Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
CƯƠNG YẾU
PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI TÔNG HOA NGHIÊM
Đại sư Hám Sơn Thích Đức Thanh
Trong bảy vị Tổ của tông Hoa Nghiêm, Mã Minh là Sơ Tổ. [1] Song trong luận này chưa đề cập đến yếu chỉ VIÊN DUNG. Vì sao? Vì trước đây chưa có người biết về thuyết này, còn kẻ hậu học thì lại mù mờ chẳng thể phân biện, nên tôi hoàn toàn chẳng thêm ý nào. Lại, cổ nhân kiến lập tông chỉ đâu cần phải nói đầy đủ rõ ràng hết với người đời. Nên nay tôi chỉ lược nói về những chỗ then chốt để người biết tông chỉ của nó.
Tông Hoa Nghiêm viên giáo lấy nhất chân pháp giới gồm thâu BỐN PHÁP GIỚI. Y bốn pháp giới lập MƯỜI HUYỀN MÔN. Tuy là bốn giới mười huyền nhưng đều nhơn LỤC TƯỚNG mà lập. Vì thế lục tướng trở thành mấu chốt của VIÊN DUNG vô ngại. Luận này nói rõ toàn bộ lục tướng là bao quát hết lý thú của bốn giới, mười huyền. Vì lục tướng là giềng mối của VIÊN DUNG nên luận này nhiếp pháp giới vô tận vậy. Vì thế, đầu tiên nêu ra nhất tâm chân như là THỂ của “Đại tổng tướng pháp môn”.
Lại, luận này y cứ hàng trăm bộ Đại thừa mà làm ra, song trăm bộ Đại thừa là do hóa thân Phật kiến lập, tức thật là quyền. Nay luận này tổng nhiếp quyền thừa qui về một cái thật, chủ ý muốn hiển tức quyền là thật, dẫn qui về biển quả VIÊN DUNG tột cùng. Trong luận tuy chưa hiển rõ về ý chỉ VIÊN DUNG, song tam thừa, năm tánh, đốn tiệm, tu chứng đều gom về cội nguồn biển quả nhất tâm, mà công đức viên dung đầy đủ đều là sự vi diệu của nhất tâm. (Đã nói đầy đủ trong tông Hoa Nghiêm nên đây chẳng nói). Chỉ là nhiếp dẫn qui về biển tánh, nên trong luận, chỗ qui về đầu tiên là báo thân Phật, cho đến sở kiến của người đoạn hoặc cũng là báo thân Phật.
Nghĩa của luận đã nói đầy đủ nhiễm và tịnh - cùng đồng một chân - là tướng dụng của nhất tâm. Bởi nhất niệm làm duyên khởi cho nhiễm tịnh nên hoàn toàn giống như trong Hoa Nghiêm lấy “Pháp giới duyên khởi” làm tông, mà Thập nhị duyên sanh tức là Như Lai Phổ Quang Minh Trí. Thì biết, yếu chỉ nhập pháp giới của tông Hoa Nghiêm ắt hẳn lấy luận này làm cửa nhập pháp giới vậy.
LỤC TƯỚNG là các tướng tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại.
1. TƯỚNG TỔNG, chính là nhất tâm chân như, là thể của “Pháp giới đại tổng tướng pháp môn”.
2. TƯỚNG BIỆT, tức nhất tâm, 2 môn, 3 tế, 6 thô, 5 ý, 6 nhiễm, tu đoạn sai biệt.
3. TƯỚNG ĐỒNG, tức thánh, phàm, nhiễm, tịnh, nhân, quả, tánh, tướng đồng một chân như. Dụ như đồ gốm cùng đồng vi trần.
4. TƯỚNG DỊ, tức các pháp nhiễm tịnh, mỗi mỗi sai biệt, chẳng một chẳng khác. Dụ như các loại đồ gốm đều từ vi trần mà có, nhưng chẳng phải là một.
5. TƯỚNG THÀNH, tức các pháp nhiễm tịnh, đều từ một niệm duyên khởi mà thành.
6. TƯỚNG HOẠI, tức các pháp nhiễm tịnh, mỗi thứ đều có vị trí của nó, nhưng mỗi mỗi không tánh, không thể tự dựng lập.
BỐN PHÁP GIỚI là lý pháp giới, sự pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới.
1. LÝ PHÁP GIỚI tức nhất tâm chân như không có pháp sai biệt, một chân lý toàn nhất.
2. SỰ PHÁP GIỚI là tất cả thánh, phàm, nhiễm, tịnh y nơi chánh nhân quả và các sự pháp sai biệt.
3. LÝ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI, do LÝ SỰ ở trên cùng thành, cộng lại có 10 môn. Vì SỰ thấu LÝ thành nên toàn LÝ thành SƯï. Bởi LÝ thành SƯï nên toàn SƯï tức LÝ. Bởi LÝ hay thành SƯï, nên SƯï chẳng ngại LÝ mà hay hiển LÝ. Vì SỰ thấu LÝ thành, nên LÝ chẳng ngại SƯï mà hay dung SỰ. LÝ hay thành SỰ nên toàn SỰ tức LÝ. SƯï hay hiển LÝ nên toàn LÝ tức SƯï. Vì LÝ SỰ tương tức nên được LÝ SỰ dung hòa vô ngại. Trong Thập Môn của Pháp Giới Quán phân biệt rất là rõ rệt, đây chỉ lược nêu yếu chỉ của nó.
4. SỰ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI, vì LÝ SỰ vô ngại, nay toàn LÝ thành SỰ nên bất tất lại nói lý của nó. Vì toàn SỰ toàn LÝ nên sự sự dung nhiếp, không chướng không ngại. Chỉ vì LỤC TƯỚNG thâu gom tất cả sự pháp thì pháp pháp viên dung nên thành 10 tầng huyền môn. Vì hiển bày đại dụng của pháp giới nên nghĩa của luận này hội lục tướng là đã nhiếp tông Viên Dung Cụ Đức sự sự vô ngại. Nghĩa của mười huyền môn đã nói đầy đủ trong Hoa Nghiêm Huyền Đàm. Nay chỉ kể tên.
MƯỜI HUYỀN MÔN
1. Đồng thời cụ túc tương ưng môn
2. Quảng hiệp tự tại vô ngại môn
3. Nhất đa tương dung bất đồng môn
4. Chư pháp tương tức tự tại môn
5. Ẩn mật liễu hiển câu thành môn
6. Vi tế tương dung an lập môn
7. Nhân đà la võng cảnh giới môn
8. Thác sự hiển pháp sanh giải môn
9. Thập thế cách pháp cộng thành môn
10. Chủ bạn viên dung cụ đức môn
11. Nghĩa của mười huyền môn này được nói rõ trong Pháp Giới Quán và Huyền Đàm.
Giải thích đề tựa
Đề mục của luận là cương lĩnh chính của toàn luận.
ĐẠI THỪA KHỞI TÍN là, làm phát khởi niềm tin đối với Đại thừa.
ĐẠI THỪA là, trong Thập Nhị Môn Luận, Bồ tát Long Thọ nói “Vì sao gọi là Đại thừa? Vì đối với Nhị thừa là trên nên gọi là ĐẠI THỪA. Chư Phật là bậc tối đại mà thừa này hay đến nên gọi là ĐẠI. Chư Phật là bậc đại nhân mà ngồi thừa này nên gọi là ĐẠI. Hay diệt trừ các đại khổ của chúng sanh, cho việc đại lợi ích nên gọi là ĐẠI. Vì là chỗ nương của các đại sĩ như Quán Âm, Văn Thù … nên gọi là ĐẠI. Thừa này tột biên để của tất cả pháp nên gọi là ĐẠI. Trong kinh Bát Nhã, Phật nói về nghĩa Đại thừa vô lượng vô biên nên gọi là ĐẠI. Phần thâm nghĩa của Đại thừa chính là KHÔNG. Nếu thông suốt nghĩa này là thông suốt Đại thừa, đầy đủ ba la mật, không có chướng ngại ...”.
Như vậy, nghĩa của ĐẠI THỪA thì vô lượng vô biên, khó mà định nghĩa hết, nhưng không ra ngoài một nghĩa KHÔNG.
LUẬN là,[2] quyết trạch đúng sai, phát minh chánh lý, giảng trạch những thứ chẳng phải là kinh luận, dùng luận để minh chứng. Luận này được làm khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt. Tiểu thừa thì chẳng tin duy tâm, ngoài tâm thủ pháp, khởi nhiều tranh luận. Ngoại đạo thì tà chấp, phá hoại chánh pháp. Nên Luận chủ khởi lòng thương xót mà tạo luận này.
Luận này vốn y cứ theo trăm bộ Đại thừa như Lăng Già, Tư Ích … mà làm ra, phát minh ý chỉ duy tâm duy thức, tóm qui về nhất tâm. Nó là cương yếu của 2 tông Tánh Tướng, thâm cùng cội nguồn của mê ngộ, chỉ bày yếu chỉ thẳng tắt của việc tu hành. Nghĩa là, tổng nhiếp tất cả nghĩa lý sâu mầu mà Như Lai đã nói. Thật là cương lĩnh chính yếu của Đại giáo, ý chỉ đích thực của Thiền Tông!
BỒ TÁT MÃ MINH TẠO LUẬN :
MÃ MINH là tên của người tạo luận. Ngài là người Trung Thiên Trúc, xuất hiện khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt, là Tổ thứ 12 trong Phật giáo Ấn Độ và có công rất lớn trong việc chuyển Phật giáo Tiểu thừa qua Đại thừa. Tương truyền, khi ngài vừa sanh ra đã cảm đến bầy ngựa khiến chúng kêu lên bi thiết. Sau giảng pháp ở Bắc Thiên Trúc, bầy ngựa của vua cũng bỏ ăn nghe pháp mà hí vang. Vì thế, người đời gọi ngài là Bồ tát Mã Minh (Mã nghĩa là ngựa, Minh là kêu).
Ngài là người thông minh, hiểu rộng, về mặt biện luận thì không ai bằng. Lúc đầu xuất gia làm sa môn của Ngoại đạo. Một lần, ngài xướng lên rằng “Tỳ kheo nào có thể cùng ta tranh luận thì hãy gõ kiến trùy. Nếu không thắng được thì không được nhận lễ cúng dường”. Bấy giờ, trưởng lão Hiếp đang ở vùng Bắc Thiên Trúc, biết ngài là người có thể giáo hóa, bèn dùng thần thông bay đến Trung Thiên Trúc, sai mọi người gõ kiến trùy cùng ngài tranh luận. Ngài thua và trở thành đệ tử của trưởng lão Hiếp từ đó.
Sau, Trưởng lão trở về bản quốc. Ngài ở lại, hoằng dương Phật pháp một thời gian thì vua Tiểu Nguyệt Thị nước Bắc Thiên Trúc mang quân đánh chiếm Trung Thiên Trúc. Ngài và chiếc bát của Phật là 2 báu vật mà vua Trung Thiên Trúc phải dâng nạp cho Bắc Thiên Trúc mới được cầu hàng. Từ đó về sau, ngài hoằng pháp ở Bắc Thiên Trúc, biện luận thuyết pháp không ai sánh được, có thể cảm hóa cả loài phi nhân.
Tác phẩm của ngài gồm có : Đại Thừa Khởi Tín Luận, Đại Tông Nghĩa Huyền Văn Bản Luận, Phật Sở Hành Tán, Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo Kinh, Lục Thú Luân Hồi Kinh, Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh.
TAM TẠNG CHÂN ĐẾ DỊCH :
TAM TẠNG là người học thông ba tạng kinh, luật và luận. Lại giỏi cả ngôn từ của một số nước như tiếng Hoa, tiếng Phạn v.v... giúp việc truyền bá Phật pháp được rộng rãi.
CHÂN ĐẾ là tên người dịch. Tiếng Phạn gọi là Câu Na La Đà. Sư người nước Ưu Thiền Ni ở Tây Ấn Độ. Năm Đại Đồng thứ 13 đời Lương, hơn 30 tuổi, Sư sang Trung Quốc, được vua Vũ Đế tri ngộ. Sau gặp quốc nạn, bỏ sang Bắc Tề rồi sang Đông Ngụy. Trong lúc lưu lạc bôn ba, Sư đã soạn thảo và phiên dịch các bộ Kim Quang Minh Kinh, Luận Nhiếp Đại Thừa, Luận Duy Thức và Thế Thân Truyện … gồm 278 cuốn. Ngày 11 tháng 01 năm Đại Kiến thứ nhất, Sư viên tịch, thọ 71 tuổi. Kệ mở đầu
Qui mạng tận mười phương
Nghiệp tối thắng biết khắp
Thân vô ngại tự tại
Đấng cứu thế đại bi
Với thể tướng thân này
Biển pháp tánh chân như
Kho vô lượng công đức
Bậc như thật tu hành
Vì muốn khiến chúng sanh
Trừ nghi bỏ tà chấp
Khởi chánh tín Đại thừa
Chủng Phật chẳng đoạn mất
Người xưa nói “Sau khi Phật diệt độ, phàm các hàng đệ tử có tác thuật kinh luận hay sách vở gì, trước phải kính lễ Tam bảo”. Đây là theo lệ ấy mà làm : tán thán, kính lễ và nêu ra mục đích khiến làm ra bộ luận.
Vì sao trước phải kính lễ Tam bảo? Vì kinh là lời Phật nói, trí Phật thâm thậm không thể dùng tình thức mà suy lường, nên phải kính lễ để thỉnh cầu uy lực gia hộ của Tam bảo. Có vậy thì nghĩa của luận mới thầm hợp với tâm Phật, lời là phàm mà đạt được ý của thánh nhân.
Qui mạng tận mười phương là lấy thân mạng qui hướng về Tam bảo ở mười phương. Mười phương là đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, phương trên và phương dưới, là chỉ cho tất cả mọi cõi. Các cõi này đều do chân như tùy duyên mà biến hiện.
Với người đời, thân mạng là thứ quí hơn hết. Nay nói qui mạng là đem cả thân mạng này mà kính lạy, biểu thị cho lòng thành kính không có 2 tâm. Qui mạng tận mười phương thì thân tâm đều không mới có thể qui đến. Nên QUI còn có nghĩa là qui nguyên, là qui 6 căn về cội nguồn chân thật nhất tâm.
Nghiệp tối thắng biết khắp, thân vô ngại tự tại, đấng cứu thế đại bi là chỉ cho Phật. Đây là qui y Phật bảo.
Biết khắp là dụng của ý nghiệp khi ý nghiệp đã hoàn toàn thanh tịnh. Biết hết ba thời, biết khắp mọi chỗ, không sót chút gì, dù là một niệm mống khởi trong tâm chúng sanh, nên nói BIẾT KHẮP.
Vô ngại tự tại là tự tại dung thông không trở ngại. Như các ánh đèn hòa vào với nhau không chướng không ngại. Do thân nghiệp của Phật hoàn toàn thanh tịnh nên thân ấy có vô lượng tướng, tướng ấy có vô lượng tướng tốt, căn căn viên dung, khắp giáp tự tại, mười thân rõ khắp, không hoại không tạp lẫn. [3]
Cứu thế đại bi là chỉ cho tâm đại bi của đức Phật.
BI là thương xót. Gọi là ĐẠI vì lòng bi ấy không phải của Bồ tát, không phải của Nhị thừa. ĐẠI BI chỉ có khi thức đã chuyển hoàn toàn thành trí, gọi là ĐẠI TRÍ. Nhờ có đại trí mới có đại bi. Vì thế, cái bi của người đời chỉ là thấy đói cho ăn, thấy lạnh cho mặc, chỉ là cứu cái ngọn chưa cứu được cái gốc. Gốc không cứu thì khổ nạn không bao giờ chấm dứt. Như mắc bịnh phong mà chỉ sức thuốc bên ngoài, không uống thuốc bên trong thì bịnh chỉ tạm dừng rồi lại phát, khổ vẫn hoàn khổ. Cái bi của người đời vì thế không gọi là ĐẠI.
Phật thương xót chúng sanh bằng cái nhìn trí tuệ nên gọi là ĐẠI. Cái thương xót ấy bình đẳng không phân chia thân sơ, nên gọi là ĐẠI. Giáo pháp của ngài là liều thuốc trị bịnh khổ của chúng sanh từ gốc. Đó là cốt làm sao để chúng sanh thật sự thoát khổ. Phật dạy người giữ 5 giới, 10 giới, làm lành tránh ác là để giúp người thoát khỏi cái khổ bịnh hoạn, đói nghèo và nạn tai ở thế gian. Song thế gian thì vô thường, các pháp mong manh như sương mai, vui không bao lâu, khổ chẳng bao giờ vắng mặt. Vì thế, Phật lại có các phương pháp tu trì như thiền định, niệm Phật v.v... để người đạt được cái vui vĩnh hằng.
Lại, ĐẠI BI là căn bản của Phật đạo. Nhờ lực từ bi ấy mà chư vị Bồ tát dù được niết bàn, vẫn trải dài sanh tử không nhàm mỏi để thực hành bi nguyện của mình. Vì thế, không gọi cái bi của người đời là ĐẠI, chỉ gọi cái bi trong pháp Phật là ĐẠI. Cái ĐẠI này cũng tùy duyên mà lập. Đối với Nhị thừa, cái bi của Bồ tát là ĐẠI. Đối với Nhị thừa và chư vị Bồ tát, cái bi của Phật là ĐẠI. ĐẠI nói trong phần này là ĐẠI của chư Phật.
Cứu thế là cứu người đời thoát khỏi khổ đau phiền não. Song nỗi khổ của chúng sanh là do 3 nghiệp của chúng sanh mà ra. Muốn cứu họ khỏi 3 đường khổ thì chỉ có thể vạch ra con đường để họ tu tập mà tự cải hóa lấy số phận của mình. Vì thế, dù dùng phương tiện hóa thân nào thì GIÁO PHÁP lưu xuất từ chân như cũng là phương thức chính mà đức Phật dùng để cứu độ thế gian. Ngài Hám Sơn nói “Cứu thế đại bi, vì ngữ nghiệp tối thắng. Phật dùng âm thanh luân ứng cơ thuyết pháp. Mọi lời nói ra, mọi loài đều hiểu nên gọi là tối thắng”.
3 thứ BIẾT KHẮP, THÂN VÔ NGẠI TỰ TẠI và TÂM CỨU THẾ ĐẠI BI ấy, phàm phu, Nhị thừa và Bồ tát đều chưa thể có, nên nói tối thắng. Cái chưa thể có ấy là do 3 nghiệp của các vị chưa được thanh tịnh như Phật. Vì thế, nói nghiệp của Phật là nghiệp tối thắng. TỐI THẮNG nghĩa là số một, không có gì bằng, đồng nghĩa với từ ‘tối ưu’.
Với thể tướng thân này, biển pháp tánh chân như, kho vô lượng công đức là qui y Pháp bảo. Thể tướng thân này là chỉ cho thân Phật nói trên. Ngài Hiền Thủ nói “Phàm, luận về Pháp bảo thì có 4 thứ là giáo, lý, hạnh, quả. Trong 4 thứ ấy, GIÁO thì cạn mà LÝ thì sâu, HẠNH thì từng phần mà QUẢ lại tròn đủ. Trong đây, chỗ qui về chỉ lấy sâu và tròn đủ, tức chỉ hướng về LÝ và QUẢ. Cho nên, ước về thân Phật kia là để rõ Pháp bảo là pháp ở QUẢ, hiển thể và tướng của thân là để rõ Pháp bảo là pháp ở LÝ vậy”.
Thân Phật thì tức THỂ là TƯỚNG, tức TƯỚNG là THỂ. Chính là biển pháp tánh chân như đầy đủ vô lượng công đức. Gọi là BIỂN vì ngoài việc diễn tả sự rộng lớn không thấy bờ mé, còn nói lên tính bất biến mà tùy duyên, tùy duyên mà bất biến của pháp tánh chân như.
Ngài Hiền Thủ nói “Chân như có 2 nghĩa là bất biến và tùy duyên. Theo nghĩa TÙY DUYÊN thì nó biến hiện tạo ra tất cả pháp. Tuy biến tạo mà vẫn bảo tồn cái thể chân như BẤT BIẾN. Tỷ như nước biển thành sóng mà vẫn mang tánh nước chẳng đổi. Như thế, chân như tùy duyên để biến đổi tạo tác ra các pháp nên chân như là pháp tánh. Song chân như pháp tánh đây vẫn thuần thiện, không mang tính cấu nhiễm. Nhưng do cái duyên có nhiễm tịnh mà mặt biến hiện của nó có nhiễm tịnh riêng biệt”.
Kho là dịch nghĩa từ chữ TẠNG ra. TẠNG có nghĩa là tích chứa. Mượn chữ KHO là để diễn tả sự tích chứa ấy. Biển pháp tánh bao gồm vô lượng vô biên công đức, nên nói “Biển pháp tánh chân như, kho vô lượng công đức”. [4]
Bậc như thật tu hành là chỉ cho các vị Bồ tát đăng địa. Gọi NHƯ THẬT vì các vị đã thực chứng được cái nhân Phật tánh. Nhà thiền gọi chỗ chứng ấy là kiến tánh hay chứng được nhất niệm vô sanh. Nhân vô sanh thì quả mới vô sanh nên nói NHƯ THẬT TU HÀNH. Đây là qui y Tăng bảo.
Phần dưới là bày tỏ ý tạo luận.
Vì muốn khiến chúng sanh, trừ nghi bỏ tà chấp, khởi chánh tín Đại thừa, chủng Phật chẳng đoạn mất.
Cái MUỐN KHIẾN ấy là kết quả của tâm đại bi. Vì sao muốn khiến chúng sanh bỏ tà chấp? Vì tà chấp là đầu mối của khổ não. TÀ nghĩa là không chánh. CHẤP nghĩa là ôm chặt, thủ lấy. Tà chấp là chỉ cho những quan niệm hay suy nghĩ không đúng đối với Lý Duyên Khởi ở thế gian.
Gọi là TÀ vì những thứ ấy khiến thân, khẩu, ý của mình tạo tác, không thể nhập được với dòng chuyển biến của đạo. Thủ chặt những thứ ấy làm kim chỉ nam rồi theo đó mà hành xử thì khổ nạn không thể tránh, cứu cánh niết bàn chẳng thể đạt, nên gọi là TÀ.
Cái TÀ này cũng tùy duyên mà lập. Với ngoại đạo và phàm phu, pháp Tiểu thừa là CHÁNH, pháp của phàm phu, ngoại đạo là TÀ. Song đối với chân thể pháp thân đầy đủ từ bi và trí tuệ thì cái chấp pháp của Nhị thừa lại thành TÀ. Nhớ là do CHẤP mà thành tà, không phải pháp của Nhị thừa là tà. “Pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ”.
Một khi đã có niềm tin với những lời Phật dạy thì nghi tự trừ, tà chấp đương nhiên hết, nên nói trừ nghi bỏ tà chấp.
Khởi là từ chỗ không mà thành có. Đồng nghĩa với từ sanh, xuất hiện v.v…
Khởi chánh tín Đại thừa là khởi lên niềm tin chân chánh đối với Đại thừa. Những thứ tin nào đúng với qui luật vận hành ở thế gian như tin nhân quả, tin có kiếp trước, kiếp sau … đều gọi là TIN CHÂN CHÁNH. Đây, không phải chỉ tin chân chánh không mà còn là “tin chân chánh đối với Đại thừa”. Vì thế, niềm tin đây phải là tin ‘Tức tâm tức Phật’.
TIN mình với Phật không có 2 thể, chỉ do vô minh che lấp mà có thân Phật, thân chúng sanh. TIN những cảm giác như buồn, vui, giận, ghét cùng các quan niệm, định kiến mình đang mang đây là vọng tưởng không có thật thể, chỉ do huân tập mà có, cái không trùm khắp sáng ngời kia mới là tâm chân thật của mình. TIN mình có khả năng thể nhập lại với cái tâm thường hằng thanh tịnh ấy bằng những phương tiện mà Phật Tổ đã dạy qua kinh luận. TIN ‘Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức’ v.v… Có được những cái tin như thế đều là khởi niềm tin chân chánh đối với Đại thừa.
Chủng Phật là hạt giống sanh ra Phật quả. Chẳng đoạn mất không phải là tiêu mất không còn gì, mà vì bị vô minh che lấp. Như mặt trời bị mây che lấp, không phải không có mặt trời. Như hạt giống nằm sẵn trong đất, nhưng không đủ duyên nên không thể nẩy mầm, không phải là không có hạt giống. ĐOẠN MẤT là như thế.
LUẬN rằng, có pháp có thể làm phát khởi tín căn Đại thừa cho nên phải nói. Cái nói ấy có 5.
LUẬN RẰNG, là bắt đầu vào luận.
Thứ gì có khả năng sanh ra thứ khác, gọi là CĂN. Niềm tin có thể sanh ra những thiện pháp khác nên gọi là TÍN CĂN.
TÍN CĂN ĐẠI THỪA là chỉ cho Phật tánh đầy đủ trong mỗi chúng sanh. Phật tánh là nhân thì quả mới là niết bàn Phật.
PHÁP là chỉ cho những thứ có thể làm phát khởi tín căn Đại thừa. CÓ PHÁP CÓ THỂ … là có một thứ có thể làm phát khởi tín căn Đại thừa, chính là bộ luận này. Được phân rõ từ LÝ tới SỰ qua 5 phần. Đúng 5 mà không 4 hay 3 vì LÝ và SỰ phải đầy đủ. LÝ mà không SỰ hay SỰ mà không LÝ đều không thể khiến tín căn Đại thừa phát khởi. SỰ mà không LÝ thì không thể phát khởi niềm tin để thực hành. Tin mà không thực hành để nhận lấy chỗ thực chứng thì niềm tin ấy sẽ lụi tàn theo thời gian và tín căn Đại thừa cũng không nẩy mầm để có cái quả là niết bàn Phật. LÝ và SỰ phải đầy đủ dung thông thì tín căn Đại thừa mới phát khởi và mang lại kết quả tốt đẹp, nên luận phân đúng 5 phần.
Thế nào là 5?
1. Phần Nhân Duyên
2. Phần Lập Nghĩa
3. Phần Giải Thích
4. Phần Tu Hành Tín Tâm
5. Phần Khuyên Tu Và Lợi Ích
Đây là 5 phần chính của luận. Tên của mỗi phần nêu bày ý chủ yếu của phần đó.
Phần NHÂN DUYÊN, là nêu bày nguyên nhân khiến Tổ làm ra bộ luận. Pháp thế gian là pháp duyên khởi, nên pháp không tự xuất hiện mà phải có nguyên do pháp mới xuất hiện. Nguyên do ấy gọi là NHÂN DUYÊN. Nêu bày Nhân Duyên cũng có nghĩa là nêu bày luôn ĐỐI TƯỢNG tu hành mà bộ luận nhắm đến. Ngoài những đối tượng ấy thì bộ luận không có giá trị và tác dụng. Đây là lý do vì sao toàn bộ kinh luận đều có phần Duyên Khởi. Thấy pháp của Phật đối nghịch, lộn xộn hay Tam thừa không nhất quán cũng vì không nắm được mặt duyên khởi này.
LẬP NGHĨA là nêu bày tông bổn của luận. Đây là phần chính của luận, là phần LÝ nhằm giải quyết bớt cái nghi của người đời. Nêu tông bổn không chưa đủ, còn phải giải thích phần tông bổn đó cho rõ ràng, chúng sanh mới có thể kham nhận, nên có thêm phần GIẢI THÍCH.
Tạo luận và giải thích là cốt chúng sanh nhận hiểu được rõ ràng mà phát tâm tu hành. Đó là mục đích chính của kinh luận. Không có phần tu hành này thì pháp Phật chỉ là một môn triết học, không phải là đạo học như chính cái tên đạo Phật nữa. Vì thế, 2 phần cuối mà bộ luận đề cập đến là TU HÀNH TÍN TÂM và KHUYẾN TU. Đây chỉ cho phần SỰ.
LÝ và SỰ phải đầy đủ dung thông thì tín căn Đại thừa mới phát, nên luận chỉ đúng 5 phần, không thiếu cũng không dư. Thâm hiểu được bộ luận qua kinh nghiệm tu hành của bản thân, ta sẽ phát khởi được tín căn Đại thừa. Phát được tín căn Đại thừa là nhân Phật tánh xuất hiện, thì chủng Phật chẳng đoạn mất, khổ mới thật chấm dứt. Nên cần diễn bày đầy đủ để mọi người cùng hiểu.
Kế là giải thích phần Nhân Duyên. Phần Nhân Duyên
Đầu tiên nói về phần Nhân Duyên
Hỏi : Do nhân duyên gì mà tạo luận này ?
NHÂN DUYÊN là nói về nguyên nhân làm ra bộ luận. Nguyên nhân nào mà bộ luận được tạo ra?
Đáp : Nhân duyên ấy có 8. Thế nào là 8?
1. Tổng tướng của nhân duyên. Đó là để chúng sanh lìa tất cả khổ, được cái lạc rốt ráo, chẳng phải vì cầu danh lợi và sự cung kính ở thế gian.
TỔNG TƯỚNG là nói đến tướng chung, tướng tổng quát. Tuy nguyên nhân có 8, nhưng đây là phần nguyên nhân chung hết. Gọi là chung vì nguyên nhân này lồng trong 7 nguyên nhân kia. TƯỚNG là từ nhà Phật dùng để phân biệt với THỂ, tạm hiểu nó như từ ‘hình thức’ hiện nay. Nguyên nhân khiến bộ luận xuất hiện là do lòng thương xót đối với chúng sanh. Không phải vì danh lợi hay sự cung kính của bản thân mà chỉ vì muốn chúng sanh lìa tất cả khổ, được cái vui rốt ráo mà Luận chủ tạo luận này.
Luận này không chỉ giúp người đạt được cái vui, mà còn là cái vui rốt ráo. VUI RỐT RÁO là vui mà không còn một chút khổ nào hết. Nó không phải là cái vui duyên khởi với cái khổ ở thế gian, nên nó là cái vui rốt ráo. Vui đã RỐT RÁO thì khổ phải lìa TẤT CẢ.
TẤT CẢ KHỔ là chỉ cho cái khổ của phàm phu, ngoại đạo, Nhị thừa và Bồ tát. Nhị thừa tuy nói chứng niết bàn, nhưng niết bàn ấy vẫn còn bị ‘biến dịch sanh tử vi tế khổ’ chi phối. VI TẾ nghĩa là nhỏ nhiệm. Phải qua luôn cái biến dịch sanh tử ấy mới gọi là được cái vui rốt ráo.
2. Vì muốn giải thích nghĩa căn bản của Như Lai để chúng sanh nhận hiểu được chân chánh không lầm.
NGHĨA CĂN BẢN CỦA NHƯ LAI là tất cả những gì được nói trong phần Lập Nghĩa và Giải Thích.
Đây bắt đầu đi vào chi tiết. Nguyên nhân thứ hai khiến bộ luận ra đời là để giải thích nghĩa căn bản của Như Lai. Giải thích để làm gì? Để chúng sanh nắm được vấn đề rõ ràng. Có nắm được rõ ràng, mới đủ niềm tin mà tu hành. Đã gọi là CỦA NHƯ LAI thì chỗ ấy không phải là chỗ mà phàm phu, Nhị thừa và Bồ tát có thể nhận hiểu hoàn toàn, nên cần phải giải thích.
3. Vì muốn khiến chúng sanh căn lành thành thục có thể kham nhận Đại thừa, chẳng thối mất niềm tin.
Đây là nguyên nhân thứ ba khiến bộ luận xuất hiện. Ngài Hám Sơn cho những CHÚNG SANH CĂN LÀNH THÀNH THỤC này là những vị ở cấp cuối bậc Thập Tín bước vào Thập Trụ. Căn cứ vào phần nhiễm tâm dưới thì mãn tâm Thập Tín đây là chỉ cho những vị đã phá bỏ được sự chấp thủ đối với ngoại cảnh. Nghĩa là, dù đối cảnh tâm có khởi phân biệt yêu ghét chăng nữa, thì cũng không vì cái yêu ghét ấy mà tìm cách ôm giữ hay tống đi để tạo thành ác nghiệp, mà chịu quả báo khổ đau trong 3 đường dữ.
Thập Tín rồi mà không chịu tu tập thì niềm tin ấy cũng không tới đâu. Vì thế, những vị này tuy được liệt vào hạng ‘thiện căn thành thục’, nhưng vẫn chưa được gọi là hạng bất thối. BẤT THỐI là không rơi vào phàm phu hay Nhị thừa nữa. Dù ra đời trong hoàn cảnh nào thì tâm tu hành theo Đại thừa vẫn hiển lộ. Vì thế, việc tạo luận là cần thiết để giúp người tu tập mà nuôi dưỡng tín tâm.
KHAM NHẬN, diễn tả cho việc nhận lãnh có sự chịu đựng và kiên trì trong đó. Vì sao phải kham nhận? Vì tu Đại thừa thì phải lấy lợi ích của muôn loài làm trọng. Muốn vậy thì việc tu hành không đơn giản, không thể tu qua loa, vui vui như tu phước mà phải tập trung phá trừ bản ngã tập nghiệp. Bản ngã phải không thì việc lợi ích cho muôn loài mới thật sự có. Bản ngã phải trừ thì mới thể nhập lại được cái không của Đại thừa. Cái lạc của niết bàn phải bỏ thì mới có thể thấy được Phật tánh của mình. Không có sự kiên trì, nhẫn nại, chịu khó, chịu khổ thì không làm được nên nói KHAM NHẬN. Gặp khó mà không nản thì niềm tin mới không thối, nên nói “Có thể kham nhận … chẳng thối mất niềm tin”.
4. Vì muốn khiến chúng sanh căn lành ít ỏi tu tập tín tâm.
CĂN LÀNH ÍT ỎI là chỉ cho những vị cũng có thiện căn, nhưng loại thiện căn này không được như loại thiện căn trên. Tin nhân quả, làm lành tránh ác, cúng dường, bố thí ... nhưng lúc được lúc mất. Nghe nói tâm mình là Phật thì cũng không phản đối, nhưng tin thì cũng chưa tin v.v... đều thuộc địa vị này. Luận lập ra là để giải thích và nêu bày phương tiện khiến các vị tu tập mà củng cố thêm niềm tin đối với Đại thừa.
6. Vì chỉ bày phương tiện tiêu trừ các chướng của ác nghiệp, khéo giữ tâm mình, xa lìa si mạn, ra khỏi lưới tà.
Mục đích thứ năm khiến Luận chủ tạo luận là vì chỉ bày phương tiện tu hành. Phương tiện ấy là tiêu trừ cái chướng của ác nghiệp. ÁC NGHIỆP là chỉ cho những hành động mang lại đau khổ cho muôn loài. Nhân là khổ thì quả là khổ. CHƯỚNG là chướng ngại, không thuận hoặc ngăn che. Ác nghiệp khiến tâm mình xa dần thiện tâm, ngăn không cho mình thể nhập Phật tánh, nên nói là CHƯỚNG.
SI MẠN là chỉ chung cho tất cả những loại tà chấp.
Gọi là LƯỚI TÀ, vì cái tà này nối tiếp cái tà kia, phủ xuống đời người như một tấm lưới. Ác quả này là nhân cho một ác quả kế tiếp. Ác quả kế tiếp là nhân cho một ác quả kế tiếp nữa. Cứ vậy mà nối dài chằng chịt xoay quanh. Một khi vướng vào si mạn và các ác nghiệp thì như cá mắc trong lưới. Nếu không chỉ bày phương tiện thì khó mà thoát được tấm lưới ấy nên phải tạo luận để chỉ bày. Phương tiện này nhắm vào những vị chưa có thiện căn hay thiện căn ít ỏi.
Giữ được tâm không khởi niệm ác thì ác nghiệp không sanh, nên nói KHÉO GIỮ TÂM MÌNH.
6. Vì chỉ bày tu tập Chỉ Quán, đối trị tâm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa.
Phương tiện này nhắm vào những vị thiện căn khá thuần thục nên nói “ĐỐI TRỊ tâm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa”. Nói thiện căn thành thục mà có PHÀM PHU, là chỉ chung cho những vị phát tâm tu Phật, không kể là tăng hay tục. Nhị thừa là chỉ cho những vị lấy quả vị A La Hán và Bích Chi Phật làm cứu cánh. Chỗ rốt ráo thật sự không phải là những quả vị ấy nên nói SAI LẦM. Không CHỈ không QUÁN thì không thể lắng tâm, dứt vọng tưởng mà ngộ nhập lại Phật tánh của mình, nên phải nêu bày môn CHỈ - QUÁN để tu tập.
7. Vì chỉ bày phương tiện “chuyên niệm” để sanh về trước Phật, nhất định chẳng còn thối mất tín tâm.
Đây cũng nhắm vào những vị đã có thiện căn. Song hạng thiện căn này không hợp với phương tiện CHỈ - QUÁN trên, nên phải chỉ bày phương tiện ‘chuyên niệm’. CHUYÊN NIỆM là chỉ cho việc niệm Phật. Không nói là niệm Phật mà gọi là CHUYÊN NIỆM vì cái niệm Phật này cần chuyên cần không gián đoạn. CHUYÊN thì mới đánh bật được dòng vọng tưởng. NIỆM mà toàn là Phật niệm thì cảnh giới mới là cảnh giới Phật.
Việc CHUYÊN NIỆM này cũng có công năng giúp gạt bỏ dòng vọng tưởng như phương tiện CHỈ - QUÁN. Song nó dễ dùng và mang tính đại trà hơn, vì nó thuận với cái HAY KHỞI của chúng sanh. Thay vì nói chuyện hay suy nghĩ lan man thì ta niệm Phật. Vậy thì vẫn được khởi, mà khởi cái NIỆM Phật.[5] Tạo luận là để mọi căn cơ có được phương tiện thoát khổ, nên không thể chỉ lập bày phương tiện CHỈ - QUÁN mà cần phải có thêm phần CHUYÊN NIỆM này.
8. Vì chỉ bày sự lợi ích và khuyên tu hành.
Đây là nguyên nhân cuối khiến Luận chủ tạo luận. KHUYÊN TU là đọc, học, hiểu rồi thì … nhớ tu! Tu mới là chính. Vì đọc học nhiều bao nhiêu mà không tu thì không thể hết khổ. Trong khi khổ là nhân duyên tổng quát khiến Luận chủ tạo luận. Nên phải khuyên tu. KHUYÊN nghĩa là không bắt buộc, không ép uổng mà giải thích rõ ràng mọi việc, đồng thời nêu bày sự lợi ích của việc tu hành để người người tự phát tâm. Vì thế, CHỈ BÀY SỰ LỢI ÍCH của việc tu hành là điều tất nhiên phải có trong bộ luận.
Vì các nhân duyên như vậy mà tạo luận.
Đây là tổng kết nhân duyên tạo luận. Bởi bản ý của Bồ tát là độ chúng sanh, nên vì chúng sanh phát khởi nhân duyên tạo luận. Trong 8 nhân duyên này, duyên đầu là nói chung, 7 biệt duyên còn lại là bao quát toàn luận. Sẽ nói lại đầy đủ ở văn dưới. [6]
Dưới, hỏi để khai triển rộng nhân duyên tạo luận.
Hỏi : Tudala đã có đủ pháp ấy, sao còn lập lại?
Trong Khế kinh đã có đủ, vì sao còn phải tạo luận?
Đáp : Trong Tudala tuy có pháp ấy, nhưng do chúng sanh căn hạnh chẳng đồng nên nhân duyên nhận hiểu có khác. Nghĩa là, khi Như Lai còn tại thế, chúng sanh thì căn tánh lanh lợi, người thuyết thì nghiệp của thân tâm thù thắng, viên âm một khi nói ra, mọi loài khác nhau đều cùng nhận hiểu nên chẳng cần tạo luận.
TUDALA là khế kinh, là chỉ chung cho kinh Phật. KHẾ có 2 nghĩa là khế lý và khế cơ. KINH có 2 nghĩa là xâu lõi pháp tướng không rời rạc và nắm giữ điều giáo hóa.
PHÁP ẤY là “Nghĩa căn bản của Như Lai”.
CĂN HẠNH CHẲNG ĐỒNG là chỉ cho mức độ thanh tịnh tâm ở mỗi người có sai khác. VIÊN ÂM là chỉ cho âm thanh của Phật. Gọi là viên âm vì cái dụng dung thông và tròn khắp của nó. Nghiệp càng thanh tịnh thì dụng càng rộng. Nghiệp càng thanh tịnh thì việc nhận hiểu đại pháp càng sâu. Người gặp được Phật tức căn lành đã khá sâu, nên thời Phật còn tại thế, việc giáo hóa rộng rãi đến muôn loài mà việc nhận hiểu đại pháp cũng dễ dàng thông suốt. Việc tạo luận lúc ấy không còn cần thiết.
Nhưng sau khi Như Lai nhập diệt, hoặc có chúng sanh lấy việc tự lực nghe nhiều mà nhận hiểu. Hoặc có chúng sanh cũng lấy việc tự lực, nghe ít mà hiểu nhiều.
Đây là tình trạng chúng sanh sau khi Phật đã nhập diệt. TỰ LỰC là, không cần nương nhờ sự giải thích nào khác mà tự mình đọc học kinh điển, rồi nhận lấy nghĩa Như Lai đã nói. TỰ LỰC được vì tâm ít loạn động, phiền não lại mòn mỏng. 2 hạng này căn tánh còn sáng sủa nên có thể tự nghe hay đọc khế kinh mà nhận lấy tâm Phật của mình.
Hoặc có chúng sanh không tự tâm lực, phải nhờ vào những bộ luận rộng mới nhận hiểu được. Cũng có chúng sanh lại thấy việc “luận rộng văn nhiều” là phiền phức, tâm muốn thâu tóm “văn ít mà thu nhiếp nhiều nghĩa” để có thể nhận hiểu.
Những vị này thì tâm ít sáng sủa hơn, không tự mình hiểu được lời Phật dạy trong kinh. Nghe kinh như vịt nghe sấm, nên chư Tổ phải tạo luận. Tạo luận là cốt cắt nghĩa, biện rõ từng chi tiết bằng ngôn ngữ của mỗi thời, sao cho phù hợp với từng căn cơ để người dễ nhận hiểu. Đây chia làm 2 hạng. Một là hạng phải nhờ vào các bộ luận rộng mới hiểu được. Hạng này tuy đọc kinh không hiểu, nhưng đọc những bộ luận dài và rộng vẫn hiểu được. Hạng thứ hai là hạng sợ chữ nhiều nhưng lại muốn nắm được nhiều thứ. Tâm muốn nhiều nhưng nhẫn lực không đủ, nên không kham nỗi những bộ luận dài mà nghĩa lý lại quá mênh mông và chi tiết. Vì thế phải tạo loại luận chữ ít mà nghĩa thật nhiều để đáp ứng.
Luận này là như vậy. Vì muốn tổng nhiếp pháp thâm sâu rộng lớn vô biên nghĩa của Như Lai mà nói luận này.
“LUẬN NÀY là như vậy” là loại luận chữ ít mà nghĩa thật nhiều, được làm ra để đáp ứng cho hạng căn cơ sau cùng. Dịch và giải ra đây thấy còn nhiều chứ phần Hán văn chỉ hơn 11.000 chữ. Song tất cả nghĩa lý mà Như Lai đã nói đều gom đủ trong ấy. Quả tình là chữ rất ít mà nghĩa rất rộng. CHỮ RẤT ÍT vì những chi tiết đã được giản lược và tóm gọn. NGHĨA RẤT RỘNG vì tuy giản lược nhưng nghĩa lý sâu xa vẫn đầy đủ. Ngài Hám Sơn nói “Trong ấy đã tổng nhiếp hết cả pháp thâm sâu, rộng lớn, vô biên diệu nghĩa của Như Lai. Nghĩa là, gom hết nghĩa sâu xa của trăm bộ Đại thừa một cách bao quát vô biên, mở rộng pháp giới nhất tâm như nhìn thấy trái cây trong lòng bàn tay. Thật là huyền môn nhập lý, diệu chỉ tu hành! Người học há chẳng hết lòng ư?”.
“Há chẳng hết lòng ư?” vì luận này không chê vào đâu được. LÝ thì bao quát rõ ràng. SỰ thì chỉ bày đầy đủ. Ứng hợp cho mọi căn cơ từ thấp đến cao, nên cần phải hết lòng đọc học tu tập để khỏi phụ lòng bậc Cổ đức.
Đã nói Nhân Duyên, kế nói phần Lập Nghĩa.
Đây là kết phần trước, giới thiệu phần sau. Phần Lập Nghĩa
Đại thừa, nói tổng quát có 2 thứ. Thế nào là 2? Một là pháp, hai là nghĩa.
NÓI TỔNG QUÁT là nói sơ qua hay nhìn chung. Phân 2 là để rõ vấn đề.
I. PHÁP : Gọi là pháp ấy, là tâm chúng sanh. Tâm này nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Y nơi tâm này hiển thị nghĩa Đại thừa. Vì cớ sao? Vì tướng chân như của tâm ấy tức chỉ cái thể của Đại thừa, tướng nhân duyên sanh diệt của tâm ấy thì chỉ tự thể, tướng và dụng của Đại thừa.
Ngoài Phật ra, tất cả đều gọi là CHÚNG SANH.
PHÁP ẤY là chỉ cho cái THỂ chân như thường hằng không biến đổi, là pháp thể của Đại thừa. Ngài Hám Sơn nói “PHÁP ấy là THỂ của nhất chân pháp giới đại tổng tướng pháp môn”.
Hỏi : Phần chánh văn nói “Pháp ấy là tâm chúng sanh”, vì sao lại giải thích PHÁP ẤY là THỂ của nhất pháp giới? Nếu là THỂ chân thường thì không sanh không diệt, trong khi tâm chúng sanh thì có sanh diệt. Nếu PHÁP ẤY là thể của nhất pháp giới, vì sao không nói thẳng pháp ấy là THỂ của nhất pháp giới mà nói “Pháp ấy là tâm chúng sanh”?
Đáp : Nói là THỂ của “Nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn” là muốn nói đến phần thâm nghĩa của Đại thừa. Tu hành là cả một quá trình chuyển hóa từ phàm đến thánh, từ chỗ sanh diệt đến chỗ không sanh diệt. Đại thừa nhơn đó mà có cạn sâu. Vì vậy không nói thẳng PHÁP ẤY là THỂ của nhất pháp giới. Không nói thẳng nhưng biết chắc PHÁP ẤY không phải chỉ cho tâm vọng tưởng. Vì mở đầu Luận chủ nói “Đại thừa có 2 thứ. Một là pháp, hai là nghĩa”. Phần NGHĨA sau nói về 3 ĐẠI cũng là 3 cái ĐẠI của thiện pháp thế gian và xuất thế gian.
Nói tâm chúng sanh mà không nói thẳng cái thể chân thường là để chúng sanh biết PHÁP ẤY không ngoài tâm chúng sanh mà có. Tâm ấy chính là chỗ y cứ để lập ra Đại thừa. Không có tâm ấy thì Đại thừa cũng chẳng lập. Vì thế nói PHÁP mà trước nói là tâm chúng sanh. Lấy THỂ ra giải thích là muốn hiển bày ngay nơi cái sanh diệt chính là cái không sanh diệt. Dù sanh diệt nhiễm ô bao nhiêu, là phàm hay thánh, là địa ngục hay súc sanh thì tâm ấy vẫn đó, muôn đời bất tận. Chẳng qua vì mê hay ngộ mà thấy có khác chứ không hề có tâm khác. Như sợi dây, do mờ tối mà người thấy thành rắn, người thấy thành nhánh cây khô. Tùy cái thấy lầm của mỗi người mà sợi dây thành rắn hay nhánh cây khô, còn bản chất thật của nó vẫn là sợi dây. Khi giải thích, nói sợi dây mà không nói con rắn hay cây khô là muốn hiển bày đúng như chính nó. Cũng vậy! Dù là tâm chúng sanh thì từ vô thủy đến nay, tâm ấy vẫn là pháp thể chân như thường hằng không biến đổi. Cho nên, dù “Pháp ấy là tâm chúng sanh” thì PHÁP ẤY vẫn là “Thể của nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn”.
“TÂM NÀY nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian” vì thể và tướng của tâm này không chướng ngại nhau. Nhiễm và tịnh cùng nương tâm này. Theo dòng bất giác hoặc ngược dòng hoàn tịnh chỉ một tâm này mà chuyển. Nếu theo duyên nhiễm thì thành bất giác, thu nhiếp pháp thế gian. Nếu là bản giác và thủy giác thì nhiếp pháp xuất thế gian.
“Y NƠI TÂM NÀY hiển thị nghĩa Đại thừa” vì không có tâm chúng sanh thì nghĩa Đại thừa cũng chẳng lập. Vì có tâm chúng sanh, y tâm đó mà lập nghĩa Đại thừa. Tâm chúng sanh là chỗ y cứ lập nên Đại thừa, nên nói là Y TÂM ĐÓ. Ngay tâm đó mà lập nghĩa Đại thừa nên ai cũng có thể phát niềm tin chân chánh đối với Đại thừa, ai cũng có khả năng thành Phật, và tu hành thì phải ngay tâm đó mà tu, không thể nương cầu bên ngoài.
TƯỚNG và THỂ - còn gọi là TÁNH - là từ nhà Phật dùng để chỉ hình tướng và bản chất của một pháp. Người đời thường cho thế giới và vạn pháp hiện có đây là thật, tức nhập TƯỚNG và TÁNH làm một, cho TƯỚNG chính là TÁNH. Dưới cái nhìn của nhà Phật, TƯỚNG là thứ có thể thấy ở được ở một pháp, nhưng TÁNH thì không. Kinh hay gọi là TÁNH KHÔNG. Nói pháp KHÔNG không phải vì tướng nó không mà vì cái tướng ấy không có chất thật, cái không ấy không phải là tướng mình có thể thấy. Thứ gì còn là đối tượng của cái thấy đều là vọng dù đó là tướng không. Vạn pháp vì đó, chỉ như sóng nắng hay hoa đốm trên không, có hình mà không có chất.
Pháp nào ở thế gian cũng có 2 phần tướng và tánh đó. Song nói TÁNH nói TƯỚNG là để nắm được vấn đề, không phải có thể tách chúng làm 2 như TƯỚNG và TÁNH đang phân đây. Vì cái không thể tách lìa được này mà trong ‘Tướng nhân duyên sanh diệt của tâm ấy’ không phải chỉ có 2 phần TƯỚNG và DỤNG mà phải gom luôn cái THỂ đã phân trong phần Tướng Chân Như.
Như nước, nước đá và hơi nước đều có bản chất là H2O. H2O gọi là THỂ của 3 thứ đó. Hình thức nước, nước đá hay hơi nước mà ta đang cảm nhận đó gọi là TƯỚNG. Tuy cùng một THỂ mà TƯỚNG lại khác nhau vì tùy duyên. Trong cái duyên là nhiệt độ bình thường, ta có nước. Trong cái duyên nhiệt độ cao, ta có hơi nước. Trong cái duyên nhiệt độ thấp, ta có nước đá. Song dù mang hình tướng nào, chúng vẫn không rời cái THỂ H2O. Không có cái THỂ này thì không thể có các tướng và dụng ấy. Vì vậy tướng nhân duyên thì đủ cả 3 thứ là THỂ, TƯỚNG và DỤNG mà không phải 2, dù đã phân phần THỂ qua phần Tướng Chân Như .
Duyên khởi mới có TƯỚNG, nên gọi là TƯỚNG NHÂN DUYÊN. Tướng do nhân duyên sanh nên không tánh. Không tánh nên pháp không có tướng cố định mà sanh diệt sanh diệt thay đổi liên tục. Bởi cớ sự ấy mà nói là TƯỚNG NHÂN DUYÊN SANH DIỆT.
DỤNG là chỉ cho mặt tác dụng của pháp. Pháp nào cũng có cái dụng của riêng nó. Như nước để uống, nước đá để chườm đầu, hơi nước dùng chạy tàu v.v… Phải có THỂ thì mới có TƯỚNG. Đã có THỂ và TƯỚNG thì có DỤNG.
Pháp XUẤT THẾ GIAN là chỉ cho 4 thánh : Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật. Pháp THẾ GIAN là chỉ cho 6 phàm : Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, trời, atula. Vì tâm này vốn là chân như nên nó nhiếp pháp xuất thế gian. Vì y nơi nghiệp thức mà có sanh tử nên nó nhiếp pháp thế gian. NHIẾP nghĩa là thu gom, nắm giữ.
Trên đã chỉ ra tâm pháp chân vọng, làm rõ pháp thể Đại thừa. Dưới nói rõ về NGHĨA của pháp ấy.
II. NGHĨA : có 3 thứ. Thế nào là 3?
1. THỂ đại, vì là chân như bình đẳng chẳng tăng chẳng giảm của tất cả pháp.
2. TƯỚNG đại, vì Như Lai Tạng đầy đủ vô lượng tánh công đức.
3. DỤNG đại, vì hay sanh tất cả thiện nhân quả của thế gian và xuất thế gian.
Đây là chỗ nương gốc của tất cả chư Phật. Tất cả Bồ tát đều nương nơi pháp này mà đến đất Như Lai.
NGHĨA, tương đương với từ ‘nghĩa lý’ hay ‘nội dung’. Phần NGHĨA này được lập ra là để hiểu vì sao có tên Đại thừa. Gọi là ĐẠI vì nó có 3 nghĩa thể, tướng và dụng lớn không có bờ mé. Gọi là THỪA vì nhờ nó, chư Phật và Bồ tát mới có thể viên mãn Phật quả. THỪA, nghĩa của nó là nương, vận chuyển. Nương đó mà đi nên gọi là THỪA. Ngài Hám Sơn nói “Nương nơi 2 pháp chân vọng mà có 2 chuyển y nên gọi là THỪA”. 2 chuyển y là chuyển phiền não thành niết bàn, chuyển sở tri thành bồ đề. Chư Phật và Bồ tát nương 2 cái chuyển ấy để đến đất Như Lai nên gọi là THỪA. Thừa ấy chư Phật và Bồ tát mới kham nhận được nên gọi là ĐẠI.
3 thứ thể, tướng và dụng này đã có phần Giải Thích giải rõ nên đây không đi vào chi tiết.
CHỖ NƯƠNG GỐC là chỉ cho Đại thừa. GỐC vì không có nó thì không có việc thành Phật.
ĐẤT NHƯ LAI là chỉ cho ‘pháp tánh chân như’ sẵn đủ trong mỗi chúng sanh. Nói là ĐẾN nhưng ngay đó mà nhận, ngay đó mà tu, ngay đó mà thể nhập. Ngay đó là ngay nơi cái tâm sanh diệt mình đây. Buông hết những phân biệt, vui, buồn, suy nghĩ, nhớ mong v.v… thì ngay đó là đất Như Lai.
Đã nói phần Lập Nghĩa, kế là phần Giải Thích. Phần Giải Thích
Giải thích có 3 phần. Thế nào là 3?
1. Hiển thị chánh nghĩa.
2. Đối trị tà chấp.
3. Phân biệt tướng đạo phát tâm.
Phần Giải Thích này có 3, là để giải thích tất cả những gì đã nêu ra ở phần Lập Nghĩa.
HIỂN THỊ CHÁNH NGHĨA là giải nói để hiển rõ phần PHÁP và NGHĨA của Đại thừa trong phần Lập Nghĩa.
ĐỐI TRỊ TÀ CHẤP là phá trừ những quan niệm hay sự chấp thủ sai lệch, để có thể nhận hiểu, tu hành mà thể nhập hoàn toàn với pháp tánh chân như.
PHÂN BIỆT TƯỚNG ĐẠO PHÁT TÂM là hiển bày mức độ tu tập của người tu qua từng giai đoạn trong quá trình đi từ chúng sanh đến Phật.
I. HIỂN THỊ CHÁNH NGHĨA
Y nhất tâm pháp có 2 môn. Thế nào là 2? Một là môn tâm chân như. Hai là môn tâm sanh diệt. 2 môn này, mỗi thứ đều nhiếp tất cả pháp. Nghĩa này thế nào? Vì 2 môn này chẳng tách lìa nhau.
Y NHẤT TÂM PHÁP CÓ 2 MÔN, ngài Hiền Thủ chỉ giải thích từ NHẤT TÂM mà không thấy nhắc đến từ PHÁP như sau “NHẤT TÂM là 1 tâm Như Lai Tạng bao hàm ở 2 mặt. Một là ước về cái thể tuyệt tất cả tướng mà nói, là môn chân như. Hai là ước về nghĩa tùy duyên khởi diệt, tức môn sanh diệt”. Nếu hiểu từ PHÁP thành Y NHẤT TÂM PHÁP thì đây là chỉ cho tâm chúng sanh. Y một tâm chúng sanh mà lập 2 môn. 2 môn nhưng cùng 1 tâm, vì chân như là chỉ cho thể của tâm ấy, sanh diệt là chỉ cho thể, tướng và dụng của tâm ấy, không phải 2 môn là có 2 tâm, nên nói NHẤT TÂM PHÁP. Hiểu theo kiểu nào thì nghĩa ‘1 tâm có 2 môn’ vẫn không đổi.
CHÂN NHƯ là chỉ cho cái THỂ không tướng có thể thấy, thường hằng bất biến, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng đến chẳng đi, chẳng nhiễm chẳng tịnh, bình đẳng một vị, tánh không sai biệt, thế và xuất thế gian không có tướng một hai, không có tướng ngôn thuyết. Do đó trong kinh Lăng Già, Như Lai chỉ đáp khái quát 108 câu của ngài Đại Huệ bằng một chữ PHI. Vì là chỗ không thể chỉ bày nên chỉ dùng lời nói ngăn để người thầm ngộ.
Ngài Hiền Thủ nói “SANH DIỆT là chỉ cho mặt tùy duyên khởi diệt của chân như. Từ sự huân tập chuyển động mà thành có nhiễm tịnh. Nhiễm tịnh tuy thành nhưng tánh hằng bất động. Vì từ bất động mà thành nhiễm tịnh nên bất động cũng ở trong động môn”. BẤT ĐỘNG là chỉ cho môn chân như. ĐỘNG MÔN là chỉ cho môn sanh diệt. Đây là lý do vì sao trong môn sanh diệt có cả phần cứu cánh giác, là cảnh giới vô niệm của tâm không sanh diệt.
Tuy phân 2 nhưng không thể là 2 nên mỗi môn đều nhiếp tất cả pháp. Vì sao là 2 mà không thể 2 sẽ được Luận chủ làm rõ ở phần chân vọng huân tập lẫn nhau.
Ngài Hám Sơn nói “2 môn ấy mỗi thứ đều tổng nhiếp tất cả pháp là để hiển Như Lai Tạng và thức tạng, chân vọng hòa hợp, mỗi thứ đều có lực dụng hàm nhiếp lẫn nhau, đồng thời hiển bày sự diệu mầu của việc huân biến chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai Tạng có đủ vô lượng các công đức thanh tịnh, nay mê mà làm thức tạng, biến vô lượng công đức thanh tịnh thành duyên nhiễm ô. Nay nói MỖI THỨ ĐỀU NHIẾP là : Nếu Như Lai Tạng theo sự huân thuộc pháp tịnh thì chân có lực mà vọng không lực, nên duyên nhiễm liền biến thành pháp tịnh, tức tổng nhiếp duyên nhiễm trong Như Lai Tạng thành tất cả dụng thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Nếu sự huân thuộc duyên vô minh nhiễm ô thì vọng có lực mà chân không lực, nên công đức thanh tịnh liền biến thành duyên nhiễm ô, tức nhiếp công đức trong thức tạng thành tất cả nghiệp dụng [7] chẳng thể nghĩ bàn”.
A. Tâm chân như, chính là thể nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn. Đó là tâm tánh chẳng sanh chẳng diệt. Tất cả pháp chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng tất cả cảnh giới. Cho nên, tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không có biến khác, chẳng thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi là chân như.
NHẤT PHÁP là không có 2 pháp. GIỚI, chỉ cho những chủng tử trong thức tạng, là nhân làm phát sanh tất cả nhân, quả, thánh, phàm trong mười pháp giới. PHÁP GIỚI, Trung Biên Luận nói “Vì là nghĩa của nhân thánh pháp cho nên gọi là pháp giới”. Nhiếp Luận thì nói “Pháp giới là hết thảy mọi nhân pháp”. Cái nhìn của Nhiếp Luận về pháp giới rộng hơn Trung Biên Luận, nhưng chúng đều có chung một nghĩa là NHÂN, là chỗ làm phát sanh vạn pháp. Song là nhân của tất cả pháp hay chỉ là nhân của thánh đạo thôi, là y nơi mê và ngộ mà lập. Mê thì ẩn đó mà ngộ thì hiển bày. Thấy thì khác mà thật là không khác.
Không gì có thể ngoài pháp giới ấy nên gọi là ĐẠI. Một vị bình đẳng, lìa tướng sai biệt nhưng thâu tóm hết thảy tướng sai biệt, gọi là TỔNG TƯỚNG. PHÁP MÔN, ngài Hiền Thủ nói”Quĩ sanh vật giải viết pháp. Thánh trí thông du viết môn”. Nghĩa là, những qui phạm nào giúp con người nhận hiểu được sự vật gọi là PHÁP. Thánh trí thông đạt gọi là MÔN.
NHẤT PHÁP GIỚI ấy không có tướng sai biệt, bình đẳng một vị, không gì có thể ngoài nó, lại là chỗ chung cho thánh nhân nhập đạo, nên gọi là NHẤT PHÁP GIỚI ĐẠI TỔNG TƯỚNG PHÁP MÔN.
CHÂN NHƯ là THỂ của cái nhất pháp giới đó. Nói TÂM TÁNH là muốn nhấn mạnh đến chữ TÁNH này. Nó cùng nghĩa với các từ bản thể, thể, cội nguồn. CHẲNG SANH CHẲNG DIỆT là tính chất của cái tánh ấy. Ngài Hiền Thủ nói “Cái chẳng sanh chẳng diệt này là để giải thích pháp thể. Theo vọng mà chẳng sanh, phá trừ cũng chẳng diệt. Sửa trị cũng chẳng sanh, nơi nhiễm cũng chẳng diệt”.
Hiện nay có sanh diệt đây là do vọng niệm. NIỆM là tướng của tâm, chỉ chung cho những gì khởi lên trong tâm. Nói là VỌNG vì chúng là thứ không thật có. Tuy NIỆM thì muôn hình vạn trạng nhưng những tướng ấy không có chất thật nên nói là VỌNG NIỆM. Chính vì không có chất thật nên niệm sanh rồi lại diệt, diệt rồi lại sanh, liên tu bất tận. Vì không có chất thật, ta mới có thể trừ bỏ vọng niệm để trở về tâm chân thật của mình.
“TẤT CẢ PHÁP chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai biệt” có 2 ý :
1. Sự sai biệt do nhân duyên biến : Cảnh giới chúng sanh là do lực HUÂN và BIẾN không thể nghĩ bàn của những chủng tử huân tập trong tàng thức mà ra. Tùy loại niệm và tùy mức độ huân tập mà hiện ra vô lượng vô biên tướng sai biệt trong pháp giới này. Như niệm tham là nhân thì quả là cảnh giới quỉ đói. Niệm sân là nhân thì quả là tướng súc sanh. Niệm từ, bi, hỉ, xả là nhân thì quả là tướng Bồ tát v.v...
2. Sự sai biệt do phân biệt biến : Do không biết cảnh giới trước mắt là do thức biến nên trên cảnh lại sanh phân biệt chấp thủ, niệm niệm tương tục chẳng dứt, khiến cảnh giới càng thêm sai biệt. Như trên cùng một cảnh mà vui thì thấy cảnh tươi tắn rạng rỡ, buồn thì thấy cảnh tiêu điều tang thương. Hoặc trên cùng một người mà người thì thấy đẹp, kẻ lại thấy xấu. Cảnh giới phát sanh nhiều thứ sai khác như thế là do tâm trạng và quan niệm của từng người có sai khác.
Do 2 loại vọng niệm trên mà hiện ra vô số tướng cảnh giới sai biệt trong pháp giới này.
TƯỚNG TẤT CẢ CẢNH GIỚI đều do vọng niệm mà có như vậy, nên “Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng tất cả cảnh giới”. Cảnh giới rốt ráo của Nhị thừa là diệt niệm, nên chư vị thể nhập cảnh giới không. Cái không ấy rất an lạc nên gọi là niết bàn. Cảnh giới ly niệm của Bồ tát là ngay niệm mà lìa niệm, tức ngay cảnh mà bình thản với cảnh. Đây là cảnh giới vô tâm mà nhà Thiền nói “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.
“Cho nên, tất cả pháp TỪ XƯA ĐẾN NAY …” là nói lên THẬT TƯỚNG của thế giới ta đang sống đây, của pháp giới rộng lớn này. Thiên hình vạn trạng bao nhiêu, cũng chỉ là chiếc bóng của một cái THỂ trong suốt, sáng ngời, chưa từng sanh chưa từng diệt, chưa từng đến chưa từng đi.
Cái THỂ này không thể dùng tâm phan duyên sanh diệt đây mà thấu được, nên nói “Lìa tướng NGÔN THUYẾT, lìa tướng DANH TỰ, lìa tướng TÂM DUYÊN”. Không bị chi phối bởi các tướng sanh, trụ,ï dị, diệt nên nói KHÔNG CÓ BIẾN KHÁC. Không thuộc hữu vi nên CHẲNG THỂ PHÁ HOẠI.
Vì tất cả ngôn thuyết giả danh không thật, chỉ tùy vọng niệm, chẳng thể nắm bắt, nên nói chân như mà cũng không có tướng, chỉ là chỗ cùng cực của ngôn thuyết, nhơn ngôn thuyết mà bỏ ngôn thuyết. Thể chân như ấy chẳng thể bỏ vì tất cả pháp thảy đều chân. Cũng chẳng thể lập vì tất cả pháp thảy đều đồng như. Phải biết, tất cả pháp chẳng thể nói, chẳng thể niệm nên gọi là chân như.
Đây giải thích vì sao trên nói chân như LÌA ngôn thuyết, danh tự mà đây lại có tên là chân như. Đặt tên CHÂN NHƯ là để người đời biết sự có mặt của nó, là để tạm phân biệt với tâm sanh diệt của chúng sanh, chứ nó không phải là vật thể để ta nắm bắt hay hình dung như một cái chén hay con bò theo cái tên nó đang mang, cũng không phải có danh mà không thật như lông rùa, sừng thỏ.
Vì sao biết THỂ chân như chẳng thể bỏ mà cũng chẳng thể lập? Nếu BỎ thì vạn pháp không có chỗ y cứ để sanh khởi như hiện nay. Vì thế, biết thể chân như ấy là CÓ chứ không phải không. CÓ nhưng chẳng thể LẬP. Vì LẬP thì THỂ chân như ấy lại đồng với pháp sanh diệt, tức rơi vào đoạn diệt. Đoạn diệt thì diệt rồi, không còn sanh, vạn pháp cũng không thể sanh khởi nối tiếp như hiện nay. Nên biết “Thể chân như ấy chẳng thể bỏ, cũng chẳng thể lập”.
LẬP đây chẳng qua là mượn ngôn thuyết để chỉ bày sự hiện hữu của tâm chân như. Song muốn nhận được tâm ấy thì ngôn từ, niệm tưởng và sự chấp thủ phải dứt bặt.
“TẤT CẢ pháp chẳng thể nói, chẳng thể niệm nên gọi là chân như” là muốn hiển bày cảnh giới chân như phải là chỗ ly niệm rốt ráo, không phải cảnh giới bị thấy hay bị biết. Không bị thấy, bị biết thì cũng không năng thấy, năng biết.
Hỏi : Nếu nghĩa ấy như vậy thì chúng sanh làm sao tùy thuận mà thể nhập được?
Đáp : Nếu biết tất cả pháp, tuy nói mà không có năng nói sở nói, tuy niệm mà không có năng niệm sở niệm thì gọi là tùy thuận. Còn nếu ly niệm thì gọi là được nhập.
Câu hỏi nêu lên sự khó khăn khi nói chân như là thứ vượt ngoài suy luận và nhận thức của người đời, lại là chỗ ly tướng rốt ráo. Làm sao chúng sanh có thể thể nhập lại nó bằng tâm ngôn thuyết và đầy suy nghĩ này?
NĂNG là chỉ cho chủ thể. SỞ là chỉ cho đối tượng. NĂNG là chỉ cho cái tạo tác, SỞ là chỉ cho cái được tạo tác. Chúng là một cặp duyên khởi. Gọi là duyên khởi vì cái này làm duyên để cái kia sanh khởi. Duyên khởi nên có thì cùng có, không cùng không. NĂNG NÓI là chỉ cho người nói. SỞ NÓI là chỉ cho cái được nói như ngôn thuyết, văn tự v.v… SỞ NÓI cũng có thể hiểu là người nghe, là đối tượng của cái nói ấy. Cái NÓI này là phần thô của NIỆM.
NIỆM, nghĩa của nó rất rộng. Thô tế nhiều dạng, nhưng có thể hiểu chung chung về niệm như sau : Những gì khởi lên trong tâm đều gọi là niệm. Thấy cảnh mà khởi lên suy nghĩ thì sự suy nghĩ ấy gọi là niệm. Đặt sự chú ý của mình vào một tướng nào đó thì sự chú ý ấy gọi là niệm. Niệm Phật là tâm khởi đọc danh hiệu Phật hoặc quán tưởng hình tượng Phật. Niệm còn có nghĩa là nhớ nghĩ, phân biệt. NĂNG NIỆM là chỉ cho chủ thể. SỞ NIỆM là đối tượng của cái NĂNG NIỆM đó. Như niệm Phật thì NĂNG NIỆM là người niệm, nói chính xác là cái tâm đang niệm. Phật là SỞ NIỆM. Chú tâm vào cái bong bóng thì cái tâm đang chuyên chú ấy là NĂNG NIỆM, bong bóng là SỞ NIỆM.
Để thể nhập lại tâm chân như từ tâm sanh diệt, luận nêu ra 2 phần : Tùy thuận trước, thể nhập sau.
TÙY THUẬN là chưa nhập một với tâm chân như, mà cùng hướng thuận với nó rồi từ từ nhập lại với nó. Như chỗ đến là Trúc Lâm, chưa đến nhưng đang trên đường hướng về Trúc Lâm, gọi là tùy thuận. Muốn tùy thuận để thể nhập thì khi đang nói hay đang niệm, đều quán biết chúng là không. KHÔNG, nghĩa là những thứ đó không có thật thể. Tướng thì có đó nhưng tánh thì không.
Vì sao nói tánh của chúng là không? Vì cái NĂNG - SỞ ấy do duyên mà có. Duyên hết thì NĂNG - SỞ cũng không. Vì pháp CÓ hay KHÔNG là tùy duyên, mà ta biết các tướng ấy không tánh. Vì không tánh nên Phật gọi chúng là vọng. “BIẾT tất cả pháp, tuy nói mà không có năng nói sở nói, tuy niệm mà không có năng niệm sở niệm” là BIẾT những thứ mình đang dùng đây đều là vọng. BIẾT chúng đúng là vọng gọi là TÙY THUẬN.
Điều kiện để thể nhập lại tâm chân như là phải LY NIỆM. Phần LY NIỆM này cũng có thô và tế. Tùy theo mức độ thô tế mà hoặc là thể nhập hoàn toàn với pháp tánh chân như, hoặc chỉ thể nhập được trạng thái bình đẳng của chân như. [8]Phần bình đẳng này cũng có thô và tế.
Hỏi : Vì sao trên có phần NĂNG NÓI và NĂNG NIỆM, nhưng khi thể nhập lại chỉ nói đến việc ly niệm mà không nhắc đến việc bỏ cái nói?
Đáp : Vì NÓI là phần thô của NIỆM. Đã bỏ TẾ thì không cần nói đến THÔ nữa.
Lại nữa, chân như ấy y nơi ngôn thuyết phân biệt mà có 2 nghĩa. Một là “Như thật không” vì hiển bày rốt ráo cái thật. Hai là “Như thật bất không” vì có tự thể đầy đủ vô lượng tánh công đức.
Đây là mượn ngôn thuyết để giải bày về cảnh giới chân như. Nói NHƯ THẬT vì nó không phải là vọng. NHƯ THẬT KHÔNG là chỉ cho tự thể KHÔNG của vạn pháp. Kinh hay gọi là ‘Tánh không’. NHƯ THẬT BẤT KHÔNG là để hiểu cái như thật không ấy không tánh. Không tánh nên nó không phải là cái không mình thấy trống trơn như hư không mà đầy đủ vô lượng tướng công đức, không phải là cái không đoạn diệt.
A1. KHÔNG là vì từ xưa đến nay, tất cả nhiễm pháp đều chẳng tương ưng, lìa tướng sai biệt của tất cả pháp, vì không có tâm niệm hư vọng. Phải biết, tự tánh chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng chẳng có, chẳng phải tướng chẳng không, chẳng phải tướng vừa có vừa không. Chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải tướng chẳng một, chẳng phải tướng chẳng khác, chẳng phải tướng vừa một vừa khác. Cho đến nói một cách tổng quát là, bởi y nơi tất cả chúng sanh vì có vọng tâm, niệm niệm phân biệt, đều chẳng tương ưng, nên nói là không. Nếu lìa vọng tâm, thật không thể không.
Đây là hiển bày rộng nghĩa KHÔNG của chân như.
NHIỄM PHÁP, là chỉ cho những pháp tương ưng với vô minh, do vô minh mà có, như 9 tướng thuộc bất giác v.v…
TỰ TÁNH CHÂN NHƯ là chỉ cho phần KHÔNG này. Nó chính là cái nhân Phật tánh trong mỗi chúng sanh. Trực nhận được chỗ này gọi là kiến tánh, là thấy được tự tánh của chính mình. Cái KHÔNG này, nhiễm pháp không thể tương ưng. Trong cái KHÔNG ấy cũng không có tướng sai biệt của tất cả pháp. Vì sao? Vì không có tâm niệm hư vọng. Nghĩa là, trong cái KHÔNG này không có 3 tế và 6 thô được nói trong phần Tâm Sanh Diệt. Ngược lại, không có tướng của 3 tế 6 thô mới có thể nói là trực nhận được cái không này.
“PHẢI BIẾT tự tánh chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không …” là muốn hiển bày THẬT THỂ chân như không rơi vào nhị biên phân biệt. Nói rộng là không rơi vào tứ cú. TỨ CÚ CÓ - KHÔNG là có, không, chẳng có chẳng không, vừa có vừa không. TỨ CÚ MỘT - KHÁC là một, khác, chẳng một chẳng khác, vừa một vừa khác.
Có, không, một, khác v.v… là những quan điểm của người đời đối với nhân sinh và thế giới. Như thấy thế giới mình đang sống đây là thật, là ta đang vướng vào kiến chấp CÓ. Thấy thế giới này hoàn toàn không, là rơi vào kiến chấp KHÔNG. Thấy pháp này tồn tại độc lập với pháp kia, pháp nào cũng có tự thể của riêng nó, là rơi vào kiến chấp MỘT, KHÁC ... Phần lớn những loại kiến chấp này đều hình thành từ quá trình thiền định và truyền thừa nhau cho đến ngày nay. Do cái thấy chưa đến nơi, nên cái nhìn về pháp có sai lệch. Như người mù sờ voi, sờ từng bộ phận của voi mà cho chính là voi. Đây cũng vậy. Thấy pháp là CÓ, KHÔNG, MỘT, KHÁC ... là tùy duyên mà thấy như vậy. Đã tùy duyên thì không thể lấy tướng tùy duyên ấy làm thật tướng của vạn pháp.
Không phải là những tướng đó, nhưng không thể chỉ thẳng, vì thật tướng của vạn pháp không phải là cái bị biết hay đối tượng để nhận thấy, dù đó là tướng không. Vì thế, chỉ có thể mượn 4 từ VÔ, BẤT, PHI, LY để phủ định mà hiển cái không thể thấy, song không phải không có. Ngài Hàm Thị nói “Đây là lời chỉ thẳng. Chỉ ngăn cái quấy kia mà không nói cái phải kia. Nếu có chỗ phải thì khác gì cái quấy. Như vàng làm đồ trang sức, nghĩa là vàng không phải xuyến, không phải thoa … khiến người ngay đó thấu suốt ‘không phải’ là không phải xuyến, không phải thoa mà là vàng vậy”.
Nhân sinh và thế gian là những thứ hiện diện như những thật thể trước mắt ta, mà thật tướng của chúng còn không thể lấy TỨ CÚ để suy lường, huống là ngay chính cái thật tướng ấy? Nên nói “Phải biết tự tánh chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không ...”. Đây tương đương với BÁT BẤT của Trung Luận, với 108 chữ PHI trong kinh Lăng Già.
Hỏi : BÁT BẤT của Trung Luận là “Chẳng sanh cũng chẳng diệt …” khác gì “không có, không không” của TỨ CÚ, mà một thì nhận một thì bác?
Đáp : “Không có cũng không không” là để chúng sanh buông cả CÓ lẫn KHÔNG. Vì pháp không phải là CÓ, nên nói KHÔNG. Song nghe KHÔNG người đời lại chấp vạn pháp là KHÔNG nên nói KHÔNG KHÔNG. Chỉ phủ định mà không thể chỉ thẳng vì nó không phải là vật tướng có thể diễn tả. Chỉ cần tâm không ở trạng thái sanh diệt của phàm phu, tức không vướng vào CÓ, cũng không trụ ở cái không của Nhị thừa, tức không chấp vào KHÔNG, thì ngay đó là “không có cũng không không”. Còn “không có, không không” của TỨ CÚ là một loại kiến chấp phủ định. Nghe nói “không có không không” lại chấp rằng pháp “không cả có lẫn không”. Từ đó hình thành nên một loại kiến chấp mới. Đó là 2 chỗ khác nhau của BÁT BẤT và TỨ CÚ. Cái khác ở đây nằm ở một chữ chấp và buông.
“CHO ĐẾN nói một cách tổng quát là …” là muốn hiển bày cái NHƯ THẬT KHÔNG ấy không tánh, để đưa ra phần BẤT KHÔNG sau. Nói KHÔNG là muốn hiển bày sự hư vọng của tâm sanh diệt hiện nay. Những niệm tưởng ấy hoàn toàn không có thật thể, không gì là không thể phá trừ nên nói là không. Một khi tâm niệm hư vọng ấy hết thì có vô lượng tướng công đức hiển bày. Cái THỂ ấy không phải không, nên nói “NẾU LÌA vọng niệm thì không thể không”.
A2. BẤT KHÔNG là, đã rõ thể của pháp là “không” không có vọng, chính là chân tâm thường hằng không biến đổi, đầy đủ pháp thanh tịnh, gọi là bất không. Cũng không có tướng có thể thủ, vì cảnh giới ly niệm chỉ chứng mới tương ưng.
Đây là làm rõ nghĩa BẤT KHÔNG.
BẤT KHÔNG, nghĩa là không phải không. Ngài Hám Sơn nói “Cái BẤT KHÔNG này cũng chẳng phải là pháp nào khác. Trước đã hiển thể của pháp là không, không vọng nhiễm, chính là thật thể chân như thường hằng không biến đổi. Nhưng trong cái thể không ấy vốn có vô lượng công đức thanh tịnh, chỉ vì trước đây bị vọng nhiễm ngăn chướng mà chẳng thể hiển. Nay vọng nhiễm đã hết thì tịnh pháp vốn sẵn đầy đủ. Vì nghĩa ấy mà gọi là BẤT KHÔNG. Chẳng phải riêng có một thật pháp có thể thủ. Thể BẤT KHÔNG ấy chẳng phải vọng niệm phân biệt có thể thấu được. Đó là cảnh giới ly niệm, chỉ chứng mới tương ưng”.
Như vậy, cái BẤT KHÔNG nói đây là tướng và dụng của cái KHÔNG. Nó chỉ có khi tâm niệm hư vọng của ta đã hết, chứ BẤT KHÔNG không phải là những tâm niệm hư vọng đó. Một khi niệm tưởng hư vọng còn thì phải lấy cái KHÔNG NIỆM làm chỗ qui về. LY NIỆM rồi thì cái KHÔNG ấy mới BẤT KHÔNG. Cho nên, cảnh giới sự sự vô ngại của thế giới Hoa Nghiêm mà dùng tri thức toán học và sự phân biệt tri thức đây để suy lường thì thế giới Hoa Nghiêm ấy không thể thoát được cái luẩn quẩn và khổ ải của Tà Bà uế trược. Đây đều do tâm vọng tưởng mà ra.
Trên đã giải thích xong phần Tâm Chân Như.
B. Tâm sanh diệt là, y Như Lai Tạng nên có tâm sanh diệt. Đó là, chẳng sanh chẳng diệt cùng với sanh diệt hòa hợp, chẳng phải một, chẳng phải khác, gọi là thức Alaida. Thức ấy có 2 nghĩa hay nhiếp tất cả pháp và hay sanh tất cả pháp. Thế nào là 2? Một là nghĩa giác. Hai là nghĩa bất giác.
Trong kinh Lăng Già Phật nói “Đại Huệ! Có khi ta nói không, vô tướng, pháp thân, pháp tánh, bất sanh bất diệt … những câu như thế đều chỉ cho Như Lai Tạng”. Vậy Như Lai Tạng là tên khác của pháp tánh chân như.
Như Lai Tạng vốn không sanh diệt, do không tự tánh nên không tự giữ, bất giác động niệm huân thành vô minh mà có sanh diệt. Từ cái không sanh diệt bất giác mà thành sanh diệt nên nói “Y NHƯ LAI Tạng nên có tâm sanh diệt”. Sanh diệt thế nào cũng không lìa cái không sanh diệt, nên nói “CHẲNG SANH chẳng diệt cùng với sanh diệt hòa hợp”. Ngài Hiền Thủ nói “Động mà làm thành tâm sanh diệt, chẳng tách lìa nhau nên nói ‘hòa hợp’, chẳng phải riêng có một pháp sanh diệt nào khác đến hợp với chân”.
“Chẳng phải một, chẳng phải khác” là nói đến mối liên hệ giữa sanh diệt và không sanh diệt. Sanh diệt không lìa không sanh diệt nên CHẲNG PHẢI KHÁC. Song sanh diệt không phải là cái không sanh diệt, tướng sanh diệt có thể bỏ mà thể của sanh diệt thì không thể bỏ nên CHẲNG PHẢI MỘT.
ALAIDA, còn gọi là thức tạng hay là thức thứ 8. Gọi là TẠNG vì nó có khả năng chứa nhóm và duy trì các chủng tử thiện ác, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu. Nói là chứa nhóm nhưng không nên hình dung Alaida như một cái kho sẵn có. Chỉ do chủng tử tương tục họp lại mà có Alaida. Hòa thượng Thiện Siêu mượn hình ảnh đồ vật để diễn tả thức Alaida như sau “Tàng thức như một đống đồ vật chứa đủ mọi thứ tốt xấu. Đồ vật từ đống đồ ấy sanh ra. Đồ vật gì cũng chứa vào đống đồ vật ấy. Không có đồ vật thì không có đống đồ vật. Không có đống đồ vật thì cũng không có đồ vật … Tàng thức cũng vậy. Không có chủng tử của các pháp thì không có tàng thức, không có tàng thức thì không có chủng tử các pháp”.[9] Vì thế Alaida vừa có nghĩa là NĂNG TÀNG vừa có nghĩa là SỞ TÀNG. Lại là chỗ loài hữu tình nương đó chấp làm tự ngã nên có thêm cái tên là NGÃ ÁI CHẤP TÀNG.
Thức Alaida này rất vi tế. Hạng hữu tình không có chủng tánh giác ngộ thì không thể biết tận căn để của nó. Ngay các vị Nhị thừa thú hướng tịch diệt cũng không thể thông đạt. Ngoài việc giữ gìn các chủng tử, thức này còn có tác dụng làm chỗ nương một cách bình đẳng cho tất cả pháp và giữ gìn sự lưu chuyển luân hồi trong các đường cũng như sự hoàn diệt niết bàn. Thức này từ vô thủy đến nay niệm niệm sanh diệt, trước sau biến khác, nhân diệt quả sanh, chẳng phải thường nhất nên có thể làm chỗ cho 7 chuyển thức huân tập thành chủng tử. Giống như dòng nước dốc, chẳng phải đoạn chẳng phải thường mà cứ nối tiếp nhau nên có sự trôi nổi chìm đắm của loài hữu tình. Đó là nói sơ về thức Alaida. [10]
THỨC ẤY là chỉ cho Alaida. Thức ấy có 2 nghĩa là giác và bất giác. Giác và bất giác đều có khả năng NHIẾP tất cả pháp và SANH tất cả pháp. NHIẾP là chịu sự huân mà thành chỗ cất giữ chủng tử. SANH là biến ra để làm thành cảnh giới. BẤT GIÁC thì thuận với vô minh nên SANH 3 tế, 6 thô và tất cả nhiễm pháp ở thế gian. GIÁC thì ngược dòng vô minh nên SANH tịnh pháp và 4 thánh xuất thế.
Phần sau giải thích để hiểu về GIÁC và BẤT GIÁC.
B1. GIÁC là tâm thể ly niệm. Tướng ly niệm thì đồng với hư không giới, không chỗ nào mà chẳng khắp.
“ĐỒNG HƯ KHÔNG giới, không chỗ nào mà chẳng khắp” là diễn tả cảnh giới của tâm khi mọi động niệm đã dứt bặt. TÂM THỂ là chỉ cho bản thể hay tự tánh chân như. LY NIỆM là điều kiện để tâm đồng hư không giới, không chỗ nào mà chẳng khắp. Nghĩa là, sanh diệt đã diệt thì không sanh diệt ngay đó hiển bày. Ngài Hám Sơn nói “Nếu hay ly niệm thì bản thể rỗng nhiên như thái hư không, không chỗ nào mà chẳng khắp. Tất cả cảnh giới sai biệt của vọng niệm hòa thành một vị chân tâm, chỉ là pháp giới nhất tướng không có đối đãi”.
LY NIỆM là không dính với niệm hoặc là không có niệm. Một niệm khởi lên mà ta không dính với nó, hoặc đưa nó về không, gọi là GIÁC. Cái GIÁC này có cạn sâu, được nói rõ ở phần 4 tướng dưới. GIÁC mà tâm đồng hư không giới là chỉ cho tâm thể vô niệm.
Pháp giới nhất tướng tức là pháp thân Như Lai bình đẳng. Y nơi pháp thân ấy mà nói tên bản giác. Vì sao? Nghĩa bản giác là do đối với thủy giác mà nói, vì thủy giác tức đồng bản giác. Nghĩa thủy giác là, y bản giác nên mới có bất giác, y bất giác nên nói có thủy giác. Lại, vì giác tột nguồn tâm nên gọi là cứu cánh giác. Chẳng giác tột nguồn tâm thì chẳng phải là cứu cánh giác.
Đây là nói rõ từ đâu có 3 tên bản giác, bất giác và thủy giác. BẢN là gốc, nguyên sơ, đầu tiên v.v... BẢN GIÁC là chỉ cho cái GIÁC nguyên thủy, tối sơ - Chính là pháp thân Như Lai bình đẳng không tăng không giảm mà Phật và chúng sanh đồng có. Gọi là đầu tiên vì đã có cái thứ hai, thứ ba … Không có cái thứ hai, thứ ba thì không nói cái đầu tiên. Cái thứ hai, thứ ba đây chỉ cho BẤT GIÁC và THỦY GIÁC.
BẢN GIÁC là chỉ cho bản thể vốn không sanh diệt. Bản thể chân như ấy không tánh nên BẤT GIÁC huân thành vô minh. BẤT GIÁC là không tỉnh không sáng. Tức từ bản giác mà có bất giác, bất giác y cứ nơi bản giác mà có. BẤT GIÁC huân rồi thì luân chuyển vào 5 đường làm chúng sanh. Song luân chuyển thế nào thì cái bản thể diệu minh ấy vẫn thường nhiên, không hề thiếu vắng. Cái không thiếu vắng ấy là LỰC khiến chúng sanh chán sanh tử khổ, hồi tâm tu hành. Dựa vào lực ấy mà lập trí THỦY GIÁC. Những thứ như ngừa quấy, ngăn ác, sám hối tội lỗi, tụng kinh, niệm Phật, thiền định v.v… đều là công năng của trí THỦY GIÁC. Tùy thô tế mà có biểu hiện khác nhau.
THỦY nghĩa là mới. THỦY GIÁC là mới giác. Gọi là MỚI không phải vì nó mới có - công năng của THỦY GIÁC không khác bản giác, cũng là lực nội huân của bản giác mà thôi - mà vì nó được lập thành sau khi đã có bất giác. Bất giác rồi mới GIÁC nên gọi là THỦY GIÁC. Tức mê rồi mới GIÁC nên gọi là THỦY GIÁC. Tu hành để trở về cội nguồn chân thật, đi từ mê trở lại ngộ phải có thứ lớp trừ dần, 4 tướng thô tế phân chia chưa đồng, nên THỦY GIÁC vốn đồng bản giác mà chưa hẳn là bản giác. Vì thế nói TỨC ĐỒNG BẢN GIÁC. TỨC, là thủy giác vốn là bản giác, song chưa đến tột nguồn thì thủy giác chưa thể là bản giác. ĐỒNG, là khi thủy giác nhập lại hoàn toàn với bản giác.
Như vậy, từ BẢN GIÁC mà sanh BẤT GIÁC. BẤT GIÁC rồi, nhờ có BẢN GIÁC mới sanh THỦY GIÁC. Nói THỦY GIÁC vì đã có BẤT GIÁC. Không có bất giác thì không có thủy giác, cũng không đặt vấn đề bản giác. Song có BẤT GIÁC mà không có BẢN GIÁC thì cũng không có trí THỦY GIÁC. Duyên khởi mật thiết với nhau như thế, nên nói “Y bản giác mới có bất giác, y bất giác nên nói có thủy giác”. Đây là hiển bày mặt duyên khởi của 3 cái giác.
CỨU CÁNH là chỗ tột cùng, là cội nguồn chân thật. CỨU CÁNH GIÁC là cái giác tột cùng. Nó là cảnh giới khi thủy giác nhập một với bản giác, nên nói “Giác tột nguồn tâm”. Không nói thẳng bản giác mà nói là CỨU CÁNH GIÁC vì quá trình tu hành ngược dòng hoàn tịnh là đi từ chúng sanh đến Phật, đi từ thấp đến chỗ tận cùng ... đã có thứ lớp nên có chỗ tột cùng hay chưa tột cùng. Gọi CỨU CÁNH GIÁC là để phân biệt với 3 cái giác dưới là bất giác, tương tợ giác và tùy phần giác. Đây là tùy tình trạng ly niệm của tâm mà THỦY GIÁC phân làm 4 GIÁC tương ưng với 4 tướng. Nên thứ lớp thì có 4 tên, nhưng tổng quát cũng đều là THỦY GIÁC.
Nghĩa ấy thế nào? Là để giải thích về trí THỦY GIÁC và CỨU CÁNH GIÁC.
Phần dưới là nói về tướng của 4 cái GIÁC. Song muốn hiểu về 4 cái giác này thì đầu tiên phải nắm được ý nghĩa của 4 tướng sanh, trụ, dị, diệt thông qua 9 tướng Bất Giác nói ở phần sau. 4 tướng đó được lập thành là y vào tâm sanh diệt mà lập, nên nó chỉ là giả lập. Bản thể chân như vốn không có 4 tướng ấy, chỉ là một thể rỗng rang vô sự, đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh mà thôi.
‘Không có cũng không không’ song do bất giác mà pháp trong tam giới dường như CÓ dường như KHÔNG. Bản thể ấy vốn không sanh diệt chỉ vì không tánh nên không tự giữ mà biến thành 9 tướng kê trong phần Bất Giác. Luận Phật Tánh nói “Tất cả pháp hữu vi, ước về tiền tế thì cùng tướng SANH tương ưng, ước về hậu tế thì cùng tướng DIỆT tương ưng, ước về trung tế thì cùng với tướng TRỤ và DỊ tương ưng”. Cái vừa có gọi là SANH - ứng với phần Nghiệp Tướng là tướng đầu trong 3 tế. Mé tận cùng gọi là DIỆT - ứng với phần Khởi Nghiệp Tướng, là tướng gần cuối của 6 thô. SANH rồi nối tiếp tương tợ gọi là TRỤ - ứng với phần Năng Kiến, Năng Hiện, Trí Tướng và Tương Tục Tướng, là 2 tế sau và 2 thô đầu. Ngay nơi cái nối tiếp ấy mà chuyển biến, gọi là DỊ - ứng với phần Chấp Thủ và kế Danh Tự, là 2 cái thô giữa. Đây chỉ lướt sơ để có thể nắm rõ về tướng của 4 cái GIÁC dưới.
Từ chân tâm, bất giác biến khởi ra cảnh giới chúng sanh rồi trải dài sanh tử luân hồi thì SANH trước DIỆT sau. Song ngược dòng hoàn tịnh tu hành thì phải bắt đầu từ chỗ đang mê mà ngược dòng lại những cái đã rồi, nên tướng DIỆT được giác trước, dần dần giác đến tướng SANH.
1. Như phàm phu, giác biết niệm trước khởi ác nên hay dừng niệm sau khiến nó chẳng khởi, tuy gọi là giác mà thật là bất giác.
Đây là nói về tướng GIÁC thứ nhất. Cái GIÁC này được nói đầu tiên vì nó là tướng thô nhất trong 4 tướng. Thô nhất nên tác dụng của nó cũng yếu nhất và dễ thực hành nhất.
NHƯ PHÀM PHU là, cái giác này dành cho phàm phu. Vì sao dành cho phàm phu? Vì chỉ giác NIỆM ÁC mà thôi. NIỆM ÁC là chỉ cho những niệm làm tổn người hại mình như tham, sân v.v... Giác niệm ác là để niệm ấy không biến thành hành động mà phải bị thân thọ báo trong 3 đường dữ. Vì thế tuy nói phàm phu nhưng là loại phàm phu đã biết tin Nhân Quả, không phải loại phàm phu bình thường. Ngài Hiền Thủ liệt những vị này vào hàng Thập Tín.
Ngài Hám Sơn nói “Đây giác tướng diệt trước. GIÁC TƯỚNG DIỆT là, tâm tạo nghiệp của chúng sanh niệm niệm sanh diệt chưa từng tạm nghỉ, nay giác chỗ một niệm diệt này”. Gọi là giác niệm diệt vì khi ta GIÁC được, thì niệm ác đã sanh, đã có mặt. Sanh rồi mới giác nên không thể giác niệm sanh mà là giác niệm diệt. Căn cứ trên TƯỚNG DIỆT của tâm thì giác tướng diệt chính là giác Khởi Nghiệp Tướng, là giác cái tướng khi nó sắp biến thành hành động. Ngài Hiền Thủ nói “Bởi lực của vô minh đã chuyển tâm tịnh ấy đến tận bờ mé mà hành tướng thô đến đó là tột cùng, nên gọi là tướng diệt”. Sự chậm trễ này là do cái BIẾT của mình chưa nhuần nhuyễn nhanh nhẹn bằng lực của dòng vọng nghiệp, nên mình chỉ có thể giác được niệm khi niệm đến tận bờ mé tướng diệt, mà chưa thể giác khi chúng vừa sanh.
Không tu thì niệm ác ấy sẽ thành hành động, gây nghiệp rồi thọ khổ. Tu thì BIẾT được sự có mặt của nó và dừng ngay, không để nó nối tiếp. GIÁC chính là BIẾT niệm ác đã có mặt nên nói là GIÁC BIẾT. Ngừng ngay thì niệm ác không tiếp tục, nên nói “Giác biết niệm trước khởi ác nên hay dừng niệm sau khiến nó chẳng khởi”. KHỞI đây có 2 nghĩa : Hoặc là niệm ác khởi tiếp trong tâm, hoặc là niệm ác biến thành hành động.
Như việc giết người. Giết người thường là kết quả của tâm sân hay tham. Cái sân tham ấy chính là niệm ác. Nếu khi niệm sân hay tham vừa xuất hiện ở tâm mà ta biết niệm vừa hiện lên đó là niệm ác, không thể tiếp tục thì mọi thứ yên ổn. Nhưng vì không ý thức được đó là niệm ác, nên hoặc là việc giết người xảy ra lập tức, hoặc niệm ấy được nuôi dưỡng thành những kế hoạch thiện xảo, sau mới thành hành động. Khởi niệm nối tiếp trên tâm hoặc khởi thành hành động đều diễn tả cái KHỞI đây.
GIÁC nhưng vì sao vẫn gọi là BẤT GIÁC? Vì chỉ mới GIÁC NIỆM ÁC thì quả báo vẫn thuộc về cõi trời người, tức vẫn thấy tam giới là thật. Thấy tam giới thật là cái thấy còn mê, chưa phải là cái giác của Bồ tát và chư Như Lai. Tỉnh nên có giác, nhưng cái tỉnh ấy vẫn chưa ngoài cái mê, nên tuy giác mà vẫn gọi BẤT GIÁC là vậy.
Ngài Hám Sơn giải thích “Vì tuy là giác niệm ác chẳng để nó khởi, nhưng thật ra chỉ là ở trên tâm sanh diệt mà đè nén, chưa thấy được tánh chẳng sanh diệt”. Tâm sanh diệt đây là chỉ cho ‘phần đoạn sanh tử’ của chúng sanh. Nói là GIÁC niệm, nhưng cái giác ấy chỉ là loại trừ dần niệm ác, vẫn chưa thoát được sự chi phối của dòng nghiệp lực. Như đứng trong dòng thác, xoay sở qua lại để thuyền xuôi được theo dòng thác khỏi lật chết, chưa phải là thoát được dòng thác. Lấy niệm sanh diệt trừ niệm sanh diệt nên tuy GIÁC mà vẫn gọi là BẤT GIÁC.
2. Như trí quán của Nhị thừa và bậc Bồ tát mới phát tâm, giác ở niệm dị, niệm không tướng dị. Vì xả bỏ tướng chấp trước phân biệt thô nên gọi là tương tợ giác.
Đây là GIÁC NIỆM DỊ. Cái GIÁC này dành cho bậc Nhị thừa và chư vị Bồ tát mới phát tâm. NHỊ THỪA là chỉ cho Thanh văn và Duyên giác. TRÍ QUÁN là hành tướng tu hành của chư vị. Pháp tu của chư vị là quán các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh … thường ở chỗ vắng vẻ, luôn thủ hộ các căn để cảnh không thể làm duyên sanh nghiệp, dùng một niệm không phá trừ sự sanh khởi của tâm.
BỒ TÁT là chỉ chung cho các vị tu Đại thừa cầu Phật quả chẳng kể là xuất gia hay tại gia. Thanh văn và Duyên giác chuyển tâm tu theo Phật đạo cũng gọi là Bồ tát. BỒ TÁT MỚI PHÁT TÂM là chỉ cho những vị phát nguyện tu Đại thừa và bắt đầu thực hành công phu. Không có phần công phu này thì không phải là Bồ tát mới phát tâm nói đây.
2 loại vị này đều tập trung vào việc trừ bỏ những sanh khởi trong tâm để đưa tâm trở về trạng thái KHÔNG trong lặng của nó. Vì thế, niệm ác hay niệm thiện, niệm vui hay niệm buồn v.v… các vị đều GIÁC. Những trạng thái hiện lên trong tâm đó đều gọi chung là TƯỚNG DỊ. Dị là không giống nhau. Những thứ hiện hành đó không ở một dạng nhất định nào nên gọi là DỊ. Song niệm dù muôn hình vạn trạng bao nhiêu mà giác được thì niệm ấy liền không. Cái KHÔNG ấy là bình đẳng, không có tướng khác nên nói “Giác ở niệm dị, niệm không tướng dị”. Cái KHÔNG nhờ giác được tướng dị đó tuy gần với cái KHÔNG của bản giác, nhưng chưa phải là cái không của bản giác nên nói TƯƠNG TỢ. Vì đạt được quả vị rốt ráo của Nhị thừa chăng nữa, thì cái KHÔNG rốt ráo ấy cũng mới là HÀNH không, [11] THỨC vẫn còn. Cái KHÔNG của Phật tánh là THỨC cũng không. Vì thế, giác tướng dị tuy cũng gọi là GIÁC nhưng chỉ mới là TƯƠNG TỢ, chưa phải là chính nó.
Chỗ hướng đến của Nhị thừa và Bồ tát phát tâm tu Phật tuy khác nhau, nhưng hành tướng tu hành cũng như kết quả đạt được thì như nhau, nên phần GIÁC TƯỚNG DỊ này bao gồm cả Nhị thừa lẫn Bồ tát mới phát tâm. Dẫn Nhị thừa ra đây là để hiểu thêm chỗ đứng của chư vị đối với cả quá trình tu Phật. Nhị thừa buông được TƯỚNG DỊ nhưng thủ chặt cảnh giới KHÔNG ấy làm niết bàn. Bồ tát buông được TƯỚNG DỊ, nhưng biết cái không ấy mới chỉ là hóa thành chưa phải bảo sở, nên không an trụ nơi cái lạc ấy mà tiến lên phá tiếp tướng trụ để trở về cội nguồn chân thật nhất tâm, đầy đủ vô lượng tướng công đức thanh tịnh.
TƯỚNG CHẤP TRƯỚC PHÂN BIỆT THÔ là chỉ cho tướng Chấp Thủ và Kế Danh Tự ở phần Bất Giác sau. CHẤP TRƯỚC là chỉ cho tướng Chấp Thủ. PHÂN BIỆT THÔ là chỉ cho Kế Danh Tự. Tham, sân, khổ, vui … Những hình tướng biến khác ấy đều biểu hiện cho trạng thái dính mắc của tâm đối với cảnh. Nếu những tướng trạng ấy không, tức sự dính mắc không còn. Dính mắc không thì xem như đã giác phá được tướng Chấp Thủ. Tướng Chấp Thủ đã phá thì tướng Kế Danh cũng chẳng còn nghĩa lý, nên nói “Xả bỏ tướng chấp trước phân biệt thô”.
Xả bỏ được những tướng đó thì tâm coi như không, nhưng cái không ấy chưa phải là cái không của Phật tánh, vì nó còn vướng cái phân biệt tế Trí Tướng[12] nên nói “VÌ XẢ BỎ tướng chấp trước phân biệt thô, nên gọi là tương tợ giác”. Quả vị rốt ráo của Nhị thừa thấy như phá được tướng tương tục của tâm, nhưng thật ra chỉ mới là phần hiện hành, nên luận chỉ nói “XẢ BỎ TƯỚNG chấp trước phân biệt thô” mà không nói đến việc xả bỏ tướng tương tục.[13]
4. Như bậc pháp thân Bồ tát giác ở niệm trụ, niệm không tướng trụ. Vì lìa tướng niệm phân biệt thô nên gọi là tùy phần giác.
NIỆM TRỤ là chỉ cho 4 tướng Năng Kiến Tướng, Cảnh Giới Tướng, Trí Tướng và Tương Tục Tướng trong phần Bất Giác sau. NĂNG KIẾN là chỉ cho cái thấy của mình. Thân tứ đại và thế giới mình đang sống đây liệt chung vào CẢNH GIỚI TƯỚNG. Khi đã có cái thấy và cảnh giới bị thấy thì lập tức trên cảnh lại sanh phân biệt. Cái phân biệt này gọi là TRÍ TƯỚNG. Phân biệt rồi sanh ái trước nên tâm càng động, niệm càng huân … vì thế niệm niệm tương tục không dứt. Cái tương tục không dứt đó gọi là TƯƠNG TỤC TƯỚNG.
Gọi là NIỆM TRU, vì Nghiệp Tướng - tức tướng SANH - vừa xuất hiện thì lập tức 4 tướng ấy theo đó mà dàn trãi, nên gọi là niệm trụ. Ngài Hiền thủ nói “Vô minh cùng tướng sanh hòa hợp chuyển tâm tịnh ấy đến chỗ này, hành tướng của nó còn tế, pháp chấp kiên trụ nên gọi là tướng trụ”.
PHÁP THÂN BỒ TÁT là chỉ cho những vị đã trực chứng được nhân Phật tánh, chính là tự tánh chân như không sanh không diệt của chính mình. Là chỉ cho chư vị Bồ tát thuộc hàng Thập Địa, luận đây gọi là NHƯ THẬT TU HÀNH. Do chư vị đã khoét thủng được màng vô minh, đặt chân lên đất Như Lai, nên gọi là pháp thân Bồ tát. Tuy cùng được một niệm đặt chân ấy, mà viên mãn quả Phật có tới 10 địa, chưa được hoàn toàn như Phật, nên gọi là ‘tùy phần giác’.
TÙY PHẦN GIÁC tức là giác từng phần. Chứng được nhân Phật tánh rồi nhưng tập khí bao đời chưa xong, pháp thân chưa thể hiển lộ tròn đầy, qua cái niệm đốn ngộ ấy, hiện thân vẫn là Bồ tát giác tướng trụ nên gọi là giác từng phần.
BỒ TÁT GIÁC TƯỚNG TRUï là, tuy đã kiến tánh nhưng thân, căn, cảnh và sự nhận biết về những thứ ấy vẫn còn, trí phân biệt chưa hết, dòng tương tục tuy có đứt đoạn nhưng chưa dứt hẳn. Bởi cớ sự ấy mà gọi là TỪNG PHẦN. Hành thiền mà nhận chân được thật tướng của 4 tướng ấy, gọi là GIÁC TƯỚNG TRUï. Tùy mức độ giác mà có 10 địa. Ngài Hám Sơn nói “Phần phá, phần chứng nên gọi là tùy phần giác”.
TƯỚNG PHÂN BIỆT THÔ là để phân biệt với Nghiệp Tướng phân biệt tế. Nói phân biệt tế là chỉ cho sự liễu biệt của Alaida thức, chỉ là liễu biệt mà không có sự tham gia của ý thức. Chính cái Nghiệp Tướng này mà dù đạt được tâm giác chiếu không còn cảnh giới lục trần, tâm ấy vẫn chưa phải là pháp tánh chân như tròn khắp mà Phật và chúng sanh đồng có, nên nói “VÌ LÌA TƯỚNG niệm phân biệt thô nên gọi là tùy phần giác”.
3 tướng trên đều chưa gọi là CỨU CÁNH GIÁC vì chưa đến được cội nguồn của tâm.
4. Như Bồ tát địa tận đầy đủ phương tiện, nhất niệm tương ưng, giác tâm sơ khởi, tâm không có tướng sơ. Vì xa lìa niệm vi tế nên được thấy tâm tánh, tâm tức thường trụ, gọi là cứu cánh giác.
Đây là giác TƯỚNG SANH.
BỒ TÁT ĐỊA TẬN là Bồ tát ở vị kế Phật. PHƯƠNG TIỆN là những phương thức, phương cách tiện dụng … mà nhờ chúng, người tu đạt được cứu cánh niết bàn. Như niệm Phật, ngồi thiền, chỉ - quán v.v… Phương tiện thì đủ từ GIÁO đến SỰ, từ tự lợi đến lợi tha. Ngài Hám Sơn nói “Phương tiện là các pháp quán, hạnh, tu, đoạn”. Vậy ĐẦY ĐỦ PHƯƠNG TIỆN là, công hạnh đã tròn, hoặc nhiễm đã hết, chỉ là một nguồn tâm chân thật.
NHẤT NIỆM TƯƠNG ƯNG là chỉ cho cái trí đoạn được phần tập khí cuối cùng, thủy giác hợp nhất hoàn toàn với bản giác. TƯỚNG SANH hay NIỆM VI TẾ là chỉ cho Nghiệp Tướng, là động niệm tối sơ của tâm biến khởi. Động niệm vi tế này là động niệm đầu tiên làm chỗ nương cho Năng Kiến và Cảnh Giới xuất hiện. GIÁC TƯỚNG SANH chính là giác cái niệm làm tâm động đó. Nên nói GIÁC TÂM SƠ KHỞI. Ngài Hiền Thủ nói “TÂM SƠ KHỞI là, căn bản vô minh y nơi giác nên có mê mà làm động tâm tịnh ấy, khiến niệm vi tế sanh khởi, nay nhờ giác mà biết nếu rời bản giác thì không có bất giác, tâm động ấy vốn tịch diệt. Như do lầm phương hướng mà đông thành tây. Hết lầm thì tây chính là đông, phương tây hoàn toàn không có, nên nói TÂM KHÔNG CÓ TƯỚNG SƠ. Ở 3 cái giác trước, mỗi cái đều có sở giác[14] vì động niệm chưa hết, nên chỉ nói niệm không có tướng dị, tướng trụ v.v... Đây ở địa vị cứu cánh, động niệm đều hết, chỉ là nhất tâm, nên nói tâm không có tướng sơ vậy”.
Cho nên Tudala nói “Nếu có chúng sanh hay quán vô niệm thì hướng về trí Phật”.
Đây là câu kết luận sau khi đã giải bày toàn bộ 4 tướng THỦY GIÁC. Chỗ tột cùng cần đến thì vô niệm. VÔ NIỆM, hiểu đơn giản là không khởi niệm. Pháp tánh chân như ấy hoàn toàn không có niệm tưởng hư vọng. Vì thế, tu để trở về nguồn cội chân thật thì phải quán vô niệm. QUÁN VÔ NIỆM là quá trình tu hành được giải bày từ phần ‘tương tợ giác’ đến ‘cứu cánh giác’ trên. TRÍ PHẬT là chỉ cho cội nguồn nhất tâm chân như. CHÚNG SANH là chỉ chung cho tất cả thánh, phàm, tăng, tục chưa thành Phật. Bất kể là tăng hay tục, ai thực hành được cái quán vô niệm ấy trong tất cả thời thì người đó đang hướng về trí Phật. Nói là HƯỚNG vì còn QUÁN.
Lại tâm khởi, không có tướng sơ có thể biết mà nói biết tướng sơ chính là vô niệm. Cho nên, tất cả chúng sanh chẳng gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm tương tục, chưa từng ly niệm, nên nói vô thủy vô minh.
LẠI TÂM KHỞI là lập lại câu nói giác tâm sơ khởi trên. Chẳng phải khi giác mà biết có tướng sơ nên nói “KHÔNG CÓ tướng sơ có thể biết”. Đã không có tướng sơ có thể biết vì sao lại nói biết tướng sơ? Giải thích rằng, nói biết tướng sơ chính là vô niệm. Như khi hết lầm thì biết tây chính là đông, hoàn toàn không có tướng tây có thể biết. Nói biết tướng tây chính là đông vậy.[15]
CHO NÊN, là từ những điều vừa nói đó mà ngẫm ra điều kế tiếp đây. “TẤT CẢ chúng sanh chẳng gọi là giác”. Vì sao chẳng gọi là giác? Vì chưa từng rời khỏi niệm, dù chỉ là một ý tưởng MUỐN LY thoáng qua trong đầu. Không ai dám nghĩ rằng, không có suy nghĩ và những cảm giác vui buồn đây mà con người sống được. Thật ra, càng ít niệm tưởng, định kiến bao nhiêu sống càng khỏe, càng hạnh phúc bấy nhiêu. Chưa từng giác tức chưa từng tỉnh. Không tỉnh tức là mê. Mê nên gọi là vô minh. Cái vô minh này không biết có mặt từ bao giờ nên nói là VÔ THỦY VÔ MINH. Vô thủy là không có bờ mé ban đầu. Không có bờ mé ban đầu vì vô minh này không có chất thật, không thật nên không tìm được chỗ khởi đầu của nó. Minh và vô minh chỉ là 2 mặt duyên khởi của một chân tâm thường trụ bất biến mà thôi.
Nếu được vô niệm thì biết sanh, trụ, dị, diệt là tướng của tâm, vì đồng vô niệm, thật không có sự biến khác của thủy giác. Vì tứ tướng đồng thời có, đều không tự dựng lập, xưa nay bình đẳng, đồng một giác.
NẾU ĐƯỢC VÔ NIỆM là khi thủy giác đã hợp nhất với bản giác, khi pháp thân đã hiển lộ hoàn toàn. VÌ ĐỒNG VÔ NIỆM là cái nhân (điều kiện) để biết 4 tướng sanh, trụ, dị, diệt là tướng của tâm. Vì sao gọi là tướng của tâm? Vì tâm vô niệm chính là bản thể của 4 tướng ấy. Chúng là mặt duyên khởi của một bản thể vô niệm chứ bản thân chúng không có tự thể riêng. Là SANH vì có DIỆT và TRỤ. DIỆT và TRỤ là nhân khiến lập tướng SANH. Nói là DIỆT vì có SANH và TRỤ. DIỆT là nhân để SANH và TRỤ được lập thành. Tướng DỊ không rời tướng TRỤ mà có. 4 tướng ấy luôn là duyên khởi của nhau nên có thì đồng có, không thì đồng không, không có thứ lớp trước sau như ta đang thấy hiện nay. Hiện nay thấy vậy là do mê mà thấy.[16] Cái đồng khởi, đồng mất này cho thấy 4 tướng ấy không có tự tánh. Vì nếu có tự tánh thì SANH không thể đồng thời với DIỆT. Không tự tánh, xuất hiện nhờ duyên nên nói KHÔNG TỰ DỰNG LẬP.
Trong kinh Trung Bộ, Phật nói “Ai thấy được duyên khởi, người ấy thấy pháp. Ai thấy được pháp người ấy thấy duyên khởi. THẤY PHÁP là thấy được thật tướng của vạn pháp, chính là trở về cội nguồn chân thật của mình. THẤY DUYÊN KHỞI chính là trực nhận được chỗ nhân quả đồng thời. Đã đồng thời thì thủy giác không có thứ lớp trước sau nên nói “Không có SỰ BIẾN KHÁC của thủy giác”.
XƯA NAY tức khi nào cũng vậy. BÌNH ĐẲNG ĐỒNG MỘT GIÁC là nói lên thật tướng của bất giác và thủy giác. Chẳng qua chỉ do mê và ngộ mà thấy có tướng khác, không phải cái khác này xuất phát từ chính bản thân chúng. Như nhặm mắt mà thấy bóng đèn có vân tròn chung quanh, không phải bóng đèn thay đổi từ cái không vân tròn sang có vân tròn. Một khi mắt hết nhặm thì biết bóng đèn có vân chẳng qua chỉ là bóng đèn không vân.
Lại nữa, bản giác tùy nhiễm phân biệt sanh 2 tướng, cùng bản giác kia chẳng tách rời nhau. Thế nào là 2? Một là Trí tịnh tướng, hai là Bất tư nghì nghiệp tướng.
NHIỄM tức là nhiễm ô. Như áo trắng vấy mực, người không uống rượu nhưng ở gần người uống rượu rồi sinh uống rượu … những hình thức như thế gọi là nhiễm. Vậy, nhiễm là đối với tịnh mà nói, là chỉ cho những thứ mới huân, không có gốc thật. Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu nói về sự NHIỄM ở tâm như sau “Lấy tâm trói buộc hiện tại mà nhìn các pháp thì cái một và nhiều sẽ trở ngại lẫn nhau, niệm niệm bám víu gọi là nhiễm”. Gọi NHIỄM PHÂN BIỆT vì nhiễm là do phân biệt mà có.
BẢN GIÁC TÙY NHIỄM cũng là một loại vọng tâm nhưng không phải là loại vọng tâm gây nghiệp tạo tội của chúng sanh, mà là cái vọng tâm hoàn tịnh, chính là chỉ cho tướng thủy giác. Ngài Hiền Thủ nói “Thủy giác này không phải mới khởi, chính là bản giác tùy nhiễm tạo ra”.
Vì sao lại có tùy nhiễm? Ngài Hiền Thủ nói “Vì nếu lìa nhiễm duyên thì chẳng thành được, nên nói tùy nhiễm”. Nghĩa là, nhờ cái tùy nhiễm hoàn tịnh ấy mới có được 2 tướng đây. Nên nói “Tùy nhiễm phân biệt SANH 2 tướng”. Bản giác chính là thể tánh của 2 tướng ấy nên sanh rồi chẳng rời bản giác thành CHẲNG TÁCH RỜI NHAU.
TRÍ TỊNH TƯỚNG, nghĩa của nó nằm ở 2 từ TRÍ TỊNH. TRÍ TỊNH là cái trí có được khi bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh.
BẤT TƯ NGHÌ NGHIỆP TƯỚNG, tương tự như phần Trí tịnh, nghĩa của nó nằm ở mấy từ ‘bất tư nghì nghiệp’. NGHIỆP là chỉ cho nghiệp dụng, là những cái dụng có được khi bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh. Cái dụng này không thể dùng đầu óc suy nghĩ đây mà nghĩ ngợi bàn luận, nên nói BẤT TƯ NGHÌ. Như 32 ứng thân của Quan Âm Đại Sĩ v.v… đều là nghiệp dụng của bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh.
Phần sau là đi vào chi tiết của 2 tướng ấy.
B1a. TRÍ TỊNH TƯỚNG là, y nơi pháp lực huân tập, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện, phá tướng thức hòa hợp, diệt tướng tương tục của tâm, hiển bày pháp thân, trí thuần tịnh.
NHƯ THẬT TU HÀNH là chỉ cho những vị đã chứng được nhân Phật tánh. Nương cái nhân vô sanh ấy mà tu chân như tam muội không thủ, không niệm nên nói Y NƠI PHÁP LỰC HUÂN TẬP. Nói HUÂN TẬP là muốn nói cái LÝ được trực nhận đó phải quán suốt trên tất cả SỰ để LÝ - SỰ viên dung mà thể nhập SỰ - SỰ viên dung. Phần PHÁP LỰC này, ngài Hiền Thủ cũng như ngài Hám Sơn không chỉ cho nó là lực huân tập của chân như bên trong mà còn là lực huân tập của dòng giáo pháp bên ngoài. Lấy đó tu tư lương gia hạnh thiện căn,[17] chứng nhân vô sanh, đăng địa tu chân như tam muội.
ĐẦY ĐỦ PHƯƠNG TIỆN, chỉ cho chỗ hành của Bồ tát địa tận. PHÁ THỨC HÒA HỢP là phá vào phần nghiệp thức. Chính là ‘giác tướng sơ’ đã giải thích ở phần Cứu Cánh Giác. Tướng thức hòa hợp đã phá, tức sanh diệt đã diệt, chỉ còn cái thể không sanh diệt nên nói TRÍ THUẦN TỊNH.
TƯỚNG TƯƠNG TỤC nói đây là chỉ cho tương tục vi tế. Kinh Lăng Già gọi là lưu chú. Sơ Địa là đã phá thủng được tướng tương tục của dòng vọng niệm, nhưng phải đến địa vị tột cùng của Thập Địa mới dừng hết tương tục vi tế của tâm mà thể nhập quả vị Phật.
Tùy theo pháp thân hiển lộ từng phần hay viên mãn mà tướng trí tịnh này có từng phần hay viên mãn.
Nghĩa ấy thế nào? Vì tất cả tướng tâm thức đều là vô minh. Tướng vô minh chẳng lìa giác tánh, chẳng thể hoại, chẳng phải chẳng thể hoại. Như nước của đại dương, nhơn nơi gió mà dậy sóng. Tướng nước và tướng gió chẳng rời nhau mà nước chẳng phải là tánh động. Nếu gió ngừng, tướng động ắt diệt nhưng tánh ướt chẳng hoại. Tự tánh thanh tịnh của tâm chúng sanh cũng như vậy, nhơn gió vô minh mà động. Tâm và vô minh đều không hình tướng, chẳng tách rời nhau, mà tâm chẳng phải tánh động. Nếu vô minh diệt thì tương tục ắt diệt mà trí tánh chẳng hoại.
NGHĨA ẤY THẾ NÀO là để giải thích vì sao những tướng khác như tướng hòa hợp, tương tục của tâm đều dứt mà tướng TRÍ TỊNH lại có?
Tướng tương tục và tướng hòa hợp đều diệt bởi nó thuộc phần tâm thức sanh diệt. TÂM THỨC là chân tâm do động niệm mà biến thành thức. Tướng sanh diệt có, chẳng qua là từ chỗ không sanh diệt mà thành sanh diệt, như nước biển gặp gió mà thành sóng. Hết gió thì hết sóng nhưng nước biển vẫn còn. Không phải không gió, không sóng là không luôn nước. Như vậy, sóng là tướng biểu trưng cho thể ướt của biển khi ở trạng thái động, nước là tướng biểu trưng cho thể ướt của biển khi ở trạng thái tĩnh. TRÍ TỊNH TƯỚNG chính là phần nước đó, là tướng biểu trưng cho phần thể không sanh diệt. Vì thế, khi không có gió vô minh thì các tướng khác đều diệt, nhưng tướng của cái nguyên thể ban đầu vẫn còn. Kinh Lăng Già nói “Chẳng phải tự tướng chân thức diệt, chỉ là nghiệp tướng diệt”. Đây là nói gọn lại phần ví dụ trên để dễ nắm vấn đề.
Sóng biển thì làm lật thuyền, nhưng nước biển thì lại tải thuyền. Cái tải ấy là dụng của nước khi ở thể tĩnh. Cái dụng này chỉ cho phần BẤT TƯ NGHÌ NGHIỆP TƯỚNG nói sau.
B1b. BẤT TƯ NGHÌ NGHIỆP TƯỚNG là, y nơi Trí tịnh tướng hay tạo mọi cảnh giới thù thắng vi diệu. Đó là, vô lượng tướng công đức thường không đoạn dứt, tùy theo căn tánh của chúng sanh, tự nhiên tương ưng với mọi thứ mà hiện để được lợi ích.
Y, là nương vào đó. Loại nghiệp dụng này chỉ có khi tướng Trí tịnh đã xuất hiện. Nghĩa là, bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh rồi, mới có được loại nghiệp dụng chẳng thể nghĩ bàn này, nên nói Y NƠI TRÍ TỊNH TƯỚNG.
CẢNH GIỚI THẮNG DIỆU này, Thật Tánh Luận nói “Thân của chư Phật Như Lai như hư không, không tướng. Chỉ vì các bậc thắng trí mà làm thành cảnh giới 6 căn, thị hiện thành sắc tướng trang nghiêm, phát ra âm thanh vi diệu, khiến người người ngửi được giới hương của Phật, nếm được diệu pháp của Phật, đạt được giác tam muội[18] mà thấu được diệu pháp thâm sâu,[19] nên gọi là cảnh giới vi diệu”. Cảnh giới này không phải chỉ Phật mới có. Theo kinh Lăng Già, Bồ tát từ địa thứ ba trở đi đã có thể hóa hiện ra vô số huyễn thân, tùy niệm thị hiện làm lợi ích cho chúng sanh.
ĐÓ LÀ, là giải thích “Trí tịnh tướng hay tạo mọi cảnh giới” như thế nào. Là tùy theo căn tánh của chúng sanh mà hiện để được lợi ích. LỢI ÍCH là, tạo đủ các loại hạnh duyên hỗ trợ để giúp chúng sanh quay dần về bản tâm thanh tịnh của mình. Hạnh duyên này, hình tướng của nó không nhất định. Có thể là hình tướng trang nghiêm đầy đủ lực dụng thần thông, biện tài vô ngại như Phật Thích Ca Mâu Ni. Có thể là hình tướng dịu hiền của một Quán Thế Âm hay hình tướng dữ tợn của một ngài Tiêu Diệm. Có thể là hình tướng của một người đàn bà nghèo khổ xin ăn cùng cực cùng đàn con nhỏ …[20]] Song dù là hình tướng nào thì tất cả đều biểu trưng cho một thể TỪ BI vô hạn. Vì sao nói vô hạn? Vì đều cùng mục đích là giúp chúng sanh “Lìa tất cả khổ, đạt được cái vui rốt ráo”.
Ứng thân và báo thân của chư Phật cũng như của chư vị Bồ tát đăng địa đều tùy thuộc vào căn tánh của chúng sanh mà hiện, nên tuy nói TẠO mà thật là không có tạo, chỉ là CẢM nên ỨNG mà thôi. Phần CẢM ỨNG này là sự vi diệu không thể nghĩ bàn của bản tâm thanh tịnh. Tâm của chúng sanh càng thanh tịnh thì càng dễ gặp Phật. Vì thế nói “Vì các bậc thắng trí mà làm thành cảnh giới lục căn”. THẮNG TRÍ là chỉ cho những vị tâm tương đối thanh tịnh. Đây là lý do vì sao vào thời đức Phật còn tại thế và sau đó một ít thôi, chúng sanh đọc học kinh luận dễ dàng mà chứng thánh đạo cũng nhiều. Vì căn tánh của họ vốn thắng diệu. Vốn thắng diệu, họ mới gặp được Phật và cách thời Phật ra đời không xa. Nói vậy không có nghĩa càng xa Phật thì căn tánh của chúng ta càng lụn bại. Càng xa Phật mà không tu tập thì căn tánh lụn bại là lẽ tất nhiên. Nhưng càng xa Phật mà càng tu tập miệt mài thì tuy không thấy được tướng Phật với 32 tướng tốt trang nghiêm, nhưng lại thể nhập được chính ông Phật vô tướng, vô trụ mà Phật cùng chúng sanh đồng có.
Cái ứng và cảm này cho thấy DUYÊN KHỞI chi phối mọi sự mọi vật ở thế gian. Không có thứ gì tự xuất hiện một mình mà đều có nhân có duyên. Phật pháp cũng như thế. Phải có nhân có duyên không có gì tự khởi. Trí và bi của chư Phật đầy đủ trùm khắp, nhưng chúng sanh không có căn lành, không biết hướng về, tức không cảm thì không có sự ứng hiện. Cầu mà ứng chính là do công đức mình đã tu tạo nhiều đời trước đây. Không cầu mà ứng bởi căn lành quá thành thục. Như nước và mặt trăng, chỗ nào nước trong không bị che chắn thì trăng liền hiện.
CÔNG ĐỨC nói đây là chỉ cho trí tuệ thanh tịnh nhiệm mầu không có bờ mé của pháp tánh chân như, nên nói THƯỜNG KHÔNG ĐOẠN DỨT.
Lại nữa, tướng giác thể có 4 nghĩa đại, đồng với hư không và giống như kính sạch trong.
GIÁC THỂ là nói về thể của cái giác, chính là bản giác hay tâm chân như. Giác thể này có 4 tướng. Vì giác thể rộng lớn không bờ mé, bao hàm tất cả như hư không, nên nói là ĐẠI. Lại tròn sáng mà hay hiện như kính sạch trong, nên lấy hư không và kính làm dụ.
Thế nào là 4?
1. NHƯ THẬT KHÔNG KÍNH, xa lìa tất cả tướng cảnh giới của tâm, không pháp có thể hiện, chẳng phải nghĩa giác chiếu.
Đây là nghĩa NHƯ THẬT KHÔNG đã nói ở phần Tâm Chân Như. Nói NHƯ THẬT bởi cái không này là THỂ TÁNH chân thật của tất cả pháp.
TƯỚNG CẢNH GIỚI là chỉ cho thân, căn và cảnh giới ta đang có đây. Nó cũng chỉ cho ‘cảnh giới chứng’ còn trong vòng năng giác - sở giác. Hành thiền mà còn thấy có cảnh giới - dù cảnh giới ấy sáng rực không có bờ mé như hư không - thì cảnh giới ấy vẫn là cái bị thấy, chưa phải là cái THỂ như thật không này. Gọi là CỦA TÂM, vì tất cả tướng cảnh giới đều không ngoài tâm mà có. Không ngoài tâm nên tất cả đều không có chất thật, chỉ do vọng niệm, vọng giác mà thành. Như mắt bịnh mà thấy hoa đốm trên hư không. Hoa đốm vốn không thật có. Tướng cảnh giới kia cũng vậy. Do tâm bịnh mà tướng cảnh giới xuất hiện. Cảnh giới vốn không. Nên nói “XA LÌA tất cả …”.
Dùng KÍNH để dụ cho cái NHƯ THẬT KHÔNG thì biết cái như thật không ấy tính nó hay hiện vật. Đây nói “Không pháp có thể hiện” là do vật vốn không, không phải kính ấy không có tính hay hiện. Lìa năng giác - sở giác mới thấu được tánh thể này nên nói KHÔNG PHẢI NGHĨA GIÁC CHIẾU.
2. NHÂN HUÂN TẬP KÍNH, là như thật bất không. Tất cả cảnh giới thế gian đều từ trong đó mà hiện, chẳng ra chẳng vào, chẳng mất chẳng hoại, nhất tâm thường trụ, vì tất cả pháp tức là tánh chân thật. Lại, tất cả nhiễm pháp đều chẳng thể nhiễm, trí thể bất động, đầy đủ vô lậu huân chúng sanh.
Đây là nghĩa NHƯ THẬT BẤT KHÔNG ở phần tâm chân như. Gọi là NHÂN HUÂN TẬP bởi cái thể này là chỗ HUÂN TẬP của các chủng tử, chính là sở nhân y của tất cả pháp. Gọi là SỞ NHÂN Y vì nó là chỗ Y TỰA của tất cả pháp, cũng là NHÂN làm phát sanh vạn pháp. Nhiễm tịnh y nơi chánh nhân quả của mười phương pháp giới đều hiển hiện tại nhất tâm này, như gương sáng hiện tất cả sắc tượng, rời gương thì không có hình tượng, nên nói “TẤT CẢ CẢNH GIỚI thế gian đều từ trong đó mà hiện”.
CHẲNG RA CHẲNG VÀO … là muốn hiển bày vạn pháp chỉ là bóng dáng của tự tâm, không có tự tánh của riêng nó. Thấy ra thấy vào chỉ là do mê mà thấy. Ngài Hiền Thủ nói “Phải đợi huân tập mới hiện các pháp, không phải không huân mà tự hiện được, nên nói CHẲNG RA. Không có tâm năng huân thì không có pháp, pháp không từ ngoài vào, nên nói CHẲNG VÀO. Tuy pháp không từ trong ra, không từ ngoài vào, song vì duyên khởi mà pháp hiển hiện, không phải là không, nên nói CHẲNG MẤT. Do duyên tụ khởi mà thành, không có xuất xứ, chẳng khác chân như, nên nói CHẲNG HOẠI. Như ảnh trong gương, dao chẳng thể chém. Vì đồng với gương nên chẳng thể hoại vậy”.
NHẤT TÂM THƯỜNG TRUï vì nhất tâm chân như chính là thể của các tướng ấy. Như cảnh vật hiện trong gương và gương không phải một, nhưng bản chất của cảnh vật ấy lại chính là gương, tức vật và gương không khác. Vì cái KHÔNG KHÁC ấy mà nói “Pháp ấy tức là tánh chân thật”. Vì cái KHÔNG MỘT ấy mà nói “Tất cả nhiễm pháp đều chẳng thể nhiễm”. CHẲNG THỂ NHIỄM vì cảnh đến thì hiện cảnh, vật đến thì hiện vật, nó không có tánh lưu giữ khi vật và cảnh đã không. Chính cái tánh không lưu giữ ấy mà ta biết mặt gương dù chất đầy cảnh tượng, thể của gương vẫn trong. Chẳng nhiễm nên nói TRÍ THỂ BẤT ĐỘNG. [21]
ĐẦY ĐỦ VÔ LẬU là chỉ cho pháp tánh chân như đầy đủ công đức thanh tịnh. HUÂN CHÚNG SANH là tự thể ấy làm nhân huân tập bên trong, khiến người chán cái khổ sanh tử, thích cầu cái vui niết bàn.
3. PHÁP XUẤT LY KÍNH, là pháp bất không thoát phiền não ngại và trí ngại, lìa tướng hòa hợp, thuần thanh tịnh và sáng suốt.
XUẤT LY nghĩa là rời bỏ, thoát khỏi. Gọi là XUẤT LY KÍNH vì pháp bất không ấy thoát khỏi sự trói buộc của phiền não và sở tri. PHÁP là chỉ cho pháp tánh chân như. PHIỀN NÃO NGẠI và TRÍ NGẠI là chỉ cho phiền não chướng và sở tri chướng. Phá được 2 chướng này chính là phá được tướng hòa hợp giữa sanh diệt và không sanh diệt, nên nói LÌA TƯỚNG HÒA HỢP. Như gương, không còn bụi bặm thì mặt gương bóng sạch trong suốt hiển bày, nên nói “thuần thanh tịnh và sáng suốt”. THUẦN nghĩa là không có gì khác ngoài sự thanh tịnh và sáng suốt ấy. Đây là lúc thủy giác và bản giác hợp nhất.
4. DUYÊN HUÂN TẬP KÍNH, là y pháp xuất ly nên chiếu khắp tâm chúng sanh, khiến tu thiện căn, tùy niệm thị hiện.
Kính thứ hai trên nói về NHÂN huân tập. Đây, nói về DUYÊN huân tập. Gọi là duyên vì nó làm ngoại duyên giúp chúng sanh tu tập thiện căn. Phần này tương đương với phần dụng Bất tư nghì nghiệp tướng nói trên. Song đây nói ngay THỂ, kia nói ở TRÍ. Một bên là y nơi pháp xuất ly, tức ngay nhân tức quả mà nói. Một bên là y nơi bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh, là quá trình từ nhân đến quả.
Cái dụng này chỉ có khi tâm đã qua được 2 chướng trong phần Xuất Ly Kính trên, nên nói Y PHÁP XUẤT LY. PHÁP XUẤT LY chính là giác thể mà Phật cùng chúng sanh đồng. Ngài Hám Sơn nói “Trước, là chúng sanh vốn có Phật tánh làm nhân nội huân. Nay tu hành thì lìa chướng xuất triền, chứng được pháp thân, tức hay chiếu khắp tâm chúng sanh mà khởi đồng thể đại bi, hiện mọi thứ thân tướng để điều phục chúng sanh, làm duyên ngoại huân. Đại viên cảnh bình đẳng hiển hiện, cùng tâm chúng sanh chiếu sáng lẫn nhau. Chỉ vì chúng sanh mê mà chẳng biết. Trí giác tròn sáng nên hay chiếu khắp”.
TÙY NIỆM THỊ HIỆN là tùy tâm niệm của chúng sanh mà hiện hóa thân, báo thân làm lợi ích cho chúng sanh.
B2. BẤT GIÁC là, chẳng biết đúng như thật pháp chân như toàn nhất, bất giác tâm khởi mà có niệm. Niệm không có tự tướng, chẳng lìa bản giác. Giống như người mê nương nơi phương hướng mà lầm. Nếu lìa phương hướng thì không lầm. Chúng sanh cũng vậy. Y giác nên mê. Nếu lìa giác tánh thì không có bất giác. Vì có tâm vọng tưởng bất giác nên hay biết danh nghĩa mà nói chân giác. Nếu lìa tâm bất giác thì không có tự tướng chân giác có thể nói.
BẤT GIÁC là đối với GIÁC mà nói. BẤT GIÁC thì không phải giác. Tự tánh chân như do không tự tánh nên không tự giữ mà vọng động. Cái động đó là do BẤT GIÁC mà có. BẤT GIÁC vì chẳng biết đúng như thật về một cái toàn nhất.
Bản giác biểu trưng cho cái không động. Nay động nên gọi là bất giác. Bất giác thì khởi niệm. Niệm này là do bản giác vọng động mà có, nên nó không có tự thể riêng mà thể của nó chính là bản giác, nên nói “Niệm không có tự tướng, chẳng lìa bản giác”. Như sóng lăn tăn từ nước mà có, thể của nó vẫn là nước.
GIỐNG NHƯ NGƯỜI MÊ … là ví dụ để hiểu bất giác nương nơi giác mà có. Bất giác không phải là bản giác, nhưng không lìa bản giác. GIÁC TÁNH là chỉ cho thể tánh của cái giác, chính là bản giác, là cái thể ‘như thật không’ nói trên.
Có bất giác nên có niệm tưởng, có niệm tưởng nên có ngôn từ, văn tự. DANH là chỉ cho tướng, hình thức. NGHĨA là chỉ cho nội dung, tính chất, ý nghĩa. Cũng như từ chân như, lập ra CHÂN GIÁC vì có bất giác. Bất giác đã không thì chân giác cũng chẳng thể nói. Bởi nó là thứ không năng giác - sở giác, không năng kiến - sở kiến nên không thể lấy tri thức đây mà suy lường hay nói năng.
Đây là nêu bày mặt duyên khởi của chân giác và bất giác. Không có chân giác thì không có bất giác mà không có bất giác thì cũng không lập chân giác, chỉ là một thể thường trụ không sanh không diệt, không đến không đi. Duyên khởi nên ngay bất giác chính là giác. Ngay cái sanh diệt chính là cái không sanh diệt. Ngay cái mê ấy mà biết là mê, chính là giác. Như người ngủ rồi mộng, ngay trong mộng mà biết mình đang mộng thì lúc ấy không mộng.
Lại nữa, y bất giác nên sanh 3 thứ tướng, cùng với bất giác kia tương ưng chẳng lìa.
Y BẤT GIÁC NÊN SANH … tức bất giác là nhân sanh ra 3 thứ tướng. TƯƠNG ƯNG nghĩa là phù hợp không trái nghịch, như nắp đi đôi với nồi. Cùng bè cùng lứa gọi là tương ưng. Phải có nhân bất giác mới có quả là 3 tướng, không có bất giác thì không có 3 tướng nên nói CHẲNG LÌA.
Tướng trước là nhân để tướng sau sanh khởi. Theo thứ tự trước sau có tất cả 9 tướng, khiến chân tâm thanh tịnh vô tướng khởi sanh thế giới, chúng sanh, nghiệp quả, luân hồi … nối tiếp vô hạn định.
Thế nào là 3?
I. VÔ MINH NGHIỆP TƯỚNG : Vì y bất giác nên tâm động mà gọi là nghiệp. Giác thì bất động. Động tức có khổ vì quả chẳng lìa nhân.
Nghĩa VÔ MINH, ngài Hàm Thị nói như sau “Trong Như Lai Tạng thật có 2 nghĩa minh và vô minh. Minh, là giác thể vốn minh. Vô minh, là giác thể vốn không tánh, vì cực chân nên không phân biệt, trong cái không phân biệt ấy mà trạm nhiên thường trụ - gọi là diệu, trong cái không phân biệt mà mờ mịt chẳng tỉnh - gọi là vô minh”. Bị cái lực mờ mịt ấy mà tâm không còn ở trạng thái tĩnh lặng nên gọi là động. Tướng động ấy gọi là NGHIỆP TƯỚNG. Nghiệp tướng là nói về tướng nghiệp. Nghiệp là chỉ cho hành động hoặc sự tạo tác. Không tĩnh lặng mà đã có vọng động nên gọi là nghiệp. Gọi VÔ MINH NGHIỆP TƯỚNG vì tướng nghiệp ấy do vô minh mà có.
Bản chất của bất động là thường, lạc, ngã, tịnh. Động thì ngược lại với bất động, lại chính từ cái động ấy mà sanh ra 9 tướng trong phần Bất Giác đây, khiến chúng sanh chịu nhiều sanh tử khổ não, nên nói “Động tức có khổ, vì quả chẳng lìa nhân”. NHÂN là chỉ cho Nghiệp Tướng. QUẢ là chỉ cho tướng Nghiệp Hệ Khổ, là tướng cuối cùng trong 6 thô.
Ngài Hiền Thủ nói “Đây tuy động, nhưng động niệm này rất vi tế. Duyên khởi mà thành nhất tướng, năng sở chưa phân. Chính là phần tự thể của thức Alaida”.
II. NĂNG KIẾN TƯỚNG : Vì y động nên hay thấy. Bất động thì không có thấy.
KIẾN nghĩa là thấy. NĂNG là chỉ cho phần chủ thể. NĂNG KIẾN là chỉ cho chủ thể hay thấy. Tuy nói là thấy nhưng không nhất định phải có mắt mới thấy, mà sự rõ biết của tâm thức cũng gọi là thấy. Điều này sẽ được nói rõ ở phần Cảnh Giới Tướng sau.
Nói NĂNG là do đối với SỞ mà nói. Sở kiến là chỉ cho Cảnh Giới Tướng dưới. Phần Năng Kiến này là do Nghiệp Tướng chuyển thành, nên nói “Y động nên hay thấy”. Tuy là do bất giác mà có, nhưng nó là cái thấy chưa bị nhiễm ô bởi sự phân biệt của Trí Tướng và Tương Tục Tướng. Kinh Lăng Nghiêm gọi nó là KIẾN TINH, là cái thấy còn tinh ròng. Có sự vọng động của Nghiệp Tướng mới có Năng Kiến, không có sự vọng động đó thì không có Năng Kiến, nên nói “Bất động thì không có thấy”.
III. CẢNH GIỚI TƯỚNG : Vì y Năng Kiến mà vọng hiện cảnh giới, lìa Kiến thì không có cảnh giới.
CẢNH GIỚI TƯỚNG, ngài Hám Sơn giải thích là hư không và tứ đại. Trong phạm vị xa nguồn hiện nay, cảnh giới mà một chúng sanh hữu tình đang thọ nhận chính là Cảnh Giới Tướng. Như với Nhân đạo thì Cảnh Giới Tướng chính là thế giới con người đang sống bao gồm cả thân và các căn, còn tâm thuộc về Năng Kiến.
Vì có Năng Kiến mới có Cảnh Giới Tướng, nó là phần SỞ KIẾN của tướng Năng Kiến này, nên nói Y NĂNG KIẾN. Không có Năng Kiến thì không có Cảnh Giới Tướng nên nói “LÌA KIẾN thì không có Cảnh Giới”. Nói VỌNG HIỆN vì cảnh giới này không có thật thể, chỉ do tâm bất giác mà vọng thấy có cảnh giới. Như đi trong sa mạc, do ảo giác mà thấy có nước. Nước ấy vốn không thật có. Cái thấy do ảo giác ấy chỉ cho Năng Kiến. Nước chỉ cho Cảnh Giới Tướng. Đây là do mê Như Lai Tạng mà thấy dường như có thân căn và cảnh giới trước mắt, nên nói VỌNG HIỆN.
Quá trình biến khởi từ chân tâm ra cảnh giới chúng sanh được giải rõ trong kinh Lăng Nghiêm như sau : Khi ngài Phú Lâu Na hỏi “Tánh bản nhiên thanh tịnh vì sao bỗng nhiên sanh ra núi, sông, đất liền cùng các thứ hữu vi thứ lớp dời đổi… ?”. Trả lời từng chi tiết xong, Phật kết luận “… Đều do tánh rõ biết sáng suốt của giác minh. Nhơn rõ biết mà phát ra tướng. Từ cái vọng thấy mà sanh ra núi, sông, đất liền cùng các tướng hữu vi thứ lớp dời đổi …”. Nhơn rõ biết mà phát ra tướng thì cái tướng được thấy đầu tiên là SỞ MINH. Sở minh chính là MINH. Song gọi là sở minh vì cái minh ấy trở thành đối tượng mà ta nhận biết được.
Nghĩa là, GIÁC TÁNH vốn là minh, song TÁNH thì không rơi vào năng sở, nên cái MINH này không phải là đối tượng để ta thấy được. Do không tự tánh, không thể tự giữ nên có Nghiệp Tướng. Có nghiệp tức có sự chuyển biến mà sanh ra sở. Chính là SỞ MINH. Sở lập thì năng sanh,[22] chỉ cho Năng Kiến Tướng. Nói năng - sở vì trạng thái sáng chiếu thanh lương ấy vẫn là thứ mà ta cảm nhận được, không phải vì nó tách biệt thành chủ thể và đối tượng rõ rệt như ta thấy hiện nay. Chỉ thuần là một GIÁC MINH thanh tịnh. Đây là cảnh giới niết bàn của các vị Duyên giác. [23]
Khi sở minh được lập tức giác tánh bị che mờ. Giác tánh đã mờ thì minh ẩn mà vô minh hiện, nên xem trở lại đồng như mờ tối, chính là hư không. Hư không mờ tối không chủ thì động tịnh so nhau nên đối đãi mà thành dao động, sanh ra phong luân nắm giữ thế giới. Do sự dao động mà minh giác càng thêm cứng chắc nên có kim luân giữ gìn cõi nước. Phong đại và kim bảo cọ xát với nhau nên có lửa sáng. Ánh sáng của kim bảo thấu suốt trong ngoài như thủy tinh có hơi đượm ướt, thêm lửa liền biến thành chất lỏng nên có thủy đại trùm khắp mười phương v.v…[24] Đây là nói về quá trình biến khởi của hư không và tứ đại từ chân thể thanh tịnh. Từ hư không tứ đại ấy mới phát sanh núi, sông, đất liền và các pháp hữu vi. Tất cả đều thuộc Cảnh Giới Tướng.
SỞ MINH là phần sở kiến tế, khi ấy chưa có thế giới và thân căn của chúng sanh, nên nói “không nhất định phải có mắt mới thấy mà sự rõ biết của tâm thức cũng gọi là thấy”. Chưa có căn thân vì sao lập bày Năng Kiến? Vì sự rõ biết về cái sáng chiếu ấy không thể là nghe, ngửi hay nếm mà chỉ có thể là thấy, nên đây lập Năng Kiến và cũng chỉ lập Năng Kiến chứ không thể lập gì khác.
Vì có cảnh giới làm duyên lại sanh 6 tướng.
CẢNH GIỚI LÀM DUYÊN vì Năng Kiến là nhân. Nhân duyên đầy đủ thì trổ quả, nên nói SANH 6 TƯỚNG.
Thế nào là 6?
1. TRÍ TƯỚNG : Y nơi Cảnh Giới, tâm khởi phân biệt mà có yêu thích cùng chẳng yêu thích.
Nói TRÍ TƯỚNG thì nghĩa của nó nằm ở chữ TRÍ. Nên tuy nói “Tâm khởi phân biệt mà có yêu thích cùng chẳng yêu thích” nhưng phần chính chỉ nằm ở mấy chữ KHỞI PHÂN BIỆT mà thôi. Song vì sao lại có thêm yêu thích cùng chẳng yêu thích? Vì phải có phần YÊU THÍCH cùng CHẲNG YÊU THÍCH thì trí này mới thuộc bất giác, Thiền sư Tổ Nguyên nói “Khéo hay phân biệt mà chẳng sanh yêu ghét, gọi là huệ”.
Phân biệt mà sanh yêu ghét là do không biết cảnh giới trước mắt chỉ là tướng sở hiện của hiện thức. PHÂN BIỆT là thấy mình khác người, người khác người, vật khác vật v.v… nói chung, những cái thấy rơi vào nhị biên đều gọi là phân biệt. Vì thấy thứ nào cũng có tự tánh của riêng nó, nên sanh tâm yêu thích hay không yêu thích. Song bản chất của các pháp thì không tánh, chỉ do tự tâm bất giác vọng hiện. Pháp không có thật thể mà lại nảy sanh yêu ghét thì biết cái yêu ghét ấy là thứ để đánh giá TRÍ này bị vô minh chi phối. Vì thế không chỉ nói “Tâm khởi phân biệt” mà còn kèm theo “Có yêu thích cùng chẳng yêu thích”.
2. TƯƠNG TỤC TƯỚNG : Y nơi Trí Tướng mà sanh ra khổ vui, giác tâm khởi niệm tương ưng chẳng dứt.
Nghĩa chính của đoạn này nằm ở mấy từ “Giác tâm khởi niệm tương ưng chẳng dứt”. Y NƠI TRÍ TƯỚNG vì do phân biệt ta, người, tốt, xấu … mới sanh quan niệm, suy nghĩ, cảm giác ... niệm này nối tiếp niệm kia không dứt, kết thành một sự tương tục chặt chẽ. Cái tướng nối tiếp liên tục ấy gọi là TƯƠNG TỤC TƯỚNG. Vì ta hay hướng ra ngoài để ý đến cảnh nhiều hơn đến tâm nên không thấy được sự tương tục này.
Người tu thiền chiếu phá vọng tâm, sẽ thấy được sự tương tục không dứt này. Kinh Lăng Già phân nó này thành 11 thứ sâu kín. Do chấp pháp và chấp vào nhị biên phân biệt mà hình thành nên 11 loại này. Như chấp 5 ấm, chấp vô ngã, chấp nhân duyên v.v... mà có tương tục. Ngài Hiền Thủ thì phân thành 2 loại[25] là tha và tự như sau “Y nơi phân biệt trước, đối với cảnh yêu thích thì khởi sự vui thích, với cảnh chẳng yêu thích thì sanh đau khổ buồn phiền. Mỗi mỗi khởi niệm mà tương tục hiện tiền, đây là để rõ cái TỰ tương tục. Lại hay khởi hoặc làm nhuận thấm thêm nghiệp duy trì sanh tử, đây là cái THA tương tục”.
3. CHẤP THỦ TƯỚNG : Y nơi Tương Tục, duyên niệm cảnh giới, duy trì sự khổ vui, tâm khởi dính mắc. CHẤP là chẳng chịu xa lìa. THỦ là nắm giữ. Nghĩa của nó tương đương với từ DÍNH MẮC thêm nghĩa DUY TRÌ.
DUYÊN NIỆM CẢNH GIỚI là chú ý đến cảnh, rồi duyên lấy cảnh ấy mà sanh ra sự khổ, vui. KHỔ VUI là 2 trạng thái đối nghịch của tâm thức. Nóùi khổ vui nhưng là nói tất cả những trạng thái khởi lên trong tâm như tham, sân, thích thú, đau khổ v.v… Chúng đều biểu hiện cho việc duyên niệm cảnh giới. Do tâm dính mắc với cảnh mà sanh ra những trạng thái đó. Dính mắc còn biểu hiện ở việc không yên lòng với chính mình mà cứ hướng ra ngoài bám vào âm thanh, sắc tướng … như cần một cuốn sách để đọc, cần một ai đó để nói chuyện, không chịu được sự tĩnh lặng v.v… Ngược lại, không chịu được sự ồn náo mà chỉ thích chỗ tĩnh lặng cũng biểu hiển cho tâm dính mắc. Song dính mắc vào sự tĩnh lặng dù gì cũng gần đạo hơn dính mắc vào cảnh bên ngoài.
DÍNH MẮC có, là do sự tương tục của dòng vọng niệm làm nhân, cảnh giới trước mắt làm duyên mà thành sự. Sự tương tục của dòng vọng niệm chính là sự nối kết liên tục những định kiến và quan niệm của mỗi người về thế giới mình đang sống. Vì lấy những thứ đó làm nền tảng để đánh giá so đo vạn pháp, nên thuận thì sanh vui thích rồi muốn nắm giữ, nghịch thì sanh khổ lạc và muốn xa lìa. Cả 2 đều chỉ cho sự dính mắc, chính là Chấp Thủ Tướng.
4. KẾ DANH TỰ TƯỚNG : Y nơi vọng chấp, phân biệt tướng danh ngôn hư dối.
KẾ là tính toán so đo. PHÂN BIỆT nói đây mang nghĩa suy tính so đo nhiều hơn là sự phân biệt của Trí Tướng. Trí Tướng chỉ có phân biệt chứ chưa bị sự chi phối của Tương Tục Tướng và Chấp Thủ Tướng. Phân biệt của Trí Tướng khiến tâm tương tục không dứt, song nó chưa có tác dụng tạo nghiệp như sự phân biệt ở đây. Vì vậy Bồ tát ở các địa dưới, tuy còn trí phân biệt nhưng không bị dòng nghiệp lực chi phối tạo nghiệp như chúng sanh.
VỌNG CHẤP là chỉ cho tướng Chấp Thủ trên. Gọi là VỌNG vì nó chỉ là thứ hư dối, do huân tập lâu đời mà thành, không có thật thể. Song do sự dính mắc ấy mà trên cảnh sở thủ mới nảy sanh tâm suy lường rồi tạo nghiệp.
DANH NGÔN là chỉ cho danh và ngôn thuyết. Gọi là DANH nhưng trong đó gồm đủ cả danh và tướng. Bởi có tướng mới lập danh. NGÔN là ngôn thuyết vọng tưởng. Ba thứ danh, tướng và vọng tưởng này đi liền với nhau. Kinh Lăng Già nói “Tướng và danh theo nhau mà sanh các vọng tưởng”. Nói chúng HƯ DỐI vì tướng là từ tâm biến hiện không có thật thể. Danh và vọng tưởng là y nơi cái không thật thể ấy mà lập, nên cũng không có thật thể.
5. KHỞI NGHIỆP TƯỚNG : Y nơi danh tự, tìm danh thủ trước, tạo mọi thứ nghiệp
KHỞI NGHIỆP là khởi lên hành động, tạo tác. Nghĩa chính của nó nằm ở mấy từ TẠO MỌI THỨ NGHIỆP. Làm các việc thiện gọi là khởi nghiệp thiện. Làm các việc ác gọi là khởi nghiệp ác. Song đây đang nói về quá trình bất giác nên chỉ nói đến nghiệp ác chứ không nói đến nghiệp thiện. Nghiệp thiện thuộc về thủy giác. Giác được tướng diệt là giác phá được niệm ác không để nó thành hành động, chính là phá được tướng Khởi Nghiệp này. Không có tướng này thì cũng không có tướng Nghiệp Hệ Khổ sau.
Y DANH TỰ là do có tướng Kế Danh Tự trên mà sanh ra phần Khởi Nghiệp này. Bởi phân biệt đã mang màu sắc dính mắc của tướng Chấp Thủ, nên tìm danh thủ trước. TÌM DANH THỦ TRƯỚC là tìm tòi và ôm giữ những danh tướng mình thích. Một khi đã có tâm niệm như thế đối với những vật mình thích thì với những vật mình không thích, mình cũng sẽ có những hành động ngược lại. Thích thì tìm cách thu vào. Không thích thì tìm cách đẩy đi. Đây là cái nhân để tạo nghiệp. TẠO MỌI THỨ NGHIỆP là phát động thân và miệng tạo nên những hành động khiến muôn loài đau khổ. Phần Khởi Nghiệp này là cái nhân để có cái quả là khổ.
6. NGHIỆP HỆ KHỔ TƯỚNG : Y nghiệp mà thọ báo nên chẳng tự tại.
HỆ nghĩa là trói buộc. NGHIỆP HỆ KHỔ là nói đến sự trói buộc của nghiệp mà sanh ra khổ. Y NGHIỆP, là nương vào phần Khởi Nghiệp Tướng trên. Đã có nhân thì đủ duyên quả sẽ có, nên nói “Y nghiệp mà thọ báo”. THỌ BÁO là chỉ cho việc thọ nhận cái quả từ cái nhân đã gieo trước đó.
TỰ TẠI nghĩa là không vướng bận hay dính mắc, nó trái với từ HỆ. Người mà không có thứ gì trên đời làm họ nao núng hay vướng bận thì người ấy không thể khổ. CHẲNG TỰ TẠI là chỉ cho cái Nghiệp Hệ Khổ đó.
Người đời gây nghiệp vì nhiều lý do : Đầu tiên là do thiếu trí tuệ mà gây nghiệp, sau là do hoàn cảnh bức bách mà gây nghiệp. Hoàn cảnh bức bách là cái quả của một cái nhân bất thiện trước đó. Cái bức bách ấy chỉ cho cái CHẲNG TỰ TẠI thứ nhất. Đó là “thọ báo nên chẳng tự tại”. Từ cái bức bách ấy mà phải gây tạo thêm nhiều ác nghiệp, là cái CHẲNG TỰ TẠI thứ hai. Nghiệp một khi đã thành thói quen, lại bị lệ thuộc vào thói quen ấy, là cái CHẲNG TỰ TẠI thứ ba. Bị 2 dòng họ nghiệp và khổ ràng rịt chặt chẽ như thế, nên nói Nghiệp Hệ Khổ Tướng.
Giải thích xong 9 tướng bất giác. 9 tướng này, ngài Hiền Thủ nói 3 tế thuộc thức Alaida, còn 6 thô thuộc ý thức. Chỉ nêu bày Alaida và ý thức thông qua 3 tế và 6 thô mà không nói đến Matna vì : Vô minh làm động tâm thể thanh tịnh, khiến khởi hòa hợp là nghĩa của Alaida, không phải nghĩa của Matna, nên trong 3 tế không đề cập đến Matna. Còn Trí Tướng v.v… sanh khởi được là do tâm duyên với cảnh bên ngoài. Matna thì không duyên được với ngoại cảnh, nên trong phần 6 thô cũng không nói đến Matna. Song một khi Alaida khởi thì đã có thức Matna tương ưng, còn khi ý thức duyên với cảnh giới bên ngoài thì bên trong cũng phải có Matna làm chỗ y chỉ, ý thức mới sanh khởi được. Vì vậy, chỉ đề cập đến ý thức và Alaida mà không nói đến Matna. Tuy cách phân chia thấy có khác nhưng nghĩa chung giữa kinh và các luận thì không khác.
Phải biết vô minh hay sanh tất cả nhiễm pháp, vì tất cả nhiễm pháp đều là tướng bất giác. VÔ MINH là chỉ có cái bất giác đầu tiên sanh ra 9 tướng trong phần Bất Giác. NHIỄM PHÁP, chỉ cho 9 tướng trên, đều do bất giác mà có nên nói “Đều là tướng bất giác”.
Lại nữa, giác và bất giác có 2 tướng. Thế nào là 2? Một là tướng đồng, hai là tướng khác.
Đây là nêu bày thật tướng của bất giác và giác. TƯỚNG ĐỒNG và TƯỚNG KHÁC là muốn nói đến cái ‘không một cũng không khác’ giữa bất giác và giác.
1. Tướng đồng : Thí như mọi thứ đồ gốm đều đồng tánh tướng vi trần. Cũng vậy, mọi thứ huyễn nghiệp vô lậu vô minh đều đồng với tánh tướng chân như.
TƯỚNG ĐỒNG, là nói về cái KHÔNG KHÁC giữa giác và bất giác, chính là chỉ cho THỂ tánh chân như. Giác và bất giác tuy tướng trái nhau nhưng cùng chung cội nguồn, như sóng vỗ làm lật thuyền, nước lặng thì tải thuyền nhưng đều cùng chung một tánh ướt và tướng nước. MỌI THỨ ĐỒ GỐM là chỉ cho giác và bất giác. Tuy đồ gốm mỗi thứ hình tướng khác nhau nhưng đều từ đất làm ra. Đất, đây gọi vi trần. TÁNH TƯỚNG VI TRẦN là dụ cho TÁNH TƯỚNG CHÂN NHƯ.
Nghiệp vô lậu thuộc về giác. Nghiệp vô minh thuộc về bất giác. Gọi là huyễn nghiệp vì nghiệp vô lậu hay vô minh đều là thứ do huân tập mà có, không có thật thể. 2 tướng trái nhau ấy đều không rời bản thể chân như nên nói ĐỒNG.
Cho nên, trong Tudala – y nơi nghĩa ấy – nói “Tất cả chúng sanh xưa nay thường trụ nhập niết bàn”. Pháp bồ đề, chẳng phải là tướng có thể tu, chẳng phải là tướng có thể tạo, rốt ráo không chứng đắc, cũng không sắc tướng có thể thấy. Mà có sắc tướng để thấy chỉ là do huyễn nghiệp tùy nhiễm tạo ra, chẳng phải tánh của trí sắc là bất không, vì tướng của trí không thể thấy.
CHO NÊN là kết lại như sau. Y NƠI NGHĨA ẤY là y nơi tướng ĐỒNG vừa nói đó. Đây là dẫn kinh để nêu bày chỗ đồng của giác và bất giác. Niết bàn thuộc giác. Chúng sanh thuộc bất giác. Nói CHÚNG SANH là muốn nói đến sanh tử. Tướng sanh tử không phải là tướng niết bàn. Giác không phải là bất giác. Nhưng do cái ĐỒNG nói trên mà biết “TẤT CẢ CHÚNG SANH xưa nay thường trụ nhập niết bàn”. Thấy sanh tử khác niết bàn chẳng qua là do mê và ngộ mà có cái thấy như vậy. Mê nên thấy có sanh tử để ra, niết bàn để vào. Ngộ thì ngay sanh tử là niết bàn. Như ngủ rồi mộng mà thấy đi đây, đi kia, vui, buồn lẫn lộn. Tỉnh mộng thì biết trước sau vẫn trên giường.
TƯỚNG BỒ ĐỀ là giác tánh chân như. “Tướng bồ đề chẳng thể …” là nêu bày thực chất của pháp bồ đề. “Chẳng phải là tướng CÓ THỂ TU …” vì bồ đề là pháp sở liễu không phải là pháp sở tác. Như ngọn đèn chỉ khiến vật trong phòng tối hiện rõ, không phải ngọn đèn tạo được đồ vật. Bồ đề vốn sẵn đủ, chỉ do hoặc nhiễm mà không thể hiển. Tu chính là phương tiện trừ bỏ hoặc nhiễm để bồ đề hiển lộ, không phải bồ đề trước không nay nhờ tu mới có. Nên nói “Chẳng phải là tướng CÓ THỂ TẠO”.
KHÔNG CHỨNG ĐẮC bởi bồ đề không phải là pháp sở chứng. Nói chứng đắc là đứng ở địa vị mê mà nói. Ngay cái chứng ấy không có năng chứng cũng không có sở chứng. Không năng không sở thì không có cái thấy cũng không có cái bị thấy, nên nói “KHÔNG SẮC tướng có thể thấy”. Thực chất của bồ đề là thế, nên thứ gì còn là cái để ta thấy được thì thứ ấy đều do HUYỄN NHIỄM mà ra.
BẤT KHÔNG tạm hiểu là ‘có’. TÁNH CỦA TRÍ là chỉ cho tánh không. Cái không này không thuộc phạm trù KHÔNG và CÓ ở thế gian, không phải là cái bị thấy, nên nói “CHẲNG PHẢI tánh của trí là bất không”. Đây là nêu lý do để hiểu vì sao nói “Có sắc tướng để thấy, chỉ là do huyễn nghiệp tùy nhiễm tạo ra”. Đó là vì chân như Phật tánh hoàn toàn không có sắc tướng, nhưng lại có khả năng hiện sắc tướng. Cái hiện ấy là do căn nghiệp của chúng sanh mà ra, không phải do bản thân nó tự hiện. HUYỄN NGHIỆP TÙY NHIỄM là chỉ cho căn nghiệp của chúng sanh. Tùy mức độ của huyễn nhiễm mà thấy được ứng hay báo thân Phật.
2. Tướng khác : Như mọi thứ đồ gốm, mỗi thứ chẳng giống nhau. Cũng vậy, vô lậu vô minh tùy huyễn nhiễm mà có sai biệt, vì tánh sai biệt của huyễn nhiễm.
Đây là nói về cái KHÔNG MỘT giữa giác và bất giác, là nói về TƯỚNG của chúng. THỂ thì đồng mà TƯỚNG lại khác vì tùy duyên. Theo duyên tịnh, gọi là giác. Theo duyên nhiễm, gọi là bất giác. KHÁC là như thế. Như chén và bình đều từ đất mà ra, nhưng hình thức và công dụng của chén và bình hoàn toàn khác nhau. Nên nói “Mỗi thứ CHẲNG GIỐNG NHAU”.
CŨNG VẬY là, tướng của giác và bất giác cũng như tướng của mấy thứ đồ gốm đó. Thể đồng mà tướng khác. Cái khác này là do duyên. Huyễn nhiễm là tịnh thì có vô lượng tướng công đức vô lậu thanh tịnh. Huyễn nhiễm là bất tịnh thì có vô lượng pháp vô minh nhiễm ô. TÁNH sai biệt nói đây phải hiểu là SỰ sai biệt. Đại khái là, tướng của các pháp thấy có sai biệt, chẳng qua là do sự sai biệt của huyễn nhiễm tạo ra, không phải bản chất của pháp vốn sai biệt. Như cùng một khuôn mặt, nhưng tùy cách vẽ mà có hình tướng là ác quỉ hay mỹ nhân, không phải khuôn mặt vốn như thế.
Lại nữa, NHÂN DUYÊN SANH DIỆT là, chúng sanh nương tâm ý, ý thức mà chuyển. Nghĩa ấy thế nào? Vì y nơi thức Alaida nói có vô minh, bất giác mà khởi hay thấy, hay hiện, hay thủ cảnh giới, khởi niệm tương tục nên nói là ý. Ý này có 5 tên.
LẠI NỮA, là còn chuyện để nói tiếp. Đây muốn hiển bày NHÂN DUYÊN tạo ra sanh diệt. TÂM mà đi liền với Ý và Ý THỨC là chỉ cho thức tâm. Ba thứ đó họp lại mà sanh thì xuất hiện loài hữu tình tùy tịnh nhiễm mà có sai biệt, nên gọi loài hữu tình ấy là CHÚNG SANH. Có 3 thứ đó mới có chúng sanh lưu chuyển trong 5 đường, nên nói “Nương tâm, ý, ý thức mà chuyển”. CHUYỂN là nghĩa sanh khởi, lưu chuyển.
Vậy tâm, ý, ý thức chính là nhân duyên của sanh diệt. Căn cứ theo Ý NÀY CÓ 5 TÊN thì phải có phần Ý này thức Alaida mới xuất hiện, vậy TÂM nói đây là chỉ cho Như Lai Tạng. Không có phần tâm thể này thì ý và ý thức không nương đâu sanh khởi được, nên đây nêu nhân duyên của sanh diệt gồm đủ tâm, ý và ý thức.
NHÂN DUYÊN sanh diệt này có 2 : Đầu tiên là Ý nương TÂM mà khởi, thứ hai là nương nơi Ý ấy mà Ý THỨC sanh khởi. NGHĨA ẤY THẾ NÀO là để làm rõ quá trình chúng sanh nương tâm, ý, ý thức chuyển ra sao. Do bất giác nên tâm thành thức mà có tên là Alaida, vì vậy nói “Y NƠI THỨC Alaida nói có vô minh”. CÓ VÔ MINH là muốn nhấn mạnh đến phần bất giác trong Alaida. [26]
BẤT GIÁC MÀ KHỞI, là do vô minh mà tâm thể vọng động, chỉ cho phần Nghiệp Thức. HAY THẤY, là tâm thể vọng động rồi chuyển thành tướng Năng Kiến trên, gọi là chuyển thức. HAY HIỆN, là tâm thể ấy giờ thành cái hay hiện, chỉ cho Hiện Thức. THỦ LẤY CẢNH GIỚI, là thủ lấy cảnh mà Hiện Thức hiện ra, chỉ cho Trí Thức. Nói THỦ mà chỉ cho TRÍ THỨC, vì do phân biệt mới có cái thủ này. Cái phân biệt ấy chính là Trí Thức. Sanh phân biệt rồi KHỞI NIỆM TƯƠNG TỤC, gọi là Tương Tục Thức. 5 phần này là nền tảng để ý thức y đó mà khởi, nên luận gọi 5 thức này là Ý. Sau là liệt kê và nói rõ về hành tướng của mỗi thức.
Trên, từ bất giác phân thành 9 tướng, nhân quả trước sau rõ ràng. Đây gom thành 2 phần là ý và ý thức.
Thế nào là 5? Hỏi là để liệt kê 5 tên thuộc Ý.
1. NGHIỆP THỨC : Là lực vô minh bất giác tâm động.
ĐỘNG là nghĩa của nghiệp. Vì thế gọi phần tâm động khi chưa phân năng - sở này là Nghiệp thức. Nó là nền tảng đầu tiên để có tâm thức.
2. CHUYỂN THỨC : Y nơi tâm động mà thấy tướng.
TÂM ĐỘNG là chỉ cho Nghiệp Thức trên. Vì động mà có chuyển. CHUYỂN là chỉ cho sự thay đổi chuyển biến so với trạng thái cũ. CHUYỂN THỨC là chỉ cho trạng thái tâm không còn tĩnh lặng mà đã có sự sanh diệt. Chuyển thức có 2 : Một là do vô minh làm động khiến chân tánh chuyển thành cái năng thấy, chỉ cho tướng Năng Kiến trước. Hai làø phần chuyển thức thuộc 6 thức là ý thức, nhãn thức v.v… là do bị ngoại cảnh làm động mà chuyển thành hay thấy. Phần CHUYỂN THỨC nói đây chỉ cho Năng Kiến Tướng, và do tính chất CHUYỂN này làm nền tảng mà khi đủ duyên 6 thức cũng chuyển. Chuyển thức trong kinh Lăng Già dùng chỉ cho cả 7 thức.
3. HIỆN THỨC : Là hay hiện tất cả cảnh giới. Như gương sáng hiện các sắc tượng, hiện thức cũng như vậy. Tùy 5 trần nào ứng đến được thì liền hiện không có trước sau. Vì tất cả thời nhậm vận mà khởi, thường hiện tiền.
Hiện thức tức là thức Alaida. Alaida là chỗ chấp trì chủng tử của các pháp mà cũng là chỗ biến hiện ra các pháp. Chỉ nhấn mạnh về mặt biến hiện nên nói là hiện thức. Kinh Lăng Già nói “Cái huân và biến chẳng thể nghĩ bàn là nhân của hiện thức”. HUÂN là chân như không tánh niệm niệm bất giác huân thành vô minh. BIẾN là 3 tế đồng thời biến hiện. Cái BIẾN này là nhân để có hiện thức mà cũng là thứ đặt trưng biểu hiện cho khả năng HAY HIỆN của hiện thức, nên nói “HAY HIỆN tất cả cảnh giới”.
“NHƯ GƯƠNG SÁNG hiện các sắc tượng” là hình ảnh để ta hình dung về hiện thức. Sắc tượng nào nằm trong phạm vi của gương thì đồng thời hiện không có trước sau, nên nói “ỨNG ĐẾN ĐƯỢC thì liền hiện không có trước sau”. Đây là do thế lực của chủng tử trong Alaida đã thành thục mà nó biến hiện ra tướng khí thế gian là 4 đại và 5 TRẦN sắc, thanh, hương, vị, xúc. ỨNG ĐẾN ĐƯỢC là chỉ cho việc thành thục, đủ nhân đủ duyên đó. KHÔNG CÓ TRƯỚC SAU vì một khi đủ duyên để khởi thì đồng khởi như gương hiện hình tượng. Đây cũng nói lên chức năng của thức Alaida : Chỉ nhận thức hay phản ánh các sự vật xuất hiện trong nó như một tấm gương phản chiếu mọi hình tượng. Chỉ là sự nhận thức đơn thuần, không có sự chia chẽ, suy tư, tính toán, so đo. Theo hệ thống 8 thức, suy tư, tính toán, so đo thuộc về 7 chuyển thức.
Alaida không phải lúc có lúc không như ý thức mà từ vô thủy đến nay, nó sanh diệt tương tục thường hằng không gián đoạn, đủ duyên liền hiện nên nói “TẤT CẢ thời nhậm vận mà khởi, thường hiện tiền”.
4. TRÍ THỨC : Phân biệt pháp nhiễm tịnh.
Phân biệt là đặt trưng của thức. Phân biệt là nền tảng để ý thức nương đó so đo vạn pháp rồi tạo nghiệp.
5. TƯƠNG TỤC THỨC : Vì niệm tương ưng chẳng dứt. Trụ trì nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất. Lại hay thành thục quả báo khổ, vui … trong hiện tại và vị lai không hề sai lệch. Hay khiến hiện tại, bỗng nhiên nhớ lại những việc đã qua, bất giác lo nghĩ vọng tưởng những việc chưa đến.
NIỆM TƯƠNG ƯNG CHẲNG DỨT là hiển bày nghĩa của 2 chữ TƯƠNG TỤC : Niệm này nối tiếp niệm kia sanh diệt không dứt. Còn “TRỤ TRÌ niệm thiện ác …” trở đi là nói về công năng của thức tương tục.
TRỤ TRÌ là duy trì gìn giữ. “TRỤ TRÌ NGHIỆP thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất. LẠI HAY thành thục quả báo khổ, vui … trong hiện tại và vị lai không hề sai lệch” là cái tương tục thuộc công năng của Alaida, còn “HAY KHIẾN hiện tại bỗng dưng nhớ việc đã qua, bất giác lo nghĩ vọng tưởng những việc chưa đến” thuộc về ý thức.
Cho nên tam giới hư ngụy chỉ do tâm tạo. Lìa tâm thì không có cảnh giới 6 trần.
TAM GIỚI là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. HƯ NGỤY vì nó không có thật thể, chỉ do bất giác tâm động mà có năng kiến, sở kiến nên nói CHỈ DO TÂM TẠO.
DỤC GIỚI là sở kiến [27] của loại hữu tình có 2 thứ dục là ái dục và thực dục. SẮC GIỚI là sở kiến của người đạt được 4 thiền. VÔ SẮC GIỚI là sở kiến của người tu 4 không định là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cõi này không có thân thể, vật chất, chỉ còn tam thức trụ thiền định thâm diệu, nên gọi là vô sắc.
Tùy theo mức độ thanh tịnh hay ô nhiễm của tâm mà có căn thân và thế giới khác nhau nên nói CHỈ DO TÂM TẠO.
6 TRẦN là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. LÌA TÂM có thể hiểu theo 2 nghĩa :
1. Lìa Như Lai Tạng. Là muốn hiển bày 6 trần không có tự thể của riêng nó mà lấy Như Lai Tạng làm thể, nên nói “LÌA TÂM thì không có cảnh giới 6 trần”.
2. Lìa thức Alaida, tức không có cái bất giác đầu tiên để Nghiệp Tướng xuất hiện thì không có tướng thứ hai, thứ ba để có 6 trần, nên nói “LÌA TÂM thì không có cảnh giới 6 trần”.
Nghĩa ấy thế nào? Vì tất cả pháp đều từ tâm khởi, đều từ vọng niệm mà sanh. Tất cả phân biệt tức phân biệt tự tâm. Tâm chẳng thấy tâm, không tướng có thể được. Phải biết, tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương nơi vọng tâm vô minh của chúng sanh mà được tồn tại. Cho nên, tất cả pháp như bóng trong gương, không có cái thể để nắm bắt, duy tâm hư vọng. Vì tâm sanh thì mọi thứ pháp sanh, tâm diệt thì mọi thứ pháp diệt.
NGHĨA NÀY THẾ NÀO là để giải thích vì sao nói “Tam giới hư ngụy chỉ do tâm tạo”. Vì tất cả pháp đều từ vọng niệm mà có, đều là sở hiện của tự tâm theo 2 thế lực nhân duyên và phân biệt. Đã giải thích ở phần Tâm Chân Như.
PHÂN BIỆT đây, tế thì chỉ cho Trí Tướng, thô thì chỉ cho Kế Danh Tự Tướng. Vì vạn pháp không ngoài tâm mà có nên nói “PHÂN BIỆT tức phân biệt tự tâm”. Song tâm chẳng thể phân biệt chính tâm, như mắt chẳng thể thấy chính nó. Muốn thấy mắt, phải nhờ gương. Vậy con mắt thấy được đó chỉ là bóng của con mắt thật. Pháp mình thấy được cũng như con mắt trong gương kia, tuy là tự tâm nhưng chỉ là bóng dáng của tự tâm, nên nói TÂM CHẲNG THẤY TÂM. Là bóng thì không có thật thể, nên nói “KHÔNG TƯỚNG có thể được”.
“PHẢI BIẾT tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương nơi vọng tâm vô minh của chúng sanh mà được tồn tại” là hiển bày vạn pháp do đâu mà có, do đâu mà tồn tại. “CHO NÊN tất cả pháp như bóng trong gương, không có cái thể có thể nắm bắt” là kết luận rút được từ cái PHẢI BIẾT ấy. THỂ, là chỉ cho tự tánh của vạn pháp. Vạn pháp không tánh nên nói KHÔNG THỂ NẮM BẮT.
VÌ, là để hiểu vì sao nói DUY TÂM HƯ VỌNG. Tâm bất giác động niệm nên nói TÂM SANH. Do động niệm mà Cảnh Giới Tướng xuất hiện, vạn pháp từ đó mà lưu xuất, nên nói MỌI THỨ PHÁP SANH. Giác được niệm tối sơ làm tâm biến động, gọi là TÂM DIỆT. Niệm tối sơ đã giác thì Năng Kiến không. Không Năng Kiến thì không Cảnh Giới Tướng nên nói MỌI THỨ PHÁP DIỆT. Tâm là chỗ y chỉ qui nguyên của vạn pháp nên nói DUY TÂM. Không có tự thể, sanh diệt tùy duyên nên nói HƯ VỌNG.
Lại nữa, ý thức tức là tương tục thức. Do phàm phu dính mắc xoay vần sâu trong ngã và ngã sở, mỗi mỗi vọng chấp, theo sự phan duyên, phân biệt 6 trần, gọi là ý thức, cũng gọi là phân ly thức, cũng gọi là phân biệt sự thức. Thức ấy nương nơi phiền não kiến và ái mà tăng trưởng.
Đây là nói về ý thức. TỨC, là ngay đó mà không hẳn là đó. Ý thức thuộc thức tương tục nhưng không phải là toàn bộ thức tương tục ấy nên nói là TỨC.
THỨC này lấy Ý làm chỗ nương (sở y) để sanh khởi nên gọi là Ý THỨC. Gọi là PHÂN LY THỨC vì có khi ý thức hiện khởi độc lập với 5 thức ngoài, nhưng thường thì phân ra kết hợp với 5 thức ngoài duyên riêng 5 trần. Luận Thành Duy Thức nói “Không phải chỉ một việc nhận rõ cảnh của 5 thức đang duyên mà ý thức còn giúp cho 5 thức khởi. Lại, ý thức đối với cảnh sở duyên của 5 thức có thể nhận biết được rõ ràng khác với 5 thức. Do đó Thánh giáo nói ý thức gọi là có phân biệt còn 5 thức thì không”.[28] Thì biết, gọi PHÂN LY là do phân ra duyên với 5 trần của 5 thức, không phải vì ý thức qua mắt thành nhãn thức, qua tai thành nhĩ thức v.v... mà gọi là phân ly. Gọi là PHÂN BIỆT SỰ THỨC vì thức này hay phân biệt mọi sự tướng trong, ngoài, đến, đi v.v...
Duy Thức và Lăng Già đều phân THỨC thành 8 là Alaida, Matna, ý thức và 5 thức thuộc sắc căn, còn luận đây chỉ phân thành 2 là ý và ý thức. Phân như thế vì chủ ý của luận là thâu gọn các thứ để hành giả nhận được vấn đề dễ dàng. Do Alaida và Matna không bao giờ lìa nhau, chúng là chỗ y tựa của nhau nên có Alaida tất có Matna, mà Matna là sở y của ý thức, nên một khi ý thức khởi thì đủ cả Alaida và Matna. Vì vậy đây gom chung thành Ý cho gọn. Cũng như 6 thức ngoài, chỉ nêu bày ý thức mà không nêu bày 5 thức kia, vì Ý THỨC là đầu mối khởi hoặc tạo nghiệp, còn 5 thức ngoài thì việc của chúng chỉ là liễu biệt cảnh của riêng chúng và cảnh hiện thế nào, chúng chỉ nhận biết đúng thế ấy.[29] Tức không có phần phân biệt chấp thủ thuộc ý thức thì hiện lượng của 5 thức ngoài đồng với thức thứ 8. Chỉ vì mê trong khoảng sát na trôi vào đất ý, chớp mắt lầm qua mà không còn hiện lượng : Khi 5 thức ngoài cảm nhận tướng 5 trần thì ở một sát na đầu,[30] ý thức cùng duyên và cảm nhận tướng 5 trần như 5 thức ngoài kia. Song qua sát na sau, mọi thứ đều thuộc phạm vi của ý thức : nhận biết so đo, phân biệt và chấp giữ hết mọi cảnh giới. Ngoài khả năng nhận biết phân biệt cảnh hiện có trước mắt, ý thức còn khiến ta nhớ về cảnh đã qua, tưởng đến cảnh chưa tới, cả những thứ không có trên thế gian cũng tưởng ra được … [31] đều là công năng của ý thức. Công năng này là một phần của thức tương tục trên, nên nói “Ý THỨC tức là tương tục thức”.
Hỏi : Vì sao trên đã nói 9 tướng bất giác này, ngài Hiền Thủ phân 3 tế thuộc thức Alaida, còn 6 thô thuộc ý thức, mà đây thì Trí Tướng và Tương Tục Tướng lại phân qua ý?
Đáp : Đó là do phân theo thô và tế để phù hợp với hành tướng tu hành của mỗi địa vị trong quá trình ngược dòng hoàn tịnh. Phân 6 thô thuộc ý thức là theo kinh Lăng Già mà nói. Kinh Lăng Già gọi thức thứ 6 này là thức phân biệt (tức bao gồm luôn phần Trí Tướng). Đó là vì đối tượng tu hành của kinh là Bồ tát thuộc hàng Thập Địa. Hành tướng tu hành của các vị là tập trung phá bỏ phần trí tướng phân biệt tế nên không cần phân chi tiết. Còn luận đây thì nêu bày hành tướng tu hành của cả 4 hạng là phàm phu, Nhị thừa, Bồ tát và Bồ tát địa tận. Nhị thừa chỉ mới phá đuợc phần hiện hành của ý thức mà phần tế vẫn còn, chỉ Bồ tát hàng Thập Địa mới phá thẳng được phần tế của ý thức, nên phân Trí tướng và Tương Tục Tướng thuộc về ý mà không phân vào ý thức. Dù phân thế nào thì cũng không lỗi, vì tuy là 8 nhưng không lìa nhau mà có. Ta sẽ thấy cái hay của cách phân chia này trong phần chân vọng huân tập ở phần II của luận này.
Cách phân chia hệ thống THỨC giữa kinh và các luận tuy thấy có khác (nên cùng tên mà nghĩa có rộng hay hẹp hơn) nhưng nghĩa lý chung thì hoàn toàn không khác.
NGÃ hiểu nôm na là cái tôi, cái ta của mình đây. NGÃ SỞ là những cái của tôi. Thứ gì kèm theo 2 chữ CỦA TÔI thì biết thứ đó thuộc phần ngã sở.
PHÀM PHU nói đây là chỉ cho người còn vướng nặng ở cái tôi và của tôi. Đây là muốn nhấn mạnh đến phần ý thức còn trong địa vị mê, là của phàm phu không phải của thánh nhân. VƯỚNG NAËNG là ý nghĩa của câu “CHẤP THỦ dính mắc xoay vần sâu” trên. Nói SÂU vì phàm phu không nhận thức được sự huân tập tai hại của ý thức, nên thay vì tìm cách đối trị dừng bớt, lại để nó phát triển khiến sự huân tập ngày càng nhiều. Huân càng nhiều thì sự chấp ngã càng sâu. Huân rồi lại biến, biến rồi lại huân nên nói XOAY VẦN. Thứ gì xâm phạm đến TÔI hoặc những thứ CỦA TÔI mà sanh sự thì biết mình đang “Chấp thủ dính mắc xoay vần sâu trong ngã và ngã sở”. Đó là ta đang để cho phần ý thức này hiện khởi và làm chủ.
MỖI MỖI VỌNG CHẤP là đụng đâu chấp đó. “THEO SỰ PHAN DUYÊN phân biệt 6 trần” là, ý thức nương vào 2 thứ tương tục và trí thức mà NGOÀI thì bám vào cảnh khởi phân biệt so đo : Vạn pháp biến thành những tướng đối đãi, hòa hợp liên tục là do ý thức liễu tri nghĩa tướng ở quá khứ lấy đó làm căn cứ phán định các pháp trước mắt.[32] TRONG thì nghĩ về những cảnh đã qua, tính toán cho việc chưa tới và so đo hơn thua với việc hiện tại rồi khởi vui, buồn, tham, sân, thương, ghét ...[33]
Trong kinh Lăng Già, khi đức Phật nói niết bàn của Phật chính là do diệt ý thức mà có, ngài Đại Huệ đã hỏi “Chẳng phải dựng lập 8 thức sao?”. Phật trả lời “Dựng lập!”. Ngài Đại Huệ thưa “Nếu dựng lập vì sao chẳng nói lìa thức thứ 7 mà chỉ nói lìa ý thức?”. Phật trả lời “Vì kia làm nhân và kia phan duyên. Thức thứ 7 chẳng sanh …”. Nghĩa là, do mê mà toàn thể Như Lai Tạng thành thức, vọng khởi kiến phần mới có cái chấp ngã của thức thứ 7. Song lỗi lại không ở thức thứ 7 mà ở ý thức : Thức thứ 8 biến hiện ra 5 trần làm cảnh sở duyên cho ý thức. Ý thức nương đó khởi phân biệt, dẫn phát tập khí chứa trong Alaida. Do đó, thức thứ 7 chung khởi chấp ngã và ngã sở, suy lường so đo mà sanh sự tương tục xoay vần nối tiếp. Ngài Hàm Thị nói “Như biển tâm và sóng ý là do thức thứ 6 duyên với cảnh giới tự tâm hiện ra làm gió thổi mà có sanh diệt. Thức thứ 6 nếu diệt thì tâm ý tự dừng. Như biển cả không gió thì cảnh tượng đây được rỗng sáng vậy”. Lỗi đều từ ý thức nên Nhị thừa hay Đại thừa thì Phật cũng dạy phá bỏ phần ý thức mà thôi. Nhưng qua luận này thì hiểu, dù là quả vị giải thoát của Nhị thừa chăng nữa, chư vị cũng chỉ mới phá được phần hiện hành của ý thức. Phải tu Đại thừa mới phá luôn được phần tế. Do chỗ khác nhau này mà một bên thì thành khô thân diệt trí, một bên lại đầy đủ 4 trí, 3 thân : Thể, tướng và dụng tròn đầy.
Do cái nhìn về pháp có khác, nên hành tướng diệt ý thức của Nhị thừa là ngoài thì hạn chế các căn không cho tiếp xúc với 5 trần, trong thì phá bỏ sự sanh khởi của pháp trần. Như trường hợp Diệt Tận Định của các vị La Hán. Do hạn chế sự tiếp xúc với 5 trần, chỉ tập trung phá bỏ phần pháp trần nên các vị nhập được cái định tương đương với định của Bát Địa nói đây. Trong cái định ấy, do không có cảnh giới làm duyên nên Alaida và Matna không thể sanh khởi. Tuy cũng dẹp bỏ duyên như định vô tưởng của ngoại đạo, nhưng định của A La Hán có khác với định vô tưởng : Trong quá trình tu hành, thánh Nhị thừa có phần quán khổ, không, vô thường, vô ngã nên phá thêm được phần câu sanh ngã chấp thuộc Matna. Song do vẫn thấy có sanh tử để thoát, niết bàn để nhập, tức tâm chấp pháp vẫn còn, nên phần câu sanh pháp chấp thuộc Matna chưa hết, chỉ vì không duyên nên thấy trong lặng. Song khi xuất định đối duyên, các chủng tử ấy lại nẩy mầm, khiến các vị mất cái định trong tịnh. Đây là do chưa liễu tri được các pháp từ tâm sanh, vẫn cho pháp có thật tánh. Vì chấp pháp có thật tánh nên trí phân biệt chưa tan, đối với ngoại cảnh tâm chưa thể bình đẳng. Ngoại cảnh không bình đẳng thì không thể tránh được sự sanh khởi của tâm khi đối duyên tiếp cảnh. Vì lý do này mà xét ra chư vị lại không thể ngang với Bồ tát Bát Địa nói đây, động tịnh đều như nhau.
Với Đại thừa, biết “Các pháp từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh pháp không chỗ trụ” nên các vị trừ tâm, không trừ cảnh. Đối duyên xúc cảnh, bát phong thổi chẳng động là kim chỉ nam. Tức ở tất cả chỗ, tất cả thời làm sao chứng được cảnh giới hiện lượng của tự tâm, được vô ngại với tất cả pháp. Song trong kinh Lăng Già đức Phật vẫn khuyến cáo “Đại Bồ tát muốn biết hiện lượng của tự tâm … phải lìa chỗ ồn náo, những tập tục ngủ say, đầu hôm, giữa đêm và gần sáng thường phải giác ngộ”. Đó là vì sự sanh khởi của ý thức đối với cảnh sở duyên quá nhanh chóng, khó mà giữ được hiện lượng của tự tâm. Trong khi hiện lượng của tự tâm ở chỗ vắng lại dễ giác. Cho nên, Bồ tát thì động tịnh đều tu mà tịnh vẫn là yếu tố cần thiết cho việc tu hành. Quán các pháp là biến hiện của tự tâm thì phân biệt không sanh. Phân biệt không sanh thì thấy các pháp y như chính nó. Tác động qua lại như thế lâu xa thì đối cảnh vô tâm. Sanh tử và niết bàn cả 2 đều bình đẳng. Thật tánh các pháp sẽ hiển lộ hoàn toàn như bóng trong gương. Đây là quá trình tu hành của Bồ tát. Chẳng bỏ phương tiện mà chẳng chấp là thật pháp.
KIẾN là chỉ cho kiến hoặc bao gồm tất cả những mê hoặc về LÝ như ngã kiến, tà kiến. Ngày nay hay gọi là Nhân sinh quan và Thế giới quan. Những QUAN NIỆM rơi vào tứ cú có - không, một - khác đều gọi là KIẾN. Chỉ Quán quyển 5 nói “Tất cả mưu kế toan tính của hàng phàm phu chưa bước vào đường thánh đạo đều gọi là kiến”. ÁI là chỉ cho những mê hoặc về SỰ như tham, sân v.v… Qui Kính Nghi Thống Chân Ký Viết “Kiến là nói về kiến hoặc, bao gồm 88 kiết sử, chỉ ở ngôi vị kiến đạo mới dứt bỏ được. Ái là tu hoặc, bao gồm 81 phẩm, chỉ ở ngôi tu đạo mới dứt bỏ được”.
KIẾN là nền tảng để ÁI sanh trưởng, ÁI tăng trưởng thì KIẾN được củng cố, khiến sự chấp thủ và phân biệt yêu ghét càng nhiều, nên nói “NƯƠNG NƠI phiền não kiến và ái mà tăng trưởng”. Phiền não là từ chung chỉ cho kiến và ái.
Nương nơi sự huân tập của vô minh, thức khởi. Chẳng phải là chỗ phàm phu hay biết, cũng chẳng phải chỗ trí tuệ của Nhị thừa giác được. Y theo Bồ tát thì, từ sơ chánh tín phát tâm quán xét, nếu chứng được pháp thân thì biết được ít phần. Cho đến địa vị rốt ráo của Bồ tát cũng chẳng thể biết hết. Duy chỉ có Phật là thấu được tận cùng.
Đây hiển bày Duyên Khởi thậm thâm, là chỗ tối cực vi tế làm phát sanh thức tâm. Phàm phu không giác hoặc chỉ mới giác được niệm diệt nên “CHẲNG PHẢI là chỗ phàm phu hay biết”. Nhị thừa chỉ giác được niệm dị nên “CHẲNG PHẢI chỗ trí tuệ của Nhị thừa giác được”. Bồ tát đăng địa thì chứng được một niệm đồng chư Phật nên có thấu được chỗ tận cùng, nhưng qua nhất niệm ấy vẫn là Bồ tát giác tướng trụ. Tức chỉ mới được phần sâu chưa được phần rộng, như người trong tù có được một khoảng nhỏ nhìn thấu trời xanh, nhưng chưa thể thấy được toàn bộ, nên nói “Biết được ít phần”. Địa vị tận cùng của Bồ tát tuy giác được tướng sanh, song phải thể nhập hoàn toàn với pháp thân ấy, tức ở địa vị Phật, mới có thể biết hết, nên “CŨNG CHƯA thể biết hết”.
Vì sao? Tâm này từ xưa đến nay, tự tánh thanh tịnh mà có vô minh. Bị vô minh nhiễm, có tâm nhiễm ấy. Tuy có nhiễm tâm mà thường hằng bất biến. Nghĩa ấy duy chỉ có Phật mới biết. Đó là tâm tánh thường vô niệm nên gọi là bất biến. Vì chẳng đạt được nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng, hốt nhiên niệm khởi, gọi là vô minh.
VÌ SAO là để giải thích chỗ chỉ Phật mới biết đó. CHỈ PHẬT MỚI BIẾT vì ở địa vị Phật mới thấu được nó hoàn toàn. “TỰ TÁNH thanh tịnh mà có vô minh, bị vô minh nhiễm có nhiễm tâm ấy” là chỉ ra nguyên nhân có nhiễm tâm, là nghĩa tịnh mà thường nhiễm. “TUY CÓ NHIỄM TÂM mà thường hằng bất biến” là nói về nghĩa nhiễm mà thường tịnh. Nhiễm mà thường tịnh, tịnh mà thường nhiễm này chỉ có Phật mới biết.
Đây là chỗ Như Lai Tạng biến thành thức tạng, là chỗ duyên khởi tối sơ làm phát sanh nghiệp thức để có thế giới chúng sanh. Kinh Lăng Già nói cảnh giới này chỉ có Như Lai và các vị Bồ tát có trí tuệ thậm thâm mới thấu được. Trí tuệ thậm thâm là loại trí không do học hỏi thu gom bằng tri thức. Nó đòi hỏi đến phần tu hành trực chứng không qua trung gian suy luận.
“VÌ CHẲNG ĐẠT được nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng” là nguyên nhân có vô minh. HỐT NHIÊN là muốn hiển bày cái KHỞI ấy không có gốc chỉ do bất giác mà có.
Nhiễm tâm có 6 thứ.
6 thứ nhiễm tâm này, 3 cái đầu là ‘tương ưng’, 3 cái sau là ‘bất tương ưng’. Nói TƯƠNG ƯNG vì ngoại cảnh cùng với tâm có sự hòa hợp. Còn tâm cảnh chưa đến với nhau, gọi là BẤT TƯƠNG ƯNG. Các từ này được Luận chủ định nghĩa rõ ngay sau phần 6 nhiễm này.
Thế nào là 6?
1. CHẤP TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Địa vị giải thoát của Nhị thừa và Tín Tương Ưng xa lìa.
CHẤP là chỉ cho tướng Chấp Thủ và Kế Danh Tự ở phần Bất Giác.
ĐỊA VỊ GIẢI THOÁT của Nhị thừa là chỉ cho quả vị A La Hán và Bích Chi Phật. 2 quả vị này đã phá được hoặc phiền não là kiến và ái. Trụ trong cái định của quả vị ấy thì không còn 6 trần làm duyên để sanh khởi tướng Chấp Thủ và Kế Danh nên nói XA LÌA.
TÍN TƯƠNG ƯNG là quả vị cuối của Thập Tín bước sang Thập Trụ. Ngài Hiền Thủ nói “Bồ tát sơ phát tâm Trụ, tuy ‘hoặc’ vẫn còn nên chẳng chứng được ‘nhân không’, song Bồ tát ở địa vị này đối với ‘nhân không’ thật được tự tại”. Như vậy, Bồ tát Tín Tương Ưng tuy chưa được ngã không như các vị Nhị thừa vì ‘hoặc’ vẫn còn, nhưng không bị tướng Chấp Thủ và Kế Danh chi phối, nên cũng được xếp chung vào đây.
Tiếp duyên đối cảnh, không vì cái vui mà muốn lưu giữ, không vì cái khổ mà muốn xa lìa, không vì cái lợi của mình mà hại người, hại vật … là biểu hiện cho cái XA LÌA ấy. Đây là cái LÌA của Bồ tát. Nương cái LÌA này, phá tiếp phần nhiễm tương tục và phân biệt dưới.
2. BẤT ĐOẠN TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Tín Tương Ưng Địa dùng phương tiện tu học, dần dần có thể bỏ, đắc Tịnh Tâm Địa thì rốt ráo lìa.
BẤT ĐOẠN là không hề đứt đoạn, chỉ cho sự tương tục không dứt của Tương Tục Tướng. Dòng vọng niệm của mình là một dòng tương tục không hề có khoảng hở. TỊNH TÂM ĐỊA là quả vị Sơ Địa. Trải qua các vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng dùng các pháp chỉ, quán v.v... tu tập đến khi CHỨNG được pháp thân, gọi là ĐẮC TỊNH TÂM ĐỊA. Đắc Tịnh Tâm Địa thì cắt đứt được sự tương tục của dòng vọng niệm. Vậy theo luận đây, CHỨNG PHÁP THÂN không chỉ là cái chuẩn để đánh giá hạng vị tu hành, mà còn để biết sự tương tục của dòng vọng niệm đã có khoảng hở. Nói RỐT RÁO, vì trước đó chỉ do đè nén mà thấy có khoảng không, không phải đã lìa được cái nhiễm tương tục này, đến khi chứng được một niệm nhân - pháp đều không, dòng tương tục mới thật sự dứùt. Dứt, không có nghĩa là dòng vọng niệm đã hoàn toàn hết. Phải đến Bát Địa, dòng vọng niệm mới hết, vì lúc ấy trí phân biệt bị dẹp bỏ hoàn toàn. Nhân dứt thì duyên mới thật sự dứt. Vì thế trong phần 4 tướng giác trên, nhập Sơ địa rồi vẫn còn giác tướng tương tục.
Ngài Hiền Thủ nói “Từ Thập Trụ trở đi, tu phương tiện Tầm và Tư của Duy thức, cho đến Sơ Địa thì chứng được chân như viên mãn không có ba tánh.[34] Phân biệt pháp chấp chẳng thể hiện tiền, nên nói ‘Tịnh Tâm Địa rốt ráo lìa'”.
3. PHÂN BIỆT TRÍ TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Cụ Giới Địa lìa dần, cho đến Vô Tướng Phương Tiện Địa mới rốt ráo lìa. CỤ GIỚI ĐỊA là Nhị Địa. VÔ TƯỚNG PHƯƠNG TIỆN ĐỊA là Thất Địa. Pháp môn bất nhị mà nhà thiền hay đề cập đến chính là để phá thẳng vào phần ‘Phân biệt trí tương ưng nhiễm’ này. TRÍ nói đây là trí phân biệt nhiễm tịnh không phải là trí phân biệt mang màu sắc chấp thủ của phần Kế Danh Tự.
Từ Cụ Giới Địa cho đến Thất Địa vẫn còn dùng phương tiện để trừ sạch hiện tập nên nói LÌA DẦN. Tuy chưa được vô công dụng hạnh như ở Bát Địa, nhưng ở địa vị Thất Địa, cái giác thường hiện tiền, không còn bị phần nhiễm phân biệt chi phối, nên nói RỐT RÁO LÌA. Trong tất cả thời, tất cả chỗ mà dụng được cái giác để niệm niệm không phân biệt, phiền não không hiện hành, chính là ở địa vị này. Kinh Hoa Nghiêm nói “Bồ tát này thường siêng tu tập phương tiện huệ, khởi đạo thù thắng, an trụ bất động, không một niệm thôi nghỉ phế bỏ. Đi, đứng, nằm, ngồi, nhẫn đến lúc ngủ hay chiêm bao cũng chưa từng tương ưng với các chướng …”.
Tuy ở địa vị này, tất cả tâm tưởng đều dứt không còn khởi trở lại, nhưng kinh Lăng Già vẫn cho cái trí siêu tình ấy là trí lừa què. Chỉ khi vào được hạnh vô công dụng của Bát Địa mới được gọi là bậc tối thắng.
4. HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Sắc Tự Tại Địa có thể lìa. Do tâm thể bất giác vọng động mà hiện Năng Kiến và Cảnh Giới Tướng. Cái hiện cảnh giới ấy gọi là HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Cái hiện ấy do vô minh mà có, vô minh hết thì ‘hiện sắc’ cũng không, nên nói NHIỄM.
SẮC TỰ TẠI ĐỊA là chỉ cho địa vị Bát Địa, còn gọi là Bất Động Địa. Gọi là Bất Động vì trí vô phân biệt nhậm vận tương tục, tướng dụng phiền não không làm lay động được.[35] Kinh Hoa Nghiêm ví hạng Bất Động này như người vừa tỉnh mộng “Ví như có người trong giấc mơ thấy mình té trong sông lớn, vì muốn thoát nạn nên phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại dũng mãnh và đại phương tiện nên liền thức giấc. Khi đã thức giấc thì những việc làm trong mơ liền dứt”. Đại dũng mãnh và đại phương tiện chỉ cho ý chí và phương tiện tu hành mang tính dụng công từ Sơ Địa đến Thất Địa. Nhờ sức dụng công ấy mà hoàn tỉnh, tức nhập Bát Địa. Nhờ hoàn tỉnh mà biết tất cả chỉ là mộng mị. Sự dũng mãnh và đại phương tiện kia cũng là những việc làm trong mộng, tỉnh rồi liền không, nên nói ‘vô công dụng’.
CÓ THỂ LÌA vì đã phá được cái nhiễm hiện sắc ấy, nhận ra được tánh như huyễn của cảnh giới. Ngài Hàm Thị nói “Đệ Bát Địa thấy pháp vô ngã, giác tự tâm hiện tất cả cảnh giới thảy như mộng huyễn. Liền dùng tự giác chiếu liễu nhập như huyễn tam muội hiện tất cả thân như trăng đáy nước, bóng trong gương, như ý tự tại khắp các cõi Phật”. Địa này được 2 điều tự tại là hiện thân tướng và quốc độ nên gọi là SẮC TỰ TẠI. Song địa này vẫn còn bị 2 nhiễm dưới chi phối.
5. NĂNG KIẾN TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Tâm Tự Tại Địa có thể lìa.
Đây là chỉ cho Năng Kiến. Tâm Tự Tại Địa là Cửu Địa. Cửu Địa phá tiếp một phần câu sanh của sở tri, nên ngoài lực dụng có được khi nhập Bát địa, còn được 4 thứ trí vô ngại sau : 1/ Thông đạt tự tại về ngôn từ. 2/ Hiểu biết giáo pháp một cách không ngăn ngại. 3/ Hiểu biết về nghĩa không ngăn ngại. 4/ Biện tài vô ngại, thấu rõ mọi cơ nghi, khéo vì người nói pháp. Được 4 cái vô ngại này là do tâm đã được tự tại, không bị cái nhiễm NĂNG KIẾN TƯỚNG làm ngăn ngại, nên nói “TÂM TỰ TẠI ĐỊA có thể lìa”.
6. CĂN BẢN NGHIỆP BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Bồ tát địa tận nhập Như Lai Địa có thể lìa.
Đây là chỉ cho phần Nghiệp Tướng đầu tiên. Nó là nền tảng để các tướng nhiễm khác sanh khởi nên gọi là CĂN BẢN. Địa vị tận cùng của Bồ tát gọi là BỒ TÁT ĐỊA TẬN. Địa này, kim cang dụ định hiện tiền, dứt một lần 2 loại câu sanh sở tri vi tế và chủng tử phiền não chướng nhậm vận hằng khởi mà nhập biển quả Như Lai.
Nghĩa chẳng rõ được nhất pháp giới thì từ Tín Tương Ưng Địa quán xét, học, đoạn … nhập Tịnh Tâm Địa thì tùy phần được lìa, cho đến Như Lai Địa có thể lìa rốt ráo.
“NHẬP Tịnh Tâm Địa thì tùy phần được lìa” vì đã rõ được ít phần về nhất pháp giới. Trải qua 10 địa đến Như Lai Địa thì thấu suốt hoàn toàn nên nói LÌA RỐT RÁO. Lìa rốt ráo là lìa cái CHẲNG RÕ ấy. Sau là giải thích về nghĩa TƯƠNG ƯNG và BẤT TƯƠNG ƯNG ở phần 6 nhiễm trên.
Nghĩa tương ưng là, tâm niệm pháp khác y nơi nhiễm tịnh sai biệt mà tri tướng duyên tướng đồng.
Phần TƯƠNG ƯNG này là chỉ cho 3 nhiễm tâm đầu. Do tâm cảnh hòa hợp mà sanh 3 cái nhiễm này nên gọi 3 cái nhiễm này là TƯƠNG ƯNG NHIỄM.
Giải thích một cách chi tiết thì TÂM là chỉ cho tâm vương, gồm Alaida, Matna, ý thức và 5 thức thuộc sắc căn. NIỆM PHÁP là chỉ cho tâm sở niệm pháp, gồm 51 tâm sở. TÂM NIỆM PHÁP KHÁC vì tâm vương không phải là tâm sở. Tâm sở là loại tâm hệ thuộc vào tâm vương, phải nương tâm vương mới khởi được. Đối với cảnh sở duyên, nó có thể nhận được cả tướng riêng trong khi tâm vương chỉ nhận lấy tướng chung mà thôi. Khác là như thế.
NHIỄM TỊNH SAI BIỆT là chỉ cho cảnh bị phân biệt. Y NƠI NHIỄM TỊNH thì biết TRI TƯỚNG DUYÊN TƯỚNG ĐỒNG là đồng ở mặt nhiễm tịnh. Ngài Hiền Thủ giải thích “Tâm vương tri tịnh, tâm pháp cũng đồng. Tâm vương duyên nhiễm, tâm pháp cũng đồng. Tri tướng tức năng tri đồng. Duyên tướng tức sở duyên đồng”. Nghĩa là, vương và sở tuy khác nhau, nhưng khi chúng cùng duyên một cảnh mà chúng đồng nhiễm hay đồng tịnh thì gọi là TƯƠNG ƯNG.
Nghĩa bất tương ưng là, tâm bất giác thường không riêng khác, chẳng đồng về tri tướng duyên tướng.
Phần BẤT TƯƠNG ƯNG này chỉ cho 3 nhiễm sau. 3 nhiễm này là do tâm bất giác vọng động mà ra, không phải từ sự hòa hợp giữa tâm và cảnh mà có, nên nói “Tâm bất giác THƯỜNG KHÔNG RIÊNG KHÁC”. Với 3 BẤT TƯƠNG ƯNG, vương sở chưa phân thì không thể lập bày đồng khác, nên nói “CHẲNG ĐỒNG về tri tướng duyên tướng”.
Nghĩa nhiễm tâm là, còn gọi là phiền não ngại, vì hay làm chướng căn bản trí chân như.
Nhiễm tâm là chỉ 6 nhiễm trên. Do 6 nhiễm ấy mà có nhiễm tâm. PHIỀN NÃO NGẠI là tên khác của nhiễm tâm nên nói CÒN GỌI LÀ.
VÌ HAY … là để giải thích vì sao gọi là phiền não ngại, vì che chắn không cho căn bản trí hiển, nên gọi là NGẠI.
CĂN BẢN TRÍ CHÂN NHƯ là chỉ cho cái thể ‘như thật không’ nói trên. Gọi CĂN BẢN vì nó là tánh thể của tất cả pháp nhiễm tịnh. Cũng là căn bản của mọi loại trí nên gọi là CĂN BẢN TRÍ. Tâm không có 6 tướng nhiễm tâm ấy thì chứng được phần căn bản trí này.
Nghĩa vô minh là, còn gọi là trí ngại, vì hay làm chướng thế gian tự nhiên nghiệp trí.
VÔ MINH tức căn bản vô minh, là duyên làm chân thể thanh tịnh biến động. THẾ GIAN TỰ NHIÊN NGHIỆP TRÍ là chỉ cho trí Nhất thiết chủng của Phật. Trí này thông đạt được tổng tướng lẫn biệt tướng của tất cả pháp, lại biết được đạo pháp của tất cả chư Phật và nhân chủng của tất cả chúng sanh trong ba đời, có nghiệp dụng lợi lạc cho loài hàm thức chẳng thể nghĩ bàn. Đây thuộc về hậu đắc trí. Không phá được phần căn bản vô minh này thì không thể có được loại trí tuệ viên mãn như Phật nên nói HAY LÀM CHƯỚNG ...
Nghĩa ấy thế nào? Hỏi “Vì sao nói nhiễm tâm làm chướng căn bản trí, vô minh làm chướng thế gian nghiệp trí?”. Sau là giải thích.
Vì y nhiễm tâm, năng kiến năng hiện, vọng thủ cảnh giới, trái với tánh bình đẳng.
Đây là giải thích phần nhiễm tâm làm chướng căn bản trí. Trên nói “Tự tánh thanh tịnh mà có vô minh. Bị vô minh nhiễm, có tâm nhiễm ấy”. Từ cái nhiễm tâm ấy mà có năng kiến, năng hiện nên nói Y NHIỄM TÂM. Năng kiến, năng hiện là chỉ cho tướng Năng Kiến và Cảnh Giới Tướng trên. Do phân năng - sở mới sanh phân biệt, trái với tánh vốn không năng sở phân biệt, nên nói “TRÁI VỚI tánh bình đẳng”.
Vì tất cả pháp thường tĩnh lặng, không có tướng khởi. Vô minh bất giác, vọng cùng pháp trái, nên chẳng hay tùy thuận được với mọi loại trí thông suốt hết thảy cảnh giới thế gian.
Đây là giải thích vì sao chúng sanh không có, hay chỉ được từng phần cái trí tròn sáng với vô vàn diệu dụng của Phật. Chỉ vì tâm chúng sanh động mà không có được cái dụng chẳng thể nghĩ bàn ấy.
Giải thích phần NHÂN DUYÊN của sanh diệt xong. Sau là nói về TƯỚNG sanh diệt.
Lại nữa, TƯỚNG SANH DIỆT có 2. Thế nào là 2?
Một là thô vì cùng với tâm tương ưng. Hai là tế vì cùng với tâm bất tương ưng. Lại có thô trong thô là cảnh giới của phàm phu. Tế trong thô và thô trong tế là cảnh giới của Bồ tát. Tế trong tế là cảnh giới Phật. 2 loại sanh diệt ấy nương nơi sự huân tập của vô minh mà có. Đó là y nhân, y duyên. Y nhân là nghĩa bất giác. Y duyên là nghĩa cảnh giới vọng tạo.
Tướng sanh diệt có 2 là THÔ và TẾ. THÔ là chỉ cho 6 thô, TẾ là chỉ cho 3 tế, đều thuộc bất giác. 3 tế thuộc ‘bất tương ưng nhiễm’ nên nói “Tế vì cùng với tâm BẤT TƯƠNG ƯNG”. 6 thô là do sự hòa hợp giữa tâm và cảnh mà ra, nên nói “Vì cùng với tâm TƯƠNG ƯNG”.
Trong 6 thô, 4 tướng sau thô hơn 2 tướng đầu nên nói 4 tướng sau là THÔ. 4 tướng thô ấy đều thuộc 6 thô nên nói THÔ TRONG THÔ. Nhị thừa, Bồ tát mới phát tâm và phàm phu giác 4 tướng này nên nói “THÔ TRONG THÔ là cảnh giới của phàm phu”. Gọi cả Nhị thừa và Bồ tát mới phát tâm là phàm phu vì các vị chưa thấy được nhân Phật tánh như Bồ tát đăng địa.
Bồ tát đăng địa giác 4 tướng Tương Tục Tướng, Trí Tướng, Cảnh Giới Tướng và Năng Kiến Tướng. Tương Tục và Trí Tướng là 2 tướng đầu trong 6 thô, thuộc phần tế của 6 thô, nên nói TẾ TRONG THÔ. So với Nghiệp Tướng của 3 tế thì Cảnh Giới Tướng và Năng Kiến Tướng là thô, nên nói THÔ TRONG TẾ. Bồ tát từ Sơ Địa đến Thất Địa giác 2 tướng Trí và Tương Tục. Bồ tát từ Bát Địa trở lên giác 2 tướng Cảnh Giới và Năng Kiến, nên nói “Tế trong thô và thô trong tế là CẢNH GIỚI CỦA Bồ tát”.
TẾ TRONG TẾ là chỉ cho Nghiệp Tướng trong 3 tế. Bồ tát địa tận giác được phần Nghiệp Tướng, nhưng chỉ ở địa vị Phật mới thấu được toàn bộ cảnh giới lật mê làm ngộ này, nên nói “Tế trong tế là CẢNH GIỚI CỦA PHẬT”. Vì thế, chứng được Phật nhân thì tiêu 9 tướng không 3 tánh, nhưng viên mãn quả Phật lại đủ cả 4 trí lẫn 3 thân.
Do chân như không tánh, bất giác huân thành vô minh mà sanh 3 tế, nên nói “Y NƠI sự huân tập vô minh mà có”. Sanh 3 tế rồi, lại lấy cái tế thứ ba là Cảnh Giới Tướng làm duyên, tiếp tục sanh khởi 6 thô nên nói Y NHÂN, Y DUYÊN. NHÂN là chỉ cho tướng bất giác đầu tiên tức căn bản vô minh, DUYÊN là chỉ cho Cảnh Giới Tướng, nên nói “Y NHÂN là nghĩa bất giác, Y DUYÊN là nghĩa cảnh giới vọng tạo”. Cảnh giới vọng tạo là chỉ cho Cảnh Giới Tướng. Cảnh giới này không thật nên nói VỌNG TẠO.
Nếu nhân diệt thì duyên diệt. Nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt. Duyên diệt nên tâm tương ưng diệt.
Do cái nhân là bất giác mới có 3 tế, nếu bất giác diệt thì 3 tế không còn, trong đó có Cảnh Giới Tướng, nên nói “NHÂN DIỆT thì duyên diệt”. 3 tế thuộc bất tương ưng nên nói “NHÂN DIỆT nên tâm bất tương ưng diệt”. Cảnh Giới Tướng diệt thì không có duyên để sanh khởi 3 thô thuộc tâm tương ưng, nên nói “DUYÊN DIỆT nên tâm bất tương ưng diệt” .
Như vậy 6 nhiễm chỉ thật sự hết khi căn bản vô minh bị phá. Nói vậy không có nghĩa, tu thì hành giả phải phá thẳng vào phần ‘căn bản vô minh’ này. Muốn cũng không được. Vì nó thuộc phần quá tế. Muốn phá được cái tế này thì trước phải phá bớt những cái thô ngoài, như muốn thấy lõi bắp thì phải lột bỏ mấy lớp vỏ ngoài trước. Điều này được hiển rõ trong quá trình ngược dòng hoàn tịnh, thủy giác có đến 4 tướng, 6 nhiễm cũng phải trừ dần từ thô đến tế. Đây nói NHÂN DIỆT THÌ DUYÊN DIỆT là để hiểu, dù tương ưng nhiễm đã phá mà cội gốc vô minh chưa phá thì cũng chưa xong. Uẩn - xứ - giới đã phá mà vô minh chưa hết thì chưa phải là niết bàn rốt ráo. Chỉ khi phá được hoàn toàn phần căn bản vô minh thì nhiễm tâm mới thật sự dứt. Diệt Tận Định của A La Hán chỉ mới là hóa thành chưa phải bảo sở cũng vì duyên diệt mà nhân chưa diệt. Chỉ khi nhân diệt thì duyên mới thật sự diệt. Chỉ là duyên diệt thì nhân chưa diệt. Vì thế không nên lưu giữ tư tưởng “Hành diệt thì thức diệt”.
Hỏi : Nếu tâm diệt làm sao tương tục? Nếu tương tục vì sao nói rốt ráo diệt?
TÂM DIỆT là chỉ cho tâm tương ưng lẫn bất tương ưng. TƯƠNG TỤC là chỉ cho sự nối tiếp sau khi đã diệt hết 6 loại nhiễm tâm. Đại khái là, người nghe do quen với tư tưởng TƯỚNG và THỂ là một, nên khi nghe tâm diệt thì thắc mắc rằng ‘Nếu tâm đã diệt thì trí và dụng của Phật là gì? Nếu trí và dụng của Phật còn, chúng sanh vẫn có chỗ y chỉ để tương tục thì sao lại nói là rốt ráo diệt?’. Sau là giải thích.
Đáp : Nói diệt, chỉ là tướng của tâm diệt, chẳng phải thể của tâm diệt. Như gió nương nước mà có tướng động. Nếu nước diệt thì tướng gió đoạn dứt không có chỗ y chỉ. Vì nước chẳng diệt, tướng gió tương tục. Chỉ là gió diệt mà tướng động diệt theo, chẳng phải nước diệt. Vô minh cũng vậy, nương nơi thể của tâm mà động. Nếu thể của tâm diệt thì chúng sanh đoạn dứt, không có chỗ y chỉ. Vì thể chẳng diệt mà tâm được tương tục. Chỉ là si diệt nên tướng của tâm diệt theo, chẳng phải tâm trí diệt.
Trên đã phân rõ tâm chúng sanh có 2 phần là THỂ không sanh diệt và TƯỚNG thì sanh diệt. Đây nói DIỆT, chỉ là tướng của tâm diệt, không phải là thể của tâm diệt. Tướng ô nhiễm diệt mà thể tánh vô vàn công đức không diệt nên không rơi vào đoạn diệt mà hiển bày vô lượng trí, vô lượng dụng. Nói RỐT RÁO DIỆT là diệt hết tướng ô nhiễm của tâm, không phải diệt cái thể của tâm. Ô nhiễm hết thì tâm diệu giác hiển bày, như bụi hết thì mặt gương lộ rõ.
Đưa ra ví dụ gió và nước đây là nhằm để người hiểu TƯỚNG không lìa THỂ nhưng TƯỚNG không phải là THỂ.
Gió là chỉ cho vô minh bất giác. Biển nước chỉ cho chân thể thường trụ. Gió vô minh tác động vào biển nước chân thể ấy khiến nó thành đủ thứ hình tướng nhấp nhô, gọi là sóng. Nếu không có cái chân thể ấy thì gió vô minh nhiều bao nhiêu, sóng cũng không thể có. Nghĩa là, chúng sanh lưu chuyển biến dạng qua 6 đường là do vô minh, nhưng phải có sẵn cái chân thể thường trụ làm nền tảng thì vô minh ấy mới có chỗ tác động mà có biển sóng trong 6 đường. Không có biển nước ấy thì vô minh không nương đâu mà tạo được 2 tướng thô tế trên, chúng sanh cũng không nương đâu mà lưu chuyển. Giờ nói DIỆT không phải là diệt biển nước chân thể mà là diệt vô minh. Gió vô minh diệt thì biển sóng dừng. Biển sóng dừng thì ngay đó là biển nước. Nhiễm ô hết thì ngay chỗ hết ấy là chân như thường trụ đầy đủ vô lượng tướng công đức thanh tịnh.
SI là chỉ cho vô minh. Nói TRÍ là do đối với SI mà nói. Nói TÂM là đối với TƯỚNG CỦA TÂM mà nói. Diệt là diệt SI và TƯỚNG CỦA TÂM không phải là diệt TRÍ và TÂM nên nói “Chẳng phải TÂM TRÍ diệt”. Đại Thừa Khởi Tín Luận Hết phần I Chú thích:
[1] 6 vị còn lại là Long Thọ, Đỗ Thuận, Trí Nghiễm, Pháp Tạng, Trừng Quán, Tông Mật.
[2] Lời của ngài Hám Sơn.
[3] Kinh Hoa Nghiêm.
[4] ‘Kho vô lượng công đức’ đây có vị cho nó thuộc về ‘Bậc như thật tu hành’. Song ‘Bậc như thật tu hành’ có đến 10 địa. Công đức theo đó mà bị hạn cuộc khi nhiễm chưa hoàn tịnh hoàn toàn. Nên đây giải thích ‘kho vô lượng công đức’ thuộc phần ‘pháp tánh chân như’.
[5] Phần này sẽ được khai triển rộng trong phần Tu Hành Tín Tâm.
[6] Lời của ngài Hám Sơn.
[7] Cũng là dụng mà dụng của nghiệp lực, không phải dụng chân như.
[8] Đều được khai triển rộng ở phần Thập Địa sau.
[9] Luận Thành Duy Thức. Bản dịch của H.T Thiện Siêu. Phần ghi chú.
[10] Thành Duy Thức Luận.
[11] Nên cái định của các vị có tên là “Diệt thọ tưởng định”. Thọ và tưởng thuộc về hành. Phần chân thức không có duyên để khởi thành tưởng như không, nhưng không phải không. Rất nhiều người đã lập luận rằng “Hành không thì thức không”. Lập luận như vậy là trái với tinh thần NHÂN QUẢ của nhà Phật. Trong điều kiện không gian và thời gian thứ lớp rõ ràng thế này thì NHÂN diệt QUẢ mới diệt, chứ QUẢ diệt chưa chắc NHÂN đã diệt. Như đốn gốc thì phần cây lá chắc chắn chết theo. Nhưng chỉ đốn phần cây lá thì chưa chắc gốc rễ đã chết. THỨC không thì chắc chắc HÀNH không, nhưng HÀNH không thì THỨC chưa hẳn không. Cho nên, trong kinh Trung Bộ, với vòng hoàn diệt khi nào Phật cũng nói “Vô minh diệt nên thức diệt, thức diệt nên hành diệt …”. Không có bài pháp nào là “Hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên vô minh diệt …” cả.
[12] Gọi là tế vì so với cái thô ở đây. Còn luận đây đều gọi 2 tướng TRÍ và KẾ này là phân biệt thô. Để phân biệt, phần này có thêm tướng CHẤP TRƯỚC. Cái thấy “Có sanh tử đáng lìa, niết bàn đáng nhập” của Nhị thừa là biểu hiện cho phần Trí Tướng này.
[13] Tương tục này, kinh Lăng Già phân thành 11 loại, thuộc sở tri chướng.
[14] Sở giác là “chỗ bị giác” tức chỉ cho tướng trụ, tướng dị, tướng diệt. Năng giác chính là giác.
[15] Lời của ngài Hiền Thủ.
[16] Vì thế, Trung Quán Luận Phá Nhân Duyên, Nhân Quả để hiển tinh thần Duyên Khởi giữa Nhân và Duyên, giữa Nhân và Quả.
[17] Mượn công đức thiện căn làm lương thực giúp mình đạt thánh quả gọi là TƯ LƯƠNG. Tư lương này có 2 : Phúc đức tư lương và Trí đức tư lương, tương đương với phước huệ song tu. Phương tiện để đạt được những thiện căn đó gọi là GIA HẠNH. Không gọi phương tiện mà gọi là gia hạnh vì những phương tiện ấy chưa phải là phương tiện thiện xảo của Phật quả.
[18] Giác tam muội : là loại thiền định giúp người đạt được quả Phật.
[19] DIỆU PHÁP nói trên là chỉ cho giáo pháp của Như Lai, thuộc phần Tục đế. DIỆU PHÁP THÂM SÂU này là chỉ cho việc chứng ngộ bản tâm, thuộc Đệ nhất nghĩa đế.
[20] Tích ngài Văn Thù Sư Lợi hóa thân thành người đàn bà bụng mang dạ chửa, cùng 2 con nhỏ và chú chó đến xin ăn tại một đàn tràng bố thí nọ, giúp vị Hòa thượng phá đi tâm phân biệt trong việc bố thí.
[21] Do tính chất này của bản giác mà chư Phật Tổ đã dạy người bất động với ngoại cảnh, để thuận dần với tâm chân thật của mình.
[22] Kinh Lăng Nghiêm nói “Giác không phải sở minh. Nhơn minh lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng của ông”. Sở là sở minh. Vọng năng là chỉ cho Năng Kiến. Nói vậy, in tuồng như năng trước sở sau. Thật ra là muốn nhấn mạnh sở minh là nhân để biết vọng năng đã xuất hiện, như y Năng Kiến mà có Cảnh Giới Tướng vậy.
[23] Kinh Lăng Nghiêm – Ma sự thuộc thức ấm
[24] Thủ Lăng Nghiêm, thiền sư Hàm Thị trực giải.
[25] Kinh Lăng Già cũng phân thành 2 loại : Một là sự tương tục của dòng vọng niệm. Một là sự tương tục của sanh tử.
[26] Alaida có 2 phần là giác và bất giác.
[27] Sở kiến : Chỉ cho Cảnh Giới Tướng
[28] Thành Duy Thức Luận – Bản dịch của H.T Thiện Siêu, trang 322.
[29] Duy Thức Học gọi loại cảnh được nhận biết y như chính nó này là TÁNH CẢNH, là loại cảnh không bị ý thức làm biến dạng thành đẹp, xấu, vui, buồn hay biến thành những vật bị đóng khung bởi sự so sánh. Loại tánh cảnh này được gọi là HỮU CHẤT TÁNH CẢNH. Còn một loại tánh cảnh nữa là VÔ CHẤT TÁNH CẢNH, chỉ cho thật tánh chân như.
[30] Đây là khoảnh khắc mà cái thấy chưa bị trí phân biệt chi phối. Sát na đầu này là chỗ hành giả tu thiền cần trực nhận, rồi y cứ đó mà tu để bỏ dần trí phân biệt khi đối duyên xúc cảnh. Cảnh được trực nhận ngay sát na đầu ấy chính là loại HỮU CHẤT TÁNH CẢNH nói trên.
[31] Loại phim khoa học giả tưởng hiện nay là một điển hình. Những cảnh thuộc nhớ và tưởng được nói đây, Duy Thức gọi chung là “Độc ảnh cảnh”.
[32] Như nhìn anh A rồi khởi lên ý niệm “Anh A mập ra”. Có niệm “mập” ấy là do lấy cái “ốm” của anh A trước đây làm nền tảng để so sánh. Đây là chỗ mà kinh nói “Thấy biết dựa trên thấy biết là gốc của vô minh”.
[33] Bất cứ những gì hiện lên trong tâm, biết mà buông là đang phá dần vào phần ý thức này.
[34] 3 tánh : biến kế, y tha và viên thành.
[35] Thành Duy Thức Luận.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.116.85.12 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.