Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Nhập nhân quả thắng tướng thắng ngữ 4
Chương 1 : Nhân quả vị
Luận nói : Như vậy là đã nói xong về ngộ nhập tướng sở tri, còn nhân quả của sự ngộ nhấp ấy làm sao thấy được ? Do 6 Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhãn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ. Vì sao do 6 Ba-la-mật được nhập duy thức ? Lại nữa vì sao 6 Ba-la-mật được thành quả của sự ngộ nhập ấy ? Bồ-tát này không tham đắm phúc báo, không phá giới, khổ không nao núng, tu đạo không biếng trễ, không tạo nhân các chướng ngại này nên tâm được chuyên nhất, tức có thể đúng đắn chọn lọc các pháp nên được nhập duy thức. Bồ-tát dựa vào 6 Ba-la-mật nhập duy thức rồi, lần lượt thanh tịnh, thâu nhiếp 6 Ba-la-mật sâu xa trong tâm. Vì vậy cho nên trong đó dù rời 6 Ba-la-mật mà hiện khởi phương tiện, do hiểu đúng nói đúng nên khởi tùy hỷ yêu thích, tương ưng huân tu mọi thời không gián đoạn, thì Ba-la-mật liền được viên mãn.
Giải thích : Nếu nhập duy thức rồi, tâm thanh tịnh Ba-la-mật sâu xa liền được tương ưng hiện hành. Cùng hiện hành tương ưng này nên gọi là hiện hành tương ưng. Hiểu đúng nói đùng nghĩa là mọi nói năng đều tương ưng với 6 Ba-la-mật, trong chính thuyết sâu xa khởi tâm tin hiểu. Khởi ý yêu thích, nghĩa là tháy yêu thích công đức trong các Ba-la-mật. Khởi ý nguyện muốn được, nghĩa là do Phật được đến tịnh tâm đệ nhất bỉ ngạn này, cho nên ta và tất cả chúng sinh cũng sẽ được. Vì vậy phát tam nguyện được. Đây là bao gồm các Ba-la-mật. Tâm thanh tịnh sâu xa có những tướng trạng gì. Tiếp theo đây là kệ văn hiển thị tướng này.
Luận nói : Ở đây có kệ như sau :
Viên mãn pháp bạch tịnh,
Và được nhẫn mau chóng.
Bồ-tát do tự thừa,
Sâu rộng trong chính thuyết.
Giác tri chỉ phân biệt,
Được vô phân biệt trí.
Lạc dục tín giải tịnh,
Gọi là thanh tịnh ý.
Trước và pháp lưu y,
Đều được thấy chư Phật.
Đã biết gần Bồ-đề,
Được Bồ-đề không khó.
Giải thích : Trong đây bắt dầu từ tín hành địa, khéo tập hợp hành trang tư lương. Viên mãn pháp bạch tịnh và được nhẫn nhanh chóng, nghĩa là nhẫn có 3 phẩm là nhuyến, trung và thượng. Trong đây là trụ ở tối thượng nhẫn nên nói là nhanh chóng. Tâm này do sở duyên nên được thanh tịnh. Nay sẽ nói rõ. Sở dĩ gọi là Đại thừa vì do giáo thuyết sâu xa rộng lớn, tức là Bồ-tát tự thừa. Trong này nói sâu xa tức là nói pháp vô ngã. Rộng lớn, nghĩa là như hư không, khí, v.v… Tam-ma-đề như chỗ tư duy thanh tịnh. Nay sẽ nói rõ. Do biết tất cả pháp chỉ là phân biệt, nên nay sẽ nói rõ cái tướng của tịnh tâm. Nói “Trước” là trước khi tịnh tâm. Và “đây” là trong khi tịnh tâm. “Được thấy chư Phât”, đó là tướng. Pháp lưu, nghĩa là khi trụ định tâm. Nay sẽ nói rõ. Cái định tâm này, lợi ích khi trụ định tâm là thấy gần Bồ-đề. Bởi được cái phương tiện có thể được này nên được là không khó.
Luận nói : Các kệ này nói chung là hiển thị tịnh tâm có 7 tướng : 1.tư lương, 2.nhẫn, 3.sở duyên, 4.tư duy, 5.tự thể, 6.thắng tướng, 7.lợi ích, như trong kệ tuần tự nói từng câu.
Giải thích : Các kệ này hiển thị tịnh tâm. Có tư lương như thế, nhẫn như thế, phan duyên như thế, tư duy như thế, thể tính như thế, tướng biểu hiện như thế, lợi ích như thế. Như kệ hiển thị tức là thành lập cái thể của tịnh tâm.
Chương 2 : Thành lập 6 số
Luận nói : Vì sao chỉ có 6 Ba-la-mật ? Vì thành lập đối trị các chướng ngại. Vì sinh khởi trụ xứ tất cả Phật pháp. Vì tùy thuận thành thục tất cả chúng sinh. Đối trị không phát khởi nhân duyên nên lập thí, giới 2 Ba-la-mật. Không phát khởi nhân duyên có 2 là đắm trước phúc báo và đắm trước nhà cửa. Đối trị phát khởi nhân duyên thoái chuyển nên lập nhẫn, tiến 2 Ba-la-mật. Nhân duyên thoái chuyển có 2 là trong sinh tử, chúng sinh trái phạm sinh khổ, trong việc tu thiện thời gian lâu mà mệt mỏi. Đối trị sự phát khởi nhân duyên là hoại mất sự không thoái chuyển nên lập định, trí 2 Ba-la-mật. Nhân duyên hoại mất có 2 là tán loạn và ác trí. Đối trị các chướng ngại này nên lập 6 số.
Giải thích : Trong nhân duyên hoại mất, ác trí là điên đảo chấp thủ cho nên như các ngoại đạo bởi ác trí thành ra có chỗ hoại mất. Ngoài ra thành lập tán loạn v.v… các chướng ngại. Nghĩa đối trị đều có thể biết được.
Luận nói : Bốn Ba-la-mật trước là nhân duyên không tán loạn cho nên một Ba-la-mật không tán loạn thành tựu do y chỉ không tán loạn, được chính giác đúng lý thật nghĩa các pháp, nên tất cả Phật pháp được sinh khởi. Là nơi sinh khởi tất cả Phật pháp như thế nên thành lập 6 số.
Giải thích : Chỗ trụ của tất cả Phật pháp, nghĩa là tất cả Phật pháp lấy đây làm nhân thành lập. Thứ hai 6 số nhân duyên Ba-la-mật, chì 6 không tăng. Do y chỉ không tán loạn nên được chính giác đúng lý thật nghĩa các pháp, nghĩa là do y chỉ Thiền Ba-la-mật nên Bát-nhã Ba-la-mật được hiểu rõ như thật các nghĩa. Ngoài ra có thể biết nghĩa các câu khác.
Luận nói : Do Thí Ba-la-mật nên nhiếp thụ chúng sinh. Do Giới Ba-la-mật nên không tổn hại chúng sinh. Do Nhẫn Ba-la-mật nên có thể chịu đựng sự tổn hại. Do Tinh tiến Ba-la-mật nên có thể làm những việc phải làm. Do các nhân duyên tiếp thụ này nên khiến các chúng sinh thành thục được điều phục. Nếu chúng chưa được tâm vắng lặng thì khiến được Tam-ma-đề. Người tâm được vắng lặng rồi, khiến được giải thoát. Trong khi giáo hóa liền được thành thục. Trụ nơi thành thục chúng sinh như vậy nên thành lập 6 số. Nên biết như vậy.
Giải thích : Thứ ba, trong nhân duyên thành lập 6 số, tất cả chúng sinh giáo hóa tùy thuận, nghĩa là trong việc giáo hóa thành thục tất cả chúng sinh, tùy thuận tương ưng do đây được thành, cho nên chỉ thành lập có 6 khiến xuất ly. Đối với kẻ tâm chưa vắng lặng thì dùng Thiền Ba-la-mật khiến tâm được vắng lặng. Kẻ đã vắng lặng thì dùng Bát-nhã Ba-la-mật khiến được giải thoát nên được thành thục. Trong khi giáo hóa, nghĩa là trong lúc dạy dỗ.
Chương 3 : Tướng
Luận nói : Làm sao thấy tướng của 6 Ba-la-mật này ? Vì nó có 6 thứ vượt trội : Một, y chỉ vượt trội, vì Bồ-đề tâm là y chỉ. Hai, sự vượt trội, vì đầy đủ các việc tu hành. Ba, việc làm vượt trội, vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh. Bốn, phương tiện khéo léo vượt trội, vì ở trong trí vô phân biệt. Năm, hồi hướng vượt trội, vì hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Sáu, thanh tịnh vượt trội, vì diệt các phiền não trí chướng xuất sinh bình đẳng.
Giải thích : Bố thí v.v… là tướng thế nào ? Được Ba-la-mật, bởi thế gian và Thanh Văn v.v… cũng có bố thí v.v… nên phải nói cái tướng của nó. Tướng của Ba-la-mật có 6 thứ y chỉ vượt trội, do mọi lúc mọi nơi y chỉ tâm Bồ-đề. Sự vượt trội, nghĩa là không có một người nào có đây đủ hiện hành bên trong cũng như bên ngoài. Chỉ có Bồ-tát là người có đầy đủ hiện hành. Đó là hành bố thí. Nói vượt trội là mọi sự bố thí là chỉ vì lợi ích an vui tất cả chúng sinh. Phương tiện khéo léo vượt trội, nghĩa là tam luân thanh tịnh gọi là phương tiện khéo léo. Bởi vì không phân biệt của bố thí, người bố thí và kẻ nhận sự bố thí. Ở trong trí vô phân biệt như vậy nên được tên gọi là bố thí. Hồi hướng vượt trội, nghĩa là do bố thí này v.v… hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Thanh tịnh vượt trội, nghĩa là nếu đến Phật quả, thí v.v…bấy giờ được thanh tịnh. Khi ấy sinh xuất đầy đủ tác dụng lìa phiền não chướng trí chướng.
Luận nói : Thế nào là thí tức Ba-la-mật ? Ba-la-mật là thí ư ? Có trường hợp thí không phải Ba-la-mật. Nên lập 4 câu. Và giống như thí, các Ba-la-mật khác cũng nên lập 4 câu như vậy. Phải biết như thế.
Giải thích : Thế nào là thí tức Ba-la-mật ? Ba-la-mật tức là thí ư ? Đây là phần câu hỏi. Trong câu đáp có trường hợp bố thí không phải Ba-la-mật, nghĩa là xa lìa 6 thứ vượt trội. Có ba-la-mật không phải bố thí, nghĩa là như giới Ba-la-mật v.v…, vì bao gồm trong 6 thứ vượt trội. Có thí tức Ba-la-mật, nghĩa là thí được bao gồm trong 6 thứ vượt trội. Có chẳng phải thí chẳng phải Ba-la-mật, nghĩa là lìa 6 thứ hạnh vượt trội. như trì giới v.v… là như thế. Tất cả trong Ba-la-mật, 4 câu đều như vậy.
Chương 4 : Thứ tự
Luận nói : Vì sao các Ba-la-mật này được nói theo thứ tự như thế ? Vì nó tùy thuận Ba-la-mật trước sinh Ba-la-mật sau.
Chương 5 : Đặt tên
Luận nói : Lại nữa làm sao thấy được vì sao các Ba-la-mật được đặt tên như vậy ? Vì pháp này hơn tất cả sự bố thí của thế gian, Thanh Văn, Bích-chi-phật, có khả năng đạt đến bờ kia nên gọi Ba-la-mật, có khả năng phá tan sự tham lam keo kiệt nên gọi là Đà, được quả báo lớn và hành trang phúc đức nên gọi là Na. Vì vậy bố thí gọi là Đà-na. Có khả năng diệt trừ phá giới và nẻo ác nên gọi là Thi, được đến nẻo thiện và định nên gọi là La. Vì vậy có tên là Thi-la. Có khả năng làm sạch hết sự giận dữ oán thù nên gọi là Sằn, mình và người được ở trong an ổn nên gọi là Đề. Vì vậy có tên là Sằn-đề. Có khả năng lìa bỏ sự biếng nhác và các pháp ác bất thiện nên gọi là Tì, được xuất sinh vô lượng thiện pháp khiến tăng trưởng nên gọi là Lị-da. Vì vậy có tên là Tì-lị-da. Có khả năng xả bỏ tán loạn nên gọi là Địa-da, được dẫn tâm trụ vào bên trong nên gọi là Na, Vì vậy có tên là Địa-da-na. Có khả năng khiển trừ tất cả kiến chấp ác trí nên gọi là Bát-la, được biết pháp chân như và pháp chủng loại nên gọi là Thận-nhương. Vì vậy có tên là Bát-la-thận-nhương.
Giải thích : Nay nói rõ các tên này. Tên chung các Ba-la-mật đều dùng từ ngữ Đáo bỉ ngạn, nghĩa là đến bờ kia. Cho nên Ba-la-mật là độ tất cả thế gian và Thanh Văn, Bích-chi-phật v.v… Thí v.v… bỉ ngạn nên gọi Ba-la-mật cho mỗi tên. Nhân thì phá xan tham. Bởi vì sao ? Do phá trừ xan tham nên có thể bố thí không ngại. Quả thì trừ được bần cùng nên gọi là Đà. Đối với quả thì được quả báo lớn và phúc đức tư lương nên gọi là Na. Đó là Đà-na. Đứng về nhân thì giới dứt ác, đứng về quả thì diệt các nẻo ác nên gọi là Thi. Quả thì được nẻo thiện và được hiện tiền Tam-ma-đề nên gọi là La. Tức là Thi-la. Như vậy giải thích tên các Ba-la-mật đều tương ưng như đây. Mình và người đều được trụ nơi an ổn, nghĩa là do tự bản thân không bị các lỗi giận dữ quấy nhiễu, cũng không gây khổ cho người khác nên người cũng được an ổn.
Chương 6 : Tu tập
Luận nói : Làm sao thấy sự tu tập các Ba-la-mật ? Lược nói có 5 cách tu tập : 1. Tu tập bằng cách khởi hành phương tiện. 2. Tu tập bằng sự tin hiểu. 3. Tu tập bằng tư duy, 4. Tu tập bằng phương tiện khéo léo. 5. Tu tập bằng việc làm những điều nên làm. Trong đây 4 cách tu như trứpc đã nói. Còn tu tập bằng cách làm những điều nên làm, nghĩa là chư Phật đã đến địa vị viên mãn các Ba-la-mật rồi, nhưng dùng tâm vô công dụng không bỏ Phật sự tu các Ba-la-mật.
Giải thích : Trong 5 cách tu, tu khởi hành phương tiện, nghĩa là phát khởi chính hạnh trong phương tiện. Tu làm các việc nên làm, nghĩa là chư Phật trụ trong pháp thân, không dụng công, nhưng không bỏ các Phật sự. Mặc dầu đã lìa bỏ hiện hành các Ba-la-mật, nhưng vì nhiếp hóa chúng sinh nên có tu tập này là làm những việc nên làm.
Luận nói : Lại nữa tu tập bằng tư duy, nghĩa là yêu thích tùy hỷ nguyện được tư duy. Gồm 6 thứ thâm tâm : 1.thâm tâm rộng lớn, 2.thâm tâm kiên cố, 3.thâm tâm hoan hỷ, 4.thâm tâm chịu ơn, 5.thâm tâm chí lớn, 6.thâm tâm thắng ích. Nếu Bồ-tát trải qua bao nhiêu kiếp a-tăng-kì được chứng chính giác A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, trong thời gian ấy mỗi niệm mỗi niệm bỏ hết tất cả thân mạng cho đến 7 báu đầy trong Hằng sa thế giới phụng sự bố thí cúng dường chư Như Lai cho đến khi an tọa trên đạo tràng Bồ-đề mà tâm bố thí của Bồ-tát cũng không chán đủ. Và cũng trong ngần ấy thời gian, mỗi niệm mỗi niệm lửa mạnh bốc cháy đầy trong 3 ngàn Đại thiên thế giới, trong đó thực hành 4 oai nghi mà chẳng có một thứ phương tiện gì giúp cho đời sống, Bồ-tát vẫn nhất tâm thực hành trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ cho đến khi an tọa đạo tràng. Tâm trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ của Bồ-tát này cũng không chán đủ. Đó là thâm tâm rộng lớn của Bồ-tát. Lại nữa nếu Bồ-tát này cho đến khi tọa đạo tràng không bỏ tâm không chán đủ này, đó gọi là thâm tâm kiên cố. Nếu Bồ-tát này khi dùng 6 Ba-la-mật nhiếp hóa chúng sinh, sinh hoan hỷ hơn cả nỗi vui mừng của chúng sinh được nhiếp hóa. Đó là thâm tâm hoan hỷ của Bồ-tát. Nếu Bồ-tát này khi dùng 6 Ba-la-mật nhiếp hóa chúng sinh, thấy chúng sinh đối với ta có ơn lớn, chứ không phải ta có ơn đối với chúng sinh. Đó là thâm tâm chịu ơn. Nếu Bồ-tát này khi dùng 6 Ba-la-mật nhóm họp thiện căn, lại khiến chúng sinh được quả báo tốt đẹp. Đó là thâm tâm chí lớn của Bồ-tát. Nếu Bồ-tát này khi dùng 6 Ba-la-mật nhóm họp thiện căn hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đó là thâm tâm thắng ích của Bồ-tát. Sáu thứ thâm tâm này gọi chung là ái vị tư duy. Lại nữa nếu Bồ-tát này đối với vô lượng 6 thứ thâm tâm khác tu tập tương ưng các thiện căn của Bồ-tát mà sinh tùy hỷ , thì đây 6 thứ thâm tâm của Bồ-tát gọi chung là tùy hỷ tư duy tu. Lại nữa nếu Bồ-tát này nguyện khiến tất cả chúng sinh đều được 6 thứ thâm tâm gồm trong 6 Ba-la-mật, cũng nguyện tự thân cho đến khi tọa đạo tràng, thường không xa rời 6 thứ thâm tâm gồm trong 6 Ba-la-mật, thì đó gọi là 6 thứ thâm tâm gồm nguyện được tư duy tu. Nếu chỉ nghe 6 thứ thâm tâm của Bồ-tát này bao gồm tư duy tu, sinh một niệm tịnh tín, liền được xuất sinh vô lượng phúc đức thì đã làm hoại tất cả nghiệp chướng cực ác huống chi là Bồ-tát.
Giải thích : Nói “Trong thời gian ấy, mỗi niệm mỗi niệm”, nghĩa là giả sử khiến thời lượng 3 A-tăng-kì làm một niệm, lấy một niệm như vậy lại trải qua thời gian ấy được Bồ-đề, trong thời gian ấy mỗi niệm mỗi niệm xả thân mạng mình v.v…Nghĩa ấy có thể hiểu tuần tự như trong luận bản. Cũng như vậy tuần tự cho đến thời gian được Bồ-đề, trong thời gian ấy hoặc tu hành Thi-la cũng vậy. Nói lửa dữ bốc cháy đầy trong 3 ngàn Đại thiên thế giới, mà không có tất cả phương tiện giúp cho đời sống, nghĩa là đây nói nơi trụ xứ gian nan không có gì cung ứng cho đời sống. Nói hoại tất cả nghiệp chướng cực ác, nghĩa là trong này nói hủ hoại là hay dục lạc nên không có năng lực cho quả báo. Lại đối trị néo ác đạo nên gọi là hủ hoại. Tâm rộng lớn, tức trong đây là tâm không chán đủ. Các tâm này duy trì thời gian lâu không bỏ là tâm kiên cố. Trong đây nói kiên cố nghĩa là thời gian lâu. Nghĩa các tâm khác có thể hiểu được.
Chương 7 : Sai biệt
Luận nói : Làm sao thấy được sự sai biệt của các Ba-la-mật này ? Phải biết mỗi Ba-la-mật đều có 3 thứ. Như pháp thí, tài thí, vô úy thí. Thủ hộ giới, nhiếp thiện pháp giới, tác lợi chúng sinh giới. Thụ ác sự nhẫn, an khổ nhẫn, pháp tư duy nhẫn. Bị khải tinh tiến, phát hành tinh tiến, bất khiếp nhược bất thoái chuyển vô yếm túc tinh tiến. An lạc trụ định, xuất sinh định, tác sở ưng tác định. Vô phân biệt phương tiện trí, vô phân biệt trí, vô phân biệt hậu đắc trí.
Giải thích : Nói sự khác nhau của các Ba-la-mật là hiển thị cái thể. Trong đây vì sao có pháp thí v.v… 3 thứ ? Bởi pháp thí làm tăng ích thiện căn người khác, tài thí tăng ích thân người khác, vô úy thí tăng ích tâm người khác. Do nhân duyên này nói có 3 loại thí. Trong 3 thứ của giới, thủ hộ giới là giới y chỉ, còn 2 giới kia dựa vào đây mà trụ. Do trụ nơi thủ hộ giới nên nhiếp thiện pháp giới được xuất sinh Phật pháp và Bồ-đề nên gọi là y chỉ. Lợi chúng sinh giới dựa vào đây mà trụ nên được thành thục chúng sinh nên gọi là y chỉ. Trong 3 thứ của nhẫn, thụ ác sự nhẫn là nếu người khác làm việc ác mình có thể nhịn chịu. Bồ-tát khi làm việc lợi ích chúng sinh, do sức nhẫn này nên khổ sinh tử không thể thoái chuyển. An khổ nhẫn là do có sức nhẫn nên ở trong sinh tử có bệnh v.v… các khổ không thể thoái chuyển. Pháp tư duy nhẫn là do nhẫn này nên khi tư duy pháp có thể nhẫn chịu nên nhẫn này tức là chỗ y chỉ của 2 nhẫn trước. Trong tinh tiến có 3 thứ thể. Như trong Tu-đa-la Thế Tôn nói là thế lực, là tinh tiến, là kham năng, là kiên cố siêu việt, là không bỏ ách nặng. Năm câu này tức giải thích 3 thứ thể của tinh tiến. Trong đó bị khải tinh tiến là tinh tiến như mặc áo giáp nên được thế lực mạnh. Lấy đây làm đầu do phát khởi tinh tiến, được chính tinh tiến lúc phát khởi không khiếp nhược không động chuyển, tinh tiến không chán đủ v.v… Theo như thứ tự thì tức là kham năng, kiên cố siêu việt, không bỏ ách nặng v.v…lấy 3 câu này giải thích thì do có người lúc mới cầu vô thượng Bồ-đề có thế lực, khi phát khởi có tinh tiến, chỉ có điều là tâm hạ liệt. Để đối trị trường hợp này nên phải kham năng. Nếu có kham năng thì tâm không thoái khuất. Hạ liệt tức là thoái khuất. Nếu người tuy tâm không hạ liệt, nhưng trong khổ sinh tử tâm nhiễu động thì đối với Phật quả sẽ sinh thoái khuất. Để đối trị trường hợp này nên phải không dao động, tinh tiến và kiên cố siêu việt. Cho nên nói kiên cố siêu việt đây, do kiên cố siêu việt nên đối với cái khổ không thoái lui. Có người tuy đối với cái khổ không thoái lui nhưng đối với thiểu phần đã sinh tưởng đầy đủ, không thể được vô thượng Bồ-đề, cho nên nói tinh tiến không chán đủ. Đối với thiểu phần không sinh tưởng đầy đủ và liền hiển thị cái tinh tiến không bỏ ách nặng. Do nghĩa này nên nói 3 thứ tinh tiến. Trong định cũng có 3. Lạc trụ là do hiện thấy pháp an lạc nên trụ gọi là lạc trụ. Xuất sinh là do xuất sinh 6 thần thông. Làm việc nên làm là do y chỉ thiền-na nên làm việc lợi ích chúng sinh. Vì vậygọi là làm việc nên làm. Do các nghĩa này nên lập 3 thứ định. Trong Bát-nhã thành lập 3 thể, nghĩa có thể hiểu được.
Chương 8 : Gồm thâu
Luận nói : Làm sao thấy được nghĩa thâu nhiếp của các Ba-la-mật này ? Các Ba-la-mật này thâu nhiếp tất cả thiện pháp. Vì là thể tướng của chúng, vì là tùy thuận của chúng, vì là lưu xuất của chúng.
Giải thích : Câu hỏi làm sao thấy được nghĩa thâu nhiếp của những cái này, tức là hỏi làm sao thấy được các Ba-la-mật này gồm thâu các thiện pháp. Phải biết rằng nói tu các thiện pháp được thâu nhiếp trong Ba-la-mật, hay nói tu thiện pháp thâu nhiếp Ba-la-mật cũng vậy. Những cái này thâu nhiếp tất cả thiện pháp, tức là trong đây tất cả thiện pháp tức là Bồ-đề phần pháp. Thể tướng của chúng tức là thể tướng của Bát-nhã. Lưu xuất của chúng tức là 6 thần thông, 10 lực v.v… và các công đức khác đều là lưu xuất của chúng. Tùy thuận của chúng, tức là tin cậy nương tựa tùy thuận với đây.
Chương 9 : Đối trị
Luận nói : Làm sao có thể thấy các chướng ngại của Ba-la-mật ? Phải biết gồm tất cả phiền não. Vì nó là thể tướng, nguyên nhân và kết quả.
Giải thích : Như đã nói rõ, các Ba-la-mật gồm thâu tất cả thiện pháp. Như nó đối trị tất cả nhiễm pháp. Nay sẽ nói rõ. Trong đó thể tướng của chúng là thể tướng của dục v.v…nhân duyên của chúng là nhân duyên của xan tham v.v…như không tin, tà kiến v.v… nên sinh xan tham, quả của chúng là như xan lẫn, phá giới, giận dữ là quả.
Chương 10 : Công đức
Luận nói : Làm sao thấy được công đức các Ba-la-mật này ? Bồ-tát trong sinh tử lưu chuyển nhiếp thủ tự tại nên nhiếp thủ đại sinh, nhiếp thủ đại trợ bạn, đại quyến thuộc, nhiếp thủ đại sự nghiệp phương tiện thành tựu, nhiếp thủ thân không não hại, ít trần cấu, nhiếp thủ sang suốt các luận biết giỏi các nghề công xảo kỹ thuật. Các quả báo này không có gì đáng chê trách cho đến khi tọa đạo tràng làm các công đức trước mắt lợi ích tất cả chúng sinh.
Giải thích : Quả báo công đức Ba-la-mật của Bồ-tát là không thể chê trách, chẳng phải như các quả báo khác có thể chê trách vì nhiễm ô, vì vô thường. Quả báo của Ba-la-mật thì không phải vô thường. Bởi vì sao ? Bởi nói cho đến khi tọa đạo tràng. Lại nữa quả báo kia là chỉ tự mình tạo lấy không phải do người khác. Nói phát khởi việc lợi ích tất cả chúng sinh, quả Ba-la-mật tức là tất cả công đức của quả Ba-la-mật đều không có sự chê trách.
Chương 11 : Hiển thị lẫn nhau
Luận nói : Làm sao thấy được các Ba-la-mật này hiển thị lẫn nhau ? Thế Tôn có nơi tất cả 6 Ba-la-mật chỉ lấy tên thí mà nói, hoặc lấy tên giới nói, hoặc lấy tên nhẫn nói, hoặc lấy tên tinh tiến nói, hoặc lấy tên định nói, hoặc lấy tên trí nói. Như vậy là ý gì ? Trong các Ba-la-mật, khi tu một Ba-la-mật các Ba-la-mật khác đều đến trợ giúp hoàn thành. Dựa vào ý này, trong đây có bài kệ nhiếp trì như sau :
Số tướng và thứ tự,
Danh tự tu công đức.
Sai biệt và nhiếp trị,
Công đức hiển thị nhau.
Giải thích : Trong 3 trăm kệ, trong Bát-nhã Ba-la-mật nói một Ba-la-mật tức nói tất cả Ba-la-mật. Nói vậy là ý gì ? Khi thực hành một Ba-la-mật thì tất cả các Ba-la-mật đều đến trợ giúp hoàn thành. Do ý này nên khi bố thí được nhiếp thủ thân khẩu, tức thuộc giới Ba-la-mật, cho đến trí biết nhân quả, tức thuộc Bát-nhã Ba-la-mật. Nghĩa trợ thành của các Ba-la-mật khác cũng tương ưng như vậy. Đến đây là giải thích xong về nhập nhân quả. Tu sai biệt thắng tướng thắng ngữ 5
Chương 1 : Đối trị
Luận nói : Như vậy là đã nói về ngộ nhập nhân quả rồi, vậy làm sao thấy tu sai biệt như thế nào ? Tu sai biệt này có 10 địa Bồ-tát. Những gì là 10 ? Là Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Chiếu minh địa, Diệm địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa. Các địa này thành lập làm 10. Làm sao thấy được lý do thành lập ? Vì để đối trị 10 thứ vô minh chướng ngại, nên có 10 thứ và pháp giới cũng có 10 thứ vô minh làm chướng trụ. Làm sao biết ? Mười thứ, pháp giới là địa đầu tiên có nghĩa là phổ biến khắp, địa thứ hai có nghĩa là vượt trội hơn hết, địa thứ ba có nghĩa là từ tội thượng lưu xuất, địa thứ tư có nghĩa là không nhiếp thụ, địa thứ năm có nghĩa là thể không sai biệt, địa thứ sáu có nghĩa là không nhiễm tịnh, địa thứ bảy có nghĩa là các pháp không sai biệt, địa thứ tám có nghĩa là không thêm bớt, địa thứ chin có nghĩa là y chỉ tướng tự tại và y chỉ cõi tự tại, y chỉ trí tự tại, địa thứ mười có nghĩa là y chỉ nghiệp tự tại, y chỉ Đà-la-ni môn tự tại, y chỉ Tam-ma-đề môn tự tại. Ở đây có kệ như sau :
Biến hành, nghĩa tối thắng,
Nghĩa tối thượng lưu xuất,
Là nghĩa không nhiếp thụ,
Và thể không sai khác,
Nghĩa không nhiễm không tịnh,
Không các pháp sai biệt,
Nghĩa không thêm không bớt,
Y chỉ 4 tự tại,
Vô minh trong pháp giới,
Mười chướng chẳng nhiễm ô,
Trong 10 địa là chướng,
Đối trị nói các địa.
Lại nữa nên biết rằng vô minh này đối với Thanh Văn là không nhiễm ô, nhưng đối với Bồ-tát là nhiễm ô.
Giải thích : Nay nói rõ về tu sai biệt. Thế nào là phải biết 10 thứ ? Pháp giới, nghĩa là phổ biến khắp cả, cho đến nghĩa Tam-ma-đề, Đà-la-ni tự tại. Nên biết 10 thứ này, pháp giới trong mỗi địa đều có một thứ, nhưng vì sức của vô minh nên không biết được. Để đối trị 10 chướng của vô minh kia nên có 10 địa. Những gì là 10 ? Một là tính phàm phu. Hai là tà hạnh đối với thân chúng sinh v.v… Ba là tối tăm đần độn nên quên mất đối với văn tư tu. Bốn là phiền não vi tế hiện hành cùng với thân kiến v.v…cộng sinh với hạ phẩm. Do ý niệm duyên nên bỏ xa các hiện hành vi tế. Nên biết đây là vi tế. Năm là hạ thừa nhập Niết-bàn. Sáu là thô tướng hành. Bảy là vi tế tướng hành. Tám là trong vô tướng làm công dụng. Chín là không làm việc lợi ích chúng sinh. Mười là đối với các pháp không được tự tại. Nay sẽ giải thích nghĩa biến hành của bài kệ. Pháp giới biến hành khắp mọi nơi. Bởi vì sao ? Vì tất cả pháp không một pháp nào chẳng là vô ngã. Nghĩa tối thắng, nghĩa là nghĩa này vượt trội trong tất cả các pháp. Tức là tinh túy lưu xuất từ nhị địa. Tối thắng là nếu biết có Đại thừa chính thuyết là tinh túy lưu xuất từ chỗ vượt trội hơn cả thì được địa thứ ba. Trong đó không chấp thủ ngã sở, như người Uất-đan-việt không có ngã sở. Khi chứng pháp giới, liền được không có ngã sở như vậy. Do cái trí này liền được địa thứ tư. Đây tức là thể không sai biệt, chẳng phải như mắt thấy sắc v.v… tùy theo mỗi mỗi cái thể sai biệt của các chúng sinh. Do trí này được nhập vào địa thứ năm. Cũng không nhiễm, vì bản tính không nhiễm cho nên không nhiễm tức tịnh. Do trí này nên được nhập địa thứ sáu. Tu-đa-la v.v… các nghĩa tuy thành lập có sai biệt nhưng không khác nhau. Do trí này được nhập địa thứ bảy. Khi phiền não diệt không giảm, tịnh pháp lớn không tăng, y chỉ tướng tự tại, y chỉ cõi tự tại. Do trí này được nhập địa thứ tám. Trong tướng được tự tại, do tùy sở dục tướng liền hiện tiền. Trong cõi tự tại là như muốn cõi biến thành vàng liền được thành nên gọi là tự tại. Trong trí tự tại là y chỉ trí biện tài tự tại nên được nhập địa thứ chín. Thân v.v… các nghiệp tự tại y chỉ, Đà-la-ni, Tam-ma-đề môn tự tại y chỉ nên được nhập địa thứ mười. Lại nữa vô minh này đối với Thanh Văn không phải nhiễm ô do không nhập các địa này. Nếu khi nhập sơ địa tức thì thông đạt tất cả các địa, vậy tại sao còn tuần tự lập ra các địa làm gì ? Để giải thích câu hỏi này là tùy theo chỗ thực hành ở mỗi bậc mà thành lập. Mặc dầu ở sơ địa đã thông đạt tất cả nhưng phải thành lập các địa.
Chương 2 : Đặt tên
Luận nói : Lại nữa vì sao sơ địa tên là Hoan hỷ ? Do lần đầu tiên có công năng thành tựu tự lợi lợi tha. Vì sao địa thứ hai tên Ly cấu ? Do xa lìa nhơ bẩn của sự phá giới. Vì sao địa thứ ba tên là Chiếu minh ? Do không thoái lui chỗ y chỉ Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để, y chỉ đại pháp sáng suốt. Vì sao địa thứ tư tên là Diệm ? Vì pháp Bồ-đề phần đốt cháy tất cả chướng. Vì sao địa thứ năm tên là Nan thắng ? Vì hai trí chân tục trái nhau rất khó làm tương ưng nhau. Vì sao địa thứ sáu tên là Hiện tiền ? Vì trí duyên sinh làm y chỉ khiến hạnh Bát-nhã Ba-la-mật hiện tiền. Vì sao địa thứ bảy tên là Viễn hành ? Vì đến biên giới sau cùng của hạnh công dụng. Vì sao địa thứ tám tên là Bất động ? Vì tất cả tướng hành không động. Vì sao địa thứ chín tên là Thiện tuệ ? Vì trí biện tài vượt trội hơn cả. Vì sao địa thứ mười tên là Pháp vân ? Do tướng chung duyên trí tất cả pháp, là kho chứa tất cả Đà-la-ni, Tam-ma-địa môn như mây trời. Lại chướng thô nặng như hư không, mây có thể kéo che. Lại pháp thân viên mãn.
Giải thích : Vì sao sơ địa tên Hoan hỷ ? Do mới bắt đầu được thành tựu công năng tự lợi lợi tha. Khi Thanh Văn chứng chân thật chỉ thành tựu được công năng tự lợi, không làm lợi tha. Vì vậy không được sự hoan hỷ như chư Bồ-tát. Vì sao địa thứ hai tên Ly cấu ? Do ở địa này tính giới thành tựu, không như sơ địa tác ý trì giới. Do thành tựu được tính giới, xa lìa sự nhơ bẩn của phá giới. Vì sao địa thứ ba tên Chiếu minh ? Do ở trong địa này thường không tách rời Tam-ma-địa, tam-ma-bát-để. Do không thoái lui nên liền được sáng tỏ trong pháp Đại thừa. Vì sao địa thứ tư tên Diệm ? Do ở địa này được thực hành pháp Bồ-đề phần. Do hành pháp này tất cả phiền não, tùy phiền não đều bị đốt cháy hết. Vì sao địa thứ năm tên Nan thắng ? Do ở địa này chân trí xuất thế là vô phân biệt. Thế trí công xảo luận là phân biệt. Cần phải tu đủ cả hai cái trái nhau này rất khó, nhưng có thể đủ được cả hai nên gọi Nan thắng. Vì sao địa thứ sáu tên Hiện tiền ? Ở địa này được hành duyên sinh. Do trí lực này nên hành vô phân biệt, Bát-nhã Ba-la-mật được hiện tiền. Các pháp không nhiễm không tịnh, sẽ được hạnh có công dụng trong địa thứ bảy. Trong địa thứ tám là hạnh vô công dụng. Vì sao địa thứ bảy tên Viễn hành ? Ở trong địa này do hạnh phương tiện cứu cánh nên do được quyết định trong tất cả các tướng mà có hạnh công dụng. Vì sao địa thứ tám tên Bất động ? Trong tất cả tướng và tất cả pháp dụng công, trong đây đều được bất động, tâm vô phân biệt tự nhiên thường lưu xuất. Vì sao địa thứ chín tên Thiện tuệ ? Tuệ này rất xuất sắc nên gọi là thiện tuệ. Trí biện tài gọi là tuệ. Do trí này nên nói là thiện tuệ. Vì sao địa thứ mười tên Pháp vân ? Tướng chung tất cả pháp duyên trí như mây, Đà-la-ni Tam-ma-đề v.v…như nước. Tức lấy trí này làm kho chứa, như mây chứa nước. Lại như mây kéo che kín hư không. Tướng chung tất cả pháp này duyên trí, che kín các chướng thô trọng cũng giống như vậy. Và viên mãn pháp thân là như mây phổ biến hư không. Trong thân Bồ-tát pháp thân viên mãn cũng giống như vậy. Viên mãn tức nghĩa là phổ biến.
Chương 3 : Được tướng
Luận nói : Làm sao thấy được chứng đắc các địa này ? Có 4 tướng : Một, được tín giải. Nghĩa là tin hiểu các địa. Hai, được chính hsnhj. Nghĩa là được tương ưng với 10 thứ pháp hạnh của địa. Ba, được thông đạt. Nghĩa là ở trong sơ địa, lúc thông đạt pháp giới là được thông đạt tất cả các địa. Bốn, được thành tựu. Nghĩa là tu các địa này được cứu cánh.
Giải thích : Trong đây nói được thành tựu là nếu tu các địa này đến cứu cánh tức là thành tựu.
Chương 4 : Tu tướng
Luận nói : Làm sao thấy được tu các địa này ? Các Bồ-tát này, trong các địa khi tu Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na, có 5 pháp tu. Đó là tu gồm chung, tu vô tướng, tu không công dụng, tu mãnh liệt, tu không chán đủ. Sinh 5 quả Bồ-tát. Đó là một, trong mỗi niệm tiêu diệt chỗ dựa của tất cả nhiễm trược. Hai, được thoát ly các tưởng, dạo chơi trong pháp lạc. Ba, hiểu rõ sáng suốt tướng pháp tất cả mọi nơi vô lượng không giới hạn. Bốn, có nhân duyên các phần thanh tịnh, không có tướng phân biệt nhưng vẫn hiện hành, nên pháp thân viên mãn thành tựu. Năm, do lần lượt thâu nhiếp nhân ở các bậc trên.
Giải thích : Tùy trong mỗi địa, có 5 pháp tu. Nay sẽ nói rõ. Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na, do 5 pháp tu nên đều được thành tựu. Nói “trong mỗi niệm tiêu diệt chỗ dựa tất cả nhiễm trược.”, cái gì gọi là nhiễm trược ? Là phiền não chướng trí chướng huân tập chủng tử từ vô thủy tạo thành khối chướng ngại. Do tướng chung duyên Xa-ma-tha, trí Tì-bát-xá-na nên được niệm niệm tổn giảm. Khối này bị phá tan nên gọi là tiêu diệt. Lại nữa tổn giảm tức là tiêu diệt. Nói “lìa các tướng được cái vui pháp lạc” nghĩa là nơi các thể tướng thành lập Tu-đa-la v.v…, nghĩa là trong pháp lìa các tưởng, được cái vui trong pháp lạc, chứ không phải thú vui nào khác. Ở đây nói vui là cái vui bên trong. Lại có giải thích khác rằng Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na, ở trong pháp hoặc thụ, hoặc giác, hoặc quán, chứ không phải thuận hành theo sự lãnh nạp thô thiển lộ liễu. Nhưng chỉ dùng ức niệm sáng suốt lãnh nạp và thuận hành vi tế. Nói “tướng mọi nơi vô lượng không giới hạn” nghĩa là không có sự hiểu biết giới hạn 10 phương. Nói “tất cả sự sáng suốt” như hay đọc kinh sách tâm tức sáng suốt. Nói “trong thanh tịnh phần tướng vô phân biệt hiện tiền” nghĩa là thành tựu tương ưng với thanh tịnh phần mà tướng vô phân biệt hiện tiền cho nên Phật quả là sở ưng thành tựu và pháp thân viên mãn thành tựu. Bao gồm nhân tối thượng là trong đó viên mãn là địa thứ mười, thành tựu là Phật địa thứ mười một. Trong đây pháp thân bao gồm nhân tối thượng là do đây tất cả nhân xuất sinh Phật địa vì vậy được gọi là vượt trội hơn cả.
Luận nói : Trong 10 địa tu 10 Ba-la-mật đều có tăng thượng. Trong 6 địa, 6 Ba-la-mật như trước đã nói. Trong 4 địa sau có 4 Ba-la-mật. Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật, 6 Ba-la-mật tu tập thiện căn cùng tất cả chúng sinh hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nguyện Ba-la-mật là phát khởi các nguyện đời vị lai, vì các Ba-la-mật nhân duyên đây có thể dẫn nhiếp. Lực Ba-la-mật là do sức tư duy tu tập 6 Ba-la-mật được tương tục hiện hành. Trí Ba-la-mật là thành lập trí 6 Ba-la-mật, được tự thụ dụng pháp lạc và thành tựu chúng sinh. Lại nữa 4 Ba-la-mật này là thuộc trí vô phân biệt hậu sở đắc trong Bát-nhã Ba-la-mật. Lại nữa trong 10 địa tất cả Ba-la-mật không cái nào không tu hành. Đây là pháp môn của các địa được thâu nhiếp trong Ba-la-mật tạng.
Giải thích : Nói “Trong 10 địa tu 10 Ba-la-mật đều có tăng thượng” nghĩa là trong Kinh Thập Địa nói sơ địa Đàn Ba-la-mật tăng thắng cho đến địa thứ 10 Trí Ba-la-mật tăng thắng. Vì lấy sự tăng thắng đó nên trong Thập Địa nói 10 Ba-la-mật. Trong tất cả các địa đều tu tập tất cả Ba-la-mật. Sáu Ba-la-mật trong 6 địa như tuần tự hiển thị, ban đầu Đàn Ba-la-mật cho đến thứ 6 là Bát-nhã Ba-la-mật. Các nghĩa ấy đều được nói như trong Kinh Thập Địa. Trong đó không đầy đủ như trước đã nói. Bốn địa sau có 4 Ba-la-mật là tùy ở nơi nào nói 6 Ba-la-mật, tức nơi đó Phương tiện thiện xảo v.v… 4 Ba-la-mật đều có trong đó. Nếu nói 10 Ba-la-mật thì trong đó chỉ lấy trí vô phân biệt làm Bát-nhã Ba-la-mật. Trí hậu đắc gồm Phương tiện thiện xảo v.v… 4 Ba-la-mật khác. Vì vậy cho nên trong 4 địa sau tu 4 Ba-la-mật được thành. Luận nói trong Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật cùng với tất cả chúng sinh, nghĩa là trong đó có thiện căn gì thì đều được cùng chung với chúng sinh. Nay sẽ nói rõ về các “nguyện cầu vô thượng Bồ-đề” là muốn làm việc lợi ích tất cả chúng sinh, cần phải chính giác Bồ-đề mới đạt được ý muốn này. Cho nên có suy nghĩ tư duy gì, có thiện căn gì đều hồi hướng để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Đây gọi là cùng chung với tất cả chúng sinh. Lại nữa thiện xảo phương tiện là hiển thị bi trí. Sáu Ba-la-mật tập họp được các thiện căn, do bi nên cùng chung với tất cả chúng sinh, do trí nên không hồi hướng các quả báo Phạm vương Đế-thích v.v… Vì vậy do trí này nên không khởi phiền não và không bỏ sinh tử mà trong đó không nhiễm, được thành phương tiện thiện xảo, nên gọi là Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật. Do khởi các thứ nguyện lực nên được các nhân duyên Ba-la-mật. Vì vậy gọi là Nguyện Ba-la-mật. Trong thời vị lai, nghĩa là tướng nhân của thời vị lai, nên gọi là trong thời vị lai. Trụ trong nhân này, vì đời vị lai nên làm các nguyện. Có Tu-đa-la nói có 2 thứ sức, là sức tư duy và sức tu tập. Tuy không có sức tu tập, nhưng nhờ có sức tư duy nên tương ưng với các Ba-la-mật. Vì vậy được các Ba-la-mật tương tục hiện hành. Đây là nghiệp sự của Lực Ba-la-mật, như đã nói rõ các Ba-la-mật đều do trí kiến lập. Đó là Trí Ba-la-mật, tức tự tính Bát-nhã Ba-la-mật vô phân biệt. Nếu vì tự thụ dụng pháp lạc và vì thành tựu cùng chúng sinh trong pháp giới nên gọi là thành lập các Ba-la-mật. Pháp môn này được bao gồm trong các Ba-la-mật tạng. Trong đây Ba-la-mật tạng nghĩa là tất cả các pháp Đại thừa thì pháp môn 10 địa này được thâu nhiếp trong Ba-la-mật tạng, không có trong Thanh Văn tạng. Tất cả các Ba-la-mật được tu tạp thành trong các địa. Pháp môn các địa này cao lớn cùng tột cho nên chư Phật giảng nói trong kắp tất cả cõi Phật. Pháp môn này là vượt trội cho nên được nói trước tiên hết, và nói trong những trường hợp thù thắng nhất, nói nơi trụ xứ kiên cố nhất. Chính chỗ thù thắng đó nên nói là thắng.
Chương 5 : Thời gian tu tập
Luận nói : Lại nữa tu các địa này bao nhiêu thời gian thì được viên mãn ? Có 5 loại người tu trong 3 a-tăng-kì kiếp. Nghĩa là người ở Tín hành địa trong kiếp a-tăng-kì thứ nhất tu tịnh tâm hành hữu tướng, hành vô tướng, hành 6 thứ địa và địa thứ bảy. Kiếp a-tăng-kì thứ hai, tức trong vô tướng, vô công dụng hạnh trở lên. Cho đến địa thứ 10 trong kiếp a-tăng-kì thứ ba tu hành viên mãn. Ở đây có bài kệ như sau :
Sức thắng thượng tịnh diệu,
Tâm kiên cố chuyển thắng.
Bồ-tát ba tăng-kì,
Gọi là chính tu hành.
Giải thích : Nói 5 loại người trong 3 a-tăng-kì nghĩa là trong đó người Tín hành nghĩa là y theo nghĩa đó mà tin tưởng tu hành. Địa này hết một kiếp a-tăng-kì đầu tiên. Mãn kiếp a-tăng-kì này được Tịnh tâm địa, thông đạt chân như, nên ngay đây tu hành tịnh tâm. Trong 10 địa, đến 6 địa hãy còn tu hành hữu tướng. Địa thứ 7 là vô tướng hữu công dụng hành, tức được mãn a-tăng-kì thứ 2. Nếu vào địa thứ 8 thì được vô công dụng hạnh, nhưng chưa thành tựu hạnh vô công dụng ấy. Địa thứ 9 thứ 10 thì viên màn hạnh vô công dụng này. Người này là thuộc kiếp a-tăng-kì thứ 3. Tức mọt người này mà thành lập 5 loại, như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm v.v… Tùy theo vị, xứ khác nhau cho nên như nói mãn 3 a-tăng-kì được Bồ-đề, tu hành thí v.v…trong sinh tử từ vô thủy, và được gặp chư Phật nào đến nay gọi là 3 kiếp a-tăng-kì ? Nghĩa này trong kệ nói rõ. Sức thăng thượng tịnh diệu, nghĩa là được thiện căn lực và nguyện lực. Trong đó thiện căn lực là tán loạn v.v…không thể phá hoại. Nguyện lực là hằng cùng quy tụ với các thiện hữu. Tâm kiên cố chuyển thắng nghĩa là sức thiện hữu, không bỏ tâm Bồ-đề. Hành chuyển thắng nghĩa là trong đời hiện tại và đời sauthiện căn tăng trưởng không thoái giảm. Các câu khác có thể hiểu lấy. Đến đây giải thích xong về tu sai biệt thắng tướng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.211.55 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.