Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang chủ]
ABHIDHAMMATTHASANGAHA
THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN
Tỳ kheo THÍCH
MINH CHÂU
(dịch và giải)
KAMMATTHÀNA: NGHIỆP XỨ hay ÐỐI TƯỢNG TU HÀNH PHẦN MỘT - SAMATHA KAMMATTHÀNA: CHỈ NGHIỆP XỨ I. PÀLI VĂN. 2 - 5) Tattha samatha-sangahe tàva, dasa kasinàni, dasa asubhà, dasa anussatiyo, catasso appamannàyo, ekà sannà, ekam vavatthànam cattàro àruppà ceti sattavidhena samathakammatthàna-sangaho. Ràgacarito, dosacarito, mohacarito, saddhàcarito, buddhi-carito, vitakkacarito ceti chabbidhena caritasangaho. Parikamma-bhàvanà, Upacàra-bhàvanà, appanàbhàvanà, ceti tisso bhàvanà. Pari-kammanimittam, uggahanimittam, patibhàganimittanceti tìni nimittàni ca veditabbàni. 2 - 5) Ở nơi đây, về chỉ tập yếu, cần phải hiểu các pháp như sau: 10 biến xứ quán pháp, 10 bất tịnh pháp, 10 niệm pháp, 4 vô lượng pháp, 1 tưởng pháp, 1 sai biệt huệ pháp, 4 vô sắc pháp, như vậy chỉ nghiệp xứ tập yếu có bảy loại. Tham hành giả, Sân hành giả, Si hành giả, Tín hành giả, Giác hành giả và Tầm hành giả. Như vậy có tất cả sáu loại hành giả. Dự bị tu tập, Cận hành, tu tập, An chỉ tu tập như vậy có tất cả ba loại tu tập. Chuẩn bị tướng, Thủ tướng (hay thô tướng), và Tợ tướng (hay quang tướng), như vậy có tất cả ba tướng. - Có 5 pháp làm trở ngại cho sự tu thiền và tu quán là
5 Triền cái: Kàmacchanda: Dục ái, Vyàpàda: Sân, Thìna - middha:
Thụy miên, Uddhaccakukkucca: Trạo cử, Vicikicchà: Nghi. Do ảnh
hưởng 5 Triền cái, chúng ta không thể tu thiền định
hay quán ba pháp ấn; khổ, vô thường và vô ngã. Các
phương pháp tu hành dẫn đến diệt
trừ 5 Triền cái này gọi là Samathabhàvanà, chỉ tu tập
và chỉ chứng được khi đạt đến
Sắc Thiền và Vô Sắc Thiền, và các đối
tượng dùng để thực hiện
các thiền định trên gọi là Samatha-kammatthàna: Chỉ
nghiệp xứ. Người tu hành chỉ có thể diệt trừ hoàn toàn
các Triền cái ở Siêu Thế Giới bằng cách quán tưởng thực
tánh khổ, vô thường và vô ngã của sự vật. Các phương
pháp tu hành quán tưởng được gọi
là Vipassanàbhàvanà (Quán tu tập) và các đối
tượng để tu hành gọi là Vipassanà Kammatthànà: Quán
nghiệp xứ.
I. PÀLI VĂN. 7) Uddhumàtakam, vinìlakam, vipubbakam, vicchiddakam, vikkhàyitakam, vikkhittakam, hatavikkhittakam, lohitakam, puluvakam, atthikanceti ime dasa asubhà nàma. 8) Buddhànussati, dhammànussati, sanghànussati, sìlànussati, càgànussati, devatànussati, upasamànussati, maranànussati, kàyagatàsati, ànàpànasati ceti imà dasa anussatiyo nàma. 9) Mettà, karunà, mudità, upekkhà ceti imà catasso appamannàyo nàma brahmavihàrà ti pi vuccanti. 10) Àhàre patikkùlasannà ekà sannà nàma,
11) Àkàsànancàyatanàdayo cattàro àruppànàmàti sabbathà pi samathaniddese cattàlìsa kammathànàni bhavanti. 7) Bành trướng tướng, Thanh ứ tướng, Nồng lạn tướng, Ðoạn hoại tướng, Thực hám tướng, Tán loạn tướng, Chiết đoạn tán loạn tướng, Huyết đồ tướng, Trùng tụ tướng, Hài cốt tướng, như vậy là 10 bất tịnh quán. 8) Phật niệm, Pháp niệm, Tăng niệm, Giới niệm, Thí niệm, Thiên niệm, Tịch tịnh niệm, Tử niệm, Thân niệm, Sổ tức niệm. Như vậy là 10 niệm, 9) Từ, Bi, Hỷ, Xả, như vậy là 4 vô lượng tâm hay gọi là Phạm Trú. 10) Yếm nghịch tưởng đối với các thức ăn gọi là nhứt tưởng. Bốn giới sai biệt gọi là nhứt sai biệt. 11) Hư không vô biên v.v... gọi là 4 vô sắc pháp. Như vậy có tất cả là 40 nghiệp xứ trong chỉ Tu tập. - Kammatthàma: Kamma là nghiệp, đây chỉ Thiền, hay đúng hơn hành động tu thiền. Thàma có nghĩa là xứ, Căn cứ hay thời cơ, đây chỉ cho đối tượng hay sự hành trì. Kammatthàna như vậy có nghĩa là các đối tượng để tu thiền và có 40 Kammatthàna tất cả. Samatha: Sam nghĩa là nhiếp phục, trạng thái an chỉ khi nhiếp phục được các triền cái. Samatha đồng nghĩa với Samàdhi (Ðịnh), đưa đến tu hành Thiền (Jhàna). Với định, các phiền não chỉ được nhiếp phục, chớ không đoạn trừ hẳn. Vipassanà: Vi + dis nghĩa là thấy nhiều cách, tức là tánh khổ, vô thường và vô ngã của sự vật. Mục đích của vipassanà (Quán) là thấy sự vật đúng thực tánh của nó. Carita: Hành chỉ cho bản tánh hồn nhiên của con người khi không bị chi phối hay suy tư về điều gì. Có 6 tánh: Người tham căn, người sân căn, người si căn, người tín căn, người trí căn và người tầm căn. Các loại tánh này phối hợp thành 63 tánh và cộng thêm Ditthacarita thành có tất cả 64 tánh. Tu tập có 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu gọi là Parikammabhàvanà (Dự bị tu tập); giai đoạn thứ hai, từ khi tạo được hình ảnh đối tượng, tạm ngăn trừ các triền cái cho đến khi chứng được gotrabhù (Chuyển tánh) trong lộ trình của Tốc hành tâm (Javana). Giai đoạn này gọi là Upacàrabhàvanà hay Cận hành tu tập. Giai đoạn thứ ba tiếp theo Gotrabhù được gọi là Appanàbhàvanà (An chỉ tu tập), sở dĩ gọi vậy vì Vitakka (Tầm) một Thiền chi, vẫn gắn chặt trên đối tượng tu tập. Lộ trình của Thiền như sau: Manodvàràvajjana (Ý môn hướng tâm), Parikamma (Chuẩn bị tâm), Upacàra (Cận hành tâm), Anuloma (Thuận thứ tâm), Gotrabhù (Chuyển tánh tâm), Appanà (An chỉ tâm) và Bhavanga (Hữu phần). Mọi đối tượng, như Kasina dùng để tu tập gọi là Parikammanimitta (Chuẩn bị tướng). Cùng một đối tượng ấy, khi được thấy với mắt nhắm gọi là Uggahanimitta (Thủ tướng hay thô tướng), và cũng hình ảnh ấy, khi không còn các tỳ vết, được gọi là Patibhàganimitta (Tợ tướng hay quang tướng), khi dùng như một đối tượng của Upacàra và Appanà bhàvanà. Kasina có nghĩa là khắp tất cả, toàn thể. Sở dĩ gọi vậy vì ánh sáng phát sanh từ Thủ tướng hay Tợ tướng đều chiếu khắp tất cả, không bị hạn chế. Kàyagatàsati quán thân là quán 32 bộ phận của thân thể như sau: Tóc, lông, móng tay, móng chân, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, trái cật, tim, gan, hoành cách mạc, tỳ tạng (splun), phổi, màng da mỏng, ruột, bao tử, phẩn, mật, niêm dịch, mũ, máu, mồ hôi, bạch huyết, nước mắt, mỡ, nướng miếng, nước đàm, nước nhớt và nước tiểu. Anàpànasati: Sổ tức, Àna là thở vô. Apàna là thở ra. Có nhiều sách giải thích ngược lại. Phương pháp này có thể đưa đến nhứt tâm và cuối cùng đưa đến quán và A La Hán quả. Phương pháp này được giải thích rõ ràng trong kinh Satipatthànasutta và trong tập Visuddhimagga. Brahmavihàra: Phạm trú hay 4 vô lượng tâm, Brahma ở đây có nghĩa là cao thượng Vihàra có nghĩa là Trú hay một thái độ, một lối sống. Sở dĩ gọi là vô lượng tâm Appamannà vì các tâm tư này phóng ra tất cả chúng sanh, không có giới hạn. Mettà (Phạm văn Maitrì): Từ được định nghĩa là cái gì làm mủi lòng, làm cho tâm mềm dịu lại. Ðây không phải tình yêu xác thịt hay tình cảm cá nhân. Ðối nghịch trực tiếp của Mettà là Hận thù, hằn học. Ðối nghịch gián tiếp là tình cảm cá nhân (pema). Mettà bao trùm tất cả chúng sanh, không có hạn chế, thượng đỉnh của Mettà là tự hòa mình với tất cả chúng sanh, nghĩa là tha thiết muốn toàn thể chúng sanh được hạnh phúc. Ðặc tánh của từ là một thái độ từ hòa. Từ diệt trừ Sân hận. Karunà: Bi là cái gì làm cho tâm của người thiện rung động khi thấy các người khác đau khổ hay cái gì làm cho người khác bớt đau khổ. Ðặc tánh của Bi là diệt trừ sự đau khổ của những người khác. Kẻ thù trực tiếp của Bi là himsà (Hại) và kẻ thù gián tiếp là domanassa (ưu), Bi bao trùm mọi chúng sanh đau khổ và diệt trừ độc ác. Mudità: Hỷ, không phải chỉ cảm tình suông mà còn có nghĩa hoan hỷ. Kẻ thù trực tiếp là ganh ghét và kẻ thù gián tiếp của hoan lạc, (Pahàsa). Ðặc tánh của Hỷ là vui sướng trước sự giàu sang và thành công của người khác. Hỷ bao trùm những chúng sanh giàu sang, diệt trừ sự bực bội (arati) và là một cử chỉ tán thán. Upekkhà: xả, nghĩa là không tham không sân. Không phải là một sự thản nhiên vô tri, mà chính là một thái độ trầm tĩnh tuyệt diệu hay một tâm hồn khéo thăng bằng. Chính là một trạng thái tâm linh thăng bằng trầm tĩnh trước những thành bại của cuộc đời như khen chê, vui khổ, lời lỗ, có danh không danh. Kẻ thù trực tiếp là tham ái (ràga) và kẻ thù gián tiếp là sự vô tình. Upekkhà loại bỏ mọi tham đắm, giận ghét. Thái độ vô tư là đặc tánh của Upakkhà. Ở đây, upekkhà không phải là một cảm giác vô lạc vô khổ, mà chính là một đức tánh tối thượng có nghĩa một sự thăng bằng tâm trí. Xả bao gồm cả Thiện ác, thương, ghét, thích hay không ưa thích. Àhàre patikkùlasannà: Yểm nghịch tưởng đối
với thức ăn khi phải đi tìm, khi ăn
v.v... Catudhàtuvavatthànam: Bốn giới sai biệt tức là
quán sát 4 Ðại, Ðịa, thủy, hỏa, phong về tướng đặc
biệt của mỗi Ðại chủng.
I. PÀLI VĂN. 13) Bhàvanàsu pana sabbatthàpi parikamnna-bhàvanà labbhateva. Buddhànussati àdisu atthasu, sannàvavatthànesu càti dasasu kammatthànesu upacàra-bhàvanà va sampajjati, natthi appanà. Sesesu pana samatimsa kammatthànesu appanàbhàvanà pi sampajjati. 13) Ðối với các loại tu tập (bhàvanà), chuẩn bị tu tập có thể do tất cả nghiệp xứ pháp chứng được. Trong mười nghiệp xứ pháp, như 8 niệm bắt đầu Phật niệm v.v... Nhứt tưởng và nhứt sai biệt, chỉ chứng được Cận hành tu tập, nhưng không chứng được an chỉ tu tập (vì đối tượng quá thô và cần Tầm tâm sở để quán). Trong các nghiệp xứ pháp còn lại, an chỉ tu tập có thể chứng được. (10 Kasinà + 10 Asubha + 2 Anussati + 4 Appamannà + 4 Aruppà). - Sở dĩ ba vô lượng tâm đầu
không giúp chứng được Thiền thứ năm vì Xả chỉ
tìm thấy ở Thiền thứ 5, và bốn Thiền đầu
không thể nhờ Xả mà tu chứng được.
I. PÀLI VĂN. Yadà pana tannimittam cittena samuggahitam hoti, cakkhunà passantasseva manodvàrassa àpàthamàgatam, tadà tameva àrammanam uggahanimịttam nàma. Sà ca bhàvanà samàdhìyati. Tathà samàhitassa panetassa tato param tasmim uggahanimitte parikammasamàdhinà bhàvanamanuyunjantassa yadà tappatibhàgam vatthudhammavimuccitam pannattisankhàtam bhàvanàmayamàlambanam citte sannisinnam samappitam hoti, Tadà patibhàganimittam samuppannanti pavuccati. Tato patthàya patibandhavippahìnà kàmàvacarasamàdhisankhàtà upacàrabhàvanà nipphannà nàma hoti. Tato param tameva patibhàganimittam upacàrasamàdhinà samàsevantassa rùpàvacara pathamajjhànamappeti. Tato param tameva pathamajjhànam, àvajjanà samàpajjanà adhitthànà; vutthànà paccavekkhanà ceti imàhi pancahi vasìtàhi vasìbhùtam katvà vitakkàdikamolàrikangam pahànàya, vicàràdisukhumanguppattiyà padahato yathàkkamam dutiyajjhànàdayo yathàrahamappenti. 20) Iccevam pathavì kasinàdisu dvàvìsati kammatthànesu patibhàganimittamupalabbhati. Avasesesu pana appamannà sattapannattiyam pavattanti. Chính nhờ tợ tướng mà cận hành định và an chỉ định được thực hiện như thế nào? Dầu đối tượng nào trong các biến xứ quán pháp như địa biến xứ v.v... mà một người mới tập sự dùng, đối tượng ấy được gọi là chuẩn bị tướng. Sự tu tập ấy được gọi là chuẩn bị tu tập. Khi tướng ấy được tiếp nhận bởi ý và vào trong ý môn, như là được thấy bởi con mắt, tướng ấy được gọi là thủ tướng (uggahanimittam). Sự tu tập ấy được trở thành khá định tĩnh. Cũng vậy, khi một tợ tướng, nhờ định sanh ra, thoát khỏi các tỳ vết ban sơ, được chấp nhận như một khái niệm; được khéo an trú và tập trung trong tâm trí của một người khéo định tĩnh, người này tu thiền trên thủ tướng nhờ chuẩn bị định, như vậy khi ấy có thể nói rằng tợ tướng đã sanh. Sau đó, cận hành định, thoát ly khỏi các ràng buộc, thuộc Dục giới khởi lên. Rồi vị tu tập tợ tướng với cận hành định, chứng được sơ thiền của các giới. Bắt đầu từ đây, do đặt Sơ Thiền này dưới sự kiểm soát của mình bằng năm pháp tự tại - chuyển hướng, nhập định, trú định, xuất định, quán sát - vị ấy tinh cần tu tập, do loại bỏ các thô pháp như tầm v.v... và do phát triển các tế pháp như tứ v.v..., chứng được, theo thứ lớp, tùy theo trường hợp, nhị thiền và các thiền kế tiếp. 20) Như vậy, với 22 nghiệp xứ (hay tu pháp) như đất v.v... chứng được tợ tướng. Nhưng trong 18 nghiệp xứ còn lại, các vô lượng tâm dùng khái niệm chúng sanh làm đối tượng tu hành. - Kammatthànà nghiệp xứ, hành xứ hay công án. Danh từ này ở đây dùng theo nghĩa chuyên môn Kamma: hành động, đây chỉ hành thiền, Thàna: là xứ, đây chỉ đối tượng tu hành. Kammatthànà chỉ cho 40 đối tượng tu hành. Samatha: chỉ, từ ngữ nguyên Sam, làm cho nhiếp phục, an chỉ, do nhiếp phục các triền cái. Với chỉ hay định, các phiền não chỉ được nhiếp phục tạm thời. Vipassanà: Quán, từ ngữ căn vi + dis, thấy nghĩa là thấy sự vật là vô thường, khổ và vô ngã. Mục đích của quán là thấy sự vật cho đúng với thật tánh để có thể giải thoát. Carita: Hạnh nghĩa là bẩm tánh của một cá nhân, được phát lộ một cách hồn nhiên, khỏi phải bị lo lắng chút gì. Bẩm tánh con người khác nhau vì hành động mỗi người khác nhau. Có người tánh tham nặng (Ràgacarita), có người tánh sân nặng (dosacarita), có người tánh si nặng (mohacarita) - Vitakkacarita là người tánh hay giao động. Saddhàcarita là người nặng lòng tin, và Buddhacarita là hạng người thông minh. Như vậy có 6 loại tánh, phối hợp lại với nhau có đến 63 tánh, cộng thêm ditthicarita, kiến hành giả, có tất cả là 64 tánh. Những giai đoạn sơ khởi trong sự tu hành được gọi là Parikammabhàvanà, chuẩn bị tu tập. Từ khi chứng được tợ tướng và tạm nhiếp phục các triền cái đến Gotrabhù (chuyển tánh) trong lộ trình Jhàna Javana (Thiền tốc hành) được gọi là Upacàrabhàvanà hay Cận hành tu tập. Tâm sát-na liền sau chuyển tánh được gọi là Appanà hay An chỉ tâm, vì tầm tâm sở (vitakka), thiền chi thứ nhất an trú mạnh và chắc vào đối tượng. Lộ trình thiền tâm như sau: Ý môn hướng tâm - chuẩn bị tâm - Cận hành tâm - Thuận thứ tâm - Chuyển tánh tâm - An chỉ tâm - Hữu phần. Mọi đối tượng tu hành như Kasina (Biến xứ quán pháp), dùng để chuẩn bị tu tập gọi là Parikammanimitta (chuẩn bị tướng). Cùng một đối tượng ấy, khi tâm thấy với hai mắt nhắm gọi là Uggahanimitta (Thủ tướng). Hình ảnh tưởng tượng của đối tượng ấy, thoát khỏi mọi tỳ vết, được gọi là Patibhàganimitta (Tợ tướng), khi được dùng để tu tập cho Cận hành tu tập và An chỉ tu tập. Kasina: Biến xứ quán pháp, nghĩa là hoàn toàn, đầy đủ, khắp tất cả, sở dĩ gọi vậy vì ánh sáng phát xuất từ tợ tướng chiếu khắp tất cả không có hạn chế. Sự diễn tiến toàn diện trong sự tu tập Samatha (chỉ) từ khi ban sơ cho đến chứng quả sơ thiền được diễn tả sơ lược như sau: Người tu hành lựa một đối tượng (Kammatthàna) tùy theo tánh tình của mình, và nếu được, nên hỏi ý kiến vị Thiền sư. Rồi người tu tập hạn chế mọi tư tưởng phiêu lưu và chú tâm vào đối tượng được đặt tên chuyên môn là Parikammanimitta (Chuẩn bị tướng). Vị này ngó đối tượng với cặp mắt đều đặn và hoàn toàn chú tâm vào đối tượng ấy. Khi người ấy hoàn toàn chú tâm như vậy, một hình ảnh của đối tượng hiện ra, dầu hai mắt vẫn nhắm. Ðây là quả chứng đầu tiên trong diễn tiến tu hành. Hình ảnh này có đủ các tỳ vết của đối tượng và được gọi là Uggahanimitta hay Thủ tướng. Người tu hành cảm thấy tâm đã an bài, tâm hoan hỷ chú tâm vào thủ tướng. Sau khi vẫn tiếp tục tu hành, các tỳ vết của thủ tướng bị tiêu diệt và trở thành một hình tròn thật sáng suốt. Hình ảnh này được gọi là Patibhàganimitta hay tợ tướng. Ðây cũng là một thành quả quan trọng nữa của vị tu hành. Nhưng điều nên nhớ là Tợ tướng chỉ có thể khởi lên khi tu hành với 22 Kammatthàna hay nghiệp xứ, tức là 10 Kasina (Biến xứ quán pháp), 10 Bất tịnh quán, Kàyagatasati (thân phần niệm) và Ànàpànasati (Sổ tức quán). Chuẩn bị tướng và Thủ tướng có thể chứng được với tất cả Kammatthàna (nghiệp xứ). Khi tợ tướng hiện ra, cận hành định trở thành rất mạnh và mọi triền cái được diệt trừ và 5 thiền chi: Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm được hiện khởi, sơ thiền chứng được và đạt đến An-chỉ định (Appanà). Ðến đây, người tu hành thận trọng không muốn chứng các cảnh giới thiền cao hơn, trước khi huấn luyện, cảnh giới thiền mới chứng được cho thuần thục. Có 5 phương pháp huấn luyện cho cảnh giới thiền được thuần thục: ii) Người tu hành phải có thể nhập thiền bất cứ lúc nào và chỗ nào cũng được. Như vậy gọi là Samàpajjanà vasì hay nhập thiền tự tại. iii) Người tu hành phải có thể an trú cảnh giới thiền bất cứ lúc nào và chỗ nào, và lâu dài hay ngắn hạn tùy theo ý muốn. Như vậy gọi là Adhitthànà vasì hay an trú tự tại. iv) Người tu hành phải có thể xuất định bất cứ lúc nào và chỗ nào cũng được. Như vậy gọi là Utthàna vasì hay xuất định tự tại. v) Người tu hành phải có thể quán sát trở lại cảnh giới thiền bất cứ lúc nào và tại chỗ nào, lâu mau tùy theo ý muốn. Như vậy gọi là Paccavekkhanà vasì hay quán sát tự tại. Ðối với thủy biến xứ (àpokasina), có thể dùng một chậu đầy nước không có màu, tốt hơn là nước mưa và chuyên chú trên đối tượng ấy và nói thầm "àpo, àpo", cho đến khi chứng được nhất tâm. Muốn làm Hỏa biến xứ (tejokasina) thời đốt lửa lên rồi ngồi nhìn đống lửa ấy ngang qua một lỗ tròn, trên một tấm thảm, một miếng da hay một miếng vải khoảng một gang bốn ngón đường kính và nói thầm "tejo, tejo". Muốn tu Phong biến xứ (vàyokasina), chú tâm vào gió thổi ngang qua khung cửa sổ hay một lỗ trong vách và nói thầm "vàyo, vàyo". Muốn làm sắc biến xứ (Rùpakasina), người ta dùng hình tròn theo đúng kích tấc rồi bôi màu xanh, vàng, đỏ hay trắng, và chú tâm vào màu ấy và thầm đọc tên màu mình đang dùng để tu hành. Người ta dùng các bông hoa có màu xanh, vàng, đỏ để tu tập. Quang biến xứ (àlokakasina) có thể dùng mặt trăng hay ánh sáng đèn không rung động hay trên vòng sáng chiếu trên tường do mặt trăng hay mặt trời chiếu vào ngang qua lỗ vách v.v..., và vừa nói thầm "àloka v.v..." Àkàsakasina, không biến xứ có thể dùng một lỗ hổng, một gang tay và 4 ngón tay đường kính, trong một ngôi nhà đóng kín, hay một miếng da hay bức tường v.v... và nói thầm "akàsa, akàsa". Ànàpànasati (Sổ tức) là tĩnh niệm trên hơi thở, một phương pháp tu hành hiện rất phổ thông. Àna nghĩa là thở vào, apàna nghĩa là thở ra, có thể hiểu trái ngược. Sau đây là một vài chỉ dẫn sơ lược về pháp môn này. Sau khi lựa một thế ngồi thích hợp, thở ra rồi ngậm
miệng. Xong thở vào thong thả nhẹ nhàng ngang qua lỗ mũi rồi
đếm
một. Rồi thở ra và đếm hai,
chú tâm theo hơi thở ra vào. Như vậy đếm
cho đến 10, luôn luôn chú tâm vào hơi thở. Ban đầu
rất dễ tán loạn tâm nên quên đếm
thường xảy ra. Không có gì đáng
ngại điều đó, chịu khó đếm lại và hết sức chú
tâm vào hơi thở. Dần dần con số có thể tăng
thêm, nhiều lần 10 số. Sau có thể không cần đếm
khi đã thuần thục. Có người thích đếm,
có người không, tùy theo căn
cơ. Ðiểm cần là chú tâm, chớ không phải đếm.
Sau khi tu pháp môn này, thâm tâm cảm thấy nhẹ nhàng
và an tịnh, như bay nổi trên hư không. Phương pháp này có
thể khiến con người nhận chân được
tánh vô thường của sự vật, vì thấy thân thể tùy
thuộc vào hơi thở. Hơi thở ngưng thì thân chết.
I. PÀLI VĂN. 22) Avasesesu ca dasasu kammatthànesu buddhagunàdi-kamàlambanamàrabbha parikammam katvà tasmim nimutte sàdhukamuggahite tatth’eva parikammam ca samàdhiyati, upacàro ca sampajjati. 22) Trong 10 nghiệp xứ (đối tượng tu hành) còn lại, khi sự chuẩn bị tu tập hướng đến các đối tượng như các đức tánh của Ðức Phật v.v... và khi tướng ấy được nắm giữ chặt chẽ, khi ấy vị tu hành được định tĩnh, và cận hành định được thành tựu. - Brahmavihàra: hay 4 vô lượng tâm, Từ, Bi, Hỷ, Xả. Brahma: Phạm, chỉ những vị trí cao thượng. Vihàra: Trú, phương pháp, lối sống. Cũng dùng danh từ Appamannà hay vô lượng tâm. Sở dĩ gọi vậy vì tâm này mở rộng cho tất cả chúng sanh. i) Mettà, (sanskrit: Maitri): Từ, được định nghĩa làm cho lòng mềm lại. Ðây không phải ái tình xác thịt hay tình thương riêng biệt. Kẻ thù trực tiếp của Từ là sân hận (kodha), kẻ thù gián tiếp là pema (ái tình). Từ bao trùm tất cả chúng sanh, không trừ một ai. Tột đỉnh của Từ là sự thể nhập cá thể với toàn thể chúng sanh, tha thiết muốn tất cả chúng sanh được hạnh phúc. Thái độ thương tưởng là cử chỉ chính của Từ. ii) Karunà: Bi, được định nghĩa như cái gì làm cho tâm rung động khi thấy người khác đau khổ hay khiến làm cho người khác đỡ đau khổ. Ðặc tướng chính là lòng ao ước muốn các người khác hết đau khổ. Kẻ thù trực tiếp của Bi là lòng độc ác (hinsà) và kẻ thù gián tiếp là ưu (domanassa). Bị bao trùm tất cả chúng sanh đau khổ và diệt trừ độc ác. iii) Mudità: Hỷ. Ðây không phải cảm tình suông mà cả một niềm hoan hỷ khi thấy người khác thành công hay phú quý. Kẻ thù trực tiếp là ganh ghét và kẻ thù gián tiếp là Pahàsa (hỷ tiếu). Ðặc tướng của Hỷ là sự vui vẻ khi thấy người khác được giàu sang và thành công. Hỷ bao trùm các chúng sanh được giàu sang. Hỷ trừ diệt arati (không hoan hỷ) và là thái độ tán thưởng của con người. iv) Upekkhà (Xả) là xem một cách vô tư, không thích không
ghét. Không phải là thản nhiên, nhưng chính là tâm trí thăng
bằng, thái độ thăng bằng giữa những thành công thất
bại của đời, giữa khen chê,
khổ lạc, đắc thất, có danh không
danh. Kẻ thù trực tiếp là ràga (tham) và kẻ thù gián
tiếp là lòng sắt đá, tàn nhẫn.
Xả diệt trừ chấp thủ và ghét bỏ. Thái độ
vô tư là đặc tướng của Xả.
Xả không phải là cảm giác trung lập mà chính là một
đức
tánh tốt đẹp. 10 Nghiệp xứ chỉ cho 8 niệm + 1 sanna + 1 vavatthana.
Với 10 nghiệp xứ này, không chứng được
An chỉ định.
I. PÀLI VĂN. Abhinnà ca nàma
Năm pháp thắng trí là: Thần túc thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhãn thông. - Tới đây, người tu hành có thể chứng các thắng trí hay thần thông. Sau khi dùng một đối tượng nào cũng được để chứng thiền thứ năm, vị này khởi lên từ thiền này, làm mọi sự phát nguyện cần thiết để chứng một thắng trí đặc biệt nào, chứng được thiền trên đối tượng ấy rồi thực hành thắng trí (thần thông). Ở đây, loại thiền mà người tu hành chứng được trước khi phát nguyện được gọi là Pàdaka pancama jhàna, hay thiền thứ năm làm cơ sở cho các thắng trí; và thiền khi làm các thần thông được gọi là Abhìnnà jhàna (Thắng trí thiền). Muốn làm thần thông gì, người tu hành từ Pàdakapancamajhàna khởi lên, làm các phát nguyện cần thiết và chứng được thắng trí thiền. Thần túc thông tức là bay trên hư không, đi trên nước, độn thổ, tạo ra hình tượng v.v... Thiên nhĩ thông: nghe được tiếng ở xa, nghe được tiếng muông thú. Tha tâm thông tức là biết được tâm trí của người khác. Túc mạng thông là nhớ được những kiếp trước của mình và của người khác. Thiên nhãn thông, thấy được những cảnh vật mà mắt phàm không thể thấy được. Cutùpapàtanàna: Sanh diệt trí cũng giống như thiên nhãn thông. Anàgatamsanàna: Biết về tương lai Yathàkammùpaganàna: Tùy nghiệp thú trí. Hai loại trí này đồng loại với thiên nhãn thông. 5 loại trí này thuộc thế gian trí. Àsavakkhayanàna: Lậu tận trí thuộc xuất thế gian. PHẦN HAI - VIPASSANÀ KAMMATTHÀNA:
I. PÀLI VĂN. - Vipassanà: Quán là giai đoạn thứ ba và cuối cùng trên con đường đi đến thành quả. Mục đích chính của quán là thấy sự việc như thật. Sammasananànam: Tư duy trí là suy tư các uẩn do nhiều phần tử họp thành. Sanh diệt trí: Suy tư một giai đoạn khởi lên trong khi một giai đoạn khác diệt xuống. Hoại trí: Suy nghĩ mọi vật hướng đến chỗ băng hoại. Bố úy trí: Thế giới như đáng sợ hãi. Quá hoạn trí: Thế giới đầy những hoạn nạn, nguy hiểm. Yếm ly trí: Ở đời, rất nhiều sự vật đáng yếm ly. Dục thoát trí: Thế giới cần phải thoát ly. Giản trạch trí: Lấy trí phân tích sự vật để giải thoát. Hành xả trí: Thái độ hỷ xả đối với sự vật hữu vi, không tham, không sân. Thuận thứ trí: Nhờ thực hành và chứng được 9 trí trên, nên có trí này. Sở dĩ gọi là thuận thứ vì trí này tùy thuận với 37 trợ đạo phẩm và hướng đến giác ngộ, giải thoát. Không tánh giải thoát: Nhờ quán vô ngã nên được
giải
thoát. Vô tướng giải thoát: Nhờ quán vô thường nên không
chấp tướng thường còn. Vô nguyện giải thoát: Nhờ quán
khổ, nên không có muốn tham đắm
chút gì.
I. PÀLI VĂN. 31) Upacàrasamàdhi appanàsamàdhi ceti duvidho pi samàdhi cittavisuddhi nàma. 32) Lakkhana-rasa-paccupatthàna-padatthàna vasena nàma-rùpapariggaho ditthivisuddhi nàma. 33) Tesameva ca nàmarùpànam paccaya-pariggaho kankhàvitarana-visuddhi nàma. 31) Tâm thanh tịnh gồm có hai loại định: Cận hành định và An chỉ định. 32) Kiến thanh tịnh nghĩa là sự thấu hiểu trọn vẹn các tướng, tác dụng, sự hiện khởi và trực tiếp nhân của sắc pháp và tâm pháp. 33) Ðoạn nghi thanh tịnh nghĩa là sự thấu hiểu trọn vẹn các trợ nhân của những sắc pháp và tâm pháp ấy. - Pàtimokkhasamvara silàm, Pàtimokkha nghĩa là cái gì giúp cho người tuân theo khỏi bị sa vào các ác thú. Pà có nghĩa là lời dạy của đức Phật. Atipamokkha: nghĩa là hết sức quan hệ. Pàtimokkha có nghĩa là lời dạy căn bản. Vì giới này gìn giữ không làm các hành động bất thiện nên gọi là Samvara (Hộ trì). Sìla đấy có nghĩa là chánh trì (Samàdhàna), làm cho thăng bằng, định tĩnh. Cũng có nghĩa là Upadhàrana, chống đỡ, giúp đỡ. Sở dĩ gọi vậy vì giới có khả năng điều hòa các ý nghĩ, lời nói, việc làm và hoạt động như một sự giúp đỡ hộ trì cho các giới khác. Indriyasamvarasìla nói đến sự nhiếp
phục các căn. Mạng thanh tịnh giới nói đến đời sống
của vị Tỳ Kheo, nuôi sống bằng những hành vi chân
chánh. Ðoạn nghi thanh tịnh là sự đoạn
trừ các nghi hoặc về vấn đề nhân quả, quá khứ, hiện
tại và vị lai. Sở dĩ gọi là thanh tịnh vì đoạn
trừ các tà kiến như tự nhiên sanh, vô nhân sanh v.v...
Ðể chứng được sự thanh tịnh này,
người tu hành suy tư đến những nguyên
nhân tạo ra sắc pháp và tâm pháp hiện tại và những nguyên
nhân bảo trì chúng trong hiện tại, vị ấy hiểu rằng khi
thọ sanh, tâm và sắc pháp hiện tại tùy thuộc vào vô minh,
ái, thủ và nghiệp quá khứ, trong khi đang
sống, sắc pháp tùy thuộc vào nghiệp, tâm, thời tiết
và đoàn thực, còn tâm pháp
thời tùy thuộc các căn và các
trần tương đương. Nhờ vậy người
tu hành hiểu nguyên nhân thứ hai trong 4 Ðế và trừ
được
Nghi.
I. PÀLI VĂN. Obhàso pìti passaddhi adhimokkho ca paggaho sukham nànamupatthànamupekkhà ca nikanti ceti. Obhàsàdivipassanupakkilesa paribandhapariggahavasena maggàmaggalakkhana-Vavatthànam maggàmagganànadassanavisuddhi nàma. - Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh:
Ðây
là pháp thanh tịnh thứ năm. Người
tu hành sau khi trừ nghi hoặc, lại tu quán để
hiểu cho thấu đáo vô thường, khổ và vô ngã. Vị
này hiểu đời sống luôn luôn trôi
chảy, không bao giờ dừng nghỉ, hạnh phúc chỉ tạm bợ và
đưa
đến thất vọng hoặc khổ đau. Cái gì vô thường là
đau
khổ, và đã là đau
khổ, thời không có cái gì là thực ngã. Sự sinh diệt
các pháp trở thành quá rõ ràng. Khi người tu hành chú tâm
quán tưởng, một hào quang tự thân mình phát ra do sự tu chứng
của mình. Vị ấy cảm thấy hoan hỷ, an lạc, khinh an. Vị
tu hành trở thành tinh cần và hỷ xả. Lòng tin tưởng tôn
giáo mãnh liệt hơn (thắng giải), niệm (sati) vững mạnh hơn
và trí trở thành thuần thục. Hiểu lầm tưởng rằng mình
đã
chứng Thánh quả, vì có
được hào
quang, người tu hành tha thiết mong cầu (nikanti) trạng thái
ấy. Nhưng rồi, vị này hiểu được,
ước vọng ấy chính là tùy phiền não (upakkilesa) ngăn
cản quả chứng và thật sự mình chưa chứng Thánh quả.
Do đó, vị tu hành cố gắng
phân biệt giữa chánh đạo và
tà đạo (maggàmagga). Sở dĩ
gọi là thanh tịnh, vì làm cho rõ ràng thế nào là chánh đạo.
Vị ấy hiểu đây là chánh đạo,
kia là tà đạo.
I. PÀLI VĂN. 36) Tassevam patipajjantassa pana vipassanà paripàkamàgamma idàni appanà uppajjissatìti bhavangam vocchijjitvà-uppanna-manodvàràvàvajjanànantaram dve tìni vipassanacittàni yam kinci aniccàdilakkhanamàrabbha parikammopacàrànulomanàmena pavattanti. Yà sikhàppattà sà sànulomà sankhàrupekkhà vutthànagaminì vipassanà ti pavuccati. Tato param gotrabhùcittam nibbànamàlambitvà putthujjanagottamabhibhavantam ariyagottamabhisambhontanca pavattati. Tassànantarameva ca maggo dukkhasaccam parijànanto samudayasaccam pajahanto nirodhasaccam sacchikaronto, maggasaccam bhàvanàsena appanàvìthimotarati. Tato param dve tìni phalacittàni pavattitvà nirujjhanti. Tato param bhavangapàto hoti. Puna bhavangam vocchinditvà paccavekkhanànànàni pavattanti. Maggam phalanca nibbànam paccavekkhati pandito
36) Sau khi đã tu quán như vậy, do sự thành thục của pháp tu quán, người tu hành nghĩ: "Nay an chỉ định sẽ khởi". Rồi hữu phần dừng lại, ý môn hướng tâm khởi lên, tiếp theo là hai hay ba quán tâm, những quán tâm này lấy các pháp ấn như vô thường v.v... làm đối tượng. Chúng được gọi là chuẩn bị, cận hành và thuận thứ tâm. Xả trí ấy đối với các pháp hữu vi cùng với thuận thứ trí khi đã thuần thục cũng được gọi là xuất khởi chí quán. Sau đó chuyển tánh tâm, lấy Niết Bàn làm đối tượng khởi lên, vượt lên trên phàm phu tánh và đạt đến Hiền thánh tánh. Tiếp liền theo tâm ấy là (Dự lưu), Ðạo, biết được Khổ đế, trừ được Tập đế, chứng được Diệt đế, tu được Ðạo đế, bước vào lộ trình của An chỉ tâm. Tiếp theo là hai hay ba quả tâm khởi lên rồi diệt vào trong Hữu phần. Rồi Hữu phần dừng lại và quán sát trí khởi lên. Kẻ trí quán sát Ðạo, quả và Niết Bàn. Có thể quán sát hay không quán sát các phiền não đã được diệt trừ và các phiền não khác. Như vậy con đường Bốn ngành cần phải được tu tập tuần tự bởi sáu pháp thanh tịnh. Con đường ấy được gọi là Tri kiến thanh tịnh. - Hành đạo tri kiến thanh tịnh là thanh tịnh thứ sáu. Ðây là danh từ áp dụng chung cho 9 loại trí, bắt đầu từ sanh diệt trí cho đến thuận thứ trí. Thuận thứ trí này khởi lên liền trước Chuyển tánh tâm. Vutthànugàminìvipassanà: Xuất khởi quán là danh từ dùng chung cho Sankhàrupekkhànàna (Hành xả trí) và Anulomanàna (Thuận thứ trí). Sở dĩ gọi vậy vì pháp quán này khiến con người thoát khỏi các ác thú và khỏi các đặc tánh của pháp hữu vi. Gotrabhù: Chuyển tánh nghĩa là trừ được phàm phu tánh. Ðối tượng của tâm này và Niết Bàn, nhưng sự chứng ngộ Niết Bàn do diệt trừ các phiền não thiệt sự bắt đầu từ Ðạo tâm sát na tiếp liền theo đó. Sát na tâm đặc biệt này ở ba Thánh quả cao hơn được gọi là Vodàna (Thanh tịnh) vì người tu hành nay đã trở thành bậc Thánh. Dự lưu đạo tâm khởi lên sau chuyển tánh tâm chính ở đạo tâm này, người tu hành hiểu Khổ đế, trừ Tập đế, thực sự chứng Diệt đế lần đầu tiên trong đời mình. Bát Chánh đạo được thành tựu toàn diện ở giai đoạn này. Tâm sát na này được gọi là Dự Lưu Ðạo (Sotàpatti-magga). Sota là lưu, giòng hiền thánh. Àpatti: là vào lần đầu tiên. Sở dĩ gọi là Magga, vì khi tâm này khởi lên, các phiền não được diệt trừ. Ðạo tâm (Maggacitta) chỉ khởi lên một lần trong một đời người, rồi được tiếp theo bởi 2 hay 3 quả tâm, trước khi rơi vào Hữu phần (Bhavanga). Ðó là lý do tại sao Dhamma (Pháp) được gọi là Akàliko nghĩa là hữu hiệu tức khắc. Paccavekkhananàna: Quán sát trí. Theo lệ thường, sau mỗi giai đoạn của 4 Thánh quả, người tu hành quán sát Ðạo và Quả vừa mới chứng được, quán sát Niết Bàn vừa mới chứng được, quán sát các phiền não vừa mới đoạn diệt được, và trong trường hợp ba Thánh quả đầu, quán sát các phiền não sẽ phải đoạn diệt. Một vị A La Hán đã đoạn trừ tất cả phiền não biết rằng mình đã giải thoát. Có tất cả 19 loại quán sát trí như vậy, 15 thuộc về ba Thánh quả trên, 4 thuộc về Thánh quả cuối cùng. Câu Pàli "n’àparam itthatthàya": Không còn trạng thái như vậy nữa, tức chỉ cho sự diễn tiến quán sát này. Nànadassanavisuddhi: Tri kiến thanh tịnh chỉ cho quán trí, một trạng thái tâm lý giác ngộ được tìm thấy ở Ðạo tâm. Ở dĩ gọi là thanh tịnh, vì thoát khỏi mọi ô nhiễm và phiền não, vì đã chứng được 4 Thánh quả. I. PÀLI VĂN. Tuy vậy, trong lộ trình chứng quả, đối với vị nào tu quán theo như cách thức đã nói đến trước, các quả chứng khởi lên tùy theo các chánh Ðạo, chỉ được gọi là Chơn không giải thoát v.v... tùy theo sự quán hành. Nhưng đối với đối tượng và tác dụng, cả ba tên đều được áp dụng giống nhau cho tất cả (Ðạo và Quả), trong mọi trường hợp. - Attàbhinivesa: Chấp thủ tự ngã, như chấp có người hành động, có người gặt kết quả, đây là linh hồn, tự ngã của tôi. Vipallàsanimittam: Ðiên đảo tướng. Có ba điên đảo tướng: Sannàvipallàsa: Tưởng điên đảo, Cittavipallàsa: Tâm điên đảo. Ditthivipallàsa: Kiến điên đảo. Ba điên đảo này được trừ diệt nhờ quán vô thường. Tanhàpanidhi: Những tham ái
như cái này của tôi, đây là
hạnh phúc v.v...
I. PÀLI VĂN. - Sotàpanno: Vị đã nhập lưu dẫn đến Niết Bàn đầu tiên. Có ba hạng Dự Lưu: ii) Những hạng tái sanh vào các gia đình quý tộc, hai hay ba lần trước khi chứng quả A La Hán (Kolamkola: Gia gia). iii) Những hạng chỉ phải tái sanh một lần, trước khi chứng quả A La Hán. (Ekabìja: Nhứt chủng). Sakadàgàmi: Nhứt lai, những vị chỉ tái sanh làm người một lần nữa. Sau khi chứng quả Nhất Lai ở đời này, các vị này có thể tái sanh ở Thiên giới hay chứng quả A La Hán trong khi sống ở nhân giới. Có 5 hạng Nhứt Lai: ii) Những vị chứng quả Nhứt Lai tại Thiên giới và nhập Niết Bàn tại chỗ ấy. iii) Những vị chứng quả Nhứt Lai ở cảnh giới này và nhập Niết Bàn ở Thiên giới. iv) Những vị chứng quả Nhứt Lai ở Thiên giới, và nhập Niết Bàn ở nhân giới. v) Những vị chứng quả Nhứt Lai ở cảnh giới hiện tại, và sau khi tái sanh ở Thiên giới, muốn sanh lại ở nhân giới và nhập Niết Bàn tại cảnh giới này. ii) Những vị chứng Niết Bàn trong hậu bán phần đời sống ở Tịnh Cư Thiên (upahacca parinibbàyi: Sanh Bát Niết Bàn, tổn hại Bát Niết Bàn). iii) Những vị chứng Niết Bàn, cần có tinh tấn (sasankhàraparinibhàyi: Hữu hành Bát Niết Bàn). iv) Những vị chứng Niết Bàn, không cần tinh tấn (asankhà-raparinibbàyi: Vô hành Bát Niết Bàn). v) Những vị vượt qua từ Phạm thiên giới này đến Phạm thiên khác cao hơn để chứng Niết Bàn trong Phạm thiên giới cao nhất. Uddhamsota akanittha-gàmi: Thượng lưu sắc cứu kính thiên hành giả. Ban đầu người tu hành tu tập Kiến thanh tịnh để thấy như thật các sự vật. Với nhứt tâm, vị này phân tích cái gọi là con người, và nhận thấy tự thân chỉ là một sự tổng hợp của các tâm pháp và sắc pháp, luôn luôn thay đổi biến dịch. Sau khi đã có quan điểm đứng đắn về thực tánh cái gọi là con người, sau khi đã thoát khỏi những ý niệm sai lạc về tự ngã, người tu hành tìm xem nguyên nhân của tự ngã ấy. Vị này biết rằng, mọi sự vật ở đời đều do nhiều nhân duyên họp thành, thuộc quá khứ hay hiện tại, và sự hiện hữu của đời sống hiện tại là do vô minh quá khứ (avijjà) và do ái (tanhà), thủ (upàdàna), nghiệp (kamma) và đoàn thực (àhàra) của hiện tại. Do năm nhân duyên này, cái gọi là con người sanh ra, và vì nhân quá khứ chi phối hiện tại, nhân hiện tại cũng sẽ chi phối quả vị lai. Suy tư như vậy, vị tu hành vượt lên mọi nghi ngờ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Rồi vị tu hành suy tư về lý vô thường, khổ, vô ngã của mọi pháp hữu vi. Chỗ nào vị này nhìn đến, cũng thấy rõ ba pháp ấn này chi phối mọi sự vật, đời sống chỉ là một giòng nước trôi chảy, chi phối bởi nội duyên và ngoại duyên. Không chỗ nào, vị này thấy hạnh phúc vì mọi vật đều biến dịch. Khi tự mình tu quán về thực tánh của đời sống và luôn luôn chìm sâu trong quán tưởng, một ngày nào đó, thân mình tự phát hào quang (obhàsa) trong sự ngạc nhiên của chính mình. Vị tu hành cảm thấy hoan hỷ, an lạc, khinh an, tu hành tinh tấn hơn, suy tư mãnh liệt hơn, tâm được an bình, chánh niệm được mạnh mẽ và trí tuệ trở thành thuần thục. Hiểu lầm những biến chứng ấy là Thánh quả, nhất là thấy thân mình có hào quang, người tu hành cảm thấy ưa thích trạng thái này. Nhưng rồi hiểu rằng những triệu chứng trên là những trở ngại trên đường tu hành, vị này hướng tâm tu tập Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh. Nhận thức được chánh đạo, vị này tu tập trở lại, hướng tâm đến sanh trí (udayanàna) và diệt trí (vayanàna) của mọi pháp hữu vi, đặc biệt về diệt trí nhiều hơn vì sự biến dịch chịu sự nhận thức rõ ràng hơn sự sanh khởi. Do đó, vị này hướng tâm đến diệt trí (bhanganàna) và nhận thức được cả tâm pháp và sắc pháp tập hợp thành 5 uẩn luôn luôn biến dịch, không bao giờ giống nhau trong hai sát na, và người tu hành cảm thấy mọi vật đều đáng sợ hãi (bhayanàna). Cả thế giới hiện ra như hầm lửa, nguồn gốc của mọi hiểm nguy. Tiếp theo, vị này hướng tâm đến quán hoạn trí (àdìnavanàna) thấy rõ sự nguy hiểm của một thế giới hư ảo và có cảm giác nhàm chán (nibbidànàna), tiếp theo là một ý chí muốn thoát ly khỏi thế giới giả tạm này (muncitukàmyatànàna). Với mục đích này, nhà tu hành tiếp tục tu quán về ba pháp ấn (patisankhànàna), và sau đó, có thái độ xả ly với mọi pháp hữu vi - không tham, không sân đối với sự vật (upekkhànàna: xả trí). Khi đạt đến trình độ giải thoát này, vị tu hành lựa một trong ba pháp ấn để làm đối tượng đặc biệt để tu hành và nhiệt tâm tu quán cho đến một ngày nào đó, chứng được Niết Bàn. Khi người tu hành chứng được Niết Bàn lần thứ nhất, vi này được gọi là Sotàpanna (Dự Lưu), vì đã nhập giòng hướng đến Niết Bàn. Giòng nước này chỉ cho 8 Chánh đạo, và vị Dự Lưu không còn là phàm phu (puthujjana) mà trở thành bậc Thánh (ariya). Khi chứng được Dự lưu quả, vị tu hành trừ diệt 3 Kiết sử (samyojàna): Thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Sakkàyaditthi: Thân kiến: Sati + kàya + ditthi, nghĩa là tà kiến xem rằng một tập thể có hiện hữu. Kàya: tập thể chỉ cho 5 uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn, hay nói một cách khác tâm pháp và sắc pháp. Quan điểm xem rằng có một tự ngã thường hằng, khi mà thực sự chỉ là sự kết hợp của tâm pháp và sắc pháp, gọi là sakkàya ditthi (Thân kiến). Vicikicchà: Nghi ngờ đối với Phật, Pháp, Tăng, Học giới (Sikkhà), quá khứ, vị lai, cả quá khứ và vị lai và Lý duyên khởi. Sìlabbataparàmàsa: Giới cấm thủ, chấp thủ một vài giới cấm và nghi lễ có thể làm con người được thanh tịnh. Ðể diệt trừ 7 kiết sử còn lại, vị Dự lưu chỉ sinh lại nhiều nhất 7 lần. Vị này càng tin tưởng ba ngôi báu, không bao giờ phạm 5 giới, khỏi rơi vào các ác thú, vì thế nào cũng được giải thoát. Với lòng tin tưởng càng mới mẻ vì đã nhìn thấy sơ qua pháp vị Niết Bàn, người tu hành càng tinh tấn tu tập và chứng quả nhứt lai, với sự giảm thiểu 2 kiết sử kàmaràga: Dục ái và Patigha: Sân. Khi trừ diệt hoàn toàn 2 kiết sử này, vị tu hành chứng quả Niết bàn Bất lai, không còn tái sanh ở thế giới này cũng như không còn sinh ở Thiên giới nào khác, vì mọi Dục ái đã được đoạn trừ. Sau khi chết, vị này sanh lên cõi Tịnh Cư Thiên, một cảnh giới dành riêng cho các vị Bất Lai và A La Hán. Một cư sĩ có thể chứng quả Bất lai, nếu sống đời sống độc thân. Vị Bất Lai, sau khi trừ diệt 5 kiết sử còn lại Rùparàga (Sắc ái), arùparàga (Vô sắc ái), màna (mạn), uddhacca (Trạo cử), và avijjà (Vô minh), chứng được quả A La Hán. Các vị Dự Lưu, Nhứt Lai và Bất Lai được gọi là Sekha (Hữu học), vì còn phải tu tập. Vị A La Hán được gọi là Asekha (Vô học) vì không còn gì phải tu tập. Một vị A La Hán không còn tái sanh, vì không còn tạo ra các nghiệp (kamma) mới, và mầm giống tạo thành sắc pháp cũng được trừ diệt. Vị A La Hán nhận thức được,
những gì cần làm đã
làm xong, một gánh nặng đã
đặt
xuống, mọi hình thức tham ái và mọi bóng dáng vô minh
đã
được
trừ diệt. Vị chiêm bái sung sướng, đứng
trên tột
đỉnh hơn cả Thiên
giới, thoát ly tất cả nghiệp chướng và kiết sử ở trên
đời.
I. PÀLI VĂN. Trong trường hợp này, một vị tiếp tục chứng các quả đại hành như sơ thiền v.v... rồi từ các thiền này khởi lên quán các pháp hữu vi trong mỗi một thiền này. Như vậy, vị này tiếp tục chứng vô sở hữu xứ thiền. Rồi, sau khi hoàn tất những tiền công tác như phát nguyện v.v..., vị này chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau hai an chỉ tốc hành tâm, dòng tương tục của tâm bị dừng lại. Tiếp theo vị này chứng Diệt tận định. Khi từ định này khởi lên, nếu là vị Bất Lai, thời Bất Lai quả tâm - nếu là vị A La Hán quả tâm khởi lên chỉ có một lần rồi chìm xuống Hữu phần. Sau đó quán sát trí khởi lên. - Nirodhasamàpatti: Diệt tận định. Sở dĩ gọi vậy vì trong giai đoạn này, giòng tâm tương tục tạm thời dừng lại không chảy, Tâm dừng lại, nhưng mạng sống vẫn tiếp tục. Chỉ có vị Bất Lai hay A La Hán đã chứng các Sắc giới Thiền và Vô sắc giới Thiền mới chứng được Diệt tận định. Khi vị tu hành muốn chứng Diệt tận định, vị này chứng sơ thiền và từ thiền này khởi lên, vị này quán tánh vô thường, khổ, vô ngã của các pháp hữu vi trong cõi thiền này. Cũng vậy, vị này chứng các thiền còn lại và quán tương tự cho đến vô sở hữu xứ ở vô sắc giới. Từ thiền này khởi lên, vị này phát 4 lời nguyện như sau: ii) Tự mình xuất định khi giáo hội cần đến mình, iii) Tự mình sẽ xuất định khi đức Phật cho gọi iv) Có nên sống quá hơn bảy ngày từ khi xuất định. Sau khi đã phát nguyện, vị tu hành chứng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cảnh giới vô sắc cao nhất rồi sống trong định này đến hai tốc hành sát na tâm. Sau đó, chứng được Diệt tận định khi giòng tâm liên tục được dừng lại. Sau bảy ngày, người tu hành xuất định này, và chứng được trong một sát na, Bất lai quả tâm nếu là một vị Bất Lai, hay A La Hán quả tâm, nếu là một vị A La Hán. Sau đó Hữu phần tâm khởi lên. -HẾT- Ghi chú: Có thể tham chiếu thêm với: 1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh (với đầy đủ các ký tự Pàli). Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | Phụ lục |
Source BuddhaSasana[ Trở Về ]