi nghe rồi phát niềm tin như thế, tin rồi chấp nhận thực hành sanh trí vậy. Tin là có khả năng thu nhận, trí là có khả năng vượt qua. Tin là tiếp nhận pháp sơ cơ, trí là đạt tới chỗ sâu xa rốt ráo. Tin là lời nói thuận theo lý, thuận thì hợp tư cách bậc thầy.
Tin pháp đã thuyết là thuận theo, do thuận theo mới tin nghe pháp. Đứng trên hai lãnh vực thầy trò thành lập đối với tín, lược giải có 10 điểm khác nhau mà khởi sự là phát khởi niềm tin.
1/ Thành Duy Thức nhận định rằng, tín như ngọc sáng, trong nước đục có thể làm sạch nước dơ. Tín để đối lại tánh vẩn đục của bất tín. Vì thế quân đội tin ba việc không thể thiếu một (thiên thời, địa lợi, nhân hòa).
2/ Luận Du Già nhận định: Tin là theo ý muốn, muốn là theo sự tinh tấn. Cho nên khi thấu đạt mọi pháp thì dục là căn bản. Tác ý móng khởi thì việc xúc chạm tới chấp nhận theo liền. Định huệ là phần cao tột không gì bằng, giải thoát là kiên cố. Giải thoát có sau khi tin như lòng mong muốn. Vì thế tin đứng đầu.
3/ Người học Phật như đại long tượng lấy tín làm tay, lấy xã bỏ làm răng, lấy niệm làm cổ, lấy huệ làm đầu, trong khi lấy hai vai gánh vác thiện pháp. Đây là nói theo luận Đại Tỳ Bà Sa ghi nhận như vậy.
4/ Pháp là cánh tay chư Phật, tin là cánh tay của chúng sanh. Cho nên luận Câu Xá nói rằng, nhổ sạch chúng sanh khỏi bùn lầy sanh tử. Phần chánh tông là tay Phật, phần tựa khởi tin là tay chúng sanh. Hai tay dắt qua bờ giác ra khỏi bùn lầy sanh tử.
Sau đây hai điểm giải theo ý kinh Tối Thắng Quân Vương.
5/ Rộng mênh mông như biển Đại Hồng mượn tay bơi thuyền qua sông sanh tử phải tin để có trí tuệ.
6/ Đi dạo trong cánh đồng rộng mênh mông tay cầm gậy ngăn giặc sanh tử mà tin là cánh tay nắm con dao trí tuệ ngăn chặn giặc phiền não.
7/ Thấy vật quí của báu đưa tay nhặt lấy; nghe pháp bảo phải tin chắc chắn.
8/ Tin là bước đầu của thánh tài nên trước phải phát khởi lòng tin. Luận Hiển Dương nói: Trong thất thánh tài thì tín-giới-văn trừ được tâm tàm quí (hổ thẹn), cho nên trước tiên phải sanh niệm tin.
9/ Tin là nấc thang tiến lên bậc thánh, cho nên bốn mươi tâm lấy tín làm đầu, có tín căn và tín lực. Có tín căn cho nên muôn điều thiện nhân đấy phát sanh; có tín lực cho nên bốn loài ác ma không làm hại. Sách Thập Chư Luận nhận định: tín có thể vượt qua đường ác, xa hẳn nhân nghèo khó. Có bốn điều tin không hư hoại. Do nghĩa nầy cho nên ở đầu tất cả các kinh đều đề "như thị" khiến chúng phát lòng tin. Ta nghe là đích thân vị Bồ tát truyền pháp thuật lại pháp ấy. Chính người nghe từ đức Phật nên đề là "ta nghe". Ta là cái thân giả của thế tục do ngũ uẩn hợp thành. Song cái ta có ba: a- do vọng mà chấp ngã. Ngoại đạo và những ai không tu ôm chấp lấy cái ta, song nó cũng như hư không như hạt cải mọn. b- giả mượn cái ngã trong thường-lạc-ngã-tịnh dẫn dắt hàng nhị thừa đạt đến vô ngã từ bỏ luôn quả vị vô ngã của tiểu thừa. Như trong kinh Phật hoặc nói "ngã" hay có lúc nói "vô ngã". Song thật tướng của các pháp là vô ngã, vô phi ngã, vì hàng Thanh Văn nói vô thường v.v... để trừ dứt bốn món điên đảo của phàm phu. Nói không có ngã loài hữu tình là pháp có nguyên nhân, nên sau tu chứng bậc Bồ tát nói là thường-lạc-ngã-tịnh. Trừ hàng nhị thừa khởi bốn pháp chấp. Do đó bản tánh các pháp đều lìa ngã, từ vô ngã nêu lên cái thường ngã, cho nên gọi là giả thiết vậy. Cái ngã chuyển từ ba đời, vì thế người đời truyền tụng rằng ông Trương Vương tánh do trời phú, danh lưu lại ở đời. Người truyền pháp cho đời tùy thuận thế gian tự xưng "ta" không giống như chấp ngã đã đề cập trên, không vọng chấp nên không giả thiết. Song cái thể nó là ngã của vô ngã.
Hỏi: Chư Phật nói pháp để phá trừ ngã chấp, tại sao ngài A Nan không xưng tên lại nói là "ta".
- Đáp: Theo như lý mà nói thì phải xưng tên, song tóm lược có ba nghĩa cốt để nói tổng quát cái ta như:
1- Nêu rõ điều không trái tục: tông chỉ tuy nêu rõ tông, song không trái tục. Tuy không có ngã mà có ngã thành lập, là muốn nêu rõ chân đế không lìa khỏi tục đế.
2- Ngã là chủ tể có nghĩa là tự tại. Ngài A Nan bậc đa văn, nghe mà ghi nhớ kỹ những gì đã được nghe. Ba món tuệ có đầy đủ văn nghĩa, trong thánh giáo gọi là định tự tại.
Nếu chính ngài A Nan nghe pháp như thế, tuy là đủ phép nhưng đối với pháp thì không đạt được nghĩa tự tại. Muốn nêu rõ nghĩa tự tại của pháp nên nói ta nghe thay vì gọi là Khánh Hỷ.
3/ Ngã có nghĩa là thân chứng. Người đời thường nói tôi nghe thấy như thế là thân chứng. Nếu chỉ gọi tổng quát A Nan nghe hoặc không đích thân nghe từ những lời Phật dạy. Nay nêu rõ chính ngài đích thân nghe Phật thuyết chứ không phải nghe người nào khác truyền nên gọi "ta" là vậy. Do ba nghĩa nêu trên nên không xưng Khánh Hỷ mà nói tổng quát là ta nghe. Nghe có nghĩa là cái biết của tai phát ra nhận những điều đã được nói. Giờ bỏ tai riêng nói ta tổng quát nên là ta nghe. Các bộ phận khác nghe, nói mỗi mỗi khác nhau. Nay y theo Đại Thừa thì cái biết của tâm sở hòa hợp với cảnh nên gọi là nghe. Song năm căn có nghĩa thù thắng đối với thức nên gọi là nghe. Đối với các pháp ngài Long Thọ đều nói như thế. Như nghe tiếng tức chỉ tai nghe, còn nếu nói chung nghe ghi nhận thì phải do ý. Do đó, chỉ ý mới đủ tánh cách nghe. Cho nên Luận Du Già giải rằng, nghe là cân nhắc, tai chỉ nghe tiếng là cửa ngỏ của ý mà người nghe từ lỗ tai. Nghe là nói tổng quát do tai nghe nên lỗ tai gọi là nghe. Song tai không đủ khả năng nghe phân biệt được các pháp, như nghe một vấn đề nào đó rồi trình bày lại chẳng hạn. Vì cách nghe đây ta quen gọi tai nghe. Như quan sát mặt trăng thứ hai thấy có vòng lửa chung quanh. Như vua Tỳ Lưu Ly dùng lời mạt sát giòng họ Thích là do ý thức, lỗ tai không liên can tới. Hỏi: Ngài A Nan trong lúc nghe Phật nói thì cũng suy nghĩ biết Phật nói gì, thế tại sao không nói: tôi thấy như thế, tôi ghi nhận như thế, tôi biết như thế, lại chỉ nói tôi nghe ?
Trả lời câu hỏi nầy có ba ý nghĩa:
- Thứ nhất: Muốn chứng minh lý sâu xa mà người ngộ chỗ rốt ráo phải y nơi văn giáo. Thấy, biết, phân biệt v.v... không phải từ sự đạt rõ lý. Tuy có thấy thật đấy, song chỉ nói nghe thôi.
- Thứ hai: Cõi Ta bà nầy dùng âm thanh làm Phật sự, nên muốn chỉ rõ sự khác nhau giữa các cõi Phật thì chỉ nói nghe. Ngoài ra, nơi các cõi Phật khác dùng ánh sáng vi diệu, hương thơm, vị lạ để làm Phật sự, nên đầu các Kinh đều nêu câu ta thấy, ta hiểu, biết. Nay muốn nêu rõ chỗ khác nhau với các cõi Phật nên chỉ nói nghe mà thôi.
- Thứ ba: Muốn nêu rõ tuệ giác Bồ đề mà cần yếu là do huân tập (tích lũy mỗi khi một ít) mới thành. Nếu không nghe chánh pháp thì tam huệ (văn-tư-tu) không do đâu phát sanh. Cho nên ở đầu các kinh nói nghe khiến sự tập nhiễm hữu lậu thế gian dần dần tiêu diệt để tăng trưởng quả vô lậu xuất thế. Cho nên chỉ nói "nghe" thôi.
Hỏi: Kinh Đại Bát Nhã Phật dạy: từ thành đạo cho đến lúc nhập Niết bàn, trong khoảng thời gian đó ta chưa hề nói một chữ. Tại sao A Nan hủy báng Phật cho rằng Phật có thuyết pháp và tự nói rằng ta nghe ? Ngoài ra kinh Ba Diệp thí dụ nói: Những pháp đã nói như lá trong tay; những pháp chưa nói như lá trong rừng. Rõ ràng Phật có nói pháp. Nay nói ta nghe, rồi lại nói Phật không nói lời nào. Tại sao có sự trái ngược như vậy ?
Đáp: Phật Địa luận rằng: Như Lai sẵn lòng từ bi cùng lực bổn nguyện làm tăng thượng duyên. Người nghe, nghe trên văn nghĩa mà có. Văn nghĩa đây tuy dựa vào lực thiện căn sẵn có phát sinh nên gượng ép gọi là Phật nói. Sức nghe của chính tai do tâm hiện khởi nên nói ta nghe. Ý nói: Phật có đủ ba pháp: định, trí, bi. Ba pháp nầy trên thực tế là không có thuyết pháp. Do bổn nguyện lợi sanh đại bi tâm phát khởi mà chúng sanh tu hành lâu nay có duyên được gặp Phật. Ngày nay đã thuần thục từ trong tâm thức nghe Phật có nói pháp giáo hóa độ sanh, song kỳ thực là không nói. Như mẹ Tăng Sâm đứt ngón tay, lòng Tăng Sâm đau xót biết là mẹ gọi trở về. Thật ra mẹ Tăng Sâm không thốt một lời mà chỉ luôn nghĩ tưởng tới con. Như gió gặp mây, tâm mẹ nghĩ con, con nghĩ tới mẹ có sức thu hút như mẹ gọi con, nên con gấp rút trở về như ta đã biết. Phật cũng như bà mẹ, chúng sanh cũng như Tăng Sâm, dù nói hay không đại loại giống nhau. Một thí dụ khác, có một tín nữ mời một vị Tỳ Kheo tới thuyết pháp; khi thầy ra đi rồi không để lại lời nào mà người tín nữ ngộ đạo. Bà ta nói: do nhờ ân đức thầy và nương nơi vị Tỳ kheo làm tăng thượng duyên tu tập để thoát sanh tử chứng đạo quả. Chúng sanh y Phật làm tăng thượng duyên, do tâm phân biệt mà ba thừa giáo hình thành. Do gượng ép cho là Phật nói pháp, song kỳ thật Phật không hề nói. Lời nói: ta nghe nầy ý nghĩa cũng thế. Có người nghe nhờ căn lành sức bổn nguyện làm tăng thượng duyên mà Phật biết rõ qua nghĩa tương duyên nầy. Nghĩa tương duyên đây là Phật vì lợi ích cho kẻ khác phát khởi thiện căn nên gọi Phật nói. Người nghe không trực tiếp như A Nan, nên ngài thuật rõ ràng lại từng chi tiết, nên nói ta nghe. Ý nói, Phật hiện thân đầy đủ 6 căn tiếp xúc 6 trần và 6 thức phân biệt, rõ ràng Phật có thuyết pháp vì sự nghiệp lợi sanh, không tâm phân biệt, không niệm vướng mắc, do ý nguyện hợp với căn cơ nói pháp làm lợi lạc mọi loài. Như ngọc ma ni, trống trời Đế Thích vô tâm mà tự trổi không đợi Thiên Đế bảo hay không bảo. Thiên Đế do thiện nghiệp cảm, nên trống trời không trổi tự kêu, Thiên Đế nghe tự đề phòng cẩn thận. Phật cũng như thế, tâm không phân biệt nói hay không nói. Chúng sanh có duyên lành được nghe pháp thì lãnh hội được những pháp Phật thuyết. Việc thuyết pháp cũng như người huy-n nói pháp cho người giả nghe, tự tánh văn tự lìa hẳn văn tự, như thế mà rõ biết. Không nên vọng chấp danh tự cho nhất định có thật pháp, có người nói pháp, có kẻ nghe pháp. Vì thế Phật bảo ta không nói một chữ. Luận về thuyết pháp thì không pháp để thuyết, vì pháp không hiển lộ. Như nhà ảo thuật là người bày trò giả tức không phải không có. Kinh nói rằng thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không, đợi đủ duyên các pháp thành tựu. Phật thuyết pháp ngài A Nan đích thân nghe nên gọi là ta nghe. Trong đó có hai ý: Một là thấy mà vô chấp, hai là hộ pháp của bậc thầy sáng suốt. Nên biết rằng nói ta nghe như thế ý hàm mọi sự tăng giảm, sai biệt, lỗi quấy khác nhau, chính ta nghe nơi Phật, pháp như thế, chứ không phải người nào khác nói, chứng tỏ người nghe có sức kiên nhẫn nghe những gì cần nghe, còn gạt ngoài tai mọi sai biệt lỗi quấy. Không như người ngu không biết kiên nhẫn nghe những gì đáng nghe nên không nhận được điều phải bỏ việc trái.
Thời kỳ kiết tập giáo pháp để lưu truyền lời Phật dạy, đều căn cứ những lời Phật nói nầy, làm cho chúng sanh tín kính thọ trì lời dạy. Pháp nầy chính ta nghe từ Phật, nghĩa lý đúng đắn không sai. Người nghe phải thuật rõ ràng chính xác, suy nghĩ hợp lý tinh tấn tu tập.
Trong kinh nói: một thuở là do người thuật nói lại để chứng minh thời gian nói kinh, tức xác nhận thời điểm vậy. Thời điểm Phật nói pháp cùng thì giờ đại chúng nhóm họp dự nghe liên tục không gián đoạn, tức xác tín việc nghe hoàn toàn đúng sự thật. Theo thói quen ta gọi tổng quát là "một thuở nọ" mà không nghe vào một lúc nào khác. Thế tại sao gọi "một" ? Đây là từ bất định, không nói rõ giây phút, cũng như không nêu rõ thời gian kéo dài bao lâu. Vì không xác định rõ thời khắc là bao lâu như lúc Phật thành đạo, nên gọi chung thời gian là một thuở nọ. Chỉ người nói và người nghe có thể xác định, còn nói cho đại chúng gọi tổng quát là một thuở nọ, vì người nói pháp (đức Phật) thâu nhiếp được mọi pháp nên diễn thuyết ở bất cứ mọi thời. Hoặc cũng có thể người nghe nhỉ căn thanh tịnh hiểu rõ từng chữ, ngoài thời gian tất cả đều rõ suốt. Hoặc cũng có thể nói người nói pháp trải qua thời gian trong nhiều kiếp mà người nghe cũng qua nhiều kiếp dự nghe như thế. Nên không xác định ý niệm về thời gian trong kiếp số lâu xa ấy căn cơ số thính chúng trong một pháp hội có chậm, nhanh không giống nhau. Đức Phật đủ thần lực gia giảm thời gian kiếp lâu xa thâu ngắn lại. Luận về thời gian có hai cách giải:
- Thứ nhất: Xác định thời gian theo pháp hữu vi về mặt đạo lý thì người nghe và người nói pháp thân tâm đều do niệm niệm biến diệt vô thường bất định, có khắc trước, khắc sau, hiện tại, tức là pháp có qua lại, có diễn tiến nên tạm gọi là có quá khứ và hiện tại. Giữa kẻ nói và người nghe là việc thật đã diễn ra trong một điểm thời gian nhất định, nên gọi chung là một thuở nọ. Như nhà toán học dùng bàn toán để tính được các con số từ đơn vị chục, trăm, ngàn, vạn, ức v.v... song kỳ thực chỉ một bàn toán do tính ngang tính dọc mà có các con số khác nhau, chẳng đồng nên có sự sai khác. Ở đây người nghe pháp do hợp thể ngũ uẩn nên có quá khứ, hiện tại, vị lai. Hiện có thuộc hiện tại, lúc nói đã thuộc ba đời. Nay gọp chung ba việc trong khoảng thời gian ấy lại gọi là một thuở nọ.
- Thứ nhì: Thời gian do tâm thức biến hiện có ba thời kỳ. Thông thường trong một niệm hay nhiều kiếp cũng có thể tạm gọi là nhứt thời (một thời). Như người trong giấc chiêm bao mộng thấy mình bị trôi lăn sinh tử trong ba đời. Ý thức đó hoàn toàn do tâm hư vọng khởi, trên thực tế làm gì có ba đời. Nay dùng lý để luận về thời gian cũng vậy. Chỉ do vọng chấp mà dường như có ba thời, thực sự gọi tổng quát là một thời (một thuở). Nói theo nghĩa nên dựa vào ý có chỗ duyên, hành uẩn, các pháp mà thành có pháp giới. Tại sao không nêu sự khác biệt của 12 giờ đồng hồ ? Như nói sạch dơ, ngày đêm, giờ khắc, các phương đều khác nhau. Xứ là phương cố định nên trong ý niệm thời gian nói chung là một.
Hỏi: Ở mọi nơi có sự sạch dơ khác nhau nên nói một. Thời khắc các nơi sai biệt làm sao phỏng định được ? Phàm phu ở cõi bất tịnh, thánh nhân ở cõi Tịnh độ làm sao phân biệt được sự khác nhau nầy; thời gian làm chuẩn ở đây ta biết lại khác thời gian các nơi khác ?
Đáp: Như khoảng thời gian trong một sát na (tích tắc) với thời gian lâu dài nhiều kiếp thì không thể xác định được, vì tiêu chuẩn không rõ ràng. Do đó một cách tổng quát gọi "nhứt thời". Sự kéo dài thời lượng kiếp số nói theo Duy Thức là do chấp mà có mau chậm không giống nhau hoặc tự khởi hoặc y tha khởi. Đó là do pháp vọng hay pháp chân, bình đẳng hay thánh lực nhờ sức gia trì nên có mau chậm, không nên phí sức đi tìm nghĩa chuẩn xác. Kinh điển gọi là Bạc Già Phạm. Trong phần thuật từ đây trở đi nói theo cách thứ ba là giáo chủ để tán thán bậc hơn người mà giáo pháp của Người cũng vượt trội hẳn. Giáo chủ mang tải hai nghĩa: trước chỉ tên sau ca ngợi cái đức. Nghĩa trước có tên là Bà Già Bà mà người đương thời gọi danh hiệu là đức Thế Tôn. Vì quan hệ nghĩa nầy nên không dịch, vã lại tiếng Tàu không có từ tương đương. Luận Du Già quyển 83 luận rằng: Phật thản nhiên ngồi tĩnh tọa nơi cội Bồ đề vận dụng trừ diệt tất cả ma quân, đầy đủ đại trí lực nên gọi là Bạc Già Phạm. Kinh Phật Địa luận nghĩa Bạc Già Phạm căn cứ theo sáu nghĩa khác nhau: tự tại, oai đức, đoan nghiêm, xứng danh, kiết tường, bậc tôn quí. Phật đủ sáu nghĩa khác nhau như thế nên gọi chung là Bạc Già Phạm. Ở đây chỉ lượt ý từ Bạc Già là người mẫu mực đầy đủ các đức. Nói chung chư Phật đều đầy đủ các đức tính mẫu mực không thiếu nên Như Lai được gọi là Bạc Già Phạm có nghĩa là chư Phật vĩnh viễn không bị phiền não câu thúc và được đại tự tại. Như mãnh hỏa cháy hết sức nhanh nên có nghĩa là xí thạnh. Phật có đủ 32 tướng đại trượng phu để trang sức nên thân đoan nghiêm, đầy đủ công đức viên mãn không thể tính lường nên xưng danh, được thế gian mọi người thân cận xưng tán cúng dường là đại kiết tường, đầy đủ các đức thường thể hiện qua các phương tiện làm lợi ích an lạc mọi loài hữu tình không còn giải đãi trì trệ nên đầy đủ sự tôn quí, là người hay phá dẹp bốn loài ác ma nên gọi là Bạc Già Phạm. Bốn loài ác ma là: ma phiền não, ma ngũ ấm, ma chết, ma thần tiên (Tự Tại thiên). Chúng phá khuấy thiện pháp loài hữu tình làm ngăn ngại sự tu hành nên gọi là ma. Tu hành được định liền phá trừ phiền não, ma chết, là sắp đạt tâm Kim Cang (bền chặt không lui sụt) và phá cho bằng được các loài thiên ma, đến khi đạt giải thoát liền phá trừ luôn ma ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Luận về tướng, tâm Kim Cang là dùng ngũ lực phá trừ ma phiền não, như Phật ngồi dưới cây Bồ đề phá diệt thiên ma, nhập đại định tới canh năm nhập Vô dư định phá sạch ma ngũ ấm, còn lại ba tháng sau rốt phá dẹp hết tử ma (ma chết). Theo đúng nghĩa thật những gì làm não loạn Bồ tát tâm đều gọi là phiền não. Kim Cang tâm vĩnh viễn phá trừ hai chướng là phiền não và nghiệp chướng. Hai chướng tiêu trừ là được giải thoát và phá diệt nốt hai thứ ma ngũ ấm và tử ma. Đây chỉ đề cập hai loại ma: ma chết, ma thần tiên mà không luận về thiên ma. Nên nay căn cứ vào một nghĩa mà nói. Còn theo như thập tín của Bồ tát thì lúc Phật thành đạo mới phá diệt được thiên ma. Trong Thập trụ phần thứ sáu là hàng phục thiên ma trong đó hành giả vĩnh viễn lìa sanh tử ra khỏi ba cõi nên có thể hàng phục được thiên ma, như hàng sơ địa mới bẻ dẹp thiên ma. Kinh Phật Địa luận rằng: chứng bậc sơ địa trở lên dẹp trừ được bốn loài ác ma, tùy ý thủ hoặc xã, nên kẻ phá dẹp được bốn loài ma ấy gọi là Bạc Già Phạm.
Hỏi: Phật có đủ 10 hiệu, tại sao ở đầu các kinh Phật còn dạy ngài A Nan gọi là Bạc Già Phạm ?
Đáp: Đây là tiếng mà người đời tôn trọng Phật thường gọi và chúng ngoại đạo cũng xưng đức Bổn Sư là Bạc Già Phạm. Hơn thế, danh hiệu nầy bao hàm các đức tính mà các tên gọi khác không có. Vì thế ở đầu các kinh gọi là đức Bạc Già Phạm. Song các kinh, ở đầu đề, tên đức giáo chủ không giống nhau. Vã, như các bản tân dịch kinh Đại Thừa xưng tán công đức thì chư Phật trụ nơi pháp giới đạt được đại công đức trang nghiêm đứng về mặt giới tánh và pháp thân mà nói; như kinh Phật Địa nói: Phật là tối thắng chiếu diệu bảy báu trang nghiêm phước tướng. Nói rộng ra ta nên lập đại cung điện tôn trí đức Phật, bậc Đại Bảo Hoa Vương. Căn cứ báo thân nói về Tịnh Độ viên mãn điều thứ mười tám thì như ở đầu kinh này là nêu lên thật đức của Phật hơi khác các kinh khác. Phật ngự tại nội điện cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương hóa thân ra đời thuyết pháp. Song cõi pháp tánh chỉ có Phật nêu rõ đức Nghiêm Hoa Bồ Tát cùng ở cõi đó, cùng trong cõi Tịnh Độ không chỉ các vị Bồ tát mà kinh còn đề cập các chúng long thiên. Riêng đối với Kinh nầy chỉ nói cõi Tha Hóa Tự Tại cùng gồm các loài trong thập địa luôn cả các bậc đại Bồ tát; Ở đây nêu rõ một tính chất là chỗ thấy khác nhau. Kinh Kim Cang luận rằng, ứng hóa chẳng phải chân Phật cũng chẳng phải thuyết pháp. Thuyết pháp bất nhị giữa có-không, lìa cả ngôn thuyết, đổi qui về gốc lấy pháp thân làm thân, ngoài thân ấy không còn thân nào khác. Pháp thân là nói cả hai thuyết, phi thuyết thể đều y nghĩa tích tụ gọi chung là thân. Nói tổng quát pháp thân cũng dựa nơi thân là gốc chấp có hai thân nên khởi niệm thị phi cho rằng có thân thường hằng và thân hoại diệt. Hai thân là nói có hai tức có tướng. Bát Nhã lấy pháp tánh làm tôn chỉ, tức quên phần tướng, nên nói là không thân. Hai thân đây cũng nương thân mà nói, vì muốn làm sáng danh nghĩa uyên áo của Đại Thừa chứng lý nhị không mới thấu triệt được nghĩa nầy. Cho nên mượn cõi vi diệu chuyển tải lời kinh thâm mật ở cõi pháp tánh dùng lời nói xưng tán công đức kinh đại thừa. Đúng lý chân Tịnh độ là cõi trang nghiêm cực đẹp mà không là cõi pháp tánh. Cõi pháp tánh không thân, không thuyết Bồ tát do đâu có thấy nghe ? Vì muốn hiển bày chánh trí chứng ngộ chân không là cõi pháp tánh. Sau khi đạt hậu đắc trí phát khởi lòng bi hóa độ nên ở cõi Tịnh độ cũng không hề trái nhau. Chúng long, thiên và tám bộ chúng được hóa độ như Kinh Phật Địa nêu rõ 18 tướng viên mãn cõi Tịnh độ. Như Lai thật đức chứng năm pháp mượn Tịnh độ thuyết minh để hiển bày áo nghĩa Kinh mà hàng Bồ tát đại trí liễu ngộ cũng từ cõi pháp tánh. Chúng long, thiên nghe pháp đều được độ thoát mà trí Bát Nhã là pháp dùng để quán chiếu thật tướng. Chư Bồ tát, chư Phật đều quên tướng là chính, vì các ngài đồng cư cõi pháp tánh mà hiện thân trong cõi Tịnh độ. Song Phật thể hiện tâm từ bi rộng lớn qua báo thân ra đời thuyết pháp hóa độ chúng sanh mà kỳ thật người nghe pháp cũng phải khác hơn người xưng tán thật tướng đức Phật trong việc hóa độ, ý này sau đây sẽ nói rõ hơn. Gọi Bạc Già Phạm là tùy chỗ ứng hiện ba thân ra đời thuyết pháp, chúng đệ tử thấy có ba cõi, song chỉ nêu rõ cái đức của báo thân. Nhưng kinh văn không thấy đề cập cõi cho báo thân riêng biệt. Do ý đây mà rõ được Phật đức, để biết rõ cõi Phật. Từ đây trở đi Bạc Già Phạm là chỉ đức riêng của Phật, tức là nơi trụ của báo thân, là thân ra đời hóa độ, thân vượt thường hiện ra nói pháp vi diệu, để hóa độ hiển bày kinh thâm áo, là muốn thể hiện từ bi trong sự nghiệp tu hành nên không phải thân cõi pháp tánh.
Kinh nói:
- Thứ nhất: bậc trọn lành thành tựu Như Lai Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí, có đầy đủ công đức hy hữu không ai bằng.
- Thứ hai: đạt được pháp quán đảnh Như Lai (mảo báu) vượt hơn ba cõi.
- Thứ ba: khéo thành tựu Như Lai trí Kim Cang đại quán tự tại.
- Thứ tư: đạt được viên mãn Như Lai quyết định các pháp đại trí ấn.
- Thứ năm: chứng Như Lai thành tựu rốt ráo vắng lặng bình đẳng tánh ấn.
- Thứ sáu: đối với sự nghiệp năng tác sở tác đều khéo léo thành tựu không thiếu.
- Thứ bảy: tất cả mọi loài hữu tình có mong cầu chi tùy theo chỗ vô tội đều được mãn nguyện cả.
- Thứ tám: khéo an trụ ba đời bình đẳng quảng đại biến chiếu thường, không, đoạn, diệt.
- Thứ chín là thân, miệng, ý như Kim Cang sánh với chư Phật không động, không giao.
Chín câu nêu trên là để tán thán công đức Như Lai. Y cứ các kinh luận tóm lược có ba cách giải thích như sau:
- Một, y cứ Kinh nầy giải thích thì câu 1 tán dương chung đức Phật gồm đủ các đức tướng. Tám câu còn lại tán thán riêng từng đức tánh. Qua phần chánh tôn sau đây phân thành 14 đoạn tán dương 14 đức tướng của đức Thế Tôn. Câu đầu nêu lên đức tướng tổng quát, các câu khác nêu riêng từng công đức Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí cho đến hết câu hai, ca ngợi đức quán đảnh Như Lai bảo quan vượt hơn ba cõi, tức trong 14 đoạn là đoạn thứ ba. Ngăn dứt các điều ác là pháp cao tột hơn cả, là pháp thứ năm hiển bày pháp môn trí vương quán đảnh, cho đến sau rốt là một đức tướng hai pháp môn mà trong đó chứa nhóm không biết bao nhiêu món công đức hy hữu. Nói chung, bảy câu kế tiếp là nêu lên công đức vượt thắng của Phật. Mười hai đoạn khác nói riêng các pháp môn nên không thể liệt kê ra đầy đủ ở đây được. Đó là lược nơi phần giải thích tổng quát, còn đi vào chi tiết phần giải thích riêng như sau: diệu là công đức vi tế; thiện (khéo léo) trừ Phật không ai có thể thấu đạt được. Người trong đạo còn chưa hiểu rõ là diệu, ngoại đạo cũng không hay biết là thiện. Lại nữa, trí sâu khôn dò là diệu, phước mỏng khó soi là thiện. Nói thành tựu là người tự tại việc đời, là mọi việc đã đạt đến viên mãn rốt ráo. Tất cả Như Lai là nói chung cái thật đức của chư Phật. Phật đức do đây mà thành tựu bậc đáng tôn là chân thật đức. Tiếng Phạn là Dao Tha Yết Đa, trước đây dịch là Đa Đà A Gia Độ. Trung Hoa gọi là Như Lai. Kinh Bồ tát Địa nói rằng: không hư vọng là Như Lai. Kinh Niết Bàn giải: quá khứ Phật thuyết khế kinh đến hiện tại không thay đổi là Như; từ trí Ba La Mật đến 37 phẩm, 11 pháp không đến Niết bàn gọi là Lai. Ý nầy thuyết minh: chư Phật thuyết pháp mầu, tu vạn hạnh, chứng Niết bàn nên nói không hư, chính đó là nghĩa Như Lai vậy.
Có thể nói không hư là khéo nói lời chân thật cho đến khi thành Phật nên gọi Như Lai. Luận Du Già nói: trong 10 Phật hiệu, hiệu đầu (Như Lai) là tiếng gọi chung. Ở nơi sanh tử thực hành diệu hạnh đến khi thành Phật gọi là Tô Yết Đa. Còn hiệu Thiện Thệ, xưa dịch là Tu Già Đà, bậc trụ Niết bàn mà thành Phật gọi là Như Lai. Yết Đa có nghĩa là đi đến, như nói "mật đa" có nghĩa là lìa đến. Ở đây cũng vậy, Kim Cang là dụ, bình đẳng tánh trí có thể trừ diệt chúng ác, hàng phục phiền não, vượt hơn hết thảy nên gọi là Kim Cương. Chất Kim Cương tánh hay phá hủy vậy. Nói trụ trì là khi đạt đến Pháp Vương (Phật) có thể làm chủ ba cõi. Thế gian đạt được pháp thù thắng là do trí Kim Cang nầy làm chủ khiến không hoại diệt gọi là trụ, giúp cho mọi việc sanh trưởng là trì. Trí bình đẳng đây bao hàm luôn trí tạng, phước trí đều do đây làm nhân, vì thế nên gọi là trụ trì. Các công đức chư Phật đoạn diệt mọi xấu ác, là trụ trì Kim Cang vậy. Đây là diệu dụng của bình đẳng tánh trí. Trong thì giữ gìn, ngoài thì phá hủy. Bình đẳng tánh trí đây không nằm trong bình đẳng tánh trí thứ hai của tứ trí, mà là trí rốt ráo vắng lặng bình đẳng pháp tánh nên gọi là bình đẳng tánh trí, tức là trí vô phân biệt, trí đoạn mê lầm mà không ngăn cách đạo. Trí Kim Cang là chánh trí trong Diệu Quan Sát trí. Cũng như trụ trì được gốc chúng đức là nền tảng của việc phá diệt (ác). Trí nầy là đại viên cảnh trong bình đẳng tánh trí, có thể phá hủy chấp trước sanh tử, Niết bàn, trụ trong vô sở trụ, là thức thứ bảy đã trở thành bình đẳng tánh trí. Có thể phá hủy câu chấp nhị thừa tất cả mọi phiền não, an trú nơi công đức từ bi, lợi tha, là thành sở tác trí. Nay lấy nghĩa chính trong các trí theo chỗ thể chứng tánh bình đẳng mới có thể phá trừ niệm phân biệt và nhị chướng. Gốc của các đức gọi là Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí. Chư Bồ tát cần được mão báu ở quán đảnh vị, đạt tới vô lậu lìa ba cõi hoàn toàn trí vô phân biệt. Từ trước tới đây đã nói công đức thứ nhất của Phật, những đức tánh khác có nhiều tên gọi mà từ trước chưa có được nên gọi là hy hữu. Chỉ có Phật thành tựu được nên gọi là thù thắng. Phải dồn năng lực tu tập mới đạt thành nên gọi là công đức. Đức đây bao hàm cái thấp bé, thấp bé tự biết. Câu thứ hai nói rằng "hay đạt được pháp quán đảnh Như Lai quí hơn ba cõi", là công đức thứ ba điều phục điều ác, pháp môn nầy vượt trội hơn hết. Công đức thứ năm hiển bày pháp quán đảnh trí tạng. Có thể giải thích rõ như sau: nếu lấy pháp quán đảnh thế gian thi triển thì đạt quả vị quán đảnh xuất thế gian. Giòng Sát Đế Lợi bên Tây Vực (Ấn Độ) thái tử sắp lên ngôi đế vương, trước hết phải thỉnh các vị danh sư Bà la môn tới làm lễ quán đảnh cởi voi đi ngàn dặm, dùng nước trong bốn biển; lấy cỏ kiết tường nhúng vào nước biển rảy lên đỉnh đầu thái tử để được thanh khiết. Làm như vậy là đại an lành khiến tứ phương quy phục, sau đó thái tử nhận vương vị. Theo kinh cựu dịch thì gọi nước Sát Lợi nhiễu giọt trên đầu vua. Nay kinh tân dịch nói giòng Sát Đế Lợi làm lễ quán đảnh tân vương. Thân của vua hẳn là giòng Sát Đế Lợi, thỉnh các vị Bà la môn làm thầy làm lễ quán đảnh trên đầu vua. Bà la môn là chủng tộc tu hành giữ giới thanh tịnh nên giòng Sát Đế Lợi thỉnh làm lễ quán đảnh trên đầu vị tân vương. Đây là một tập tục theo nghi thức thọ pháp của Pháp Vương (Phật), cũng gọi là địa thứ 10 của hàng Thập địa Bồ tát cứu cánh sanh cung trời Đại tự Tại thuộc sắc giới, giữa đài liên hoa nhập Kim Cang định thọ ngôi vị Phật. Hơn nữa các vị Bồ tát là hàng chúng trung tôn, là trưởng tử của Phật, là thái tử. Mười phương chư Phật là thầy các vị Bồ tát. Bồ tát trợ thủ chư Phật làm cánh tay mặt lấy nước pháp thanh tịnh ba đời chư Phật rưới lên đầu vị quốc vương vì đảnh là giữa đầu, đầu là phần cao khiết nhất để tẩy trừ hai chướng từ đời vô thủy tới nay bị bao nhiêu cấu uế, hữu lậu ô nhiễm, biến thành thanh tịnh vô lậu tinh khiết để ngôi vị pháp vương thù thắng. Cũng như ở đời thái tử đã làm lễ quán đảnh mới thọ nhận vương vị, đội mũ vua, mặc triều phục, ngồi vào cung vua. Thái tử trong Phật pháp cũng thế, phải thọ pháp của Pháp Vương mới đội mão Phật gọi là nhứt thiết trí hay nhứt thiết chủng trí, là nơi giữ gìn tâm Phật, tức quán chiếu bằng trí tuệ Bát Nhã. Đây mới thật là công đức pháp bảo trân quí. Trong bảy món thánh tài gọi là huệ tài, cho nên mão nầy chính là mão báu vậy. Pháp y công đức chư Phật hai đời là chiếc y của tàm quý, nhu hòa, nhẫn nhục. Mão trí huệ nầy là đại trí tạng nên mọi thiện pháp nhân trí đây phát sanh. Mười phương chư Phật nhất loạt đều đắp mặc y phục, đội mão như thế. Ác hữu trong vô thỉ lấy nước phiền não rưới lên đỉnh đầu, trong kiếp sanh tử tâm là đầu mối chứa mầm ngu si xấu ác. Sanh tử chứa chấp vô tàm vô quý, can cường các lớp sơn ngỗ nghịch, sân giận, bẩn dơ, hẳn được tiêu trừ, vĩnh viễn xa lìa, hoàn toàn không rơi vào lao ngục ba cõi, nên gọi là hàng phục chúng ác, pháp môn tối thắng hay cũng gọi là pháp môn quán đảnh trí tạng. Do thế bậc tam giới chủ (Phật) thoát ra khỏi mọi ràng buộc sanh tử hữu lậu ngoài ba cõi. Vô lậu cũng gọi là biến khắp. Kinh còn giải thích rằng: như thực hành pháp quán đảnh thế gian thì hiện đời được quả vị pháp vương xuất thế về sau. Câu ba nói biến trí Kim Cang đại quán tự tại mà trong 14 đoạn thuộc đoạn thứ 12 là khắp mọi loài chúng sanh trụ trì pháp môn biến mãn thắng tạng. Vì Phật chứng được đầy đủ Như Lai tạng. Bồ tát Phổ Hiền tự thể có nghĩa biến khắp là chứng Như Lai tạng biến khắp hết mọi loài hữu tình. Đây nói về trí chứng tức là trí Kim Cang biến khắp diệt sạch sanh tử, tất cả phiền não chướng. Sau đó dùng tâm bi quán sát thân, miệng, tâm, hạnh chúng sanh để tận diệt sạch phiền não rồi tùy thời mà ứng hiện, chúng hữu tình đều có trí Kim Cang tạng nầy. Dùng Kim Cang tạng làm phép rưới rảy gọi là chánh pháp tạng. Mọi việc do từ chánh ngữ chuyển nên đều thành tịnh nghiệp (nghiệp thanh tịnh) và hết thảy sự nghiệp về sau đều nhờ lực gia trì nầy mà thành tựu. Do quán sát loài hữu tình khởi ba thiện nghiệp nên gọi là quán tự tại. Người trong lúc làm lễ như món pháp khí lợi lạc không mất thời gian nơi chốn, nên gọi là đại quán tự tại. - nước Qui Tư có vị thánh tỳ kheo ni đã hóa hiện phép đại quán tự tại vậy. Câu thứ tư nói rằng: quyết định chư pháp đại diệu trí ấn, trong 14 đoạn là phần thứ hai về pháp tánh tịch tịnh Bát Nhã lý thú thuộc Đẳng giác. Nói chung tất cả pháp không ngoài hai pháp: một là trí, hai là cảnh. Trí là trí Kim Cang, cảnh nói chung là mọi pháp. Cũng có thể nói có hai pháp: một là năng tác, hai là sở tác. Năng tác có thể là pháp, sở tác là nghĩa. Nay nói rõ đức Thế Tôn có hai pháp, trong hai pháp nầy chắc chắn phải hiểu rõ không hồ nghi. Năng tri là trí tức là đại diệu trí ấn. Trí ấn có hai loại hay hai pháp. Lìa hẳn các lưới nghi không phải phàm phu ngu mê lường được nên là diệu; dùng thần lực cũng khó nghĩ lường được nên là đại; trí ấn nầy quán sát các pháp không còn nghi ngờ nữa. Câu thứ năm nói rằng tất cả chư Phật rốt ráo vắng lặng bình đẳng tánh ấn, là pháp thứ năm trong 14 đoạn. Một, tất cả các pháp thậm thâm vi diệu là pháp môn thanh tịnh. Bốn, bình đẳng trí là pháp thanh tịnh. Bảy, lìa các hý luận là pháp chuyển từ tâm. Tám, nhập cổ xe lớn là pháp tánh bình đẳng, mười một: tánh bình đẳng là pháp tánh cao tột nhất mà trước đây do bao nhiêu vọng tưởng, cố chấp tác thành, nay vĩnh viễn xa lìa vọng tưởng, cố chấp. Câu chấp không còn thì chỗ chứng ngộ hiển lộ, vọng tưởng tiêu diệt nên tâm được thanh tịnh. Mọi vọng tưởng hoàn toàn dứt sạch thì cho dù nhập hay xuất thế, các pháp nhiễm hoặc tịnh cũng đều vắng lặng. Thể tánh của vắng lặng là chân như, có nghĩa là tất cả các pháp tánh bình đẳng. Điều nầy chắc chắn có cùng khắp các pháp nên gọi "ấn" là vậy. Phật đã đạt được pháp nầy, hoàn toàn viên mãn nên nói khéo chứng ngộ. Song Trung Biên Luận giải thích 20 tánh không trong đó rốt ráo là không và rằng: vì muốn làm lợi ích mọi loài chúng sanh nên quán không hoàn toàn là không. Theo ý nầy có thể giải thích: vì chúng hữu tình nên quán riêng không hoặc quán hữu, là vì chúng sanh thấy không. Sự quán sát nầy của chúng hữu tình hoàn toàn không đạt tới cứu cánh nên quán không rốt cuộc hoàn không. Cái không đây hoàn toàn vắng lặng mà chúng sanh thấy giống nhau nơi các pháp. Đó là giữa pháp, người tánh bình đẳng thì biết chắc rằng các pháp hoàn toàn là không. Do biến kế chấp hoặc do chấp lý nhị không là hoàn toàn rỗng không. Đây lược giải câu một tất cả pháp thậm thâm vi diệu là nghĩa yếu của pháp thanh tịnh. Ngoài ra, bốn pháp môn khác đều có giải thích đầy đủ. Đây sợ rườm rà nên không giải thích thêm. Câu thứ sáu giải rằng, đối với việc năng tác, sở tác đều khéo hoàn thiện đầy đủ. Thứ 10: khéo điều phục là hiển lộ đức tánh trí tạng. Người điều phục được sân, giận, phiền nhiễu, lỗi quấy v.v... chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể điều phục chúng. Phật cũng có thể điều phục phiền nhiễu, sai quấy cho chúng sanh tùy theo mỗi trường hợp thiện ác lớn nhỏ ra sao và bị cấu nhiễm thế nào. Phật khéo léo điều phục tất cả, hoàn toàn được là do trí nầy và thảy đều dứt sạch không còn sót thừa. Đức Thế Tôn tự chiết phục điều phục xấu ác, hoàn toàn viên mãn và Ngài còn điều phục xấu ác, cấu nhiễm cho chúng sanh làm cho tất cả đạt được giác ngộ Phật quả. Nên gọi đây là khéo hoàn thiện đầy đủ không còn dư sót thừa. Chỉ khi nào dứt hết được cấu nhiễm mới có thể đầy đủ cách khéo hoàn tất những việc khác, nên nói là khéo hoàn tất không còn thừa. Người đủ trí tuệ khôn khéo mới làm nên sự nghiệp. Như chế ngự được cơn nóng giận chẳng hạn cũng gọi là làm nên sự nghiệp. Hơn thế nữa, người trí tuệ biết khéo léo làm việc, tức biết giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý xa lìa cấu nhiễm, là đã hoàn tất việc làm. Đây là tán thán đức Phật có đầy đủ trí phương tiện khéo điều phục sân giận giữa mình và kẻ khác một cách hoàn toàn không thiếu sót. Câu 7 giải rằng: hết thảy mọi chúng sanh có những mong cầu chi theo chỗ vô tội của chúng mà đều được mãn nguyện tất cả. Câu thứ 14 nói về lý thú thậm thâm là pháp tối thắng hơn cả mà đức Thế Tôn đầy đủ trí Bát Nhã Ba La Mật khéo phương tiện lập nên trí thù thắng nầy. Cũng khéo hoàn thành tất cả sự nghiệp thanh tịnh làm cho mọi loài được thanh tịnh. Vã lại, tánh tham đã được chế ngự mỗi thời mỗi lúc cho đến các loài hữu tình khiến tự chúng đều được thanh tịnh. Khi lòng tham lớn đã được trong sạch thì được đại lạc, đại tài. Vào ra ba cõi một cách vững bền tự tại làm lợi ích chúng sanh dùng ngôn từ mật ngữ diễn chú Đà La Ni nầy cho tất cả. Người nào thọ trì chú Đà La Ni nầy mọi chướng đều tiêu tan, tùy theo sở cầu đều được như nguyện. Cho đến vì người nói rộng làm cho họ xa lìa phiền não, ác nghiệp, lập nguyện nhập thế, xuất thế, đời nầy hoặc đời sau, do vô tội báo nên thảy đều được mãn nguyện. Nếu như dấy khởi phiền não ác nghiệp gây nên tội lỗi, và như thế là các nguyện không thể thành tựu. Nên biết đức Thế Tôn không đoạt nguyện của chúng hữu tình, song mọi nguyện vọng không thành tựu là đều do chúng tạo tác cả. Điều cần yếu là phải vô tội, nếu như dấy khởi phiền não và ác nghiệp thì cho dù có chí thành khẩn thiết vẫn không định, nguyện vẫn bất thành. Lòng trong sáng như ngọc như ý phát thiện nguyện thì ắt mọi việc đều được thành tựu.
Câu tám giải rằng: khéo an trú bình đẳng trong ba đời là người tồn tại mãi danh đồn khắp nơi. Đoạn 13 trong số 14 đoạn nói về lý rốt ráo vô tận pháp Kim Cang. Đây là nói chung về Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thể hoặc dụng, rộng hoặc sâu đều không khác chỗ rốt ráo tột cùng. Vì thế chư Phật từ vô thỉ trở lại chỉ có mỗi một vị là rốt ráo (giải thoát), là quán chiếu Bát Nhã , thể-dụng-sâu-rộng vô cùng tận. Trí Bát Nhã năng biến khắp nên không ngằn mé. Vì không dứt đoạn nên nói chỉ một vị, vì không cùng tận nên nói là hơn hết. Cho nên quán chiếu trí Bát Nhã thâm diệu biết được ba đời; biết quá khứ, vị lai cũng như biết được hiện tại nên gọi là bình đẳng. Hơn nữa quán chiếu tới tận cùng vô biên không ngằn mé cũng chỉ một vị là rốt ráo. Cũng như quán sát ba đời sự hoặc lý mỗi mỗi phân minh hiểu rõ thông suốt nên gọi là bình đẳng; lý của pháp cùng một tướng cũng gọi là bình đẳng. Dù lý hay sự đều thông suốt cả nên bình đẳng cộng thông cả lý và sự. Tác dụng của trí Bát Nhã là biến chiếu cùng khắp sâu rộng thường hằng không gián đoạn. Người nào khéo an trú nơi trí nầy có thể quán chiếu tới chỗ thâm diệu hiểu rõ tam tế (quá khứ, hiện tại, vị lai) gọi là khéo an trụ. Trong lý-sự đều không tán loạn nên nói là khéo an trú. Trong mọi lúc trí Bát Nhã biến chiếu cùng khắp là ý nầy vậy. Câu 9 giải thích: thân-miệng-ý bền chặc như kim cương nên chư Phật như như bất hoại, như đoạn 6 trong 14 đoạn nói về trí ấn Kim Cang của Phật. Đoạn 9 nói về chân pháp cúng dường là pháp vô thượng bậc nhất. Đức Phật hàm thâu tất cả Như Lai Kim Cang thân ấn nên chứng được pháp thân chư Phật mới thâu nhiếp được ngữ ấn Kim Cang của chư Phật. Đối với các pháp chuyển hóa tự tại mới thâu nhiếp tâm ấn Kim Cang của chư Phật. Trong các phép định đều được tự tại, thâu nhiếp được trí ấn Kim Cang của chư Phật mới đạt đến vô thượng diệu thân, miệng, ý bền chắc như kim cương, như như bất động, không bị hủy hoại, không bị phiền não làm khuynh đảo, cũng không bị ngoại đạo, ma vương phá quấy, làm cho ba nghiệp hành giả lắng sạch. Dùng ba nghiệp Phật trí làm tiền đạo để xa lánh tội lỗi. Không gì có thể xâm phạm làm cho tội lỗi khởi lên, nên nói là như như bất động. Người đạt đến như như bất động sánh với chư Phật không khác, nên nói so sánh với. So sánh chư Phật như trước đã nói là tất cả diệu nghĩa của Như Lai, như như bất động như chất kim cương đây vượt thắng luôn cả ba nghiệp. Do đời trước gieo nhân lành đúng pháp ba nghiệp cúng dường chư Phật.Vì nhân cúng dường đến khi đạt được quả là thành Phật. Chân thật cúng dường ắt được thiện báo, nên nói là như như bất động. Như ba nghiệp đây không do ngoại đạo hoặc ác hữu tạo, thì dù thiên ma hay bạn bè xấu của chúng cũng không phá quấy được. Do bền rắn như kim cương hay phá diệt sanh tử trong đó có ba nghiệp. Tánh của ba nghiệp cũng là thể của chúng, không có nghĩa nào khác. Trong đoạn 9 nầy nêu rõ công đức của Phật. Nay tán dương Phật đức là muốn chúng sanh biết chư Phật đầy đủ các đức tướng để phát tâm tôn trọng kính ngưỡng thọ nhận lời Phật. Dạy hoặc nghe kinh nầy phát tâm Bồ đề dõng mãnh mong cầu chứng quả; hoặc nêu các đức tướng của Phật là hơn hết không ai bằng. Vì thế, nên nói lý thú vi diệu rất là thù thắng ta có thể nương theo đó tu học. Đoạn 2 còn giải thích: căn cứ vào các kinh nói thì Phật có đầy đủ 21 đức, có giải riêng phần nầy trong đoạn 9. Kinh văn có nêu: Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí là nói Phật hiện thân bất nhị nhất hướng tới công đức thù thắng không chướng ngại và nêu rõ chỗ Phật đạt được đến tánh bình đẳng, được Phật tướng đồng nhất trong sự tu hành là công đức hơn hết. Trong câu nầy đã nêu lên được cả hai đức tướng, vì đức Thế Tôn lìa sanh tử mà hiện trong phàm phu đủ mọi tạp nhiễm chấp trước của sanh tử. Người lìa nhị thừa hướng Niết bàn đạt đến một phương nhắm tới lợi lạc tha nhân, là còn trụ bám vào Niết bàn. Đức Phật không còn hai chướng hiện hữu Niết bàn nên gọi không còn hai món hiện hành. Bi và trí tròn đủ đối trong sanh tử hay Niết bàn đều không trụ nên gọi là bình đẳng. Hành giả phá trừ được hai chướng nầy có thể ví như kim cương. Trụ nơi vô sở trụ nên không trụ Niết bàn, vì thế gọi là trụ trì. Gìn giữ bi và trí nên sớm đạt được tánh bình đẳng của chư Phật so với lý sở chứng, trí năng chứng để thân, nghiệp, ý hạnh bi bình đẳng. Do tâm bình đẳng nầy hay phá trừ sanh tử gọi là Kim Cang bình đẳng, căn cứ việc năng duy trì chúng đức nên gọi là trụ trì. Nay chỉ nêu lên một việc duy trì nầy so sánh với rất nhiều công đức khác nên nói mỗi một công đức thù thắng. Câu 2 trong Kinh giải rằng lễ quán đảnh lên chiếc mão báu vượt ngoài ba cõi để nói rõ Phật đủ ba đức. Một là chư Bồ tát cầu mong đạt được chánh trí, hai là cực cùng ở cõi pháp giới, ba là việc làm vô ngại. Trong câu nầy phần đầu nói muốn thành tựu Phật chủng thì không thể bỏ pháp phương tiện, là công đức thù thắng hơn cả. Nghĩa là chư Bồ tát vì muốn Phật chủng không đoạn diệt nên chuyên cần tu tập gia hạnh, không thể sánh với hàng nhị thừa. Vì thế, Phật trí chỉ có chư Bồ tát mới thành tựu. Do ý nghĩa nầy, phép quán đảnh vương tử lúc lên ngôi thuộc địa thứ mười trong thập địa. Đội mão báu của Phật, đứng vào chỗ đứng của Phật chẳng phải hàng nhị thừa có thể kham được, là khiến chúng sanh cầu nghe được Kinh Bát Nhã thậm thâm vi diệu để đạt được giác ngộ, cũng như để kế thừa ngôi vị pháp vương. Vì thế, nếu bị các chướng ngăn chặn chúng sanh không thể tu học Kinh Kim Cang Bát Nhã được, tức là đã đoạn mất giống Phật. Đoạn thứ 2 nói về công đức thù thắng quả chứng đắc, là đạt đến pháp giới cùng cực thanh tịnh. Quả tu chứng cõi tịnh pháp giới nầy quán chiếu tâm hiện tiền, dụ cho đỉnh đầu có thể đội mão báu. Mão báu là đồ trang sức trên đầu. Pháp giới là nền tảng công đức nên dụ cho mão báu. Câu 3 giải thích: hàng phục ma oán là công đức vượt hơn cả. Vì thế, hành giả cõi sắc trở lên bị cảnh làm tâm nhiễu loạn chướng ngăn thiện pháp nên gọi ma oán là vậy. Chư Phật tâm khéo trụ nên cảnh hoàn toàn an lạc tự tại không còn dấy động, nên được công đức tối thiện hoàn toàn. Tất cả mọi điều ác không tác dụng mới chế phục được cảnh. Mọi việc làm đều được thông suốt không bị trở ngại hẳn xa lìa điều ác cho đến khi thành Phật siêu xuất ba cõi. Câu 2 để tán dương đức Thế Tôn, trước chưa thành tựu nay hợp thời mới thành tựu nên gọi là hoạch (đạt được). Câu 3 giải thích: trí Kim Cang biến khắp đại quán tự tại ấn, là ba công đức của Phật: một là pháp bất khả chuyển, hai là trụ chỗ Phật trụ, ba là các hạnh hoàn toàn giác ngộ. Câu 1 nói rằng hàng phục ngoại đạo là công đức hơn cả có nghĩa là Phật dùng chánh pháp hàng phục ngoại đạo không thoái chuyển. Để hàng phục ngoại đạo Phật đã chứng tỏ đạo mình chân chánh. Phật thành tựu trí Kim Cang biến chiếu nói pháp vi diệu hàng phục chúng ngoại đạo. Hơn nữa, do thành tựu trí tuệ rộng lớn Phật đủ khả năng thuyết pháp mầu độ chúng ngoại đạo. Cho nên dùng trí đây dụ cho sự cứng rắn của kim cương. Nói trí biến khắp là trí hiểu rõ tường tận các pháp vậy. Câu 2 nói quán xét nơi hóa sanh là công đức thù thắng. Vì đêm ngày 6 thời đem lòng đại bi quán sát mọi sự thế gian. Câu 3 nói rằng nương nơi các thừa hóa độ chúng sanh. Phật tùy trường hợp ứng hiện là công đức tự thân thù thắng. Phật biết rõ tâm tánh chúng sanh không đồng nên theo đó hiện thân nói pháp, gọi là đại quán tự tại. Quán tâm chúng sanh sai biệt bất đồng để tùy loại mà hiện thân. Do đây có thể nói Phật tùy cơ ứng hiện. Điều nầy chứng tỏ rằng Phật đầy đủ trí quán chiếu khắp mọi loài. Vã lại, câu 1 nói: trí Kim Cang biến khắp là công đức thứ hai mươi mốt. Nói tóm lại là trí giác thanh tịnh tuyệt vời. Đối với pháp hữu vi, vô vi phải xem là cảnh giải thoát để khai mở tuệ giác. Thanh tịnh viên mãn chính là cửa ngỏ tuệ giác. Ngoài ra, đối với tâm tánh biết rõ tâm chúng sanh là khai mở tuệ giác nên gọi là trí Kim Cang biến chiếu c?g khắp. Trong hai công đức đây, nay nêu lên một tròn đủ gọi là "đắc". Câu 4 giải thích quyết định các pháp là đại diệu trí ấn. Trí đây hàng thập địa đã đạt được. Bây giờ nêu lên hai loại công đức viên mãn: một là đối với các pháp trí biết không còn bị ngăn ngại, hai là với các pháp trí không còn nghi ngờ. Trong câu nầy giải nghĩa: đoạn tất cả nghi là công đức thù thắng tức là đối với các pháp hẳn trí đã đoạn dứt hết mọi nghi ngờ. Cho nên câu 2 nói khéo đạt được nhứt thiết trí, tùy theo hoàn cảnh đem giáo pháp dạy chúng là công đức thù thắng. Có nghĩa là đối với các pháp không còn nghi ngờ, tận lực tùy theo hoàn cảnh dạy dỗ họ, thì chỉ có đức nên Thế Tôn chứng ngộ được pháp mà thôi. Dùng trí hay khéo quyết định tùy trường hợp dạy dỗ không lay chuyển, không bỏ phế cho nên nói đối với các pháp nào chưa quyết định dứt khoác về lý thì không thể được. Vã lại đã hiểu ba pháp ấn: chư hành vô thường, Niết bàn tịch tịnh, các pháp vô ngã, là đã phân biệt rõ các pháp ấn cùng khắp. Ba chân lý nhiệm mầu nầy quyết định được các pháp nên gọi là ấn (chứng biết) vậy. Phật đạt đến trí nầy gọi là trí ấn. Câu 5 giải: rốt ráo vắng lặng bình đẳng tánh ấn là nêu lên hai đức: Một: Phật vô nhị đạt Niết bàn tối thắng; hai: chứng cảnh Phật bình đẳng không thiên lệch hai bên. Câu trên nói tự chứng ngộ là công đức thù thắng. Phật không phân hai tức pháp thân chân như đã chứng tướng vô sai biệt. Ở đó hai tướng phân biệt không còn hiện tiền mà do pháp định thường tại, nên gọi là trụ, tức không trụ hai bên thì đạt đến giác ngộ. Phật đạt đến cùng nên gọi là đắc. Pháp thân chư Phật có tánh bình đẳng đã trừ được hai ngã quán, hai ngã không mới chứng ngộ viên mãn. Câu 6 nói: chứng được chân như là công đức thù thắng, có nghĩa rằng tướng chân như xa lìa hẳn hai bên hữu vi, vô vi, cũng như lìa luôn cả mọi phương, xứ, vì cảnh giới Phật bình đẳng. Tánh bình đẳng châu biến khắp các pháp không còn nhiễm. Chân như ấn đây đối với các pháp hoàn toàn là không. Chứng như vậy mới ngộ được Phật là chỗ chứng viên mãn. Câu 6 giải thích: đối với mọi việc năng tác hay sở tác đều khéo thành tựu không còn thừa sót. Điều nầy nêu rõ hai loại công đức của Phật: một là thân Phật lưu biến khắp mọi cõi, hai là các cõi Phật thành lập không thể nghĩ bàn được. Câu trên nói Phật hiện từ cung trời Đâu Suất Đà đến là công đức thù thắng. Nghĩa là Phật hóa hiện thân khắp cùng ở mọi thế giới, đại châu và đồng thời Ngài cũng nhập vào thai mẹ. Đây là 8 tướng thành đạo của Phật. Điều nầy nói lên rằng đức Phật thành tựu được sự nghiệp là nhờ biết khéo léo. Hóa thân cũng như báo thân đều do nơi sự ứng hóa hiện lý giống nhau. Câu sau nói: thành lập giáo pháp để giáo hóa là công đức thù thắng, nghĩa là Phật thiết lập giáo pháp dạy đạo ngoài sự nghĩ suy của các cảnh giới. Vì thế nên gọi chỗ làm nên sự nghiệp đều hay khéo. Nhân tu ba kiếp làm người, hiện đời thành Phật thuyết pháp đem lại đại lợi lạc, công việc được viên mãn trọn vẹn nên gọi là thành tựu khéo không còn dư thừa. Câu 7 giải thích: tất cả các loài hữu tình mong cầu chi theo chỗ vô tội đều được mãn nguyện. Điều nầy nêu rõ hai đức tánh của Phật: một là đạt được vô tướng pháp, hai là tướng liên tục không gián đoạn. Như Lai giải thoát đạt được diệu trí viên mãn. Câu nầy hàm ý rằng Phật đã điều phục là công đức phương tiện thù thắng. Vô tướng là Niết bàn. Phật biết rõ chúng sanh của ba thừa nên Ngài kham nhẫn phương tiện giáo hóa. Vì chúng sanh nói sự thật khiến chúng ngộ được Vô tướng pháp. Ý nói: tất cả hữu tình muốn cầu ra khỏi sanh tử đạt đến Niết bàn. Hàng tam thừa nguyện lực thâm thiết do vô tội đạt được Phật quả viên mãn. Câu sau nói: Phật hiện thân ra đời là công đức thù thắng, có nghĩa là Phật thọ thân không bị gián đoạn. Các đức Phật thọ thân mỗi vị thân tướng khác nhau. Phật đầy đủ diệu trí khiến chúng sanh được giải thoát. Nói Như Lai giải thoát bậc trí tuệ siêu việt, vì Phật trí đã được viên mãn rốt ráo. Trí tuệ nầy của Phật không bị gián đoạn. Nơi cõi Tịnh Độ Phật hiện thọ dụng thân cũng không gián đoạn. Giữa những cuộc tập hội đông đảo Phật hiện nhiều thân để cùng chư Bồ tát thọ được pháp lạc, đều liên tục không xen tạp. Phật dùng trí mầu hiện thân đạt đến rốt ráo. Ý đây nhằm nêu rõ trí của Phật và sự hiện thân của Ngài đều được viên mãn. Tùy theo chúng sanh hoàn toàn vô tội với sở thích, mong mỏi Phật hiện pháp khéo cứu độ họ xa lìa sanh tử được toàn thành sở nguyện. Câu 8 giải thích: khéo an trụ bình đẳng trong ba đời biết rõ pháp thường, đoạn, pháp vô thật rốt ráo, phổ biến cùng khắp. Việc nầy nêu rõ ba loại công đức của Thế Tôn: một là qua lại ba đời tự tại an nhiên, hai là tánh biến khắp cùng hư không, ba là đến cùng tận vị lai. Câu trên nêu rõ công đức thù thắng ba đời, nghĩa là nhìn việc hiện tại để biết qua việc quá khứ, vị lai thông suốt. Cho nên kinh nói rằng Bát Nhã ở phương đông phương bắc hưng thịnh sau cùng và tiêu diệt trước nhất. Cũng như giáo pháp lúc tận diệt ở nước Chiêm Ba (?) diệt trước. Lúc giáo pháp hoại diệt trong Kinh đều nói rõ, cũng như ghi hai trụ đá hai bên cây Bồ đề "thân Bồ tát hoại diệt thì chánh pháp diệt". Qua thời gian không còn lưu lại những dấu ấn sự tàn phá để khảo chứng. Người ta căn cứ nơi bi ký vua A Dục ghi dấu để chứng minh. Hai câu sau nêu đức tự lợi và lợi tha là hai công đức vô cùng thù thắng. Ví như hư không trải qua kiếp thành, kiếp hoại vẫn nguyên vẹn không hoại diệt. Công đức chân thật của Phật cũng thế, luôn luôn tồn tại bất hoại, cho đến vị lai vô cùng tận. Công đức lợi tha cũng thế, tới cùng tận vị lai thường làm cho tất cả chúng sanh được an vui lợi lạc, nên nói rằng trí nầy biến chiếu cùng khắp mọi nơi, tức tác dụng công đức đây biến khắp không mất.
Câu 9 giải thích: thân, miệng, ý chắc như kim cương làm cho chư Phật bất động, không hư họai. Điều nầy nêu rõ hai nhóm công đức của Phật: một là đến mọi nơi mọi chốn không bị chướng ngại, hai là chỗ hiện thân không phân biệt. Đoạn nầy, câu trên nói đã tu sửa mọi chướng kết buộc là công đức đối trị thù thắng, tức là đã tu tập đối trị hai chướng tới thánh đạo, là đạt đến giải thoát tất cả mọi chướng ngại làm chỗ y cứ, chỗ nhắm tới nên gọi là Xứ. Do đó ba nghiệp của Như Lai thuần thanh tịnh như Kim Cương, vì chư Phật bất động không hoại. Câu sau nói khéo nhiếp thọ thân không nhiễm là công đức thù thắng. Vì tự thân Phật không khởi phân biệt hư vọng, không phiền não tạp nhiễm. Thân Phật là thân không còn tạp nhiễm không khởi phân biệt. Vì không phân biệt nên ba nghiệp Phật không còn sai lầm sánh với chư Phật như chất kim cương không hư hoại. Câu 9 dùng văn nghĩa để tán thán chung 21 công đức của Phật, nhưng e văn rườm rà ở đây không nêu ra hết. Luận Nhiếp Đại Thừa theo chỗ thích ứng rộng mà giải cũng không nhứt thiết từng điểm. Câu 3 cũng giải: trong 9 câu nầy của Kinh, 4 câu đầu tán thán báo thân. Câu 1 tán thán tổng quát bốn trí thông suốt thật đức báo thân không luận pháp giới. Câu 2 tán thán đạo là hơn cả đáng tôn; Câu 3 tán thán bi rộng trí khắp hai quả đều viên mãn; Câu 4 tán thán huệ rộng trí sáng. Nói chung tất cả sự lý, hữu vô đều chứng biết không lầm. Câu 5 tán thán đức vắng lặng sáng soi, tức tán thán pháp thân. Phần còn lại tán thán hóa thân. Câu 6 tán thán ân đức khéo thành tựu. Câu 8 tán thán chung về thần thông tự tại nên được mãn nguyện thù thắng. Câu 8 tán thán công hạnh thuyết pháp. Câu 9 tán thán các lậu (phiền não) đã sạch, hiện tại lìa nhiễm để dạy dỗ, khuyên răn. Câu 10 tán thán chung bốn trí hoàn toàn viên mãn báo thân. Kim Cang là nói ví dụ chung chỗ sở y kiên cố của tứ trí mà tánh sắc bén là chất kim cương, chứ không phải do sự phá hủy của tác dụng. Nói trụ trì là trí đại viên cảnh, tức là chứng tới chỗ trụ vào trí Kim Cang chân như. Đây là gốc các món thiện thế gian và xuất thế gian cũng là căn bản các trí khác, nên gọi là trụ trì vậy. Theo kinh Phật Địa có 9 ví dụ trí viên cảnh: 1/ y trí viên cảnh những hình ảnh khởi hiện, như trí Phật chiếu khắp mọi nơi, mọi cảnh, thức; thì hình ảnh phát khởi, do đó gọi là nhứt thiết trí. Phật thân có đầy đủ các đức nầy gọi là trụ trì. Vì trí đại viên nầy liên tục không gián đoạn ở xuất thế gian xứ, cảnh, thức đều nương đó phát sanh, nên gọi là trụ trì. 2/ Trí viên cảnh không động không giao quán sát tự thân chúng sanh mọi việc đắc thất, muốn giữ tánh đức, bỏ việc sai quấy. Trí viên cảnh của Như Lai trải khắp pháp giới không gián đoạn nên không bị giao động, quán sát vô số chúng sanh pháp nhiễm, tịnh muốn giữ pháp tịnh, bỏ pháp nhiễm. 3/ Như tấm kiếng sạch làu làu không dính bụi có thể sáng chiếu khắp. Ví như trí viên cảnh Như Lai đã đoạn hẳn nhị chướng nhiễm ô, dùng định lực sắc bén nhiếp trì, tâm tịnh không nhơ đem đến sự an lạc lớn lao nên sáng chiếu khắp nơi. 4/ Tấm kiếng nương theo bản chất các cảnh duyên mà hiện rõ hình tướng. Đây nói trí viên cảnh Phật hằng nương các duyên để ảnh hiện phát khởi. 5/ Kiếng chiếu soi mọi phía mọi nơi hình ảnh nương do tùy duyên phát hiện. Dụ cho trí viên cảnh Như Lai không gián đoạn, vô lượng thiện lành, là chỗ nương tựa của hàng tam thừa. 6/ Kiếng như đất bằng nơi đó núi non, nhà cửa, cung điện mọc lên phẳng lặng mà vẫn không tăng không giảm. Trí viên cảnh Phật ảnh hiện khắp thập địa soi sáng khắp hình ảnh thế, hay xuất thế mà phân lượng thì chẳng đồng. 7/ Vã lại trí viên cảnh không bị ngăn ngại nên do duyên mà hình ảnh hiện, trí viên cảnh Như Lai không bị ác hữu ngăn che, chánh pháp không bị chướng ngại, do trí chúng sanh phát khởi vì đó không phải là vật. 8/ Trí viên cảnh không chỗ tối tăm nào ngăn được hình ảnh phát khởi. Trí viên cảnh Phật thì không chỗ nào xấu ác ngu muội chúng sanh nào mà không hiện rõ, vì đó không phải là đồ vật. Vì ngu si sâu dày nên tuy có ruộng phước Tam bảo phát sanh thiện pháp, chúng sanh vẫn mê muội không muốn nghe, không muốn quay về, trái lại vẫn dong ruỗi ở ngoài đạo. Dẫu chẳng bị ngu si sâu nặng che lấp, nên nói chẳng phải là đồ dùng. 9/ Trí viên cảnh phi xứ do duyên hình ảnh từ xa tới gần mà phát hiện. Trí viên cảnh Như Lai phi xứ, là pháp thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Chúng sanh không tin trí phát sanh hình ảnh, đó chẳng phải là đồ vật. Thân đời trước phỉ báng giáo pháp nên trải qua vô lượng kiếp không nghe được chánh pháp là do nghiệp chướng ràng buộc. Hoặc không tin nhân quả, cho đó không phải thánh pháp nên không để ý tới. Do chín thí dụ trên theo chỗ ứng dụng tự hoặc tha thân, hữu tánh hay vô tánh, nhập thế hoặc xuất thế đều do nhân duyên nên gọi là trụ trì.
Pháp tánh bình đẳng có 10 điểm như dưới đây: 1/ Tất cả mọi tướng trạng lăn xăn như mừng, vui, thích đều là pháp bình đẳng. Như gặp hoàn cảnh tốt thì sanh mừng, ưa thích nên nay ngộ pháp tánh bình đẳng tất cả.
2/ Tất cả mọi sự thọ nhận là pháp duyên khởi bình đẳng, vì biết đó là do nội ngoại duyên mà sanh.
3/ Lìa hết mọi dị tướng, phi tướng là pháp bình đẳng vì hình dạng các pháp tướng trạng luôn luôn biến đổi khác nhau nên gọi là dị tướng. Sự cách ly mỗi mỗi khác biệt thì dị tướng tức là tướng chung. Như thế, tướng chung lấy phi tướng làm tướng là pháp bình đẳng. Kinh nói rằng, hết thảy các pháp đều đồng một tướng mà bị gọi danh là phi tướng.
4/ Lòng từ sâu rộng bao la là pháp bình đẳng. Lòng từ có ba loại: một là gieo duyên chúng sinh. Gieo duyên với chúng sanh là sơ phát tâm của Bồ tát lúc khởi tu. Hai là duyên pháp, có nhân duyên gặp giáo pháp làm cảnh mà Bồ tát tu chánh hạnh có nhiều phần vụ hóa độ chúng sanh. Ba là vô duyên, lấy chân như làm cảnh Bồ tát tu pháp vô sanh nhẫn, lòng từ do cảnh duyên, pháp duyên nên cũng còn gọi là vô duyên, tức là vô phân biệt. Chư Phật có đầy đủ phước nghiệp bình đẳng lâu dài không gián đoạn, tích lũy không dư thừa nên nói sâu rộng bao la.
5/ Lòng bi bình đẳng vô giới hạn. Lòng bi hàng nhị thừa chưa nhổ sạch hết khổ mà chỉ trừ tạm ở cõi dục thôi, chư Phật mở rộng tâm bi khắp ba cõi luôn luôn hằng chuyển, quán tới không không còn gì để quán, hằng cứu vớt không bỏ sót nên nhổ sạch ba khổ mà chúng sanh đang thọ, xem chúng sanh như con ruột không niệm phân biệt đây là con hay chẳng phải con, cần cứu hay không nên cứu, chư Phật đã đạt được đại giác luôn luôn niệm nghĩ như vầy: ta thường đem đến chúng sanh điều chính là việc thiện lành. Nếu ai chưa ngộ ta phải khai ngộ, làm cho họ giác ngộ. Đây cũng gọi là ba tâm từ tiêu chuẩn phải hiện rõ.
6/ Tùy theo chỗ ưa thích của chúng sanh mà Phật đem đến tâm bình đẳng. Tuy chư Phật đã đạt được vô hý luận (không nói bàn suông) do trí bình đẳng làm lực tăng thượng, nên đại viên cảnh trí tương ứng thức vắng lặng hiện sắc thân sáng rỡ như lưu ly khiến cho chúng sanh thành tựu căn lành nơi tự tâm làm cho thân tướng cũng thanh tịnh như vậy. Có nghĩa tự tâm thấy được thân Như Lai.
7/ Hết thảy mọi loài hữu tình đều tôn trọng pháp bình đẳng Phật dạy. Tùy theo chúng sanh ưa thích Phật khéo dùng lời hay làm cho tất cả đều hoan hỷ. Phật hiện thân do lòng bi nguyện thuyết pháp hợp căn cơ không làm thương tổn. Cho dù có những chúng sanh không thuận theo lời Phật dạy, nhưng đây là lời giáo hóa có tác dụng ngay bây giờ hay lợi lạc về sau nên ắt phải tin tưởng thọ nhận.
8/ Thế gian nầy vắng lặng cùng một pháp vị bình đẳng; song còn hữu lậu, ngũ uẩn nên gọi là thế gian, chỉ khi nào những thứ kia diệt hết mới được gọi là vắng lặng hoàn toàn. Pháp sanh tử hay Niết bàn cả hai đều bình đẳng nên gọi là đồng một vị. Vã lại, để phá chỗ chấp không theo bản tánh cố hữu thế gian nên cho là vắng lặng. Điều này nêu rõ pháp vô sai biệt nên nói là một vị.
9/ Những việc khổ vui ở thế gian đều cùng một vị. Ở đời có tám việc: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc (lợi lộc, thất bại, hư hoại, khoe khoang, ca tụng, xấu hổ, khổ, vui) như việc nào được vừa ý là lợi, việc nào không vừa ý là suy, hiện không xài được là hủy, được ca ngợi tán dương là dự, trước mặt được người tán dương là xưng, hiện bị người bôi bác là cơ, thân tâm bứt rứt phiền muộn là khổ, trong lòng thư thái vui sướng là lạc. Bậc thánh trong khi hành xử thường giữ mực thường là được lợi không ham, gặp việc không vừa ý vẫn thản nhiên không chán nản, cho chí gặp khổ cũng không lo mà được vui vẫn không ham thích.
10/ Xem mọi việc như gió thoảng giữa hư không bình đẳng như nhau, là đã gieo trồng được 10 trong vô lượng công đức bình đẳng rốt ráo. Công đức nầy đã huân tập trưởng dưỡng thành thục giải thoát pháp tu Bồ đề phần nên gọi là gieo trồng. Hoàn thành 10 công đức nầy thì được bình đẳng tánh trí. Bình đẳng có hai là tất cả chúng sanh bình đẳng, chư Phật bình đẳng. Luận Nhiếp Đại Thừa giải rằng: chuyển thức thứ bảy thành bình đẳng. Do trước chấp ngã, bỉ, thử, bất đồng; nay lìa ngã, chấp, bỉ, thử nên gọi là bình đẳng. Mỗi mỗi công đức hy hữu rốt ráo là nói về diệu quan sát trí và thành sở tác trí, mỗi trí đều có 10 nhân. Mười nhân của diệu quan sát trí như:
1/ Kiến lập nhân: Trí nầy lưu giữ tất cả pháp đà la ni (ấn chú), thiền định (Samadhi) là vô ngại diệu pháp của chư Phật, gọi là 10 lực.
2/ Sanh khởi nhân: Trí này phát khởi mọi hiểu biết vô ngại mỗi mỗi tương thức nhân duyên. Tức là nhứt thiết trí có thể hiểu rõ tất cả cảnh duyên. Mọi cảnh duyên là nhân sanh khởi.
3/ Hoan hỷ nhân: Trí này có thể đạt đến bỉ ngạn, pháp Bồ đề phần, thập lực, vô sở úy, bất cộng Phật pháp, là chỗ thật trang nghiêm an lạc.
4/ Phân biệt nhân: Mọi việc hưng suy nhân quả của Tam Thừa thế gian hay xuất thế gian đều viên thành không dư thừa. Quán sát tinh tường chi li thiện ác thế gian trong vòng nhân quả thạnh suy. Xuất thế có nhị thừa mà Đại Thừa nêu rõ nhân quả việc thạnh suy. Cũng có thể giải cách khác trong Kinh Phật Địa phẩm năm nói rõ.
5/ Thọ dụng nhân: Trí đây giúp làm tăng thượng duyên cho bình đẳng tánh trí, như kiếng soi; trí này cũng là tịnh thức hiện thân thọ dụng, mỗi mỗi chứa nhóm đầy đủ oai đức chan hòa pháp vũ nhuần thấm đại pháp, làm cho hàng thập địa Bồ tát thọ được nhiều pháp lạc, cũng như trợ lực thành tựu biến hóa thân, cũng khiến cảnh trước mắt biến thành an lạc.
6/ Thú sai biệt nhân: Trí đây trải rộng khắp nhân quả sai biệt trong 5 đường (ngũ thú).
7/ Giới sai biệt nhân: Trí này trải rộng khắp nhân quả sai biệt ba đời hiển bày đầy đủ.
8/ Vũ đại pháp vũ nhân: Trí này rải mưa pháp chan hòa khắp nơi Chư Phật, Bồ tát đủ thần lực dẫn dắt thấm nhuần sâu rộng giáo pháp vi diệu.
9/ Hàng phục oán địch nhân: Trí đây đối với thiên ma ngoại đạo, dị nhân thảy đều không làm khuynh động lung lạc, vì đạt đến cõi pháp giới vi diệu.
10/ Đoạn nhứt thiết nghi nhân: Diệu quan sát trí không mê muội về các tướng riêng tướng chung vây bức. Luận rõ tướng riêng tướng chung, tức nhân số mười đây luận rộng về các tướng như Kinh Phật Địa luận dẫn ... Thành sở tác trí có 10 nhân thuộc 3 nghiệp hóa. Thân nghiệp hóa có ba: một là hiện thần thông hóa, do Phật khéo léo hóa hiện ở mọi nơi để trừ những chúng sanh ỷ lại, ngạo mạn; Phật dùng phương tiện lực khéo dẫn dắt chúng sanh đưa vào con đường thánh thiện để được giải thoát. Hai là hiện thọ sanh hóa: do Phật dạo qua các cõi chúng sanh hiện thân đồng loại song phẩm vị cao tôn hơn. Vì Phật hiện thân hình đồng như chúng sanh nên nhiếp phục được mọi loài dị loại khác hình. Ba là hiện nghiệp quả hóa: Do Phật thị hiện như kinh Bổn Sự Bổn Sanh tu hạnh khó hành. Trong Khế Kinh nói: kiếp trước của Phật vào thời Phật Ca Diếp ra đời, Ngài dùng những lời mạ ly?nói rằng, nơi đâu ông thầy tu cạo bỏ râu tóc đắc đại Bồ đề, thì cũng khó thành đạo vô thượng giác. Do ác nghiệp của Ngài gieo kiếp trước như thế nên nay phải thọ quả báo khổ nạn. Đây cũng là lời dạy dứt ác hành thiện trong đời này. Nếu không được như thế thì luống phí một đời hệ lụy ích chi ? Chư Bồ tát từng thân cận vô lượng các đức Phật gieo trồng căn lành, nhớ biết được kiếp trước mà còn phát ra ngôn ngữ hành động xấu ác như thế. Nên biết rằng đây là lời Phật muốn giáo hóa những ai nghe đều được hóa độ, để họ đối với chư Phật tránh xa không dùng những lời thô ác như thế.
* Khẩu nghiệp cũng có ba loại: một là lời an ủi, do đó Phật tùy nghi tìm mọi phương cách làm vui; Văn từ êm nhẹ làm cho chúng sanh trí thấp mới nghe tin ngay. Ngôn từ của Phật đầy đủ 16 đức, phàm phu trí thiển cận nghe xong sanh lòng tin tưởng ngay, huống gì là người thông minh trí tuệ có thừa. Hai là phương tiện ngữ hóa: Phật lập chánh học xứ phá trừ kẻ buông túng giữ cho không buông lung. Do tâm đại bi, Phật cũng lập tùy hạng người tin, tùy pháp thực hành v.v... Vì chúng sanh lập học xứ khiến chúng diệt ác tu thiện. Ngài cũng lập pháp phần Thánh đạo sai biệt làm cho chúng sanh nhập vào chánh đạo thoát ngoài ba cõi. Ba là biện dương ngữ hóa: Phật đoạn lìa nghi ngờ cho vô số chúng sanh thành trí hiểu biết chân chánh, tùy tâm ưa thích sai biệt của chúng sanh mà biểu tỏ lòng cảm hóa. Nói pháp để đoạn trừ hồ nghi, phát ngôn một lời tiêu biểu hàm nhiều nghĩa làm cho chúng sanh tùy từng loài mà được lợi lạc. Phật dùng một thứ âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loại được hiểu rõ thông suốt. Tất cả những việc như thế là do bổn nguyện lực Phật bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn) dẫn đạo, hoặc hiện hóa thân đồng hình trông khác để được lợi lạc mọi loài.
* Ý nghiệp có bốn loại: một là ý quyết định chọn lựa: do đó Phật tùy theo tám vạn bốn nghìn trần lao phiền não của chúng sanh tâm sai khác mà chọn 84,000 pháp môn tu khác nhau. Đây là sự chướng ngại của 84,000 pháp Ba La Mật Đa, đà la ni (ấn chú), Tam ma địa (Samadhi, thiền định). Như kinh Hiền Kiếp có giải rõ. Có thể nói lúc đầu tu pháp Ba La Mật Đa, về sau đi vào chi tiết chi li của Phật, Ba La Mật Đa gồm 350 pháp; mỗi pháp có đầy đủ sáu pháp đáo bỉ ngạn (đến bờ giác). Như thế nhân lên tất cả là 2100 pháp để đối trị tham, sân, si, đẳng phần tâm sai biệt của 8400 chúng sanh. Ngoài tứ đại, lục độ, thập chuyển hợp thành 84,000 pháp môn tu. Tu tập các pháp này về sau thành tựu 84,000 pháp đà la ni, Tam ma địa (ấn chú, thiền định). Ở đây chỉ giảng sơ lược, còn nói rộng thì vô cùng. Hai là tâm tạo tác, do vậy Phật quán chỗ thực hành của chúng sanh. Hành hay không thực hành, được hoặc mất làm cho chúng sanh đối trị việc lấy hay buông bỏ; theo đó quan sát việc làm của chúng sanh. Như làm những điều ác không tu các việc thiện là mắc lỗi lầm. Còn nếu làm những việc thiện là có thiện đức không phạm lỗi quấy. Quán sát như thế là muốn làm cho chúng sanh lấy đức bỏ lỗi. Tạo đức để đối trị lỗi lầm, như đã tạo nên lỗi lầm thì cần phải xa lánh. Ba là ý phát khởi: Phật muốn nói pháp đối trị lỗi lầm kia nên bày tỏ sự an thái của Ngài bằng văn tự, câu lời. Có nghĩa tùy chỗ ưa thích của chúng sanh mà nói pháp để đối trị lòng ưa thích của họ. Bốn là ý lãnh thọ: do pháp này Phật đối với pháp định hay bất định, nói ngược lại để nêu ra vấn đề riêng biệt, tùy chỗ thọ nhận của chúng sanh ở quá khứ, hiện tại hay vị lai mà đáp ứng. Bốn pháp đây cùng một hướng phân biệt, ngược lại như đặt lại bốn vấn đề luận thuyết. Vì Tam Bảo là ruộng phước điền tốt làm cho ba nghiệp thay đổi thành ba pháp thần biến, tức ba loại thần thông biến hóa trừ dứt ba nghiệp. Do nghĩa này nên gọi đức Thế Tôn là bậc đại y vương (hay Đại Thánh trí dược) có tài trị được tất cả bịnh phiền não. Diệu quan sát trí, thành sở tác trí, mỗi thứ có 10 nhân, nên nói rằng mỗi mỗi có những công đức hy hữu. Câu này nêu tổng quát thật đức của báo thân nên dùng bốn trí đầu trình bày. Ngoài ra những loài hữu tình cõi sắc, vô sắc có thật đức nên dùng theo thứ tự bốn trí nhiếp độ. Câu sau nói: phép quán đảnh đội mão báu vượt ngoài ba cõi. Đây là tán thán đạo lý tôn quí hơn cả, vượt ngoài thập địa mà người nhận lễ quán đảnh mão báu của Phật thật là vi diệu thù thắng, thân thể thanh tịnh không còn phiền não, xa hẳn mọi sự ràng buộc ngoài các cõi. Từ vượt quá này đối với hàng nhị thừa và ngoại đạo đều là thấp kém. Kinh Thập Địa nói rằng cõi Tịnh Độ đây vượt ngoài 3 cõi. Hàng Thập Địa Bồ tát nên sanh vào cõi đó. Cõi Tịnh Độ không lìa ba cõi mà chỉ xa lánh sự ràng buộc nên gọi là vượt qua, vì chẳng phải cõi đó tự nhiếp độ. Phật thân cũng vậy, chẳng còn hữu lậu (phiền não) nên gọi là siêu việt mà vẫn không ngoài 3 cõi thác sanh vào một nơi đặc biệt. Câu 3 giải thích: trí Kim Cang biến khắp thành đại quán tự tại để tán thán hai đức viên mãn của bi và trí sâu rộng. Nhân tu hành tự lợi, lợi tha đầy đủ, nên quả là bi, trí thành tựu viên mãn. Quả đã thành tựu nên gọi là trí Kim Cang biến chiếu, là trí có thể biến khắp nên cũng có thể trừ sạch được hai chướng, dụ cho chất kim cương. Như việc phá trừ hai chướng kiên cố khó trừ mà trừ được cũng dụ cho kim cương. Trí rõ biết khắp như kim cương chặt đứt phiền não. Đây là chân thật diệu trí tên là biến Kim Cang trí. Đạt tới trí này mới đủ lòng bi nhổ sạch gốc khổ chúng sanh. Tự lợi viên mãn, lợi tha do bi nguyện gọi là quán tự tại, tức tùy theo 3 nghiệp chúng sanh mong cầu mà thể hiện lòng bi nhổ sạch hết mọi khổ ách không bỏ sót gọi là đại quán tự tại. Phật thể hiện các đức không ngoài hai đức bi và trí. Các pháp vô cùng tận tùy theo sự cảm ứng để công cuộc nhiếp độ sâu rộng. Câu 4 giải thích: pháp quyết định trí ấn vi diệu vô cùng để tán thán huệ rộng đức dày. Nêu tổng quát mọi vấn đề sự lý, có không thật chứng không lầm. Trí này có hai loại, hai loại vô trí đều dứt sạch đạt được hai trí: trí hữu vi biết việc hữu vi, vô thường; trí vô vi biết việc vô vi, tịch tịnh, định. Đây cũng là hai thứ ấn pháp vô ngã chắc chắn không còn do dự gì cả. Như dùng từ thật kêu gọi là đại diệu trí ấn. Nếu không có trí này đối với các pháp hẳn không thể phân biệt được.
Câu 5 nói: Tất cánh không tịch bình đẳng tánh ấn là ca ngợi tánh đoạn đức vắng lặng. Tán thán pháp thân cần đoạn trừ nhị chướng mới chứng được nhị không. Lý nhị không định rõ mọi pháp đều bình đẳng. Từ nhị không biết rõ các pháp tánh đều bình đẳng. Song nếu cho rằng rốt ráo không thì chỉ đưa tới chỗ phi bình đẳng tánh. Tánh bình đẳng là thể của chân như thuộc phi hữu phi không. Giờ đây do phương tiện nói rằng rốt ráo không, vì quán sát chúng sanh hoàn toàn đều không nên biết rõ điều này mà Phật đã viên thành nên gọi là chứng. Câu 6 nói rằng, đối với mọi việc năng tác sở tác đều thành tựu khéo léo không còn thừa sót. Còn bốn câu tiếp theo tán thán hóa thân Phật. Đây là tán thán ân đức tuyệt vời mà đức Phật do lòng đại bi phổ nhuận sáu thời ban rãi khắp nơi, vì lợi ích chúng sanh, vì phương tiện hiện báo thân, hóa thân trong việc thuyết pháp lợi lạc cho hàng Bồ tát và nhị thừa, với bình đẳng tánh trí khác đại viên cảnh trí, vì lợi lạc hàng Bồ tát Phật hiện báo thân. Đối trong diệu quan sát trí thuyết pháp dứt hết lưới nghi. Thành sở tác trí khác với đại viên cảnh trí trong việc hiện biến hóa thân, vì hàng nhị thừa v.v... Phật hiện hóa thân thuyết pháp. Đối trong diệu quan sát trí thuyết pháp dứt hết lưới nghi. Thành sở tác trí ở trong ba nghiệp cọng chung có mười. Trong đây giải thích câu đầu nêu tổng quát các đức. Hai trí thành sở tác và bình đẳng tánh trí đây thường được gọi là năng tác động. Trong mười món bình đẳng tánh trí này so với những gì được thực hiện gọi là sở tác sự nghiệp. Chư Phật đối với việc năng tác, sở tác đều thành tựu khéo léo không thiếu sót, nghĩa là hết thảy mọi việc đều hoàn thành viên mãn tốt đẹp. Câu 7 nói rằng, hết thảy mọi chúng sanh đều có những mong cầu riêng, tùy theo chúng vô tội mà được đáp ứng thỏa mãn tất cả. Ca ngợi phép thần thông biến hóa làm cho tất cả mãn nguyện. Vì Phật đầy đủ lực thần thông, tất cả chúng sanh cõi thế hay xuất thế, nếu vô tội mà mong cầu thì đều được thỏa mãn, song chưa được đầy đủ nên nói là có thể vì sợ chúng sanh tạo thêm ác nghiệp. Như ta thấy người nghèo thường hay cầu được của thì cũng nên cho họ. Song một khi đã được thỏa mãn lòng mong cầu thì ác nghiệp lại tiếp tục gia tăng, nên không ban phát vô điều kiện. Nhiếp Đại Thừa luận rằng, thà chịu nghèo khó của cải mà xa lìa cõi ác, nghiệp xấu còn hơn, chớ để các căn khởi niệm xấu ác dấy lên thì đời sau phải thọ khổ, các căn thiếu khuyết hay thân thể không toàn vẹn. Những việc tương tự như thế cũng cần nên biết. Nếu người cầu trí sáng suốt vô tội, có phước huệ mới ban cho. Chẳng hạn Mạt Lợi phu nhân nguyện làm vương phi về sau chứng được thánh quả, 500 vị thánh mong gặp Phật nghe chính lời Phật nói sự tích kinh Bổn Sanh, như vợ chồng ông Ca Diếp muốn phát tâm tu hành mà cả vợ chồng và thân thuộc, về sau chứng được thánh quả. Con gái vua A Dục trước mong có tiền làm việc bố thí sau được làm con vua. Những thí dụ như trên đây đều là mong muốn vô tội, nên đều được thỏa mãn tất cả. Không như cha mẹ cho con thì không luận vô tội hay có tội mới cho. Phật thị hiện thần thông, tùy theo căn cơ đáp ứng sự mong cầu đầy đủ. Như Ngài vì độ cho ông Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp mà hiện thần thông; cũng như Phật hàng phục ông Kiếp Tỷ Noa mà hóa hiện thần thông khiến họ vào đạo hoàn toàn mãn nguyện. Câu 8 giải: khéo an trú bình đẳng không gián đoạn ba đời phổ biến sâu rộng cùng khắp là để tán thán đức Thế Tôn đem tâm quảng đại thuyết pháp độ sanh không niệm phân biệt. Thiên nhãn thông biết đời hiện tại như biết người đời nuôi trâu để giúp việc, biết sanh tử, biết vị lai, cũng biết sau này dòng Bà La Môn phỉ báng giống Chiên Đà La thất bại ra sao. Phật cũng biết rõ ông Uất Đầu Lam Phất sanh lên cõi trời đắm nhiễm mà về sau đọa thành kiếp con hồ ly tinh (con chồn tinh) sa vào địa ngục. Dùng hiểu biết kiếp trước nói rõ việc sau mong làm phát khởi thiện căn mà Phật vì chúng sanh nhổ bạt sanh tử, lợi ích ba đời trong việc thuyết pháp làm lợi ích không niệm phân biệt là thực hiện hạnh bình đẳng. Thử quán sát bình đẳng này liên tục ở hiện tại không gián đoạn, không nơi nào không biết gọi là phổ biến rộng rãi cùng khắp. Câu 9 giải thích: thân, khẩu, ý bền chắc như kim cương để so sánh sức vững chải bất động không hư hoại như chư Phật, để tán thán Phật đã diệt sạch vi tế phiền não, lìa hẳn ô nhiễm răn nhắc dạy dỗ. Ba thân Phật hoặc nghiệp đã sạch như chất kim cương sáng chắc đồng như chư Phật không bị thiên ma, bạn ác, ngoại đạo, sống chết chi phối, phá hoại, thì ác nghiệp lắng yên không còn dấy khởi nữa. Phiền não vi tế ba nghiệp đã dứt sạch mới răn dạy chúng sanh nên gọi Phật là bậc lậu tận (dứt sạch phiền não vi tế). Như ở phần luận giải 1, cũng như luận giải 4 đã giải thích rõ. Đây 9 câu thì câu đầu tán thán chung tứ trí của pháp thân và báo thân. Hai câu tiếp theo tán thán tánh đức rộng dung cao quí của Phật, ba câu kế tán thán riêng về ba đức và 3 câu sau chót tán thán về 3 pháp thần thông biến hóa, là muốn làm cho chúng sanh thấy công đức chư Phật sanh lòng hoan hỷ mà trân trọng nghe pháp để cần cầu giải thoát.
Phật đầy đủ các công đức để tán thán khiến người nghe Kinh này nhận biết Ngài đã nói pháp thâm diệu rốt ráo. HẾT QUYỂN 1
Kinh văn: "tôi nghe như thế ". Lời người thuật: Kinh gồm có ba phần:
- Phần đầu từ "Tôi nghe như thế ... phạm hạnh thanh bạch" đây là phần tựa.
- Phần chánh tôn từ "Lúc bấy giờ đức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà nói pháp thậm thâm vi diệu ... lược nói một ít như thế ".
- Phần lưu thông (kết) từ "Lúc bấy giờ đức Bạc Già Phạm ... hoan hỷ tin tưởng phụng hành ".
Phật Địa Luận chia ba mục từ xưa đã định rõ để thuyết minh. Nay giải ba phần riêng biệt nầy như sau:
1- Phần đầu: Tự thuật
2- Phần hai: Theo căn cơ mở rộng nói pháp
3- Phần ba: Cảm nhận tu hành
Trong ba phần nầy xưa nay đều cùng ý nghĩa. Song phần đầu y cứ bài kệ Đăng Luận của ngài Thiên Thân Bồ tát chia làm 6 điểm. Ngài nói rằng trước nêu cho đệ tử rõ ba điểm, sau thầy trình bày ba điều chứng minh.
Thứ nhất: Niềm tin của người đệ tử là như vậy. Nói "như thị" mà ngày nay chúng ta gọi là không hư dối, đúng như thật.
Thứ hai: "ngã văn" chính tôi chứ không ai khác hư truyền.
Thứ ba: "nhứt thời" thời gian nghe pháp. Luận Trí Độ giải rằng, lúc nói có người nghe khiến sanh niệm tin đúng sự thật.
- Thứ tư: chủ (đức Phật)
- Thứ năm: nơi chốn nói kinh
- Thứ sáu: căn cơ người nghe
Nay căn cứ bộ Phật Địa Luận thì phần đầu có 5 mục:
1- Nêu việc đã nghe: Tôi nghe như thế ...
2- Thời gian
3- Chủ trì
4- Nơi chốn
5- Căn cơ chúng hội.
Bây giờ theo như kinh nầy phân thành sáu mục; năm phần như Phật Địa Luận đã nêu trên, phần thứ sáu: tán thán pháp với 10 công đức thù thắng. Tuyên nói chánh pháp đầu, giữa, cuối đều thiện. Tiếp theo thứ tự thuật lời Phật dạy, xác định vị trí, cũng là lời Phật thuyết. Tập Pháp Kinh ghi: A Nan hỏi Phật bốn việc: - lấy ai làm thầy, - y pháp nào an trú, - làm thế nào đối trị tánh ác, - đầu các kinh nên để lời gì ?
Phật dạy: giới để răn dè, nên lấy giới làm thầy. Nên an trú trong việc xử phân đúng pháp. Xử phạt kẻ phạm lỗi xấu. Nơi đầu các kinh nêu lên sáu việc: một là chánh hạnh, hai là chánh giải, ba là giải hạnh khéo đối trị chướng ngại tu hành. Ba pháp nầy y theo thánh giáo, bốn là việc hỏi không tăng giảm.
Luận Trí Độ luận rằng: Ngài A Nậu Lâu Đà dạy A Nan thưa thỉnh Phật bốn việc; còn theo như Kinh Đại Bi thì nói ngài Ưu Ba Ly dạy. Nay ta có thể nói: cả hai Ngài cùng dạy để nêu rõ việc kết tập. Như mục ghi chú, ngài Chân Đế nói: giới luật nêu rõ những việc tinh tế, ngài A Nan lúc thăng tòa tuyên dương pháp, thân như thân Phật đầy đủ tướng tốt. Nay tra cứu thấy việc kết tập kinh tạng lưu truyền cũng nêu lại thuyết nầy - Lúc ngài A Nan rời tòa ngồi trở lại vị trí, chúng hồ nghi ba việc:
1- nghi Phật từ bi từ cõi Niết Bàn hiện thân nói pháp.
2- nghi có một đức Phật từ phương khác đến cõi nầy thuyết pháp.
3- nghi ngài A Nan biến hình thành Phật, nói pháp cho thính chúng nghe.
Cho nên nơi đầu các kinh đề: "như thị ngã văn" (ta nghe như thế nầy) để mọi người tin tưởng, không nghi.
Kinh Pháp Hoa giải thích: như thị là điềm tốt của sự cảm ứng. Theo đúng căn cơ là "như", đúng thật không sai là "thị". Chúng sanh do sự thật mà cảm, chư Phật do hợp căn cơ mà ứng. Người truyền kinh nêu danh dạy điều cảm ứng cho nên nói như thị. Ứng đây đương nhiên đã tỏ rõ. Theo kinh Vô Lượng Nghĩa giải thích: chí như người giảng pháp làm hiển như, duy chỉ "như" là thật, nên nói như thị.
Dao Công nói: Xa lìa hẳn năm sự hủy báng là như thị. Trước hết lìa bốn việc: tăng-ích-đẳng-báng, và thứ năm là "như thị". Kinh nầy nhân quả không phi hữu chẳng phi không nói là phạm lỗi hý luận, thứ tư lỗi ngu dốt.
Ngài Quang Trạch nói rằng: Như thị là phần mở đầu kinh nêu lên tường thuật những lời, những điều đã được nghe. Như thế toàn bộ kinh chính tôi (A Nan) đích thân nghe từ đức Phật, tức là tôi nghe thấu triệt vậy.
Lương Võ Đế nói: Như là lời, người đang nói; thị là những gì Phật đã nói, cho nên gọi là như thị. Trở lên là năm giải thích của ngài Kiết Tạng Pháp sư đã dẫn giải. Ngài Chân Đế và Trường Nhỉ đều nhận định: Như thị có ba điểm: 1- Tin theo Phật, ba đời chư Phật đều nói không khác là "như", giống nhau nên gọi là "thị". Do đó có thể tin các đức Phật thuyết như nhau, không sai khác. Đúng theo nghĩa lý rõ ràng thật tướng mọi pháp xưa nay không khác. 2- Tin lý rõ ràng minh bạch: thật tướng vạn pháp xưa nay không khác nên gọi là như, đúng thật mà nói nên gọi là thị. Nói theo lý thì không tăng không giảm, quyết định phải tin nên gọi là như thị. 3- Tin người, ngài A Nan cầu Phật truyền dạy có thật nên là như, không sai là thị.
Bên trên là ba lối giải thích rõ của các pháp sư đã dẫn cũng giải thích thêm như thị nêu lên một phần của huyền tông tức là chân đế và tục đế, chân là như, tục là thị, tức muốn nêu ra điểm rõ ràng không hai khác. Hay cũng có thể nói: thuận theo lý là như, tìm ra chỗ hư vọng là thị hoặc nêu rõ đối với hai trí chỉ bày là nhân của cả hai, chẳng hạn sở hữu tánh là như, trừ hết tánh sở hữu là thị, cho nên sau đây nói: trí biết mọi lẽ tức tướng, biết rõ mọi tướng là thị. Cũng có thể nói: nhân của hai món trang nghiêm là phước và trí, mà phước là như, còn trí là thị vậy. Hoặc dạy những điều thuận lý là như, y theo lời dạy để tu hành là thị. Nêu lên hàng đầu quán chiếu thật tướng các pháp sở năng, tức cảnh là như, trí là thị.
Từ như thị cũng có thể gọi là điềm lành vậy. Muốn nêu rõ đầu đề kinh đều phải để lời nầy vào. Những kinh điển của các đạo khác mở đầu để hai chữ: a ưu. Lại nữa, như thị là từ khẳng định bác chỗ sai lầm để nêu rõ phần đúng tiếp sau. Trở lên là tám cách giải thích được lưu truyền từ các bậc tiên đức.
Sau đây cũng giải thích như thị theo bốn nghĩa để chuyển ý. Một: y thí dụ, chẳng hạn nói: giàu sang như thế chẳng khác trời Tỳ Sa môn. Như thế được truyền lại những pháp đã nghe đúng như lời Phật thuyết, quyết định là nhân làm phương tiện lợi lạc. Hoặc nói câu như thế nầy: như tôi trước đây đã nghe ... Hai: y lời dạy, như có người bảo: ngươi nên đọc tụng kinh luận như thế. Trong câu đó, lời dạy bảo như của Phật mà kỳ thật là lời dạy của người truyền pháp. Hoặc có lúc bảo đại chúng nên nghe những gì tôi đã nghe như thế. Ba: y theo lời vấn đáp. Tôi nghe như vầy, diễn thuyết thế nầy. Như có người hỏi ngươi nên đáp rằng trước đây đã được nghe thế. Lời đáp đây nói là tôi nghe như vậy. Bốn: y lời chấp thuận, như có người nói: tôi vì ông (ngươi) mà làm như thế, nghĩ như thế. Khi kiết tập kinh điển các vị Bồ tát chung hợp lại thỉnh cầu lời nầy: như ngài đã nghe như thế nào nên nói lại như thế. Vị Bồ tát truyền pháp hứa: tôi chỉ nói những gì đã được nghe hoặc tin những gì đã được nói. Việc đó như thế, nghĩa là tôi từng nghe pháp như vậy. Việc như thế nào thì nên nói như thế quyết định không có sai khác. Bốn cách giải thích trên dựa vào Phật Địa Luận như Thân Quang Bồ tát đã giải.
Cũng có lối giải thích như thị là lời tín thuận như Luận Trí Độ giải rằng: tôi nghe rồi phát niềm tin như thế, tin rồi chấp nhận thực hành sanh trí vậy. Tin là có khả năng thu nhận, trí là có khả năng vượt qua. Tin là tiếp nhận pháp sơ cơ, trí là đạt tới chỗ sâu xa rốt ráo. Tin là lời nói thuận theo lý, thuận thì hợp tư cách bậc thầy.
Tin pháp đã thuyết là thuận theo, do thuận theo mới tin nghe pháp. Đứng trên hai lãnh vực thầy trò thành lập đối với tín, lược giải có 10 điểm khác nhau mà khởi sự là phát khởi niềm tin.
1/ Thành Duy Thức nhận định rằng, tín như ngọc sáng, trong nước đục có thể làm sạch nước dơ. Tín để đối lại tánh vẩn đục của bất tín. Vì thế quân đội tin ba việc không thể thiếu một (thiên thời, địa lợi, nhân hòa).
2/ Luận Du Già nhận định: Tin là theo ý muốn, muốn là theo sự tinh tấn. Cho nên khi thấu đạt mọi pháp thì dục là căn bản. Tác ý móng khởi thì việc xúc chạm tới chấp nhận theo liền. Định huệ là phần cao tột không gì bằng, giải thoát là kiên cố. Giải thoát có sau khi tin như lòng mong muốn. Vì thế tin đứng đầu.
3/ Người học Phật như đại long tượng lấy tín làm tay, lấy xã bỏ làm răng, lấy niệm làm cổ, lấy huệ làm đầu, trong khi lấy hai vai gánh vác thiện pháp. Đây là nói theo luận Đại Tỳ Bà Sa ghi nhận như vậy.
4/ Pháp là cánh tay chư Phật, tin là cánh tay của chúng sanh. Cho nên luận Câu Xá nói rằng, nhổ sạch chúng sanh khỏi bùn lầy sanh tử. Phần chánh tông là tay Phật, phần tựa khởi tin là tay chúng sanh. Hai tay dắt qua bờ giác ra khỏi bùn lầy sanh tử.
Sau đây hai điểm giải theo ý kinh Tối Thắng Quân Vương.
5/ Rộng mênh mông như biển Đại Hồng mượn tay bơi thuyền qua sông sanh tử phải tin để có trí tuệ.
6/ Đi dạo trong cánh đồng rộng mênh mông tay cầm gậy ngăn giặc sanh tử mà tin là cánh tay nắm con dao trí tuệ ngăn chặn giặc phiền não.
7/ Thấy vật quí của báu đưa tay nhặt lấy; nghe pháp bảo phải tin chắc chắn.
8/ Tin là bước đầu của thánh tài nên trước phải phát khởi lòng tin. Luận Hiển Dương nói: Trong thất thánh tài thì tín-giới-văn trừ được tâm tàm quí (hổ thẹn), cho nên trước tiên phải sanh niệm tin.
9/ Tin là nấc thang tiến lên bậc thánh, cho nên bốn mươi tâm lấy tín làm đầu, có tín căn và tín lực. Có tín căn cho nên muôn điều thiện nhân đấy phát sanh; có tín lực cho nên bốn loài ác ma không làm hại. Sách Thập Chư Luận nhận định: tín có thể vượt qua đường ác, xa hẳn nhân nghèo khó. Có bốn điều tin không hư hoại. Do nghĩa nầy cho nên ở đầu tất cả các kinh đều đề "như thị" khiến chúng phát lòng tin. Ta nghe là đích thân vị Bồ tát truyền pháp thuật lại pháp ấy. Chính người nghe từ đức Phật nên đề là "ta nghe". Ta là cái thân giả của thế tục do ngũ uẩn hợp thành. Song cái ta có ba: a- do vọng mà chấp ngã. Ngoại đạo và những ai không tu ôm chấp lấy cái ta, song nó cũng như hư không như hạt cải mọn. b- giả mượn cái ngã trong thường-lạc-ngã-tịnh dẫn dắt hàng nhị thừa đạt đến vô ngã từ bỏ luôn quả vị vô ngã của tiểu thừa. Như trong kinh Phật hoặc nói "ngã" hay có lúc nói "vô ngã". Song thật tướng của các pháp là vô ngã, vô phi ngã, vì hàng Thanh Văn nói vô thường v.v... để trừ dứt bốn món điên đảo của phàm phu. Nói không có ngã loài hữu tình là pháp có nguyên nhân, nên sau tu chứng bậc Bồ tát nói là thường-lạc-ngã-tịnh. Trừ hàng nhị thừa khởi bốn pháp chấp. Do đó bản tánh các pháp đều lìa ngã, từ vô ngã nêu lên cái thường ngã, cho nên gọi là giả thiết vậy. Cái ngã chuyển từ ba đời, vì thế người đời truyền tụng rằng ông Trương Vương tánh do trời phú, danh lưu lại ở đời. Người truyền pháp cho đời tùy thuận thế gian tự xưng "ta" không giống như chấp ngã đã đề cập trên, không vọng chấp nên không giả thiết. Song cái thể nó là ngã của vô ngã.
Hỏi: Chư Phật nói pháp để phá trừ ngã chấp, tại sao ngài A Nan không xưng tên lại nói là "ta".
- Đáp: Theo như lý mà nói thì phải xưng tên, song tóm lược có ba nghĩa cốt để nói tổng quát cái ta như:
1- Nêu rõ điều không trái tục: tông chỉ tuy nêu rõ tông, song không trái tục. Tuy không có ngã mà có ngã thành lập, là muốn nêu rõ chân đế không lìa khỏi tục đế.
2- Ngã là chủ tể có nghĩa là tự tại. Ngài A Nan bậc đa văn, nghe mà ghi nhớ kỹ những gì đã được nghe. Ba món tuệ có đầy đủ văn nghĩa, trong thánh giáo gọi là định tự tại.
Nếu chính ngài A Nan nghe pháp như thế, tuy là đủ phép nhưng đối với pháp thì không đạt được nghĩa tự tại. Muốn nêu rõ nghĩa tự tại của pháp nên nói ta nghe thay vì gọi là Khánh Hỷ.
3/ Ngã có nghĩa là thân chứng. Người đời thường nói tôi nghe thấy như thế là thân chứng. Nếu chỉ gọi tổng quát A Nan nghe hoặc không đích thân nghe từ những lời Phật dạy. Nay nêu rõ chính ngài đích thân nghe Phật thuyết chứ không phải nghe người nào khác truyền nên gọi "ta" là vậy. Do ba nghĩa nêu trên nên không xưng Khánh Hỷ mà nói tổng quát là ta nghe. Nghe có nghĩa là cái biết của tai phát ra nhận những điều đã được nói. Giờ bỏ tai riêng nói ta tổng quát nên là ta nghe. Các bộ phận khác nghe, nói mỗi mỗi khác nhau. Nay y theo Đại Thừa thì cái biết của tâm sở hòa hợp với cảnh nên gọi là nghe. Song năm căn có nghĩa thù thắng đối với thức nên gọi là nghe. Đối với các pháp ngài Long Thọ đều nói như thế. Như nghe tiếng tức chỉ tai nghe, còn nếu nói chung nghe ghi nhận thì phải do ý. Do đó, chỉ ý mới đủ tánh cách nghe. Cho nên Luận Du Già giải rằng, nghe là cân nhắc, tai chỉ nghe tiếng là cửa ngỏ của ý mà người nghe từ lỗ tai. Nghe là nói tổng quát do tai nghe nên lỗ tai gọi là nghe. Song tai không đủ khả năng nghe phân biệt được các pháp, như nghe một vấn đề nào đó rồi trình bày lại chẳng hạn. Vì cách nghe đây ta quen gọi tai nghe. Như quan sát mặt trăng thứ hai thấy có vòng lửa chung quanh. Như vua Tỳ Lưu Ly dùng lời mạt sát giòng họ Thích là do ý thức, lỗ tai không liên can tới. Hỏi: Ngài A Nan trong lúc nghe Phật nói thì cũng suy nghĩ biết Phật nói gì, thế tại sao không nói: tôi thấy như thế, tôi ghi nhận như thế, tôi biết như thế, lại chỉ nói tôi nghe ?
Trả lời câu hỏi nầy có ba ý nghĩa:
- Thứ nhất: Muốn chứng minh lý sâu xa mà người ngộ chỗ rốt ráo phải y nơi văn giáo. Thấy, biết, phân biệt v.v... không phải từ sự đạt rõ lý. Tuy có thấy thật đấy, song chỉ nói nghe thôi.
- Thứ hai: Cõi Ta bà nầy dùng âm thanh làm Phật sự, nên muốn chỉ rõ sự khác nhau giữa các cõi Phật thì chỉ nói nghe. Ngoài ra, nơi các cõi Phật khác dùng ánh sáng vi diệu, hương thơm, vị lạ để làm Phật sự, nên đầu các Kinh đều nêu câu ta thấy, ta hiểu, biết. Nay muốn nêu rõ chỗ khác nhau với các cõi Phật nên chỉ nói nghe mà thôi.
- Thứ ba: Muốn nêu rõ tuệ giác Bồ đề mà cần yếu là do huân tập (tích lũy mỗi khi một ít) mới thành. Nếu không nghe chánh pháp thì tam huệ (văn-tư-tu) không do đâu phát sanh. Cho nên ở đầu các kinh nói nghe khiến sự tập nhiễm hữu lậu thế gian dần dần tiêu diệt để tăng trưởng quả vô lậu xuất thế. Cho nên chỉ nói "nghe" thôi.
Hỏi: Kinh Đại Bát Nhã Phật dạy: từ thành đạo cho đến lúc nhập Niết bàn, trong khoảng thời gian đó ta chưa hề nói một chữ. Tại sao A Nan hủy báng Phật cho rằng Phật có thuyết pháp và tự nói rằng ta nghe ? Ngoài ra kinh Ba Diệp thí dụ nói: Những pháp đã nói như lá trong tay; những pháp chưa nói như lá trong rừng. Rõ ràng Phật có nói pháp. Nay nói ta nghe, rồi lại nói Phật không nói lời nào. Tại sao có sự trái ngược như vậy ?
Đáp: Phật Địa luận rằng: Như Lai sẵn lòng từ bi cùng lực bổn nguyện làm tăng thượng duyên. Người nghe, nghe trên văn nghĩa mà có. Văn nghĩa đây tuy dựa vào lực thiện căn sẵn có phát sinh nên gượng ép gọi là Phật nói. Sức nghe của chính tai do tâm hiện khởi nên nói ta nghe. Ý nói: Phật có đủ ba pháp: định, trí, bi. Ba pháp nầy trên thực tế là không có thuyết pháp. Do bổn nguyện lợi sanh đại bi tâm phát khởi mà chúng sanh tu hành lâu nay có duyên được gặp Phật. Ngày nay đã thuần thục từ trong tâm thức nghe Phật có nói pháp giáo hóa độ sanh, song kỳ thực là không nói. Như mẹ Tăng Sâm đứt ngón tay, lòng Tăng Sâm đau xót biết là mẹ gọi trở về. Thật ra mẹ Tăng Sâm không thốt một lời mà chỉ luôn nghĩ tưởng tới con. Như gió gặp mây, tâm mẹ nghĩ con, con nghĩ tới mẹ có sức thu hút như mẹ gọi con, nên con gấp rút trở về như ta đã biết. Phật cũng như bà mẹ, chúng sanh cũng như Tăng Sâm, dù nói hay không đại loại giống nhau. Một thí dụ khác, có một tín nữ mời một vị Tỳ Kheo tới thuyết pháp; khi thầy ra đi rồi không để lại lời nào mà người tín nữ ngộ đạo. Bà ta nói: do nhờ ân đức thầy và nương nơi vị Tỳ kheo làm tăng thượng duyên tu tập để thoát sanh tử chứng đạo quả. Chúng sanh y Phật làm tăng thượng duyên, do tâm phân biệt mà ba thừa giáo hình thành. Do gượng ép cho là Phật nói pháp, song kỳ thật Phật không hề nói. Lời nói: ta nghe nầy ý nghĩa cũng thế. Có người nghe nhờ căn lành sức bổn nguyện làm tăng thượng duyên mà Phật biết rõ qua nghĩa tương duyên nầy. Nghĩa tương duyên đây là Phật vì lợi ích cho kẻ khác phát khởi thiện căn nên gọi Phật nói. Người nghe không trực tiếp như A Nan, nên ngài thuật rõ ràng lại từng chi tiết, nên nói ta nghe. Ý nói, Phật hiện thân đầy đủ 6 căn tiếp xúc 6 trần và 6 thức phân biệt, rõ ràng Phật có thuyết pháp vì sự nghiệp lợi sanh, không tâm phân biệt, không niệm vướng mắc, do ý nguyện hợp với căn cơ nói pháp làm lợi lạc mọi loài. Như ngọc ma ni, trống trời Đế Thích vô tâm mà tự trổi không đợi Thiên Đế bảo hay không bảo. Thiên Đế do thiện nghiệp cảm, nên trống trời không trổi tự kêu, Thiên Đế nghe tự đề phòng cẩn thận. Phật cũng như thế, tâm không phân biệt nói hay không nói. Chúng sanh có duyên lành được nghe pháp thì lãnh hội được những pháp Phật thuyết. Việc thuyết pháp cũng như người huy-n nói pháp cho người giả nghe, tự tánh văn tự lìa hẳn văn tự, như thế mà rõ biết. Không nên vọng chấp danh tự cho nhất định có thật pháp, có người nói pháp, có kẻ nghe pháp. Vì thế Phật bảo ta không nói một chữ. Luận về thuyết pháp thì không pháp để thuyết, vì pháp không hiển lộ. Như nhà ảo thuật là người bày trò giả tức không phải không có. Kinh nói rằng thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không, đợi đủ duyên các pháp thành tựu. Phật thuyết pháp ngài A Nan đích thân nghe nên gọi là ta nghe. Trong đó có hai ý: Một là thấy mà vô chấp, hai là hộ pháp của bậc thầy sáng suốt. Nên biết rằng nói ta nghe như thế ý hàm mọi sự tăng giảm, sai biệt, lỗi quấy khác nhau, chính ta nghe nơi Phật, pháp như thế, chứ không phải người nào khác nói, chứng tỏ người nghe có sức kiên nhẫn nghe những gì cần nghe, còn gạt ngoài tai mọi sai biệt lỗi quấy. Không như người ngu không biết kiên nhẫn nghe những gì đáng nghe nên không nhận được điều phải bỏ việc trái.
Thời kỳ kiết tập giáo pháp để lưu truyền lời Phật dạy, đều căn cứ những lời Phật nói nầy, làm cho chúng sanh tín kính thọ trì lời dạy. Pháp nầy chính ta nghe từ Phật, nghĩa lý đúng đắn không sai. Người nghe phải thuật rõ ràng chính xác, suy nghĩ hợp lý tinh tấn tu tập.
Trong kinh nói: một thuở là do người thuật nói lại để chứng minh thời gian nói kinh, tức xác nhận thời điểm vậy. Thời điểm Phật nói pháp cùng thì giờ đại chúng nhóm họp dự nghe liên tục không gián đoạn, tức xác tín việc nghe hoàn toàn đúng sự thật. Theo thói quen ta gọi tổng quát là "một thuở nọ" mà không nghe vào một lúc nào khác. Thế tại sao gọi "một" ? Đây là từ bất định, không nói rõ giây phút, cũng như không nêu rõ thời gian kéo dài bao lâu. Vì không xác định rõ thời khắc là bao lâu như lúc Phật thành đạo, nên gọi chung thời gian là một thuở nọ. Chỉ người nói và người nghe có thể xác định, còn nói cho đại chúng gọi tổng quát là một thuở nọ, vì người nói pháp (đức Phật) thâu nhiếp được mọi pháp nên diễn thuyết ở bất cứ mọi thời. Hoặc cũng có thể người nghe nhỉ căn thanh tịnh hiểu rõ từng chữ, ngoài thời gian tất cả đều rõ suốt. Hoặc cũng có thể nói người nói pháp trải qua thời gian trong nhiều kiếp mà người nghe cũng qua nhiều kiếp dự nghe như thế. Nên không xác định ý niệm về thời gian trong kiếp số lâu xa ấy căn cơ số thính chúng trong một pháp hội có chậm, nhanh không giống nhau. Đức Phật đủ thần lực gia giảm thời gian kiếp lâu xa thâu ngắn lại. Luận về thời gian có hai cách giải:
- Thứ nhất: Xác định thời gian theo pháp hữu vi về mặt đạo lý thì người nghe và người nói pháp thân tâm đều do niệm niệm biến diệt vô thường bất định, có khắc trước, khắc sau, hiện tại, tức là pháp có qua lại, có diễn tiến nên tạm gọi là có quá khứ và hiện tại. Giữa kẻ nói và người nghe là việc thật đã diễn ra trong một điểm thời gian nhất định, nên gọi chung là một thuở nọ. Như nhà toán học dùng bàn toán để tính được các con số từ đơn vị chục, trăm, ngàn, vạn, ức v.v... song kỳ thực chỉ một bàn toán do tính ngang tính dọc mà có các con số khác nhau, chẳng đồng nên có sự sai khác. Ở đây người nghe pháp do hợp thể ngũ uẩn nên có quá khứ, hiện tại, vị lai. Hiện có thuộc hiện tại, lúc nói đã thuộc ba đời. Nay gọp chung ba việc trong khoảng thời gian ấy lại gọi là một thuở nọ.
- Thứ nhì: Thời gian do tâm thức biến hiện có ba thời kỳ. Thông thường trong một niệm hay nhiều kiếp cũng có thể tạm gọi là nhứt thời (một thời). Như người trong giấc chiêm bao mộng thấy mình bị trôi lăn sinh tử trong ba đời. Ý thức đó hoàn toàn do tâm hư vọng khởi, trên thực tế làm gì có ba đời. Nay dùng lý để luận về thời gian cũng vậy. Chỉ do vọng chấp mà dường như có ba thời, thực sự gọi tổng quát là một thời (một thuở). Nói theo nghĩa nên dựa vào ý có chỗ duyên, hành uẩn, các pháp mà thành có pháp giới. Tại sao không nêu sự khác biệt của 12 giờ đồng hồ ? Như nói sạch dơ, ngày đêm, giờ khắc, các phương đều khác nhau. Xứ là phương cố định nên trong ý niệm thời gian nói chung là một.
Hỏi: Ở mọi nơi có sự sạch dơ khác nhau nên nói một. Thời khắc các nơi sai biệt làm sao phỏng định được ? Phàm phu ở cõi bất tịnh, thánh nhân ở cõi Tịnh độ làm sao phân biệt được sự khác nhau nầy; thời gian làm chuẩn ở đây ta biết lại khác thời gian các nơi khác ?
Đáp: Như khoảng thời gian trong một sát na (tích tắc) với thời gian lâu dài nhiều kiếp thì không thể xác định được, vì tiêu chuẩn không rõ ràng. Do đó một cách tổng quát gọi "nhứt thời". Sự kéo dài thời lượng kiếp số nói theo Duy Thức là do chấp mà có mau chậm không giống nhau hoặc tự khởi hoặc y tha khởi. Đó là do pháp vọng hay pháp chân, bình đẳng hay thánh lực nhờ sức gia trì nên có mau chậm, không nên phí sức đi tìm nghĩa chuẩn xác. Kinh điển gọi là Bạc Già Phạm. Trong phần thuật từ đây trở đi nói theo cách thứ ba là giáo chủ để tán thán bậc hơn người mà giáo pháp của Người cũng vượt trội hẳn. Giáo chủ mang tải hai nghĩa: trước chỉ tên sau ca ngợi cái đức. Nghĩa trước có tên là Bà Già Bà mà người đương thời gọi danh hiệu là đức Thế Tôn. Vì quan hệ nghĩa nầy nên không dịch, vã lại tiếng Tàu không có từ tương đương. Luận Du Già quyển 83 luận rằng: Phật thản nhiên ngồi tĩnh tọa nơi cội Bồ đề vận dụng trừ diệt tất cả ma quân, đầy đủ đại trí lực nên gọi là Bạc Già Phạm. Kinh Phật Địa luận nghĩa Bạc Già Phạm căn cứ theo sáu nghĩa khác nhau: tự tại, oai đức, đoan nghiêm, xứng danh, kiết tường, bậc tôn quí. Phật đủ sáu nghĩa khác nhau như thế nên gọi chung là Bạc Già Phạm. Ở đây chỉ lượt ý từ Bạc Già là người mẫu mực đầy đủ các đức. Nói chung chư Phật đều đầy đủ các đức tính mẫu mực không thiếu nên Như Lai được gọi là Bạc Già Phạm có nghĩa là chư Phật vĩnh viễn không bị phiền não câu thúc và được đại tự tại. Như mãnh hỏa cháy hết sức nhanh nên có nghĩa là xí thạnh. Phật có đủ 32 tướng đại trượng phu để trang sức nên thân đoan nghiêm, đầy đủ công đức viên mãn không thể tính lường nên xưng danh, được thế gian mọi người thân cận xưng tán cúng dường là đại kiết tường, đầy đủ các đức thường thể hiện qua các phương tiện làm lợi ích an lạc mọi loài hữu tình không còn giải đãi trì trệ nên đầy đủ sự tôn quí, là người hay phá dẹp bốn loài ác ma nên gọi là Bạc Già Phạm. Bốn loài ác ma là: ma phiền não, ma ngũ ấm, ma chết, ma thần tiên (Tự Tại thiên). Chúng phá khuấy thiện pháp loài hữu tình làm ngăn ngại sự tu hành nên gọi là ma. Tu hành được định liền phá trừ phiền não, ma chết, là sắp đạt tâm Kim Cang (bền chặt không lui sụt) và phá cho bằng được các loài thiên ma, đến khi đạt giải thoát liền phá trừ luôn ma ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Luận về tướng, tâm Kim Cang là dùng ngũ lực phá trừ ma phiền não, như Phật ngồi dưới cây Bồ đề phá diệt thiên ma, nhập đại định tới canh năm nhập Vô dư định phá sạch ma ngũ ấm, còn lại ba tháng sau rốt phá dẹp hết tử ma (ma chết). Theo đúng nghĩa thật những gì làm não loạn Bồ tát tâm đều gọi là phiền não. Kim Cang tâm vĩnh viễn phá trừ hai chướng là phiền não và nghiệp chướng. Hai chướng tiêu trừ là được giải thoát và phá diệt nốt hai thứ ma ngũ ấm và tử ma. Đây chỉ đề cập hai loại ma: ma chết, ma thần tiên mà không luận về thiên ma. Nên nay căn cứ vào một nghĩa mà nói. Còn theo như thập tín của Bồ tát thì lúc Phật thành đạo mới phá diệt được thiên ma. Trong Thập trụ phần thứ sáu là hàng phục thiên ma trong đó hành giả vĩnh viễn lìa sanh tử ra khỏi ba cõi nên có thể hàng phục được thiên ma, như hàng sơ địa mới bẻ dẹp thiên ma. Kinh Phật Địa luận rằng: chứng bậc sơ địa trở lên dẹp trừ được bốn loài ác ma, tùy ý thủ hoặc xã, nên kẻ phá dẹp được bốn loài ma ấy gọi là Bạc Già Phạm.
Hỏi: Phật có đủ 10 hiệu, tại sao ở đầu các kinh Phật còn dạy ngài A Nan gọi là Bạc Già Phạm ?
Đáp: Đây là tiếng mà người đời tôn trọng Phật thường gọi và chúng ngoại đạo cũng xưng đức Bổn Sư là Bạc Già Phạm. Hơn thế, danh hiệu nầy bao hàm các đức tính mà các tên gọi khác không có. Vì thế ở đầu các kinh gọi là đức Bạc Già Phạm. Song các kinh, ở đầu đề, tên đức giáo chủ không giống nhau. Vã, như các bản tân dịch kinh Đại Thừa xưng tán công đức thì chư Phật trụ nơi pháp giới đạt được đại công đức trang nghiêm đứng về mặt giới tánh và pháp thân mà nói; như kinh Phật Địa nói: Phật là tối thắng chiếu diệu bảy báu trang nghiêm phước tướng. Nói rộng ra ta nên lập đại cung điện tôn trí đức Phật, bậc Đại Bảo Hoa Vương. Căn cứ báo thân nói về Tịnh Độ viên mãn điều thứ mười tám thì như ở đầu kinh này là nêu lên thật đức của Phật hơi khác các kinh khác. Phật ngự tại nội điện cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương hóa thân ra đời thuyết pháp. Song cõi pháp tánh chỉ có Phật nêu rõ đức Nghiêm Hoa Bồ Tát cùng ở cõi đó, cùng trong cõi Tịnh Độ không chỉ các vị Bồ tát mà kinh còn đề cập các chúng long thiên. Riêng đối với Kinh nầy chỉ nói cõi Tha Hóa Tự Tại cùng gồm các loài trong thập địa luôn cả các bậc đại Bồ tát; Ở đây nêu rõ một tính chất là chỗ thấy khác nhau. Kinh Kim Cang luận rằng, ứng hóa chẳng phải chân Phật cũng chẳng phải thuyết pháp. Thuyết pháp bất nhị giữa có-không, lìa cả ngôn thuyết, đổi qui về gốc lấy pháp thân làm thân, ngoài thân ấy không còn thân nào khác. Pháp thân là nói cả hai thuyết, phi thuyết thể đều y nghĩa tích tụ gọi chung là thân. Nói tổng quát pháp thân cũng dựa nơi thân là gốc chấp có hai thân nên khởi niệm thị phi cho rằng có thân thường hằng và thân hoại diệt. Hai thân là nói có hai tức có tướng. Bát Nhã lấy pháp tánh làm tôn chỉ, tức quên phần tướng, nên nói là không thân. Hai thân đây cũng nương thân mà nói, vì muốn làm sáng danh nghĩa uyên áo của Đại Thừa chứng lý nhị không mới thấu triệt được nghĩa nầy. Cho nên mượn cõi vi diệu chuyển tải lời kinh thâm mật ở cõi pháp tánh dùng lời nói xưng tán công đức kinh đại thừa. Đúng lý chân Tịnh độ là cõi trang nghiêm cực đẹp mà không là cõi pháp tánh. Cõi pháp tánh không thân, không thuyết Bồ tát do đâu có thấy nghe ? Vì muốn hiển bày chánh trí chứng ngộ chân không là cõi pháp tánh. Sau khi đạt hậu đắc trí phát khởi lòng bi hóa độ nên ở cõi Tịnh độ cũng không hề trái nhau. Chúng long, thiên và tám bộ chúng được hóa độ như Kinh Phật Địa nêu rõ 18 tướng viên mãn cõi Tịnh độ. Như Lai thật đức chứng năm pháp mượn Tịnh độ thuyết minh để hiển bày áo nghĩa Kinh mà hàng Bồ tát đại trí liễu ngộ cũng từ cõi pháp tánh. Chúng long, thiên nghe pháp đều được độ thoát mà trí Bát Nhã là pháp dùng để quán chiếu thật tướng. Chư Bồ tát, chư Phật đều quên tướng là chính, vì các ngài đồng cư cõi pháp tánh mà hiện thân trong cõi Tịnh độ. Song Phật thể hiện tâm từ bi rộng lớn qua báo thân ra đời thuyết pháp hóa độ chúng sanh mà kỳ thật người nghe pháp cũng phải khác hơn người xưng tán thật tướng đức Phật trong việc hóa độ, ý này sau đây sẽ nói rõ hơn. Gọi Bạc Già Phạm là tùy chỗ ứng hiện ba thân ra đời thuyết pháp, chúng đệ tử thấy có ba cõi, song chỉ nêu rõ cái đức của báo thân. Nhưng kinh văn không thấy đề cập cõi cho báo thân riêng biệt. Do ý đây mà rõ được Phật đức, để biết rõ cõi Phật. Từ đây trở đi Bạc Già Phạm là chỉ đức riêng của Phật, tức là nơi trụ của báo thân, là thân ra đời hóa độ, thân vượt thường hiện ra nói pháp vi diệu, để hóa độ hiển bày kinh thâm áo, là muốn thể hiện từ bi trong sự nghiệp tu hành nên không phải thân cõi pháp tánh.
Kinh nói:
- Thứ nhất: bậc trọn lành thành tựu Như Lai Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí, có đầy đủ công đức hy hữu không ai bằng.
- Thứ hai: đạt được pháp quán đảnh Như Lai (mảo báu) vượt hơn ba cõi.
- Thứ ba: khéo thành tựu Như Lai trí Kim Cang đại quán tự tại.
- Thứ tư: đạt được viên mãn Như Lai quyết định các pháp đại trí ấn.
- Thứ năm: chứng Như Lai thành tựu rốt ráo vắng lặng bình đẳng tánh ấn.
- Thứ sáu: đối với sự nghiệp năng tác sở tác đều khéo léo thành tựu không thiếu.
- Thứ bảy: tất cả mọi loài hữu tình có mong cầu chi tùy theo chỗ vô tội đều được mãn nguyện cả.
- Thứ tám: khéo an trụ ba đời bình đẳng quảng đại biến chiếu thường, không, đoạn, diệt.
- Thứ chín là thân, miệng, ý như Kim Cang sánh với chư Phật không động, không giao.
Chín câu nêu trên là để tán thán công đức Như Lai. Y cứ các kinh luận tóm lược có ba cách giải thích như sau:
- Một, y cứ Kinh nầy giải thích thì câu 1 tán dương chung đức Phật gồm đủ các đức tướng. Tám câu còn lại tán thán riêng từng đức tánh. Qua phần chánh tôn sau đây phân thành 14 đoạn tán dương 14 đức tướng của đức Thế Tôn. Câu đầu nêu lên đức tướng tổng quát, các câu khác nêu riêng từng công đức Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí cho đến hết câu hai, ca ngợi đức quán đảnh Như Lai bảo quan vượt hơn ba cõi, tức trong 14 đoạn là đoạn thứ ba. Ngăn dứt các điều ác là pháp cao tột hơn cả, là pháp thứ năm hiển bày pháp môn trí vương quán đảnh, cho đến sau rốt là một đức tướng hai pháp môn mà trong đó chứa nhóm không biết bao nhiêu món công đức hy hữu. Nói chung, bảy câu kế tiếp là nêu lên công đức vượt thắng của Phật. Mười hai đoạn khác nói riêng các pháp môn nên không thể liệt kê ra đầy đủ ở đây được. Đó là lược nơi phần giải thích tổng quát, còn đi vào chi tiết phần giải thích riêng như sau: diệu là công đức vi tế; thiện (khéo léo) trừ Phật không ai có thể thấu đạt được. Người trong đạo còn chưa hiểu rõ là diệu, ngoại đạo cũng không hay biết là thiện. Lại nữa, trí sâu khôn dò là diệu, phước mỏng khó soi là thiện. Nói thành tựu là người tự tại việc đời, là mọi việc đã đạt đến viên mãn rốt ráo. Tất cả Như Lai là nói chung cái thật đức của chư Phật. Phật đức do đây mà thành tựu bậc đáng tôn là chân thật đức. Tiếng Phạn là Dao Tha Yết Đa, trước đây dịch là Đa Đà A Gia Độ. Trung Hoa gọi là Như Lai. Kinh Bồ tát Địa nói rằng: không hư vọng là Như Lai. Kinh Niết Bàn giải: quá khứ Phật thuyết khế kinh đến hiện tại không thay đổi là Như; từ trí Ba La Mật đến 37 phẩm, 11 pháp không đến Niết bàn gọi là Lai. Ý nầy thuyết minh: chư Phật thuyết pháp mầu, tu vạn hạnh, chứng Niết bàn nên nói không hư, chính đó là nghĩa Như Lai vậy.
Có thể nói không hư là khéo nói lời chân thật cho đến khi thành Phật nên gọi Như Lai. Luận Du Già nói: trong 10 Phật hiệu, hiệu đầu (Như Lai) là tiếng gọi chung. Ở nơi sanh tử thực hành diệu hạnh đến khi thành Phật gọi là Tô Yết Đa. Còn hiệu Thiện Thệ, xưa dịch là Tu Già Đà, bậc trụ Niết bàn mà thành Phật gọi là Như Lai. Yết Đa có nghĩa là đi đến, như nói "mật đa" có nghĩa là lìa đến. Ở đây cũng vậy, Kim Cang là dụ, bình đẳng tánh trí có thể trừ diệt chúng ác, hàng phục phiền não, vượt hơn hết thảy nên gọi là Kim Cương. Chất Kim Cương tánh hay phá hủy vậy. Nói trụ trì là khi đạt đến Pháp Vương (Phật) có thể làm chủ ba cõi. Thế gian đạt được pháp thù thắng là do trí Kim Cang nầy làm chủ khiến không hoại diệt gọi là trụ, giúp cho mọi việc sanh trưởng là trì. Trí bình đẳng đây bao hàm luôn trí tạng, phước trí đều do đây làm nhân, vì thế nên gọi là trụ trì. Các công đức chư Phật đoạn diệt mọi xấu ác, là trụ trì Kim Cang vậy. Đây là diệu dụng của bình đẳng tánh trí. Trong thì giữ gìn, ngoài thì phá hủy. Bình đẳng tánh trí đây không nằm trong bình đẳng tánh trí thứ hai của tứ trí, mà là trí rốt ráo vắng lặng bình đẳng pháp tánh nên gọi là bình đẳng tánh trí, tức là trí vô phân biệt, trí đoạn mê lầm mà không ngăn cách đạo. Trí Kim Cang là chánh trí trong Diệu Quan Sát trí. Cũng như trụ trì được gốc chúng đức là nền tảng của việc phá diệt (ác). Trí nầy là đại viên cảnh trong bình đẳng tánh trí, có thể phá hủy chấp trước sanh tử, Niết bàn, trụ trong vô sở trụ, là thức thứ bảy đã trở thành bình đẳng tánh trí. Có thể phá hủy câu chấp nhị thừa tất cả mọi phiền não, an trú nơi công đức từ bi, lợi tha, là thành sở tác trí. Nay lấy nghĩa chính trong các trí theo chỗ thể chứng tánh bình đẳng mới có thể phá trừ niệm phân biệt và nhị chướng. Gốc của các đức gọi là Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí. Chư Bồ tát cần được mão báu ở quán đảnh vị, đạt tới vô lậu lìa ba cõi hoàn toàn trí vô phân biệt. Từ trước tới đây đã nói công đức thứ nhất của Phật, những đức tánh khác có nhiều tên gọi mà từ trước chưa có được nên gọi là hy hữu. Chỉ có Phật thành tựu được nên gọi là thù thắng. Phải dồn năng lực tu tập mới đạt thành nên gọi là công đức. Đức đây bao hàm cái thấp bé, thấp bé tự biết. Câu thứ hai nói rằng "hay đạt được pháp quán đảnh Như Lai quí hơn ba cõi", là công đức thứ ba điều phục điều ác, pháp môn nầy vượt trội hơn hết. Công đức thứ năm hiển bày pháp quán đảnh trí tạng. Có thể giải thích rõ như sau: nếu lấy pháp quán đảnh thế gian thi triển thì đạt quả vị quán đảnh xuất thế gian. Giòng Sát Đế Lợi bên Tây Vực (Ấn Độ) thái tử sắp lên ngôi đế vương, trước hết phải thỉnh các vị danh sư Bà la môn tới làm lễ quán đảnh cởi voi đi ngàn dặm, dùng nước trong bốn biển; lấy cỏ kiết tường nhúng vào nước biển rảy lên đỉnh đầu thái tử để được thanh khiết. Làm như vậy là đại an lành khiến tứ phương quy phục, sau đó thái tử nhận vương vị. Theo kinh cựu dịch thì gọi nước Sát Lợi nhiễu giọt trên đầu vua. Nay kinh tân dịch nói giòng Sát Đế Lợi làm lễ quán đảnh tân vương. Thân của vua hẳn là giòng Sát Đế Lợi, thỉnh các vị Bà la môn làm thầy làm lễ quán đảnh trên đầu vua. Bà la môn là chủng tộc tu hành giữ giới thanh tịnh nên giòng Sát Đế Lợi thỉnh làm lễ quán đảnh trên đầu vị tân vương. Đây là một tập tục theo nghi thức thọ pháp của Pháp Vương (Phật), cũng gọi là địa thứ 10 của hàng Thập địa Bồ tát cứu cánh sanh cung trời Đại tự Tại thuộc sắc giới, giữa đài liên hoa nhập Kim Cang định thọ ngôi vị Phật. Hơn nữa các vị Bồ tát là hàng chúng trung tôn, là trưởng tử của Phật, là thái tử. Mười phương chư Phật là thầy các vị Bồ tát. Bồ tát trợ thủ chư Phật làm cánh tay mặt lấy nước pháp thanh tịnh ba đời chư Phật rưới lên đầu vị quốc vương vì đảnh là giữa đầu, đầu là phần cao khiết nhất để tẩy trừ hai chướng từ đời vô thủy tới nay bị bao nhiêu cấu uế, hữu lậu ô nhiễm, biến thành thanh tịnh vô lậu tinh khiết để ngôi vị pháp vương thù thắng. Cũng như ở đời thái tử đã làm lễ quán đảnh mới thọ nhận vương vị, đội mũ vua, mặc triều phục, ngồi vào cung vua. Thái tử trong Phật pháp cũng thế, phải thọ pháp của Pháp Vương mới đội mão Phật gọi là nhứt thiết trí hay nhứt thiết chủng trí, là nơi giữ gìn tâm Phật, tức quán chiếu bằng trí tuệ Bát Nhã. Đây mới thật là công đức pháp bảo trân quí. Trong bảy món thánh tài gọi là huệ tài, cho nên mão nầy chính là mão báu vậy. Pháp y công đức chư Phật hai đời là chiếc y của tàm quý, nhu hòa, nhẫn nhục. Mão trí huệ nầy là đại trí tạng nên mọi thiện pháp nhân trí đây phát sanh. Mười phương chư Phật nhất loạt đều đắp mặc y phục, đội mão như thế. Ác hữu trong vô thỉ lấy nước phiền não rưới lên đỉnh đầu, trong kiếp sanh tử tâm là đầu mối chứa mầm ngu si xấu ác. Sanh tử chứa chấp vô tàm vô quý, can cường các lớp sơn ngỗ nghịch, sân giận, bẩn dơ, hẳn được tiêu trừ, vĩnh viễn xa lìa, hoàn toàn không rơi vào lao ngục ba cõi, nên gọi là hàng phục chúng ác, pháp môn tối thắng hay cũng gọi là pháp môn quán đảnh trí tạng. Do thế bậc tam giới chủ (Phật) thoát ra khỏi mọi ràng buộc sanh tử hữu lậu ngoài ba cõi. Vô lậu cũng gọi là biến khắp. Kinh còn giải thích rằng: như thực hành pháp quán đảnh thế gian thì hiện đời được quả vị pháp vương xuất thế về sau. Câu ba nói biến trí Kim Cang đại quán tự tại mà trong 14 đoạn thuộc đoạn thứ 12 là khắp mọi loài chúng sanh trụ trì pháp môn biến mãn thắng tạng. Vì Phật chứng được đầy đủ Như Lai tạng. Bồ tát Phổ Hiền tự thể có nghĩa biến khắp là chứng Như Lai tạng biến khắp hết mọi loài hữu tình. Đây nói về trí chứng tức là trí Kim Cang biến khắp diệt sạch sanh tử, tất cả phiền não chướng. Sau đó dùng tâm bi quán sát thân, miệng, tâm, hạnh chúng sanh để tận diệt sạch phiền não rồi tùy thời mà ứng hiện, chúng hữu tình đều có trí Kim Cang tạng nầy. Dùng Kim Cang tạng làm phép rưới rảy gọi là chánh pháp tạng. Mọi việc do từ chánh ngữ chuyển nên đều thành tịnh nghiệp (nghiệp thanh tịnh) và hết thảy sự nghiệp về sau đều nhờ lực gia trì nầy mà thành tựu. Do quán sát loài hữu tình khởi ba thiện nghiệp nên gọi là quán tự tại. Người trong lúc làm lễ như món pháp khí lợi lạc không mất thời gian nơi chốn, nên gọi là đại quán tự tại. - nước Qui Tư có vị thánh tỳ kheo ni đã hóa hiện phép đại quán tự tại vậy. Câu thứ tư nói rằng: quyết định chư pháp đại diệu trí ấn, trong 14 đoạn là phần thứ hai về pháp tánh tịch tịnh Bát Nhã lý thú thuộc Đẳng giác. Nói chung tất cả pháp không ngoài hai pháp: một là trí, hai là cảnh. Trí là trí Kim Cang, cảnh nói chung là mọi pháp. Cũng có thể nói có hai pháp: một là năng tác, hai là sở tác. Năng tác có thể là pháp, sở tác là nghĩa. Nay nói rõ đức Thế Tôn có hai pháp, trong hai pháp nầy chắc chắn phải hiểu rõ không hồ nghi. Năng tri là trí tức là đại diệu trí ấn. Trí ấn có hai loại hay hai pháp. Lìa hẳn các lưới nghi không phải phàm phu ngu mê lường được nên là diệu; dùng thần lực cũng khó nghĩ lường được nên là đại; trí ấn nầy quán sát các pháp không còn nghi ngờ nữa. Câu thứ năm nói rằng tất cả chư Phật rốt ráo vắng lặng bình đẳng tánh ấn, là pháp thứ năm trong 14 đoạn. Một, tất cả các pháp thậm thâm vi diệu là pháp môn thanh tịnh. Bốn, bình đẳng trí là pháp thanh tịnh. Bảy, lìa các hý luận là pháp chuyển từ tâm. Tám, nhập cổ xe lớn là pháp tánh bình đẳng, mười một: tánh bình đẳng là pháp tánh cao tột nhất mà trước đây do bao nhiêu vọng tưởng, cố chấp tác thành, nay vĩnh viễn xa lìa vọng tưởng, cố chấp. Câu chấp không còn thì chỗ chứng ngộ hiển lộ, vọng tưởng tiêu diệt nên tâm được thanh tịnh. Mọi vọng tưởng hoàn toàn dứt sạch thì cho dù nhập hay xuất thế, các pháp nhiễm hoặc tịnh cũng đều vắng lặng. Thể tánh của vắng lặng là chân như, có nghĩa là tất cả các pháp tánh bình đẳng. Điều nầy chắc chắn có cùng khắp các pháp nên gọi "ấn" là vậy. Phật đã đạt được pháp nầy, hoàn toàn viên mãn nên nói khéo chứng ngộ. Song Trung Biên Luận giải thích 20 tánh không trong đó rốt ráo là không và rằng: vì muốn làm lợi ích mọi loài chúng sanh nên quán không hoàn toàn là không. Theo ý nầy có thể giải thích: vì chúng hữu tình nên quán riêng không hoặc quán hữu, là vì chúng sanh thấy không. Sự quán sát nầy của chúng hữu tình hoàn toàn không đạt tới cứu cánh nên quán không rốt cuộc hoàn không. Cái không đây hoàn toàn vắng lặng mà chúng sanh thấy giống nhau nơi các pháp. Đó là giữa pháp, người tánh bình đẳng thì biết chắc rằng các pháp hoàn toàn là không. Do biến kế chấp hoặc do chấp lý nhị không là hoàn toàn rỗng không. Đây lược giải câu một tất cả pháp thậm thâm vi diệu là nghĩa yếu của pháp thanh tịnh. Ngoài ra, bốn pháp môn khác đều có giải thích đầy đủ. Đây sợ rườm rà nên không giải thích thêm. Câu thứ sáu giải rằng, đối với việc năng tác, sở tác đều khéo hoàn thiện đầy đủ. Thứ 10: khéo điều phục là hiển lộ đức tánh trí tạng. Người điều phục được sân, giận, phiền nhiễu, lỗi quấy v.v... chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể điều phục chúng. Phật cũng có thể điều phục phiền nhiễu, sai quấy cho chúng sanh tùy theo mỗi trường hợp thiện ác lớn nhỏ ra sao và bị cấu nhiễm thế nào. Phật khéo léo điều phục tất cả, hoàn toàn được là do trí nầy và thảy đều dứt sạch không còn sót thừa. Đức Thế Tôn tự chiết phục điều phục xấu ác, hoàn toàn viên mãn và Ngài còn điều phục xấu ác, cấu nhiễm cho chúng sanh làm cho tất cả đạt được giác ngộ Phật quả. Nên gọi đây là khéo hoàn thiện đầy đủ không còn dư sót thừa. Chỉ khi nào dứt hết được cấu nhiễm mới có thể đầy đủ cách khéo hoàn tất những việc khác, nên nói là khéo hoàn tất không còn thừa. Người đủ trí tuệ khôn khéo mới làm nên sự nghiệp. Như chế ngự được cơn nóng giận chẳng hạn cũng gọi là làm nên sự nghiệp. Hơn thế nữa, người trí tuệ biết khéo léo làm việc, tức biết giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý xa lìa cấu nhiễm, là đã hoàn tất việc làm. Đây là tán thán đức Phật có đầy đủ trí phương tiện khéo điều phục sân giận giữa mình và kẻ khác một cách hoàn toàn không thiếu sót. Câu 7 giải rằng: hết thảy mọi chúng sanh có những mong cầu chi theo chỗ vô tội của chúng mà đều được mãn nguyện tất cả. Câu thứ 14 nói về lý thú thậm thâm là pháp tối thắng hơn cả mà đức Thế Tôn đầy đủ trí Bát Nhã Ba La Mật khéo phương tiện lập nên trí thù thắng nầy. Cũng khéo hoàn thành tất cả sự nghiệp thanh tịnh làm cho mọi loài được thanh tịnh. Vã lại, tánh tham đã được chế ngự mỗi thời mỗi lúc cho đến các loài hữu tình khiến tự chúng đều được thanh tịnh. Khi lòng tham lớn đã được trong sạch thì được đại lạc, đại tài. Vào ra ba cõi một cách vững bền tự tại làm lợi ích chúng sanh dùng ngôn từ mật ngữ diễn chú Đà La Ni nầy cho tất cả. Người nào thọ trì chú Đà La Ni nầy mọi chướng đều tiêu tan, tùy theo sở cầu đều được như nguyện. Cho đến vì người nói rộng làm cho họ xa lìa phiền não, ác nghiệp, lập nguyện nhập thế, xuất thế, đời nầy hoặc đời sau, do vô tội báo nên thảy đều được mãn nguyện. Nếu như dấy khởi phiền não ác nghiệp gây nên tội lỗi, và như thế là các nguyện không thể thành tựu. Nên biết đức Thế Tôn không đoạt nguyện của chúng hữu tình, song mọi nguyện vọng không thành tựu là đều do chúng tạo tác cả. Điều cần yếu là phải vô tội, nếu như dấy khởi phiền não và ác nghiệp thì cho dù có chí thành khẩn thiết vẫn không định, nguyện vẫn bất thành. Lòng trong sáng như ngọc như ý phát thiện nguyện thì ắt mọi việc đều được thành tựu.
Câu tám giải rằng: khéo an trú bình đẳng trong ba đời là người tồn tại mãi danh đồn khắp nơi. Đoạn 13 trong số 14 đoạn nói về lý rốt ráo vô tận pháp Kim Cang. Đây là nói chung về Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thể hoặc dụng, rộng hoặc sâu đều không khác chỗ rốt ráo tột cùng. Vì thế chư Phật từ vô thỉ trở lại chỉ có mỗi một vị là rốt ráo (giải thoát), là quán chiếu Bát Nhã , thể-dụng-sâu-rộng vô cùng tận. Trí Bát Nhã năng biến khắp nên không ngằn mé. Vì không dứt đoạn nên nói chỉ một vị, vì không cùng tận nên nói là hơn hết. Cho nên quán chiếu trí Bát Nhã thâm diệu biết được ba đời; biết quá khứ, vị lai cũng như biết được hiện tại nên gọi là bình đẳng. Hơn nữa quán chiếu tới tận cùng vô biên không ngằn mé cũng chỉ một vị là rốt ráo. Cũng như quán sát ba đời sự hoặc lý mỗi mỗi phân minh hiểu rõ thông suốt nên gọi là bình đẳng; lý của pháp cùng một tướng cũng gọi là bình đẳng. Dù lý hay sự đều thông suốt cả nên bình đẳng cộng thông cả lý và sự. Tác dụng của trí Bát Nhã là biến chiếu cùng khắp sâu rộng thường hằng không gián đoạn. Người nào khéo an trú nơi trí nầy có thể quán chiếu tới chỗ thâm diệu hiểu rõ tam tế (quá khứ, hiện tại, vị lai) gọi là khéo an trụ. Trong lý-sự đều không tán loạn nên nói là khéo an trú. Trong mọi lúc trí Bát Nhã biến chiếu cùng khắp là ý nầy vậy. Câu 9 giải thích: thân-miệng-ý bền chặc như kim cương nên chư Phật như như bất hoại, như đoạn 6 trong 14 đoạn nói về trí ấn Kim Cang của Phật. Đoạn 9 nói về chân pháp cúng dường là pháp vô thượng bậc nhất. Đức Phật hàm thâu tất cả Như Lai Kim Cang thân ấn nên chứng được pháp thân chư Phật mới thâu nhiếp được ngữ ấn Kim Cang của chư Phật. Đối với các pháp chuyển hóa tự tại mới thâu nhiếp tâm ấn Kim Cang của chư Phật. Trong các phép định đều được tự tại, thâu nhiếp được trí ấn Kim Cang của chư Phật mới đạt đến vô thượng diệu thân, miệng, ý bền chắc như kim cương, như như bất động, không bị hủy hoại, không bị phiền não làm khuynh đảo, cũng không bị ngoại đạo, ma vương phá quấy, làm cho ba nghiệp hành giả lắng sạch. Dùng ba nghiệp Phật trí làm tiền đạo để xa lánh tội lỗi. Không gì có thể xâm phạm làm cho tội lỗi khởi lên, nên nói là như như bất động. Người đạt đến như như bất động sánh với chư Phật không khác, nên nói so sánh với. So sánh chư Phật như trước đã nói là tất cả diệu nghĩa của Như Lai, như như bất động như chất kim cương đây vượt thắng luôn cả ba nghiệp. Do đời trước gieo nhân lành đúng pháp ba nghiệp cúng dường chư Phật.Vì nhân cúng dường đến khi đạt được quả là thành Phật. Chân thật cúng dường ắt được thiện báo, nên nói là như như bất động. Như ba nghiệp đây không do ngoại đạo hoặc ác hữu tạo, thì dù thiên ma hay bạn bè xấu của chúng cũng không phá quấy được. Do bền rắn như kim cương hay phá diệt sanh tử trong đó có ba nghiệp. Tánh của ba nghiệp cũng là thể của chúng, không có nghĩa nào khác. Trong đoạn 9 nầy nêu rõ công đức của Phật. Nay tán dương Phật đức là muốn chúng sanh biết chư Phật đầy đủ các đức tướng để phát tâm tôn trọng kính ngưỡng thọ nhận lời Phật. Dạy hoặc nghe kinh nầy phát tâm Bồ đề dõng mãnh mong cầu chứng quả; hoặc nêu các đức tướng của Phật là hơn hết không ai bằng. Vì thế, nên nói lý thú vi diệu rất là thù thắng ta có thể nương theo đó tu học. Đoạn 2 còn giải thích: căn cứ vào các kinh nói thì Phật có đầy đủ 21 đức, có giải riêng phần nầy trong đoạn 9. Kinh văn có nêu: Kim Cang trụ trì bình đẳng tánh trí là nói Phật hiện thân bất nhị nhất hướng tới công đức thù thắng không chướng ngại và nêu rõ chỗ Phật đạt được đến tánh bình đẳng, được Phật tướng đồng nhất trong sự tu hành là công đức hơn hết. Trong câu nầy đã nêu lên được cả hai đức tướng, vì đức Thế Tôn lìa sanh tử mà hiện trong phàm phu đủ mọi tạp nhiễm chấp trước của sanh tử. Người lìa nhị thừa hướng Niết bàn đạt đến một phương nhắm tới lợi lạc tha nhân, là còn trụ bám vào Niết bàn. Đức Phật không còn hai chướng hiện hữu Niết bàn nên gọi không còn hai món hiện hành. Bi và trí tròn đủ đối trong sanh tử hay Niết bàn đều không trụ nên gọi là bình đẳng. Hành giả phá trừ được hai chướng nầy có thể ví như kim cương. Trụ nơi vô sở trụ nên không trụ Niết bàn, vì thế gọi là trụ trì. Gìn giữ bi và trí nên sớm đạt được tánh bình đẳng của chư Phật so với lý sở chứng, trí năng chứng để thân, nghiệp, ý hạnh bi bình đẳng. Do tâm bình đẳng nầy hay phá trừ sanh tử gọi là Kim Cang bình đẳng, căn cứ việc năng duy trì chúng đức nên gọi là trụ trì. Nay chỉ nêu lên một việc duy trì nầy so sánh với rất nhiều công đức khác nên nói mỗi một công đức thù thắng. Câu 2 trong Kinh giải rằng lễ quán đảnh lên chiếc mão báu vượt ngoài ba cõi để nói rõ Phật đủ ba đức. Một là chư Bồ tát cầu mong đạt được chánh trí, hai là cực cùng ở cõi pháp giới, ba là việc làm vô ngại. Trong câu nầy phần đầu nói muốn thành tựu Phật chủng thì không thể bỏ pháp phương tiện, là công đức thù thắng hơn cả. Nghĩa là chư Bồ tát vì muốn Phật chủng không đoạn diệt nên chuyên cần tu tập gia hạnh, không thể sánh với hàng nhị thừa. Vì thế, Phật trí chỉ có chư Bồ tát mới thành tựu. Do ý nghĩa nầy, phép quán đảnh vương tử lúc lên ngôi thuộc địa thứ mười trong thập địa. Đội mão báu của Phật, đứng vào chỗ đứng của Phật chẳng phải hàng nhị thừa có thể kham được, là khiến chúng sanh cầu nghe được Kinh Bát Nhã thậm thâm vi diệu để đạt được giác ngộ, cũng như để kế thừa ngôi vị pháp vương. Vì thế, nếu bị các chướng ngăn chặn chúng sanh không thể tu học Kinh Kim Cang Bát Nhã được, tức là đã đoạn mất giống Phật. Đoạn thứ 2 nói về công đức thù thắng quả chứng đắc, là đạt đến pháp giới cùng cực thanh tịnh. Quả tu chứng cõi tịnh pháp giới nầy quán chiếu tâm hiện tiền, dụ cho đỉnh đầu có thể đội mão báu. Mão báu là đồ trang sức trên đầu. Pháp giới là nền tảng công đức nên dụ cho mão báu. Câu 3 giải thích: hàng phục ma oán là công đức vượt hơn cả. Vì thế, hành giả cõi sắc trở lên bị cảnh làm tâm nhiễu loạn chướng ngăn thiện pháp nên gọi ma oán là vậy. Chư Phật tâm khéo trụ nên cảnh hoàn toàn an lạc tự tại không còn dấy động, nên được công đức tối thiện hoàn toàn. Tất cả mọi điều ác không tác dụng mới chế phục được cảnh. Mọi việc làm đều được thông suốt không bị trở ngại hẳn xa lìa điều ác cho đến khi thành Phật siêu xuất ba cõi. Câu 2 để tán dương đức Thế Tôn, trước chưa thành tựu nay hợp thời mới thành tựu nên gọi là hoạch (đạt được). Câu 3 giải thích: trí Kim Cang biến khắp đại quán tự tại ấn, là ba công đức của Phật: một là pháp bất khả chuyển, hai là trụ chỗ Phật trụ, ba là các hạnh hoàn toàn giác ngộ. Câu 1 nói rằng hàng phục ngoại đạo là công đức hơn cả có nghĩa là Phật dùng chánh pháp hàng phục ngoại đạo không thoái chuyển. Để hàng phục ngoại đạo Phật đã chứng tỏ đạo mình chân chánh. Phật thành tựu trí Kim Cang biến chiếu nói pháp vi diệu hàng phục chúng ngoại đạo. Hơn nữa, do thành tựu trí tuệ rộng lớn Phật đủ khả năng thuyết pháp mầu độ chúng ngoại đạo. Cho nên dùng trí đây dụ cho sự cứng rắn của kim cương. Nói trí biến khắp là trí hiểu rõ tường tận các pháp vậy. Câu 2 nói quán xét nơi hóa sanh là công đức thù thắng. Vì đêm ngày 6 thời đem lòng đại bi quán sát mọi sự thế gian. Câu 3 nói rằng nương nơi các thừa hóa độ chúng sanh. Phật tùy trường hợp ứng hiện là công đức tự thân thù thắng. Phật biết rõ tâm tánh chúng sanh không đồng nên theo đó hiện thân nói pháp, gọi là đại quán tự tại. Quán tâm chúng sanh sai biệt bất đồng để tùy loại mà hiện thân. Do đây có thể nói Phật tùy cơ ứng hiện. Điều nầy chứng tỏ rằng Phật đầy đủ trí quán chiếu khắp mọi loài. Vã lại, câu 1 nói: trí Kim Cang biến khắp là công đức thứ hai mươi mốt. Nói tóm lại là trí giác thanh tịnh tuyệt vời. Đối với pháp hữu vi, vô vi phải xem là cảnh giải thoát để khai mở tuệ giác. Thanh tịnh viên mãn chính là cửa ngỏ tuệ giác. Ngoài ra, đối với tâm tánh biết rõ tâm chúng sanh là khai mở tuệ giác nên gọi là trí Kim Cang biến chiếu c?g khắp. Trong hai công đức đây, nay nêu lên một tròn đủ gọi là "đắc". Câu 4 giải thích quyết định các pháp là đại diệu trí ấn. Trí đây hàng thập địa đã đạt được. Bây giờ nêu lên hai loại công đức viên mãn: một là đối với các pháp trí biết không còn bị ngăn ngại, hai là với các pháp trí không còn nghi ngờ. Trong câu nầy giải nghĩa: đoạn tất cả nghi là công đức thù thắng tức là đối với các pháp hẳn trí đã đoạn dứt hết mọi nghi ngờ. Cho nên câu 2 nói khéo đạt được nhứt thiết trí, tùy theo hoàn cảnh đem giáo pháp dạy chúng là công đức thù thắng. Có nghĩa là đối với các pháp không còn nghi ngờ, tận lực tùy theo hoàn cảnh dạy dỗ họ, thì chỉ có đức nên Thế Tôn chứng ngộ được pháp mà thôi. Dùng trí hay khéo quyết định tùy trường hợp dạy dỗ không lay chuyển, không bỏ phế cho nên nói đối với các pháp nào chưa quyết định dứt khoác về lý thì không thể được. Vã lại đã hiểu ba pháp ấn: chư hành vô thường, Niết bàn tịch tịnh, các pháp vô ngã, là đã phân biệt rõ các pháp ấn cùng khắp. Ba chân lý nhiệm mầu nầy quyết định được các pháp nên gọi là ấn (chứng biết) vậy. Phật đạt đến trí nầy gọi là trí ấn. Câu 5 giải: rốt ráo vắng lặng bình đẳng tánh ấn là nêu lên hai đức: Một: Phật vô nhị đạt Niết bàn tối thắng; hai: chứng cảnh Phật bình đẳng không thiên lệch hai bên. Câu trên nói tự chứng ngộ là công đức thù thắng. Phật không phân hai tức pháp thân chân như đã chứng tướng vô sai biệt. Ở đó hai tướng phân biệt không còn hiện tiền mà do pháp định thường tại, nên gọi là trụ, tức không trụ hai bên thì đạt đến giác ngộ. Phật đạt đến cùng nên gọi là đắc. Pháp thân chư Phật có tánh bình đẳng đã trừ được hai ngã quán, hai ngã không mới chứng ngộ viên mãn. Câu 6 nói: chứng được chân như là công đức thù thắng, có nghĩa rằng tướng chân như xa lìa hẳn hai bên hữu vi, vô vi, cũng như lìa luôn cả mọi phương, xứ, vì cảnh giới Phật bình đẳng. Tánh bình đẳng châu biến khắp các pháp không còn nhiễm. Chân như ấn đây đối với các pháp hoàn toàn là không. Chứng như vậy mới ngộ được Phật là chỗ chứng viên mãn. Câu 6 giải thích: đối với mọi việc năng tác hay sở tác đều khéo thành tựu không còn thừa sót. Điều nầy nêu rõ hai loại công đức của Phật: một là thân Phật lưu biến khắp mọi cõi, hai là các cõi Phật thành lập không thể nghĩ bàn được. Câu trên nói Phật hiện từ cung trời Đâu Suất Đà đến là công đức thù thắng. Nghĩa là Phật hóa hiện thân khắp cùng ở mọi thế giới, đại châu và đồng thời Ngài cũng nhập vào thai mẹ. Đây là 8 tướng thành đạo của Phật. Điều nầy nói lên rằng đức Phật thành tựu được sự nghiệp là nhờ biết khéo léo. Hóa thân cũng như báo thân đều do nơi sự ứng hóa hiện lý giống nhau. Câu sau nói: thành lập giáo pháp để giáo hóa là công đức thù thắng, nghĩa là Phật thiết lập giáo pháp dạy đạo ngoài sự nghĩ suy của các cảnh giới. Vì thế nên gọi chỗ làm nên sự nghiệp đều hay khéo. Nhân tu ba kiếp làm người, hiện đời thành Phật thuyết pháp đem lại đại lợi lạc, công việc được viên mãn trọn vẹn nên gọi là thành tựu khéo không còn dư thừa. Câu 7 giải thích: tất cả các loài hữu tình mong cầu chi theo chỗ vô tội đều được mãn nguyện. Điều nầy nêu rõ hai đức tánh của Phật: một là đạt được vô tướng pháp, hai là tướng liên tục không gián đoạn. Như Lai giải thoát đạt được diệu trí viên mãn. Câu nầy hàm ý rằng Phật đã điều phục là công đức phương tiện thù thắng. Vô tướng là Niết bàn. Phật biết rõ chúng sanh của ba thừa nên Ngài kham nhẫn phương tiện giáo hóa. Vì chúng sanh nói sự thật khiến chúng ngộ được Vô tướng pháp. Ý nói: tất cả hữu tình muốn cầu ra khỏi sanh tử đạt đến Niết bàn. Hàng tam thừa nguyện lực thâm thiết do vô tội đạt được Phật quả viên mãn. Câu sau nói: Phật hiện thân ra đời là công đức thù thắng, có nghĩa là Phật thọ thân không bị gián đoạn. Các đức Phật thọ thân mỗi vị thân tướng khác nhau. Phật đầy đủ diệu trí khiến chúng sanh được giải thoát. Nói Như Lai giải thoát bậc trí tuệ siêu việt, vì Phật trí đã được viên mãn rốt ráo. Trí tuệ nầy của Phật không bị gián đoạn. Nơi cõi Tịnh Độ Phật hiện thọ dụng thân cũng không gián đoạn. Giữa những cuộc tập hội đông đảo Phật hiện nhiều thân để cùng chư Bồ tát thọ được pháp lạc, đều liên tục không xen tạp. Phật dùng trí mầu hiện thân đạt đến rốt ráo. Ý đây nhằm nêu rõ trí của Phật và sự hiện thân của Ngài đều được viên mãn. Tùy theo chúng sanh hoàn toàn vô tội với sở thích, mong mỏi Phật hiện pháp khéo cứu độ họ xa lìa sanh tử được toàn thành sở nguyện. Câu 8 giải thích: khéo an trụ bình đẳng trong ba đời biết rõ pháp thường, đoạn, pháp vô thật rốt ráo, phổ biến cùng khắp. Việc nầy nêu rõ ba loại công đức của Thế Tôn: một là qua lại ba đời tự tại an nhiên, hai là tánh biến khắp cùng hư không, ba là đến cùng tận vị lai. Câu trên nêu rõ công đức thù thắng ba đời, nghĩa là nhìn việc hiện tại để biết qua việc quá khứ, vị lai thông suốt. Cho nên kinh nói rằng Bát Nhã ở phương đông phương bắc hưng thịnh sau cùng và tiêu diệt trước nhất. Cũng như giáo pháp lúc tận diệt ở nước Chiêm Ba (?) diệt trước. Lúc giáo pháp hoại diệt trong Kinh đều nói rõ, cũng như ghi hai trụ đá hai bên cây Bồ đề "thân Bồ tát hoại diệt thì chánh pháp diệt". Qua thời gian không còn lưu lại những dấu ấn sự tàn phá để khảo chứng. Người ta căn cứ nơi bi ký vua A Dục ghi dấu để chứng minh. Hai câu sau nêu đức tự lợi và lợi tha là hai công đức vô cùng thù thắng. Ví như hư không trải qua kiếp thành, kiếp hoại vẫn nguyên vẹn không hoại diệt. Công đức chân thật của Phật cũng thế, luôn luôn tồn tại bất hoại, cho đến vị lai vô cùng tận. Công đức lợi tha cũng thế, tới cùng tận vị lai thường làm cho tất cả chúng sanh được an vui lợi lạc, nên nói rằng trí nầy biến chiếu cùng khắp mọi nơi, tức tác dụng công đức đây biến khắp không mất.
Câu 9 giải thích: thân, miệng, ý chắc như kim cương làm cho chư Phật bất động, không hư họai. Điều nầy nêu rõ hai nhóm công đức của Phật: một là đến mọi nơi mọi chốn không bị chướng ngại, hai là chỗ hiện thân không phân biệt. Đoạn nầy, câu trên nói đã tu sửa mọi chướng kết buộc là công đức đối trị thù thắng, tức là đã tu tập đối trị hai chướng tới thánh đạo, là đạt đến giải thoát tất cả mọi chướng ngại làm chỗ y cứ, chỗ nhắm tới nên gọi là Xứ. Do đó ba nghiệp của Như Lai thuần thanh tịnh như Kim Cương, vì chư Phật bất động không hoại. Câu sau nói khéo nhiếp thọ thân không nhiễm là công đức thù thắng. Vì tự thân Phật không khởi phân biệt hư vọng, không phiền não tạp nhiễm. Thân Phật là thân không còn tạp nhiễm không khởi phân biệt. Vì không phân biệt nên ba nghiệp Phật không còn sai lầm sánh với chư Phật như chất kim cương không hư hoại. Câu 9 dùng văn nghĩa để tán thán chung 21 công đức của Phật, nhưng e văn rườm rà ở đây không nêu ra hết. Luận Nhiếp Đại Thừa theo chỗ thích ứng rộng mà giải cũng không nhứt thiết từng điểm. Câu 3 cũng giải: trong 9 câu nầy của Kinh, 4 câu đầu tán thán báo thân. Câu 1 tán thán tổng quát bốn trí thông suốt thật đức báo thân không luận pháp giới. Câu 2 tán thán đạo là hơn cả đáng tôn; Câu 3 tán thán bi rộng trí khắp hai quả đều viên mãn; Câu 4 tán thán huệ rộng trí sáng. Nói chung tất cả sự lý, hữu vô đều chứng biết không lầm. Câu 5 tán thán đức vắng lặng sáng soi, tức tán thán pháp thân. Phần còn lại tán thán hóa thân. Câu 6 tán thán ân đức khéo thành tựu. Câu 8 tán thán chung về thần thông tự tại nên được mãn nguyện thù thắng. Câu 8 tán thán công hạnh thuyết pháp. Câu 9 tán thán các lậu (phiền não) đã sạch, hiện tại lìa nhiễm để dạy dỗ, khuyên răn. Câu 10 tán thán chung bốn trí hoàn toàn viên mãn báo thân. Kim Cang là nói ví dụ chung chỗ sở y kiên cố của tứ trí mà tánh sắc bén là chất kim cương, chứ không phải do sự phá hủy của tác dụng. Nói trụ trì là trí đại viên cảnh, tức là chứng tới chỗ trụ vào trí Kim Cang chân như. Đây là gốc các món thiện thế gian và xuất thế gian cũng là căn bản các trí khác, nên gọi là trụ trì vậy. Theo kinh Phật Địa có 9 ví dụ trí viên cảnh: 1/ y trí viên cảnh những hình ảnh khởi hiện, như trí Phật chiếu khắp mọi nơi, mọi cảnh, thức; thì hình ảnh phát khởi, do đó gọi là nhứt thiết trí. Phật thân có đầy đủ các đức nầy gọi là trụ trì. Vì trí đại viên nầy liên tục không gián đoạn ở xuất thế gian xứ, cảnh, thức đều nương đó phát sanh, nên gọi là trụ trì. 2/ Trí viên cảnh không động không giao quán sát tự thân chúng sanh mọi việc đắc thất, muốn giữ tánh đức, bỏ việc sai quấy. Trí viên cảnh của Như Lai trải khắp pháp giới không gián đoạn nên không bị giao động, quán sát vô số chúng sanh pháp nhiễm, tịnh muốn giữ pháp tịnh, bỏ pháp nhiễm. 3/ Như tấm kiếng sạch làu làu không dính bụi có thể sáng chiếu khắp. Ví như trí viên cảnh Như Lai đã đoạn hẳn nhị chướng nhiễm ô, dùng định lực sắc bén nhiếp trì, tâm tịnh không nhơ đem đến sự an lạc lớn lao nên sáng chiếu khắp nơi. 4/ Tấm kiếng nương theo bản chất các cảnh duyên mà hiện rõ hình tướng. Đây nói trí viên cảnh Phật hằng nương các duyên để ảnh hiện phát khởi. 5/ Kiếng chiếu soi mọi phía mọi nơi hình ảnh nương do tùy duyên phát hiện. Dụ cho trí viên cảnh Như Lai không gián đoạn, vô lượng thiện lành, là chỗ nương tựa của hàng tam thừa. 6/ Kiếng như đất bằng nơi đó núi non, nhà cửa, cung điện mọc lên phẳng lặng mà vẫn không tăng không giảm. Trí viên cảnh Phật ảnh hiện khắp thập địa soi sáng khắp hình ảnh thế, hay xuất thế mà phân lượng thì chẳng đồng. 7/ Vã lại trí viên cảnh không bị ngăn ngại nên do duyên mà hình ảnh hiện, trí viên cảnh Như Lai không bị ác hữu ngăn che, chánh pháp không bị chướng ngại, do trí chúng sanh phát khởi vì đó không phải là vật. 8/ Trí viên cảnh không chỗ tối tăm nào ngăn được hình ảnh phát khởi. Trí viên cảnh Phật thì không chỗ nào xấu ác ngu muội chúng sanh nào mà không hiện rõ, vì đó không phải là đồ vật. Vì ngu si sâu dày nên tuy có ruộng phước Tam bảo phát sanh thiện pháp, chúng sanh vẫn mê muội không muốn nghe, không muốn quay về, trái lại vẫn dong ruỗi ở ngoài đạo. Dẫu chẳng bị ngu si sâu nặng che lấp, nên nói chẳng phải là đồ dùng. 9/ Trí viên cảnh phi xứ do duyên hình ảnh từ xa tới gần mà phát hiện. Trí viên cảnh Như Lai phi xứ, là pháp thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Chúng sanh không tin trí phát sanh hình ảnh, đó chẳng phải là đồ vật. Thân đời trước phỉ báng giáo pháp nên trải qua vô lượng kiếp không nghe được chánh pháp là do nghiệp chướng ràng buộc. Hoặc không tin nhân quả, cho đó không phải thánh pháp nên không để ý tới. Do chín thí dụ trên theo chỗ ứng dụng tự hoặc tha thân, hữu tánh hay vô tánh, nhập thế hoặc xuất thế đều do nhân duyên nên gọi là trụ trì.
Pháp tánh bình đẳng có 10 điểm như dưới đây: 1/ Tất cả mọi tướng trạng lăn xăn như mừng, vui, thích đều là pháp bình đẳng. Như gặp hoàn cảnh tốt thì sanh mừng, ưa thích nên nay ngộ pháp tánh bình đẳng tất cả.
2/ Tất cả mọi sự thọ nhận là pháp duyên khởi bình đẳng, vì biết đó là do nội ngoại duyên mà sanh.
3/ Lìa hết mọi dị tướng, phi tướng là pháp bình đẳng vì hình dạng các pháp tướng trạng luôn luôn biến đổi khác nhau nên gọi là dị tướng. Sự cách ly mỗi mỗi khác biệt thì dị tướng tức là tướng chung. Như thế, tướng chung lấy phi tướng làm tướng là pháp bình đẳng. Kinh nói rằng, hết thảy các pháp đều đồng một tướng mà bị gọi danh là phi tướng.
4/ Lòng từ sâu rộng bao la là pháp bình đẳng. Lòng từ có ba loại: một là gieo duyên chúng sinh. Gieo duyên với chúng sanh là sơ phát tâm của Bồ tát lúc khởi tu. Hai là duyên pháp, có nhân duyên gặp giáo pháp làm cảnh mà Bồ tát tu chánh hạnh có nhiều phần vụ hóa độ chúng sanh. Ba là vô duyên, lấy chân như làm cảnh Bồ tát tu pháp vô sanh nhẫn, lòng từ do cảnh duyên, pháp duyên nên cũng còn gọi là vô duyên, tức là vô phân biệt. Chư Phật có đầy đủ phước nghiệp bình đẳng lâu dài không gián đoạn, tích lũy không dư thừa nên nói sâu rộng bao la.
5/ Lòng bi bình đẳng vô giới hạn. Lòng bi hàng nhị thừa chưa nhổ sạch hết khổ mà chỉ trừ tạm ở cõi dục thôi, chư Phật mở rộng tâm bi khắp ba cõi luôn luôn hằng chuyển, quán tới không không còn gì để quán, hằng cứu vớt không bỏ sót nên nhổ sạch ba khổ mà chúng sanh đang thọ, xem chúng sanh như con ruột không niệm phân biệt đây là con hay chẳng phải con, cần cứu hay không nên cứu, chư Phật đã đạt được đại giác luôn luôn niệm nghĩ như vầy: ta thường đem đến chúng sanh điều chính là việc thiện lành. Nếu ai chưa ngộ ta phải khai ngộ, làm cho họ giác ngộ. Đây cũng gọi là ba tâm từ tiêu chuẩn phải hiện rõ.
6/ Tùy theo chỗ ưa thích của chúng sanh mà Phật đem đến tâm bình đẳng. Tuy chư Phật đã đạt được vô hý luận (không nói bàn suông) do trí bình đẳng làm lực tăng thượng, nên đại viên cảnh trí tương ứng thức vắng lặng hiện sắc thân sáng rỡ như lưu ly khiến cho chúng sanh thành tựu căn lành nơi tự tâm làm cho thân tướng cũng thanh tịnh như vậy. Có nghĩa tự tâm thấy được thân Như Lai.
7/ Hết thảy mọi loài hữu tình đều tôn trọng pháp bình đẳng Phật dạy. Tùy theo chúng sanh ưa thích Phật khéo dùng lời hay làm cho tất cả đều hoan hỷ. Phật hiện thân do lòng bi nguyện thuyết pháp hợp căn cơ không làm thương tổn. Cho dù có những chúng sanh không thuận theo lời Phật dạy, nhưng đây là lời giáo hóa có tác dụng ngay bây giờ hay lợi lạc về sau nên ắt phải tin tưởng thọ nhận.
8/ Thế gian nầy vắng lặng cùng một pháp vị bình đẳng; song còn hữu lậu, ngũ uẩn nên gọi là thế gian, chỉ khi nào những thứ kia diệt hết mới được gọi là vắng lặng hoàn toàn. Pháp sanh tử hay Niết bàn cả hai đều bình đẳng nên gọi là đồng một vị. Vã lại, để phá chỗ chấp không theo bản tánh cố hữu thế gian nên cho là vắng lặng. Điều này nêu rõ pháp vô sai biệt nên nói là một vị.
9/ Những việc khổ vui ở thế gian đều cùng một vị. Ở đời có tám việc: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc (lợi lộc, thất bại, hư hoại, khoe khoang, ca tụng, xấu hổ, khổ, vui) như việc nào được vừa ý là lợi, việc nào không vừa ý là suy, hiện không xài được là hủy, được ca ngợi tán dương là dự, trước mặt được người tán dương là xưng, hiện bị người bôi bác là cơ, thân tâm bứt rứt phiền muộn là khổ, trong lòng thư thái vui sướng là lạc. Bậc thánh trong khi hành xử thường giữ mực thường là được lợi không ham, gặp việc không vừa ý vẫn thản nhiên không chán nản, cho chí gặp khổ cũng không lo mà được vui vẫn không ham thích.
10/ Xem mọi việc như gió thoảng giữa hư không bình đẳng như nhau, là đã gieo trồng được 10 trong vô lượng công đức bình đẳng rốt ráo. Công đức nầy đã huân tập trưởng dưỡng thành thục giải thoát pháp tu Bồ đề phần nên gọi là gieo trồng. Hoàn thành 10 công đức nầy thì được bình đẳng tánh trí. Bình đẳng có hai là tất cả chúng sanh bình đẳng, chư Phật bình đẳng. Luận Nhiếp Đại Thừa giải rằng: chuyển thức thứ bảy thành bình đẳng. Do trước chấp ngã, bỉ, thử, bất đồng; nay lìa ngã, chấp, bỉ, thử nên gọi là bình đẳng. Mỗi mỗi công đức hy hữu rốt ráo là nói về diệu quan sát trí và thành sở tác trí, mỗi trí đều có 10 nhân. Mười nhân của diệu quan sát trí như:
1/ Kiến lập nhân: Trí nầy lưu giữ tất cả pháp đà la ni (ấn chú), thiền định (Samadhi) là vô ngại diệu pháp của chư Phật, gọi là 10 lực.
2/ Sanh khởi nhân: Trí này phát khởi mọi hiểu biết vô ngại mỗi mỗi tương thức nhân duyên. Tức là nhứt thiết trí có thể hiểu rõ tất cả cảnh duyên. Mọi cảnh duyên là nhân sanh khởi.
3/ Hoan hỷ nhân: Trí này có thể đạt đến bỉ ngạn, pháp Bồ đề phần, thập lực, vô sở úy, bất cộng Phật pháp, là chỗ thật trang nghiêm an lạc.
4/ Phân biệt nhân: Mọi việc hưng suy nhân quả của Tam Thừa thế gian hay xuất thế gian đều viên thành không dư thừa. Quán sát tinh tường chi li thiện ác thế gian trong vòng nhân quả thạnh suy. Xuất thế có nhị thừa mà Đại Thừa nêu rõ nhân quả việc thạnh suy. Cũng có thể giải cách khác trong Kinh Phật Địa phẩm năm nói rõ.
5/ Thọ dụng nhân: Trí đây giúp làm tăng thượng duyên cho bình đẳng tánh trí, như kiếng soi; trí này cũng là tịnh thức hiện thân thọ dụng, mỗi mỗi chứa nhóm đầy đủ oai đức chan hòa pháp vũ nhuần thấm đại pháp, làm cho hàng thập địa Bồ tát thọ được nhiều pháp lạc, cũng như trợ lực thành tựu biến hóa thân, cũng khiến cảnh trước mắt biến thành an lạc.
6/ Thú sai biệt nhân: Trí đây trải rộng khắp nhân quả sai biệt trong 5 đường (ngũ thú).
7/ Giới sai biệt nhân: Trí này trải rộng khắp nhân quả sai biệt ba đời hiển bày đầy đủ.
8/ Vũ đại pháp vũ nhân: Trí này rải mưa pháp chan hòa khắp nơi Chư Phật, Bồ tát đủ thần lực dẫn dắt thấm nhuần sâu rộng giáo pháp vi diệu.
9/ Hàng phục oán địch nhân: Trí đây đối với thiên ma ngoại đạo, dị nhân thảy đều không làm khuynh động lung lạc, vì đạt đến cõi pháp giới vi diệu.
10/ Đoạn nhứt thiết nghi nhân: Diệu quan sát trí không mê muội về các tướng riêng tướng chung vây bức. Luận rõ tướng riêng tướng chung, tức nhân số mười đây luận rộng về các tướng như Kinh Phật Địa luận dẫn ... Thành sở tác trí có 10 nhân thuộc 3 nghiệp hóa. Thân nghiệp hóa có ba: một là hiện thần thông hóa, do Phật khéo léo hóa hiện ở mọi nơi để trừ những chúng sanh ỷ lại, ngạo mạn; Phật dùng phương tiện lực khéo dẫn dắt chúng sanh đưa vào con đường thánh thiện để được giải thoát. Hai là hiện thọ sanh hóa: do Phật dạo qua các cõi chúng sanh hiện thân đồng loại song phẩm vị cao tôn hơn. Vì Phật hiện thân hình đồng như chúng sanh nên nhiếp phục được mọi loài dị loại khác hình. Ba là hiện nghiệp quả hóa: Do Phật thị hiện như kinh Bổn Sự Bổn Sanh tu hạnh khó hành. Trong Khế Kinh nói: kiếp trước của Phật vào thời Phật Ca Diếp ra đời, Ngài dùng những lời mạ ly?nói rằng, nơi đâu ông thầy tu cạo bỏ râu tóc đắc đại Bồ đề, thì cũng khó thành đạo vô thượng giác. Do ác nghiệp của Ngài gieo kiếp trước như thế nên nay phải thọ quả báo khổ nạn. Đây cũng là lời dạy dứt ác hành thiện trong đời này. Nếu không được như thế thì luống phí một đời hệ lụy ích chi ? Chư Bồ tát từng thân cận vô lượng các đức Phật gieo trồng căn lành, nhớ biết được kiếp trước mà còn phát ra ngôn ngữ hành động xấu ác như thế. Nên biết rằng đây là lời Phật muốn giáo hóa những ai nghe đều được hóa độ, để họ đối với chư Phật tránh xa không dùng những lời thô ác như thế.
* Khẩu nghiệp cũng có ba loại: một là lời an ủi, do đó Phật tùy nghi tìm mọi phương cách làm vui; Văn từ êm nhẹ làm cho chúng sanh trí thấp mới nghe tin ngay. Ngôn từ của Phật đầy đủ 16 đức, phàm phu trí thiển cận nghe xong sanh lòng tin tưởng ngay, huống gì là người thông minh trí tuệ có thừa. Hai là phương tiện ngữ hóa: Phật lập chánh học xứ phá trừ kẻ buông túng giữ cho không buông lung. Do tâm đại bi, Phật cũng lập tùy hạng người tin, tùy pháp thực hành v.v... Vì chúng sanh lập học xứ khiến chúng diệt ác tu thiện. Ngài cũng lập pháp phần Thánh đạo sai biệt làm cho chúng sanh nhập vào chánh đạo thoát ngoài ba cõi. Ba là biện dương ngữ hóa: Phật đoạn lìa nghi ngờ cho vô số chúng sanh thành trí hiểu biết chân chánh, tùy tâm ưa thích sai biệt của chúng sanh mà biểu tỏ lòng cảm hóa. Nói pháp để đoạn trừ hồ nghi, phát ngôn một lời tiêu biểu hàm nhiều nghĩa làm cho chúng sanh tùy từng loài mà được lợi lạc. Phật dùng một thứ âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loại được hiểu rõ thông suốt. Tất cả những việc như thế là do bổn nguyện lực Phật bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn) dẫn đạo, hoặc hiện hóa thân đồng hình trông khác để được lợi lạc mọi loài.
* Ý nghiệp có bốn loại: một là ý quyết định chọn lựa: do đó Phật tùy theo tám vạn bốn nghìn trần lao phiền não của chúng sanh tâm sai khác mà chọn 84,000 pháp môn tu khác nhau. Đây là sự chướng ngại của 84,000 pháp Ba La Mật Đa, đà la ni (ấn chú), Tam ma địa (Samadhi, thiền định). Như kinh Hiền Kiếp có giải rõ. Có thể nói lúc đầu tu pháp Ba La Mật Đa, về sau đi vào chi tiết chi li của Phật, Ba La Mật Đa gồm 350 pháp; mỗi pháp có đầy đủ sáu pháp đáo bỉ ngạn (đến bờ giác). Như thế nhân lên tất cả là 2100 pháp để đối trị tham, sân, si, đẳng phần tâm sai biệt của 8400 chúng sanh. Ngoài tứ đại, lục độ, thập chuyển hợp thành 84,000 pháp môn tu. Tu tập các pháp này về sau thành tựu 84,000 pháp đà la ni, Tam ma địa (ấn chú, thiền định). Ở đây chỉ giảng sơ lược, còn nói rộng thì vô cùng. Hai là tâm tạo tác, do vậy Phật quán chỗ thực hành của chúng sanh. Hành hay không thực hành, được hoặc mất làm cho chúng sanh đối trị việc lấy hay buông bỏ; theo đó quan sát việc làm của chúng sanh. Như làm những điều ác không tu các việc thiện là mắc lỗi lầm. Còn nếu làm những việc thiện là có thiện đức không phạm lỗi quấy. Quán sát như thế là muốn làm cho chúng sanh lấy đức bỏ lỗi. Tạo đức để đối trị lỗi lầm, như đã tạo nên lỗi lầm thì cần phải xa lánh. Ba là ý phát khởi: Phật muốn nói pháp đối trị lỗi lầm kia nên bày tỏ sự an thái của Ngài bằng văn tự, câu lời. Có nghĩa tùy chỗ ưa thích của chúng sanh mà nói pháp để đối trị lòng ưa thích của họ. Bốn là ý lãnh thọ: do pháp này Phật đối với pháp định hay bất định, nói ngược lại để nêu ra vấn đề riêng biệt, tùy chỗ thọ nhận của chúng sanh ở quá khứ, hiện tại hay vị lai mà đáp ứng. Bốn pháp đây cùng một hướng phân biệt, ngược lại như đặt lại bốn vấn đề luận thuyết. Vì Tam Bảo là ruộng phước điền tốt làm cho ba nghiệp thay đổi thành ba pháp thần biến, tức ba loại thần thông biến hóa trừ dứt ba nghiệp. Do nghĩa này nên gọi đức Thế Tôn là bậc đại y vương (hay Đại Thánh trí dược) có tài trị được tất cả bịnh phiền não. Diệu quan sát trí, thành sở tác trí, mỗi thứ có 10 nhân, nên nói rằng mỗi mỗi có những công đức hy hữu. Câu này nêu tổng quát thật đức của báo thân nên dùng bốn trí đầu trình bày. Ngoài ra những loài hữu tình cõi sắc, vô sắc có thật đức nên dùng theo thứ tự bốn trí nhiếp độ. Câu sau nói: phép quán đảnh đội mão báu vượt ngoài ba cõi. Đây là tán thán đạo lý tôn quí hơn cả, vượt ngoài thập địa mà người nhận lễ quán đảnh mão báu của Phật thật là vi diệu thù thắng, thân thể thanh tịnh không còn phiền não, xa hẳn mọi sự ràng buộc ngoài các cõi. Từ vượt quá này đối với hàng nhị thừa và ngoại đạo đều là thấp kém. Kinh Thập Địa nói rằng cõi Tịnh Độ đây vượt ngoài 3 cõi. Hàng Thập Địa Bồ tát nên sanh vào cõi đó. Cõi Tịnh Độ không lìa ba cõi mà chỉ xa lánh sự ràng buộc nên gọi là vượt qua, vì chẳng phải cõi đó tự nhiếp độ. Phật thân cũng vậy, chẳng còn hữu lậu (phiền não) nên gọi là siêu việt mà vẫn không ngoài 3 cõi thác sanh vào một nơi đặc biệt. Câu 3 giải thích: trí Kim Cang biến khắp thành đại quán tự tại để tán thán hai đức viên mãn của bi và trí sâu rộng. Nhân tu hành tự lợi, lợi tha đầy đủ, nên quả là bi, trí thành tựu viên mãn. Quả đã thành tựu nên gọi là trí Kim Cang biến chiếu, là trí có thể biến khắp nên cũng có thể trừ sạch được hai chướng, dụ cho chất kim cương. Như việc phá trừ hai chướng kiên cố khó trừ mà trừ được cũng dụ cho kim cương. Trí rõ biết khắp như kim cương chặt đứt phiền não. Đây là chân thật diệu trí tên là biến Kim Cang trí. Đạt tới trí này mới đủ lòng bi nhổ sạch gốc khổ chúng sanh. Tự lợi viên mãn, lợi tha do bi nguyện gọi là quán tự tại, tức tùy theo 3 nghiệp chúng sanh mong cầu mà thể hiện lòng bi nhổ sạch hết mọi khổ ách không bỏ sót gọi là đại quán tự tại. Phật thể hiện các đức không ngoài hai đức bi và trí. Các pháp vô cùng tận tùy theo sự cảm ứng để công cuộc nhiếp độ sâu rộng. Câu 4 giải thích: pháp quyết định trí ấn vi diệu vô cùng để tán thán huệ rộng đức dày. Nêu tổng quát mọi vấn đề sự lý, có không thật chứng không lầm. Trí này có hai loại, hai loại vô trí đều dứt sạch đạt được hai trí: trí hữu vi biết việc hữu vi, vô thường; trí vô vi biết việc vô vi, tịch tịnh, định. Đây cũng là hai thứ ấn pháp vô ngã chắc chắn không còn do dự gì cả. Như dùng từ thật kêu gọi là đại diệu trí ấn. Nếu không có trí này đối với các pháp hẳn không thể phân biệt được.
Câu 5 nói: Tất cánh không tịch bình đẳng tánh ấn là ca ngợi tánh đoạn đức vắng lặng. Tán thán pháp thân cần đoạn trừ nhị chướng mới chứng được nhị không. Lý nhị không định rõ mọi pháp đều bình đẳng. Từ nhị không biết rõ các pháp tánh đều bình đẳng. Song nếu cho rằng rốt ráo không thì chỉ đưa tới chỗ phi bình đẳng tánh. Tánh bình đẳng là thể của chân như thuộc phi hữu phi không. Giờ đây do phương tiện nói rằng rốt ráo không, vì quán sát chúng sanh hoàn toàn đều không nên biết rõ điều này mà Phật đã viên thành nên gọi là chứng. Câu 6 nói rằng, đối với mọi việc năng tác sở tác đều thành tựu khéo léo không còn thừa sót. Còn bốn câu tiếp theo tán thán hóa thân Phật. Đây là tán thán ân đức tuyệt vời mà đức Phật do lòng đại bi phổ nhuận sáu thời ban rãi khắp nơi, vì lợi ích chúng sanh, vì phương tiện hiện báo thân, hóa thân trong việc thuyết pháp lợi lạc cho hàng Bồ tát và nhị thừa, với bình đẳng tánh trí khác đại viên cảnh trí, vì lợi lạc hàng Bồ tát Phật hiện báo thân. Đối trong diệu quan sát trí thuyết pháp dứt hết lưới nghi. Thành sở tác trí khác với đại viên cảnh trí trong việc hiện biến hóa thân, vì hàng nhị thừa v.v... Phật hiện hóa thân thuyết pháp. Đối trong diệu quan sát trí thuyết pháp dứt hết lưới nghi. Thành sở tác trí ở trong ba nghiệp cọng chung có mười. Trong đây giải thích câu đầu nêu tổng quát các đức. Hai trí thành sở tác và bình đẳng tánh trí đây thường được gọi là năng tác động. Trong mười món bình đẳng tánh trí này so với những gì được thực hiện gọi là sở tác sự nghiệp. Chư Phật đối với việc năng tác, sở tác đều thành tựu khéo léo không thiếu sót, nghĩa là hết thảy mọi việc đều hoàn thành viên mãn tốt đẹp. Câu 7 nói rằng, hết thảy mọi chúng sanh đều có những mong cầu riêng, tùy theo chúng vô tội mà được đáp ứng thỏa mãn tất cả. Ca ngợi phép thần thông biến hóa làm cho tất cả mãn nguyện. Vì Phật đầy đủ lực thần thông, tất cả chúng sanh cõi thế hay xuất thế, nếu vô tội mà mong cầu thì đều được thỏa mãn, song chưa được đầy đủ nên nói là có thể vì sợ chúng sanh tạo thêm ác nghiệp. Như ta thấy người nghèo thường hay cầu được của thì cũng nên cho họ. Song một khi đã được thỏa mãn lòng mong cầu thì ác nghiệp lại tiếp tục gia tăng, nên không ban phát vô điều kiện. Nhiếp Đại Thừa luận rằng, thà chịu nghèo khó của cải mà xa lìa cõi ác, nghiệp xấu còn hơn, chớ để các căn khởi niệm xấu ác dấy lên thì đời sau phải thọ khổ, các căn thiếu khuyết hay thân thể không toàn vẹn. Những việc tương tự như thế cũng cần nên biết. Nếu người cầu trí sáng suốt vô tội, có phước huệ mới ban cho. Chẳng hạn Mạt Lợi phu nhân nguyện làm vương phi về sau chứng được thánh quả, 500 vị thánh mong gặp Phật nghe chính lời Phật nói sự tích kinh Bổn Sanh, như vợ chồng ông Ca Diếp muốn phát tâm tu hành mà cả vợ chồng và thân thuộc, về sau chứng được thánh quả. Con gái vua A Dục trước mong có tiền làm việc bố thí sau được làm con vua. Những thí dụ như trên đây đều là mong muốn vô tội, nên đều được thỏa mãn tất cả. Không như cha mẹ cho con thì không luận vô tội hay có tội mới cho. Phật thị hiện thần thông, tùy theo căn cơ đáp ứng sự mong cầu đầy đủ. Như Ngài vì độ cho ông Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp mà hiện thần thông; cũng như Phật hàng phục ông Kiếp Tỷ Noa mà hóa hiện thần thông khiến họ vào đạo hoàn toàn mãn nguyện. Câu 8 giải: khéo an trú bình đẳng không gián đoạn ba đời phổ biến sâu rộng cùng khắp là để tán thán đức Thế Tôn đem tâm quảng đại thuyết pháp độ sanh không niệm phân biệt. Thiên nhãn thông biết đời hiện tại như biết người đời nuôi trâu để giúp việc, biết sanh tử, biết vị lai, cũng biết sau này dòng Bà La Môn phỉ báng giống Chiên Đà La thất bại ra sao. Phật cũng biết rõ ông Uất Đầu Lam Phất sanh lên cõi trời đắm nhiễm mà về sau đọa thành kiếp con hồ ly tinh (con chồn tinh) sa vào địa ngục. Dùng hiểu biết kiếp trước nói rõ việc sau mong làm phát khởi thiện căn mà Phật vì chúng sanh nhổ bạt sanh tử, lợi ích ba đời trong việc thuyết pháp làm lợi ích không niệm phân biệt là thực hiện hạnh bình đẳng. Thử quán sát bình đẳng này liên tục ở hiện tại không gián đoạn, không nơi nào không biết gọi là phổ biến rộng rãi cùng khắp. Câu 9 giải thích: thân, khẩu, ý bền chắc như kim cương để so sánh sức vững chải bất động không hư hoại như chư Phật, để tán thán Phật đã diệt sạch vi tế phiền não, lìa hẳn ô nhiễm răn nhắc dạy dỗ. Ba thân Phật hoặc nghiệp đã sạch như chất kim cương sáng chắc đồng như chư Phật không bị thiên ma, bạn ác, ngoại đạo, sống chết chi phối, phá hoại, thì ác nghiệp lắng yên không còn dấy khởi nữa. Phiền não vi tế ba nghiệp đã dứt sạch mới răn dạy chúng sanh nên gọi Phật là bậc lậu tận (dứt sạch phiền não vi tế). Như ở phần luận giải 1, cũng như luận giải 4 đã giải thích rõ. Đây 9 câu thì câu đầu tán thán chung tứ trí của pháp thân và báo thân. Hai câu tiếp theo tán thán tánh đức rộng dung cao quí của Phật, ba câu kế tán thán riêng về ba đức và 3 câu sau chót tán thán về 3 pháp thần thông biến hóa, là muốn làm cho chúng sanh thấy công đức chư Phật sanh lòng hoan hỷ mà trân trọng nghe pháp để cần cầu giải thoát.
Phật đầy đủ các công đức để tán thán khiến người nghe Kinh này nhận biết Ngài đã nói pháp thâm diệu rốt ráo. HẾT QUYỂN 1
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.75.6 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.