CHƯƠNG NĂM
VÌTHIMUTTA (Ra ngoài lộ trình):
CÁC ÐỀ TÀI ÐƯỢC BÀN ÐẾN
I. PÀLI VĂN.
- 1) Vìthicittavasenevam pavattiyamudìrito, Pavattisangaho nàma
sandhiyan dàni vuccati.
2) Catasso bhùmiyo, catubbidhà patisandhi, cattàri kammàni, catudhà
maranuppatti ceti vìthimuttasangahe cattàri catukkàni veditabbàni.
II. THÍCH VĂN.
- Pavattiyamudìrito: Ðã giải thích sự diễn tiến của
tâm. Vìthicittavasena: Theo lộ trình của tâm. Sandhiyam: Sự nối
liền. Dàni: Nay. Cuccati: Nói đến.
Maranuppatti: Nhân của chết. Vìthimuttasangaho: Sự tổng
hợp các pháp ra ngoài lộ trình. Veditabbàni: Cần phải biết
đến.
III. VIỆT VĂN.
- 1) Ðã nói đến sự diễn tiến
của tâm qua lộ trình. Nay nói đến
sự diễn tiến của tâm lúc tái sanh.
2) Trong sự tổng hợp của tâm thoát ngoài lộ trình, 4 loại
4 thứ cần được biết tức là
4 địa, 4 sự tái sanh, 4 nghiệp, 4
nguyên nhân của chết.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Sự diễn tiến của tâm có hai: 1) Ngang qua lộ trình (Vìthicitta)
như đã nói đến
trước. 2) Khi tái sanh, tiếp nối từ đời nay qua đời khác.
Phần trước đã nói đến trong
các chương trước. Nay nói đến phần thứ hai.
BỐN ÐỊA
I. PÀLI VĂN.
- 3) Tattha apãyabhùmi, kãmasugatibhùmi, rùpàvacarabhùmi,
arùpàvacarabhùmi ceti catasso bhùmiyo nàma.
4) Tàsu, nirayo, tiracchànayoni, pettivisayo, asurakàyo ceti apàyabhùmi
catubbidhà hoti.
5) Manussà càtummahàràjikà, tàvatinsà, tusità, nimmànarati,
paranimmitavasavattì ceti kàmasugatibhùmi sattavidhà hoti.
Sà panàyam, ekàdasavidhà pi kàmàvacarabhùmicceva sankhamgacchati.
II. THÍCH VĂN.
- Apàyabhùni: Ác thú địa. Kàmasugatibhùmi:
Dục giới thiện thú địa. Niraya:
Ðịa
ngục. Tiricchànayoni: Súc sanh. Pettivisaya: Ngạ quỷ. Asurakàya:
A-tu-la. Càtummahàràjikà: 4 thiên vương. Tàvatimsà: Tam thập
tam thiên. Yàmà: Dạ ma thiên. Tusità: Ðâu suất đà
thiên. Nimmànarati: Hóa lạc thiên. Paranimmitavasavattì: Tha hóa
tự tại thiên. Sattavidhà: Có 7 loại. Sankham gacchanti: Tổng
hợp.
III. VIỆT VĂN.
- 3) Ở đây 4 địa là Ác
thú địa, Dục giới thiên địa,
Sắc giới địa, Vô sắc giới địa.
4) Ở đây ác thú địa này
có 4 = Ðịa ngục, súc sanh, ngã quỷ và A-tu-la.
5) Dục giới thiên có 7 = Loài người, Tứ thiên vương,
Tam thập tam thiên, Dạ ma thiên, Ðâu suất đà
thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên.
Như vậy Dục giới địa tổng cộng
có 11 cõi tất cả.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Apàya: apa + aya: Chỗ không có hạnh phúc. Niraya: Nis +
aya (từ chữ ì): Ði đến chỗ tiêu
diệt.
Tiracchàna: Tiro: Ngang Acchàna: Ði. Các súc sanh đi
ngang, bò xuống, không đi thẳng
như người.
Peta: Pa + i + ta: Chúng sanh đã
đi
nghĩa là đã chết. Chúng
không phải là ma quỷ vô hình. Chúng có sắc thân nhưng mắt
người không có thể thấy. Chúng không có cảnh giới riêng.
Chúng sống trong rừng hay tại các chỗ nhớp nhúa.
Asura nghĩa là những vị không có hoan lạc hay không có chói
sáng. Những A-tu-la này khác với một loại A-tu-la thù nghịch
với chư thiên và sống ở Tam thập tâm thiên.
Manussa: Loài người. Ma-no Ussannam etesam, những người có
những tâm cao thượng. Chữ Phạm Manusya nghĩa là con của Manu,
loài người trở thành văn minh sau
vị tu sĩ Manu.
Càtummahàràjika: Tứ thiên vương. Cõi này là cõi thấp nhất
trong các cõi chư Thiên.
Tàvatimsa: Tam thập tam thiên Sakka, Ðế Thích ở tại đây.
Sở dĩ được gọi như vậy là theo tích truyện có 33
vị, dưới sự hướng dẫn của Magha đã
làm những thiện sự và được sinh
vào cõi này.
Yàma: Yam nghĩa là tàn phá, diệt trừ. Diệt trừ khổ đau
nên gọi là Yàma.
Tusita: Những vị sống sung sướng. Theo tục truyền, vị
Bồ tát tương lai sống tạ đây và
chờ đợi cơ hội thuận tiện để
sinh ra làm người và thành Phật.
Nimmànarati: Những vị sống hoan lạc trong những lâu đài
tự tạo ra.
Paranimmitavasavatti: Những vị đem
dưới quyền của mình các vật do các vị khác hóa hiện.
SẮC GIỚI THIÊN VÀ VÔ SẮC GIỚI THIÊN
I. PÀLI VĂN.
- 6) Brahamapàrisajjà, Brahmapurohità, Mahàbrahmà ceti pathamajjhànabhùmi,
Parittàbhà, Appamànàbhà, Àbhassarà ceti dutiyajjhànabhùmi. Parittasubhà,
Appamànasubhà, Subhakinhà ceti tatiyajjhànabhùmi. Vehapphalà, Asannasattà,
Suddhàvàsà ceti catutthajjhànabhùmì ti rùpàvacarabhùmi solasavidhà
hoti. Avihà, Atappà, Sudassà, Sudassì, Akanitthà ceti suddhàvàsa-bhùmi
pancavidhà hoti.
7) Àkàsànancàyatanabhùmi, Vinnànancàyatanabhùmi, Àkincànnàyatanabhùmi,
Nevasannànàsannàyatanabhùmi ceti arùpabhùmi catubbidhà hoti.
II. THÍCH VĂN.
- Brahmapàrisajjà: Phạm chúng thiên. Brahmapurohità: Phạm
phụ thiên. Mahàbrahmà: Ðại Phạm Thiên. Parittàbhà: Thiểu
quang thiên. Appamànàbhà: Vô lượng quang thiện. Àbhassarà:
Quang âm thiên. Parittasubhà: Thiểu tịnh thiên. Appamanàsubhà:
Vô lượng tịnh thiên. Subhakinhà: Biến tịnh thiên. Vehapphalà:
Quảng quả thiên. Asannasattà: Vô tưởng thiên. Suddhàvàsà:
Phước sanh thiên. Solasavidhà: 16 loại. Avihà: Vô phiền thiên.
Atappà: Vô nhiệt thiên. Sudassà: Thiện hiện thiên. Sudassì:
Thiện kiến thiên. Akanitthà: Sắc cứu cánh thiên.
III. VIỆT VĂN.
- 6) Ðệ nhứt thiền thiên có ba: Phạm chúng thiên. Phạm
phụ thiên. Ðại Phạm thiên. Ðệ nhị thiền thiên có ba:
Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên. Ðệ
tam thiền thiên có ba: Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên,
Biến tịnh thiên. Ðệ tứ thiền thiên có ba: Quảng quả thiên,
Vô tưởng thiên, Phước sanh thiên. Phước sanh thiên chi làm
5: Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện hiện thiên, Thiện
kiến thiên và Sắc cứu kính thiên.
7) Vô sắc giới thiên có 4: Không vô biên xứ thiên, Thức
vô biên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiên và Phi tưởng phi
phi tưởng xứ thiên.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Có ba Phạm thiên, chỗ sanh trưởng của những vị đã
chứng sơ thiền. Cảnh giới thấp nhất là Phạm chúng thiên
nghĩa là những vị sanh ra giữa những đồ
chúng của Ðại Phạm Thiên. Cảnh thứ hai là Phạm phụ
thiên nghĩa là những phụ tá, những tổng trưởng của Ðại
Phạm Thiên. Cảnh giới thứ ba là Ðại Phạm Thiên. Các vị
này được gọi vậy vì các
vị này sống lâu hơn; hình thái đẹp
hơn và nhiều hạnh phúc hơn.
TOÁT YẾU
I. PÀLI VĂN.
- 8) Puthujjanà na labbhanti suddhàvàsesu sabbathà.
Sotàpannà ca sakadàgàmino càpi puggalà.
Ariyà nopalabbhanti asannàpàyabhùmisu.
Sesatthànesu labbhanti aryànariyà pi ca.
II. THÍCH VĂN.
- Puthujjanà: Phàm phu. Suddhàvàsesu: Ở Phước sanh thiên.
Ariyà: Các bậc thánh. Anariyà: Các bậc không phải thánh.
III. VIỆT VĂN.
- 8) Ở Phước sanh thiên, các phàm phu, các bậc Dự lưu,
Nhứt Lai không có sanh trong mọi trường hợp. Các vị Thánh
không có sanh trong Vô tưởng thiên và ác thú. Các vị Thánh
hay không phải Thánh sanh trong những cảnh giới còn lại.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ở Phước sanh thiên, chỉ có các vị A-na-hàm và A la hán
sanh. Các vị A-na-hàm được sanh ở
đây, chứng quả A la hán và sống cho đến
khi thọ mạng mãn.
CÁC LOẠI KIẾT SANH THỨC Ở ÁC THÚ
I. PÀLI VĂN.
- 9) Apàyapatisandhi, kàmasugatipatisandhi, rùpàvacarapatisandhi,
arùpàvacarapatisandhi ceti catubbidhà patisandhi nàma.
10) Tattha akusalavipàkopekkhàsahagatasantìranam apàyabhùmiyam
okkantikkhane patisandhi, hutvà, tato param bhavangam, pariyosànecavanam
ca hutvà vocchijjati. Ayamekàpàyapatisandhi nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Okkantikkhane: Khi thác sanh vào. Pariyosàne: Cuối cùng.
III. VIỆT VĂN.
- 9) Kiết sanh thức có 4: Ác thú kiết sanh thức, Dục
giới thiên kiết sanh thức, Sắc giới thiên kiết sanh thức
và Vô Sắc giới thiên kiết sanh thức.
10) Ở đây, Suy đạc tâm, bất thiện
dị thục tương ưng với xả làm Kiết sanh thức khi
thác sanh vào Ác thú, rồi thành Hữu phần, cuối cùng thành
Tử thức và bị diệt. Ðó là kiết sanh thức độc
nhất ở Ác thú.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kiết sanh thức ở Ác thú là Suy đạc
tâm câu hữu với xả và thuộc bất thiện dị thục.
KIẾT SANH THỨC Ở DỤC GIỚI
I. PÀLI VĂN.
- 11) Kusalavipàkopekkhàsahagatasantìranam pana kàmasugatiyam
manussànam ceva jaccandhàdìnam, bhummanissitànam ca vinipàtikasurànam
patisandhi-bhavanga-cuti-vasena pavattati. Mahàvipàkàni pana attha sabbatthà
pi kàmasugatiyam patisandhi-bhavanga-cuti-vasena pavattanti. Imà nava
kàmasugatipatisandhiyo nàma.
Sà panàyam dasavidhà pi kàmàvacarapatisandhicceva sankham gacchati.
II. THÍCH VĂN.
- Jaccandhàdìnam: Những người sanh ra đã
mù v.v... Bhummanissitànam: Bị hệ thuộc với địa
giới. Vinipàtikàsurànam: Những A-tu-la bị đọa
lạc. Dasavidhà: Có 10 loại. Sankham gacchati: Tổng quát,
tổng cộng.
III. VIỆT VĂN.
- 11) Thiện Dị-thục Suy-đạc
câu hữu với xả làm phận sự Kiết sanh thức, Hữu
phần và Tử tâm cho những người sinh ra đã
mù v,v... và những A-tu-la bị đọa
lạc. Còn 8 Ðại Dị-thục trong mọi trường hợp làm
phận sự Kiết sanh thức, Hữu phần và Tử tâm cho những
chúng sanh sanh ở Dục giới thiên. 9 Kiết sanh thức này gọi
là Kiết sanh thức trong Dục giới thiên. Những Kiết sanh thức
ấy họp thành Kiết sanh thức ở Dục giới.
SỐ LƯỢNG TUỔI THỌ
I. PÀLI VĂN.
- 12) Tesu catunnam apàyànam, manussànam vinipàtikàsurànam
ca àyuppamànagananàya niyamo natthi. Càtummahàràjikànam pana devànan
dibbàni pancavassasatàni àyuppamànam. Manussagananàya navutivassasatasahassappamànam
hoti. Tato cattuggunam tàvatimsànam. Tato catuggunam yàmànam. Tato
catuggunam tusitanam. Tato catuggunam nimmànaratìnam. Tato catuggunam
tusitanam. Tato catuggunam nimmànaratìnam. Tato catuggunam paranimmitavasavitìnam
devànam ayùppamànam.
13. Navasatam cekavìsa vassànam kotiyo tathà,
Vassasatasahassàni satthi ca vasavattisu.
II. THÍCH VĂN.
- Àyuppamànaganana: Số lượng tuổi thọ. Yiyamo natthi: Không
có hạn định. Dibbàni pancavassasatàni:
500 tuổi trời. Navutivassasatasahassappamànam: Số lượng 9.000.000
năm. Catuggunam: 4 lần nhiều hơn. Navasatam:
900. Ekavìsa: 21. Koti: 10 triệu (10.000.000).
III. VIỆT VĂN.
- 12) Không có hạn định về số
lượng tuổi thọ của những chúng sanh sanh ở 4 cõi
Ác thú, của loài người và các A-tu-la bị đọa
lạc. Số lượng tuổi thọ của Tứ-thiên-vương là
500 tuổi trời. Tính toán theo tuổi người là 9.000.000 năm.
Tuổi thọ của Tam thập tam thiên là 4 lần nhiều hơn,
của Dạ ma thiên là 4 lần nhiều hơn, của Ðâu suất thiên
là 4 lần nhiều hơn, của Hóa lạc thiên là 4 lần nhiều hơn
và của Tha hóa tự tại thiên là 4 lần nhiều hơn.
13. Thọ mạng của Tha hóa tự tại thiên là 9.216.000.000
tuổi người.
KIẾT SANH THỨC Ở SẮC GIỚI
I. PÀLI VĂN.
- 14) Pathamajjhànavipàkam pathamajjhànabhùmiyam patisandhi-bhavanga-cutivasena
pavattati, tathà dutiyajjhànavipàkam, tatiyajjhànavipàkanca, dutiyajjhànabhùmiyam,
catutthajjhànavipàkam tatiyajjhànabhùmiyam, pancamajjhànavipàkam
catutthajjhàna-bhùmiyam. Asannasattànam pana rùpameva patisandhi hoti,
tathà tato param pavattiyam cavanakàle ca rùpameva pavattitvà nirujjhati.
Imà cha rùpàvacarapatisandhiyo nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Tato param: Tiếp theo đó.
Cavanakàle: Khi lâm chung.
III. VIỆT VĂN.
- 14) Sơ thiền dị thục tâm tác động
ở sơ thiền giới, phận sự Kiết sanh thức, Hữu phần và
Tử tâm. Cũng vậy đệ nhị thiền
dị-thục tâm và đệ tam thiền
dị-thục tâm ở đệ nhị thiền thiên giới, đệ
tứ thiền dị-thục tâm ở đệ tam thiền thiên giới,
đệ
ngũ thiền dị-thục tâm ở đệ tứ thiền thiên giới.
Riêng đối với chúng sanh ở Vô tưởng
thiên, Kiết sanh thức là sắc pháp và tiếp theo đó
cũng vậy trong đời sống và khi lâm chung, chỉ có sắc
pháp tồn tại và diệt mất. Những tâm này là 6 Kiết sanh
thức ở Sắc giới.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Các địa giới thiền phân loại
theo kinh tạng nên chỉ có 4, nhị thiền và tam thiền
hợp lại thành một.
THỌ MẠNG TRÊN SẮC GIỚI THIÊN
I. PÀLI VĂN.
- 15) Tesu brahmapàrisajjànam devànam kappassa tatiyo bhàgo
àyuppamànam, brahmapurohitànam upaddhakappo, mahàbrahmànam eko kappo,
parittàbhànam dve kappàni, appamànàbhànam cattàri kappàni, àbhassarànam
attha kappàni, parittasubhànam solasa kappàni, appamànasubhànam dvattimsaka
ppàni, subhakinhànam catusatthi kappàni, vehapphalànam asannasattànanca
panca kappasatàni, avihànam kappasahassàni, atappànam vehapphalànam
dve kappasahassàni, sudassànam cattàri kappasahassàni, sudassìnam
attha kappasahassàni, akanitthànam solasa kappasahassàni.
II. THÍCH VĂN.
- Kappa: Kiếp. Tatiyo bhàgo: Một phần ba. Upaddhakappa: Một
nửa kiếp.
III. VIỆT VĂN.
- 15) Ở tại các cảnh giới này, thọ mạng của các vị
Phạm chúng thiên là 1/3 của một kiếp, các vị Phạm phụ
thiên là 1/2 của kiếp; của Ðại Phạm Thiên là một kiếp;
của Thiện quang thiên là 2 kiếp; của Vô lượng quang thiên
là 4 kiếp; của Quang Âm thiên là 8 kiếp; của Thiện tịnh
thiên là 16 kiếp, của Vô lượng tịnh thiên là 32 kiếp; của
Biến tịnh thiên là 64 kiếp; của Quảng quả thiên và Vô
tưởng thiên là 500 kiếp; của Vô phiền thiên là 1.000 kiếp;
của Vô nhiệt thiên là 2.000 kiếp; của Thiện hiện thiên
là 4.000 kiếp; của Thiện kiến thiên là 8.000 kiếp; của Sắc
cứu kính thiên là 16.000 kiếp.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kappa: Ở đây ở Ðại kiếp.
Có ba loại kiếp: Antarakappa (Trung kiếp), Asankheyyakappa (Vô
lượng kiếp) và Mahàkappa (Ðại kiếp). Antarakappa: Trung-kiếp
là thời gian tuổi con người lên từ 10 tuổi đến
vô số tuổi rồi trụt xuống chỉ có 10 tuổi. 20 trung kiếp
như vậy là vô số kiếp (asankheyyakappa), 4 vô số kiếp
thành một Ðại kiếp (mahàkappa). Một Ðại kiếp là thời
gian cần thiết để quăng cho hết
các hột cải trong một khoảng đất rộng, cao và dài
một do tuần, cứ 100 năm là
quăng một hột cải.
KIẾT SANH THỨC VÀ TUỔI THỌ Ở VÔ
SẮC GIỚI - TOÁT YẾU
I. PÀLI VĂN.
- 16) Pathamàruppàdivipàkàni pathamàruppàdibhùmisu yathàkkamam
patisandhi-bhavanga-cutivasena pavattati Imà catasso àruppapatisandhiyo
nàma.
17) Tesu pana àkàsànancàyatanùpagànam devànam vìsati kappasahassàni
àyuppamànam vinnànancàyatanùpagànam devànam cattàlisa kappasahassàni,
ãkincannàyatanùpagànam devànam satthi kappasahassàni, nevasannànàsannàyatanũpagànam
devànam caturàsìti kappasahassàni.
18) Patisandhi bhavangan ca tathà cavanamànasam,
Ekameva tatheveka-visayam cekajàtiyam.
II. THÍCH VĂN.
- Pathamàruppàdivipàkàni: Vô sắc đệ
nhứt thiền dị thục tâm v.v... Yathàkkamam: Tùy theo sự
thích hợp Àkàsànancàyatanùpagànam: Ðã chứng được
không vô biên xứ. Cavanamànasam: Tử tâm. Ekameva tatheva:
Giống nhau. Ekavisayam: Một đối tượng.
Ekajàtiyam: Trong một đời.
III. VIỆT VĂN.
- 16) Những dị thục tâm của đệ
nhứt thiền v.v... ở vô sắc giới hoạt động ở vô sắc
sơ thiền cảnh giới v.v... tùy theo sự thích hợp với
tánh cách Kiết sanh thức, Hữu phần và Tử tâm. Chúng là
4 Kiết sanh thức ở Vô sắc giới.
17) Ở những cảnh giới ấy, thọ mạng của Chư Thiên ở
không Vô biên xứ là 20 ngàn kiếp, của Chư Thiên ở Thức
vô biên xứ là 40 ngàn kiếp, của Chư Thiên ở Vô sở hữu
xứ là 60 ngàn kiếp, của Chư Thiên ở Phi tưởng phi phi tưởng
xứ là 84 ngàn kiếp.
18) Trong một đời sống, Kiết sanh
thức, Hữu phần và Tử tâm thuộc một loại và cùng
một đối tượng.
BỐN LOẠI NGHIỆP
I. PÀLI VĂN.
- 19) Janakamupatthambhakamupapìlakamupaghàtakam ceti kiccavasena,
garukamàsannamàcinnam katattàkammam ceti pàkadànapariyàyena, ditthadhammavedanìyam
upapajjavedanìyam aparà-pariyavedanìyam ahosikammam ceti pàkakàlavasena
cattàri kammàni nàma.
Tathà akusalam, kàmàvacarakusalam, rùpàvacarakusalam, arùpà-vacarakusalam
càti pàkatthànavasena.
II. THÍCH VĂN.
- Janaka: Sanh nghiệp. Upatthambhaka: Trì nghiệp. Upapìlaka:
Chướng nghiệp. Upaghàtaka: Ðoạn nghiệp. Kicca: Công tác. Garuka:
Cực trọng nghiệp. Àsanna: Cận tử nghiệp. Àcinna: Tập quán
nghiệp. Katattà: Tích lũy nghiệp. Pàkadànapari-yàyena: Theo sức
mạnh của quả báo. Ditthadhammavedananìya: Hiện báo nghiệp.
Upapajjavedanìya: Sanh báo nghiệp. Aparàpariyavedanìya: Hậu báo
nghiệp. Ahosikamma: Vô hiệu nghiệp. Pàkakàlavasena: Theo thời
gian của quả báo. Pàkatthànavasena: Theo vị trí của quả báo.
III. VIỆT VĂN.
- 19) Về phương diện công tác, có bốn loại nghiệp:
sanh nghiệp, trì nghiệp, chướng nghiệp và đoạn
nghiệp.
Về phương diện sức mạnh thứ tự đưa
đến hình thành của quả báo, có bốn loại nghiệp:
cực trọng nghiệp, cận tử nghiệp, tập quán nghiệp và tích
lũy nghiệp.
Về phương diện thời gian đưa
đến sự thọ lãnh kết quả của nghiệp, có bốn loại
nghiệp: hiện báo nghiệp, sanh báo nghiệp, hậu báo nghiệp
và vô hiệu nghiệp.
Về phương diện vị trí quả báo, có bốn loại nghiệp:
bất thiện nghiệp, dục giới thiện nghiệp, sắc giới thiện
nghiệp và vô sắc giới thiện nghiệp.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kamma nghĩa là hành động, tạo
tác. Nói một cách thiết thực hơn, kamma là những hành
động
thiện, ác cố ý. Trừ đức Phật và các vị A la hán,
hành động cố ý của các loài
khác đều gọi là kamma.
Kamma là hành động, vipàka
là quả hay phản ứng của nghiệp. Theo Abhidhamma, kamma bao trùm
12 Bất thiện Tâm, 8 Dục giới thiện tâm, 5 Sắc giới thiện
tâm, 4 Vô sắc thiện tâm. 8 Siêu thế tâm không gọi là kamma
vì những tâm này có tánh cách đoạn
trừ căn rễ của kamma, khiến không còn sanh tử. Tại
Siêu thế tâm, trí tuệ (pannà) chiếm địa
vị ưu thắng. Tại Dục giới tâm, Tư (cetanà) chiếm
địa
vị ưu thắng. 29 tâm kể trên gọi là kamma, vì chúng
chứa khả năng tạo ra quả báo. Có
23 tâm gọi là quả báo dị thục ở Dục giới. 5 tâm
là quả báo dị thục ở Sắc giới và 4 tâm là quả dị thục
ở Vô sắc giới.
Janakakamma (sanh nghiệp) là nghiệp chi phối sự sanh trưởng
trong một đời sau. Sự chết của
con người chỉ là sự kết liễu tạm thời của một
hiện tượng tạm thời. Chính tâm sát na cuối cùng định
đoạt đời sống tương lai của con người.
Theo sớ giải, Janakakamma là nghiệp sanh ra tâm uẩn và sắc
uẩn khi mới thọ thai. Tâm đầu tiên
là Patisandhi vinnàna (kiết sanh thức) bị chi phối bởi Janakakamma
này.
Upatthambhakakamma (trì nghiệp) là nghiệp tiếp theo Janakakamma,
duy trì và nâng đỡ nghiệp này
cho đến khi mệnh chung. Một thiện
trì nghiệp có thể làm con người khỏe mạnh, an lạc,
hạnh phúc. Trái lại, một bất thiện nghiệp có thể làm
con người bệnh hoạn, đau khổ v.v...
Upapìlakakamma là chướng nghiệp. Nghiệp này, trái với nghiệp
trước, làm cho yếu ớt, dừng lại và chậm trễ sự kết
thành của sanh nghiệp. Như một người sanh ra với một thiện
sanh nghiệp có thể đau đớn bịnh
hoạn, do vậy không có kết quả tốt lành của nghiệp
thiện.
Upaghàtakakamma, đoạn nghiệp là
nghiệp đoạn trừ, tiêu diệt
năng lực của sanh nghiệp, như một
mũi tên đang bay có thể bị
một sức mạnh nào khác cản lại khiến cho mũi tên
rơi xuống. Sức mạnh ấy là đoạn
nghiệp. Ðoạn nghiệp này có thể thiện hay ác.
Một ví dụ điển hình công
năng của các nghiệp trên là
đời
sống của Devadatta. Thiện sanh nghiệp khiến Devadatta sanh trong
gia đình vương giả giàu có. Nhờ trì nghiệp Devadatta
được
sống hạnh phúc an lạc trong một thời gian khá dài.
Vì chướng nghiệp, Devadatta bị nhục nhã khi bị tẩn xuất
ra khỏi Giáo hội. Vì đoạn nghiệp,
Devadatta bị chết một cách đau đớn.
Garukakamma (cực trọng nghiệp) có thể thiện hay bất thiện.
Nghiệp này nhất định tạo quả đời
này hay đời sau. Nếu là
thiện, thời thuộc ý nghiệp như các thiền tâm. Nếu không
phải thiện, có thể khẩu nghiệp hay thân nghiệp. 5 cực trọng
nghiệp là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp
tăng, làm thân Phật chảy máu.
Cực trọng này cũng gọi là Ànantariyakamma (vô gián nghiệp)
vì nhất định nghiệp này đem
đến kết quả trong đời sau. Nếu một người tu thiền và
sau làm một cực trọng nghiệp, thiện nghiệp của người
này sẽ bị cực trọng nghiệp tiêu trừ. Ðời sống sau này
của vị này sẽ bị chi phối bởi cực trọng nghiệp, như
Devadatta mất thần thông và phải sanh vào ác thú vì đã
làm đức Phật bị thương và
phá hòa hợp Tăng. Như vua Ajàtasattu
không thể chứng sơ quả vì đã
giết phụ vương.
Àsannakamma (cận tử nghiệp) là nghiệp làm ra hay nhớ nghĩ
khi lâm chung. Nghiệp này rất quan trọng vì chi phối đến
đời sống sau này. Cho nên nhiều lễ nghi tổ chức khiến
người sắp chết nhớ lại việc thiện để
người ấy được sanh vào những cõi tốt đẹp
hơn. Một người ác có thể sanh lên thiện thú nếu
khi chết người ấy nhớ hay làm một thiện sự. Trái lại
một người thiện có thể chết một cách đau
đớn hay sanh vào ác thú nếu khi chết người ấy làm
hay nhớ đến một việc ác. Như hoàng
hậu Mallika, vợ của vua Kosala sống một đời
sống ngay thẳng tốt lành, nhưng chỉ vì khi lâm chung,
nhớ đến một lời nói láo của mình,
nên phải sống 7 ngày đau khổ trong
ác thú.
Àcinnakamma (tập quán nghiệp) là nghiệp thường làm và
thường nhớ đến. Chính những hành
động
trở thành tập quán tác thành cá tánh con người. Cunda,
người đồ tể, chết la hét như con
heo, vì sống bằng nghề đồ
tể, dầu sống bên cạnh chùa của đức
Phật. Vua Dutthagàmi ở Tích-Lan thường cúng dường cơm
nước cho chư Tăng trước khi ăn cơm.
Chính tập quán nghiệp này khiến vua hoan hỷ lúc chết
và được sanh lên cõi trời
Tusita (Ðâu suất).
Katattàkamma (tích lũy nghiệp) nghĩa là làm những nghiệp
không thuộc vào ba loại nghiệp kể trên và những nghiệp
làm mà quên liền, thuộc về loại nghiệp này. Nghiệp này
như là chỗ chứa đựng các nghiệp
cho một chúng sanh.
Ditthidhammavedanìyakamma: Hiện báo nghiệp, là nghiệp đưa
đến kết quả hiện tại. Theo Abhidhamma, chúng ta làm
thiện hay ác trong giai đoạn Javana
(tốc hành tâm), tâm này tồn tại đến
7 Sát-na. Quả báo của tâm sát-na thứ nhất, tâm yếu ớt
nhất, có thể được lãnh thọ ngay ở đời
này. Như vậy gọi là hiện báo nghiệp. Nếu không thọ
lãnh ngay trong đời này, nghiệp
ấy gọi là Vô hiệu. Tâm sát-na yếu ớt thứ hai là tâm sát-na
thứ 7. Quả báo của tâm này có thể thọ lãnh đời
sau thì gọi là Upapajjavedanìya (sanh báo nghiệp). Nghiệp
này nếu không đưa đến quả báo
đời sau thì được gọi là
vô hiệu. Quả báo của các sát-na tâm ở giữa có thể được
thọ lãnh bất kỳ lúc nào cho đến
khi chứng được Niết bàn. Loại nghiệp này gọi là
Aparàpariyavedanìya hậu báo nghiệp. Chính đức
Phật và các vị A-la-hán cũng không thoát khỏi nghiệp
này. Không có một loại nghiệp đặc
biệt gọi là Ahosikamma (Vô hiệu nghiệp), nhưng khi một
nghiệp nào phải có quả báo ở đời
này hay đời sau, mà không
thành tựu được, nghiệp ấy gọi
là Ahosikamma.
CÁC NGHIỆP BẤT THIỆN
I. PÀLI VĂN.
- 20) Tattha akusalam kàyakammam, vacìkammam, manokammam ceti
kammadvàravasena tividham hoti.
21) Katham? Pànàtipàto, adinnàdànam, kàmesu micchàcàro ceti
kàyavinnattisankhàte kàyadvàre bàhullavuttito kàyakammam nàma.
22) Musàvàdo, pisunvàcà, pharusavàcà, samphappalàpo ceti vacìvinnattisankhàte
vacìdvàre bàhullavuttito vacìkammam nàma.
23) Abhijjhà, byàpàdo, micchàditthi ceti annataràpi vinnattiyà
manasmim yeva bàhullavuttito manokamman nàma.
24) Tesu pànàtipàto, pharusavàcà, byàpàdo ca dosamùlena jàyanti.
Kàmesu micchàcàro, abhijjhà micchàditthi ca lobhamùlena. Sesàni
cattàri pi dvìhi mùlehi sambhavanti. Cittuppàdavasena panetam akusalam
sabbathà pi dvàdasavidham hoti.
II. THÍCH VĂN.
- Pànàtipàta: Sát sanh. Adinnadànam: Lấy của không cho.
Kàmesu micchàcàra: Tà dâm. Kàyavinnattisankhàte: Ðược gọi
là thân biểu. Bàhullavuttito: Nhiều lần, phần lớn. Dùng chữ
này vì những hành động này
có thể làm qua những ngưỡng cửa khác. Abhijjhà: Tham. Vyàpàda:
Sân. Micchàditthi: Tà kiến. Annataràpi vinnattiyà: Qua các biểu
nghiệp khác. Jàyanti: Sinh ra. Sesàni: Còn lại. Cittuppda: Tâm
sanh.
III. VIỆT VĂN.
- 20) Ở đây có ba loại bất thiện
nghiệp tùy theo nghiệp môn: Thân nghiệp, khẩu nghiệp
và ý nghiệp.
21) Sao? Sát sanh, lấy của không cho, tà dâm gọi là thân
nghiệp vì chúng phần lớn làm bởi thân.
22) Nói láo, nói hai lưỡi, ác ngữ, ỷ ngữ gọi là khẩu
nghiệp vì chúng phần lớn do miệng thốt ra.
23) Tham, sân, các tà kiến gọi là ý nghiệp vì chúng phần
lớn làm bởi ý.
24) Trong những nghiệp này, sát sanh, ác khẩu và sân được
khởi lên do sân căn. Tà
dâm, tham, tà kiến được khởi lên
do tham căn. 4 pháp còn lại khởi
lên do cả hai căn. Tùy theo tâm
sanh, bất thiện có 12 loại tất cả.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Tà kiến có ba loại: Ahetuka ditthi: xem mọi vật sinh ra
không có nhân gì. Akiriyaditthi xem thiện và ác không có quả
báo. Nàtthika ditthi: xem không có đời
sau.
CÁC NGHIỆP THIỆN
I. PÀLI VĂN.
- 25) Kàmàvacarakusalampi kàyadvàre pavattam manokammam ceti,
Kammadvàravasena tividham hoti. Tathà dàna-sìla-bhàvanàvasena. Cittuppàdavasena
panetam atthavidham hoti. Dàna-sìla-bhàvanà-apacàyana-veyyàvaccapattidàna-pattànumodana
- dhammasavana-dhammadesanà-ditthijjukammavasena dasavidham hoti. Tam
panetam vìsatividhampi kàmàvacarakammamicceva sankham gacchati.
26. a) Rùpàvacarakusalam pana manokammameva, tanca bhàvanàmayam
appanàpattam, jhànangabhedena pancavidham hoti.
b) Tathà arùpàvacarakusalam ca manokammam. Tampi bhàvanà-mayam,
appanàpattam, àrammanabhedena catubbidham hoti.
II. THÍCH VĂN.
- Pavattam: Thuộc về, diễn hành. Dàna: Bố thí. Sìla: Trì
giới. Bhàvanà: Thiền định. Apacàyana:
Cung kính. Veyyàvacca: Phục vụ. Pattidàna: Bố thí phước, hồi
hướng công đức. Pattànumodana:
Tùy hỷ công đức. Dhammasavana: Nghe
pháp. Dhammadesanà: Thuyết pháp. Ditthijjukammavasena: Khiến
tà kiến được chơn chánh. Sankham
gacchati: Tổng hợp lại. Bhàvanàmayam: Thuộc về thiền
định.
Appanàttam: thuộc về an chỉ (appanà) tức là thiền tâm.
III. VIỆT VĂN.
- 25) Thiện nghiệp ở Dục giới cũng có ba loại theo ngưỡng
cửa hoạt động, tức là nghiệp
làm qua thân môn gọi là thân nghiệp, qua khẩu môn gọi là
khẩu nghiệp, qua ý môn gọi là ý nghiệp. Cũng chia làm ba
loại theo: bố thí, trì giới, thiền định;
Lại chia làm tám theo loại tâm khởi lên. Lại cũng chia
làm mười loại theo; Bố thí, trì giới, thiền định,
cung kính, phục vụ, hồi hướng công đức, tùy hỷ
công đức, nghe pháp, thuyết pháp,
khiến tà kiến trở thành chơn chánh. Như vậy tổng
hợp có hai mươi thiện nghiệp ở Dục giới.
26. a) Còn Sắc giới thiện chỉ thuộc ý nghiệp, do thiền
định
sanh, thuộc thiền tâm và chia thành năm
loại theo các cõi thiền.
b) Cũng vậy Vô sắc giới thiện chỉ thuộc ý nghiệp, do
thiền định sanh, thuộc thiền tâm
và chia thành bốn loại theo đối
tượng tu hành.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðoạn này chỉ các thiện tâm ở Dục giới, Sắc giới
và Vô sắc giới, phân loại theo thân nghiệp, khẩu nghiệp,
ý nghiệp hoặc phân loại theo các thiện pháp, hoặc theo các
thiền định.
QUẢ CỦA NGHIỆP BẤT THIỆN
I. PÀLI VĂN.
- 27) Etthàkusalakammamuddhaccarahitam apàyabhùmiyam patisandhim
janeti. Pavattiyam pana sabbampi dvàdasavidham sattàkusalapàkàni sabbathà
pi kàmaloke rùpaloke ca yathàraham vipaccati.
II. THÍCH VĂN.
- Ettha: Ở đây. Uddhaccarahitam:
Trừ trạo cử. Apàyabhùmi: Ác thú. Pavattiyam: Trong sự
diễn tiến của tâm. Sattàkusalapàkàni: Bảy bất thiện dị
thục. Vipaccati: Sinh quả.
III. VIỆT VĂN.
- 27) Ở đây, trừ trạo cử, các
bất thiện nghiệp còn lại khiến sanh vào cõi Ác thú.
Nhưng tất cả mười hai bất thiện nghiệp phát sanh bảy bất
thiện dị thục tâm, những tâm này có thể khởi ở Dục
giới và ở Sắc giới, trong sự diễn tiến của tâm, tùy
theo trường hợp.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Uddhacca (Trạo cử) không đủ sức
mạnh để tạo Patisandhi trong ác thú. Trạo cử chỉ diệt
trừ trong A La hán đạo tâm. Ác quả của mgười hai bất thiện
tâm là bảy bất thiện dị thục tâm, chúng có thể
hiện hạnh trong đời sống hiện tại.
QUẢ CỦA NGHIỆP THIỆN
I. PÀLI VĂN.
- 28) Kàmàvacarakusalampi kàmasugatiyameva patisandhim janeti.
Tathà pavattiyam ca mahàvipàkàni. Ahetukavipàkàni pana attha pi sabbatthàpi
kàmaloke rùpaloke ca yathàraham vipaccati.
II. THÍCH VĂN.
- Kàmasugati: Dục giới thiện thú.
III. VIỆT VĂN.
- 28) Thiện nghiệp ở Dục giới khiến sanh ở thiện thú
cõi Dục giới. Cũng vậy tám Ðại dị thục khởi lên trong
đời
sống hiện tại (làm công tác đồng
sở duyên) (Tadàlambana) ở Dục giới. Tám Dị thục vô
nhân có thể sanh ở Dục giới và Sắc giới (trong đời
sống hiện tại) tùy theo trường hợp.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Các thiện nghiệp đưa đến thiện
quả là tám vô nhân thiện dị thục tâm và tám Tịnh
quang Dị thục tâm. Kết quả của tám Tịnh quang thiện tâm
có thể là Kiết sanh thức (Patisandhi) và cũng có thể là tám
Tịnh quang thiện dị thục tâm trong đời
sống hằng ngày.
QUẢ CỦA HAI VÀ BA THIỆN NHÂN
I. PÀLI VĂN.
- 29) Tatthàpi tihetukamukkatham kusalam tihetukam patisandhim
datvà pavatte solasa vipàkàni vipaccati. Tihetukamomakam dvihetukamukkattham
ca kusalam dvihetukam patisandhim datvà pavatte tihetukarahitàni dvàdasa
vipàkàni vipaccati. Dvihetuka momakam pana kusalam ahetukameva patisandhim
deti. Pavatte ca ahetukavipàkàneva vipaccati.
II. THÍCH VĂN.
- Ukkattha: Thù thắng. Tihetukam: Ba nhân. Omaka: Thấp.
III. VIỆT VĂN.
- 29) Ở đây, các thiện nghiệp
thù thắng đầy đủ ba nhân
khiến được Kiết sanh thức có đủ ba nhân (rất thông minh)
và ở trong đời được sanh
mười sáu dị thục. Thiện nghiệp tương ưng với ba thiện
nhân thấp kém hơn và với hai nhân thù thắng hơn khiến
được
Kiết sanh thức có đủ hai nhân, và đưa
đến kết quả mười hai dị thục, trừ những dị thục có
đủ ba nhân, trong đời sống hằng ngày. Những thiện
nghiệp tương ưng với hai nhân kém hơn khiến được
Kiết sanh thức không có nhân và đem
đến kết quả dị thục vô nhân trong đời sống hàng
ngày.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Các thiện nghiệp thù thắng đầy
đủ ba nhân là bốn Tịnh quang thiện tâm tương ưng
với trí. Chữ Ukkattha (U: Cao) (Kas: Kéo) là thù thắng thiện
nghiệp, có thiện nhân trước và sau khi hành động.
Như bố thí cho một vị hết sức gìn giữ giới luật
thanh tịnh, với tiền của được
một cách chơn chánh và sau khi cho không có hối tiếc
được
xem là một thiện nghiệp thù thắng nhất. Omaka: Thấp
kém. Khi bố thí, có thể có tâm với ba thiện nhân. Nhưng
nếu cho một người độc ác với
tiền của không được chân chánh và sau lại hối hận
thời nghiệp như vậy là gọi là thấp kém.
Mười sáu dị thục tâm khởi lên trong đời
sống bình thường là tám vô nhân tâm và tám hữu nhân
hoạt động với công tác Tadàlam
bana (Ðồng sở duyên). Bốn thiện - nghiệp yếu ớt hơn cả
ba thiện nhân (4 Tịnh quang tâm tương ưng với trí) và bốn
thiện nghiệp mạnh hơn chỉ có vô tham vô sân (4 Tịnh quang
tâm không tương ưng với trí) khiến sanh ra có trí thông minh
sút kém. Quả dị thục của chúng khởi lên, trong tuần tự
diễn tiến của tâm chỉ có mười hai loại, tức là trừ
4 loại tương ứng với trí. Một thiện tâm yếu ớt hơn,
chỉ có vô tham, vô sân làm nhân, (không có vô si tức là bốn
tâm không tương ưng với trí) khiến sanh ra thành người hoặc
sanh ra đã mù, câm hay ngu đần.
Các dị thục khởi lên trong diễn tiến của tâm gồm
tám vô nhân dị thục tâm.
TOÁT YẾU
I. PÀLI VĂN.
- 30) Asankhàram sasankhàra-vipàkàni na paccati,
Sasankhàramasankhàravipàkàni ti kecana.
Tesam dvàdasa pàkàni dasattha ca yathàkkamam,
Yathàvuttànusàrena yathàsambhavamuddise.
II. THÍCH VĂN.
- Paccati: Sanh ra. Kecana: Một số luận sư. Dvàdasa dasattha:
Mười hai, mười và tám. Yathàkkamam: Tùy thuộc theo. Yathàvuttànusàrena:
Theo như đã nói trước. Yathàsambhavam:
Theo thứ tự hưng khởi. Uddise: Cần được
nêu lên.
III. VIỆT VĂN.
- 30) Một vài (luận sư) cho rằng, các tâm không cần nhắc
bảo không thể sanh ra dị thục tâm cần được
nhắc bảo và tâm cần được
nhắc bảo không thể sanh ra dị thục tâm không cần nhắc
bảo.
Theo (các vị này) như đã
nói đến trước, các dị thục tâm
khởi lên, theo thứ tự là 12, 10 và 8 cần được
nêu lên.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Những luận sư đề cập đến
là những luận sư giáo phái của Ðại Ðức Mahàdhammarakkhita
ở chùa Moravapi, Tích-Lan. Theo những vị này, một tâm mạnh
hơn trong hai tâm không cần nhắc bảo, tương ưng với trí
có thể sanh 12 dị thục tâm tức là 4 tâm không cần nhắc
bảo và tám vô nhân dị thục tâm. Cũng vậy một tâm mạnh
hơn trong hai tâm cần được nhắc
bảo, tương ưng với trí có thể sanh 12 dị thục tâm, tức
là 4 tâm cần được nhắc bảo
và tám vô nhân tâm.
Một tâm yếu hơn của hai tâm tương ưng với trí và một
tâm mạnh hơn của hai tâm không tương ưng với trí không cần
nhắc bảo sanh 10 dị-thục tâm (2 dị thục tâm không tương
ưng với trí không cần nhắc bảo và tám vô nhân tâm). Cũng
vậy đối với hai tâm cần được
nhắc bảo. Một tâm yếu hơn của tâm không tương ưng với
trí chỉ sanh có tám vô nhân tâm.
QUẢ CỦA SẮC GIỚI THIỆN NGHIỆP
I. PÀLI VĂN.
- 31) Rùpàvacarakusalam pana pathamajjhànam parittam bhàvetvà
brahmapàrisajjesu uppajjati. Tadeva majjhimam bhàvetvàbrahmapurohitesu,
panìtam bhàvetvà mahàbrahmesu. Tathà dutiyajjhãnam-tatiiajjhànanca
paritam bhàvetvà parittàbhesu, majjhimam bhàvetvà appamànàbhesu,
panìtam bhàvetvà àbhassaresu. Catutthajjhànam parittam bhàvetvà
paritasubhesu, majjhimam bhàvetvà appamànasubhesu, panìtam bhàvetvà
subhakinhesu. Pancamajjhànam bhàvetvà vehapphalesu, tadeva sannàviràgam
bhàvetvà asannasattesu. Anàgàmino pana suddhàvàsesu uppajjanti.
II. THÍCH VĂN.
- Paritta: nhỏ. Brahmapàrisà: Phạm chúng. Brahmapurohita: Phạm
phụ thiên. Mahàbrahmà: Ðại Phạm thiên. Parittàbha: Thiểu
quang thiên. Appamànàbha: Vô lượng quang thiên. Àbhassara: Quang
âm thiên. Parittasubha: thiểu tịnh thiên. Appamànasubha: Vô lượng
tịnh thiên. Subhakinha: Biến tịnh thiên. Vehapphala: Quảng quả
thiên Sannàviràga: Không chấp tưởng. Asannasatta: Loại vô tưởng.
Anàgàmino: Những vị bất lai. Suddhàvàsa: Tịnh cư thiên.
III. VIỆT VĂN.
- 31) Ðối với thiện tâm ở Sắc giới, ai chứng Sơ thiền
một cách yếu ớt, được sanh vào
cõi Phạm chúng thiên; một cách trung bình, được
sanh vào cõi Phạm phụ thiên; một cách thù thắng, được
sanh vào cõi Ðại phạm thiên. Cũng vậy, ai chứng Nhị
thiền và Tam thiền một cách yếu ớt, được
sanh vào cõi Vô lượng quang thiên; một cách thù thắng,
được
sanh vào cõi Quang âm thiên. Ai chứng Tứ thiền một cách
yếu ớt, được sanh vào cõi
Thiểu tịnh thiên: một cách trung bình, được
sanh vào cõi Vô lượng tịnh thiên; một cách thù thắng,
được
sanh vào cõi Biến Tịnh thiên. Ai chứng Ngũ thiền được
sanh vào cõi Quảng quả thiên. Ai chứng thiền này mà
không có chấp trước vào tưởng thời được
sanh trong hàng vô tưởng hữu tình. Còn những vị chứng
quả Bất Lai (A-na-hàm) được sanh
vào Tịnh cư thiên.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Hàng Dự lưu (Sotàpanna) và Nhứt lai (Sakadàgami) chứng
Ðệ ngũ thiền được sanh vào
cõi Quảng quả thiên nhưng nếu các vị này không có tha thiết
gì đến cảnh giới có sắc, có thể
sanh vào các Vô sắc giới thiên.
Các hàng Bắt-Lai (Anàgàmi) chứng Ðệ ngũ Thiền và có
năm đức tánh tín, tấn, niệm, định,
huệ đồng đều, được sanh vào Quảng Quả thiên. Những
ai có lòng tin mãnh liệt, lấn át các đức
tánh khác, được sanh vào cõi Avihà (vô phiến thiên);
có tinh tấn (viriya) mãnh liệt, lấn át các đức
tánh khác, được sanh vào cõi Atappa (Vô nhiệt thiên),
có niệm (sàti) mãnh liệt, lấn át các đức
tánh khác, được sanh vào cõi Sudassa (Thiện Kiến thiên);
có định (Sanàdhi) mãnh liệt,
lấn át các đức tánh khác, được
sanh vào cõi Sudassi (Thiện hiện thiên); có Huệ (Pannà)
mãnh liệt, lấn át các đức tánh
khác, được sanh vào cõi Akanittha (Sắc cứu cánh thiên).
Các vị Bất Lai không có luật nhất định
nói các vị này không sinh vào các cõi khác (Te pana annattha
na nibbattantìti niyamonatthi Sớ giải).
Còn các vị A-na-hàm Sukkha-vipassaka (khổ quán) chứng thiền
định
trước khi chết được sanh vào cõi Tịnh cư thiên.
QUẢ CỦA VÔ SẮC GIỚI THIỆN NGHIỆP
VÀ TOÁT YẾU
I. PÀLI VĂN.
- 32) Arùpàvacarakusalam ca yathàkkamam bhàvetvà pàkam arù-pesu
uppajjanti.
33. Ittha mahaggatam punnam yathàbhùmi-vavatthitam. Jenetisadisam
patisandhippavattiyam.
II. THÍCH VĂN.
- Mahaggatam: Ðại hành tâm. Vavatthitam: Ðược phân tích,
định
nghĩa, phân loại. Sadisam: Bằng nhau, giống nhau.
III. VIỆT VĂN.
- 32) Và đối với Vô sắc giới
thiện tâm, tùy theo sự tu hành chứng các cõi Thiền,
sẽ được sanh vào các cõi tương
ưng.
33. Như vậy đại hành Thiện
tâm, được phân định tùy theo
cảnh giới, anh những dị thục tâm giống nhau khi thọ sanh
và
trong đời sống bình thường.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðối với Vô sắc giới thiện tâm, nếu chứng được
tâm nào thì sanh vào cõi Vô sắc giới tương đương.
Nói đế Ðại hành tâm là tâm ở cả Sắc giới và
Vô sắc giới.
NGUYÊN NHÂN CỦA CHẾT
I. PÀLI VĂN.
- 34) Àyukkhayena, kammakkhayena, ubhayakkhayena, upacchedakkammunà
ceti catudhà maranuppatti nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Àyukkhaya: Tuổi thọ diệt. Kammakhaya: Nghiệp diệt. Ubhayakkhaya:
Cả hai diệt. Upacchedakakamma: Sát nghiệp. Maranuppatti: Nguyên
nhân của chết.
III. VIỆT VĂN.
- 34) Chết có bốn nguyên nhân: thọ diệt, nghiệp diệt,
cả hai diệt và sát nghiệp.
IV. NGHĨA VĂN.
- Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng
tạm thời. Chết là sự diệt tận của mạng căn
(Jìvitindriya), sức nóng (usna = Tejodhàtu) và thức (vinnàna)
của một cá nhân. Chết không phải là đoạn
diệt hẳn, chết tại chỗ này nghĩa là sanh tại chỗ
khác, như mặt trời mọc một chỗ này nghĩa là mặt trời
lặn một chỗ khác. Thọ diệt như khi một người chết vì
tuổi già, Nghiệp diệt là thường khi chết, tư (cetanà) của
con người rất mạnh và chi phối sự tái sanh của mình. Trong
phút cuối cùng này, có sự có mặt của một năng
lực đặc biệt, và khi năng
lực của sanh nghiệp này tàn diệt, thời mọi hoạt
động
về sắc thân đình chỉ, cho đến
trước khi tuổi già. Cả hai diệt, khi một người sinh
ra với tuổi thọ 80, và người này chết lúc 80 tuổi do vì
năng lực của sanh nghiệp diệt tận,
như vậy người này chết do thọ diệt và nghiệp diệt.
Sát nghiệp và nghiệp cắt đứt thình
lình sức sống của sanh nghiệp. Ví dụ, một sức mạnh chống
đối
mạnh hơn có thể làm cho một mũi tên đang
bay rơi xuống đất. Cũng vậy, một sức mạnh của nghiệp
quá khứ có thể làm cho tiêu tan sanh nghiệp của một
loài hữu tình và như vậy khiến loài hữu tình ấy bị chết.
Ba loại chết trên gọi là Kàlamarana (chết đúng
thời), và loại chết thứ tư gọi là Akàlamarana (chết
phi thời hay bất
đắc kỳ tử).
Một ngọn đèn có thể do
bốn nguyên nhân sau đây: Hết tim,
hết dầu, hết tim và dầu, do một ngoại duyên khác
như bị gió thổi. Sự chết của con người cũng do 4 duyên
như vậy.
NGHIỆP, NGHIỆP TƯỚNG VÀ THÚ TƯỚNG
I. PÀLI VĂN.
- 35) Tathà ca marantànam pana maranakàle yathàraham abhimukhìbhùtam
bhavantare patisandhijanakam kammam và, tamkammakaranakàle rùpàdikamupaladdhapubbamupakaranabhùtam
ca kammanimittam và, anantaramuppajjamànabhave upalabbhitabbam upabhogabhtùtam
ca gatinimittam và kammabalena channam dvàrànam ànnatarasmim paccuppatthàti.
Tato param tameva tathopatthitam àrammanam àrabbha vipaccamànakammànurùpam
parisuddhamupakilittham và upalabbhitabbabhavànurùpam tatthonatam va
cittasantànam abhinham pavattati bàhullena. Tameva và pana janakabhùtam
kammamabhinavakaranavasena dvàrapavattam hoti.
II. THÍCH VĂN.
- Marantànam: Người đang lâm chung.
Maranakàle: Trong khi lâm chung. Yathàraham: Tùy theo. Abhimukhìbhùtam:
Trước mặt. Bhavantare: Trung hữu, sau khi chết. Patisandhijanakam:
Sanh ra kiết sanh thức. Kammam: Nghiệp. Tam-kamma-karanakàle: Khi
đang
làm nghiệp ấy. Rùpàdikamupaladdhapubbamupakaranabhùtamca:
Một vật đã được
nhận lấy từ trước như sắc v.v... Kammanimittam: Nghiệp tướng.
Anantaramuppajjamànabhave: Trong đời
sống khởi lên tiếp sau (đời
sống này). Upalabhitabbam: Cần phải lấy được.
Upabhogabhùtam: Ðược hưởng thọ. Gatinimittam: Thú tướng.
Kammabalena: Do sức mạnh của nghiệp. Paccupatthàti: Hiện khởi.
Tato param: Tiếp theo. Vipaccamànakammànurùpam: Tùy thuộc theo
nghiệp cần phải được thuần phục.
Parisuddhamupakilittham: Thanh tịnh nhiễm ô. Upalabbihitabbabhavànurùpam:
Tùy thuộc theo đời sống cần phải
lãnh thọ. Tatthonatam: Biến theo, uốn theo về chỗ kia.
Cittasantànam: Sự diễn tiến của tâm. Abhinham: Tiếp tục,
luôn luôn. Bàhullena: Nhiều lần. Kammamabhinavakaranavasena: Do
làm nghiệp mới.
III. VIỆT VĂN.
- 35) Ðối với những người sắp sửa chết, trong khi
lâm chung, do sức mạnh của nghiệp, một trong những tướng
sau đây được khởi ra trong một trong
sáu cửa.
1. Một nghiệp có khả năng khiến
cho tái sanh trong đời sau được khởi tùy theo trường
hợp.
2. Hay là một nghiệp tướng là một vật như sắc v.v...
mà trước kia đã từng được
dùng trong khi làm nghiệp ấy.
3. Hay là một thú tướng phải được
và phải thực nghiệm trong đời
sống khởi lên ngay tiếp theo đó.
Liền theo đó, y cứ theo đối tượng
được khởi lên, tùy theo với nghiệp cần phải được
thuần thục, hoặc thanh tịnh hay nhiễm ô, và phù hợp
với cảnh giới sẽ được tái sanh,
dòng tiềm thức luôn luôn được
trôi chảy, hướng phần lớn về cảnh giới ấy. Hay cái nghiệp
có khả năng khiến cho tái sanh ấy hiện khởi đến với căn
môn với tư cách là một tác động
mới.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Khi một người sắp chết, một nghiệp thiện hay bất
thiện hiện khởi ra trước người ấy, nghiệp ấy có thể
là một cực trọng nghiệp (garuka) như các thiền (Jhàna) hay
giết cha v.v... những nghiệp này quá mạnh đến
nỗi lấn áp tất cả nghiệp khác và hiện khởi rõ
rệt. Nếu không có cực trọng nghiệp, thời người ấy có
thể lấy một cận tử nghiệp (àsanna kamma). Nếu là một
quá khứ, thời chính là thiện hay bất thiện niệm khởi lên
trước khi chết, niệm này, người ấy đã
được
kinh nghiệm trong khi làm nghiệp ấy. Kammanimitta (nghiệp
tướng) là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp gì mà người
ấy nhận lãnh được, khi làm
nghiệp ấy, như con dao đối với người
đồ tể, các bệnh nhân đối với thầy thuốc, bông hoa đối
với người tín nữ v.v... Gatinimitta (Thú tướng) là
một hình tướng gì của cảnh giới mà người ấy sắp được
tái sanh, một sự kiện luôn luôn xảy ra với người sắp
chết. Nếu là một hình tướng không tốt đẹp,
thời có thể thay đổi chúng bằng cách ảnh hưởng đến
tư tưởng của người sắp chết, và như vậy thiện
niệm của người ấy biến thành cận tử và thay thế cho
sanh nghiệp của người ấy. Thú tướng này có thể là lửa
địa
ngục, rừng, núi, bào thai của người mẹ, thiên cung
v.v...
Kamma hiện khởi ra tại ý căn. Kammanimitta
hiện khởi ra tại một trong sáu căn, tùy theo trường
hợp. Gatinimitta, luôn luôn là một sắc tướng, hiện khởi
ra dưới hình thức chiêm bao.
LỘ TRÌNH TÂM CỦA MỘT NGƯỜI SẮP
CHẾT
I. PÀLI VĂN.
- 36) Paccàsannamaranassa tassa vìthicittàvasàne bhavangakkhaye
và cavanavasena paccuppannabhavapariyosànabhùtam cuticittam uppajjitvà
nirujjhati. Tasmim niruddhàvasàse tassànantarameva tathàgahitamàrammanamàrabbha
savatthukam avatthukameva và yathàraham avijjànusayaparikkhitena tanhànusayamùlakena
sankhàrena janìyamànam sampayuttehi parigayhamànam sahajàtànamadhitthànabhàvena
pubbangamabhùtam bhavantarapatisandhànavàsena patisandhisankhàtam mànasam
uppajjamànameva patitthàti bhavantare.
II. THÍCH VĂN.
- Paccàsannamaranassa: Với người sắp chết. Vìthicittàvasàne:
Trong giai đoạn cuối của lộ trình
tâm. Bhavangakkhaye: Khi hữu phần bị diệt. Cavanavasena: Theo
tử tâm. Paccuppannabhavapariyosànabhùtam: Giai đoạn
cuối của đời sống hiện tại. Cuticittam: Tử tâm. Uppajjitvà:
Sau khi khởi lên. Nirujhati: Biến diệt. Tasmimniruddhàvasàne:
Ðến cuối sự biến diệt ấy. Tassànantarameva: Lập tức sau
sự diệt trừ ấy. Tathàgahitamàrammanamàrabbha: Y cứ theo đối
tượng đã nhận lãnh như vậy. Savatthukam avatthukameva:
Có căn hay không có căn. Avijjànasayaparikkhittena:
Bao trùm bởi vô minh tùy miên. Tanhànusayamùlakena: Căn
cứ vào ái tùy miên. Sampayuttehi parigayhamànam: Câu hữu
với những tâm sở tương ưng. Sahajàtànam adhitthànabhàvena
pubbangamabhùtam: Làm thành tâm xung phong cho những tâm sở câu
hữu, và nối liền các đời sống.
Patisandhisankhàtam mànasam: Ý gọi là kiết sanh thức.
Patitthàti: Ðược thiết lập.
III. VIỆT VĂN.
- 36) Ðối với người sắp chết, hoặc đến
cuối lộ trình tâm của người ấy, hoặc khi hữu phần
bị diệt, tử tâm, giai đoạn cuối
cùng của đời sống hiện tại,
khởi lên rồi diệt. Khi tâm ấy được
diệt trừ, tiếp ngay sau tâm ấy, y-cứ trên đối
tượng được thâu nhận như vậy, hoặc có tâm (hadaya) làm
căn cứ địa hay không có, kiết sanh
tâm khởi lên và được thiết
lập trong đời sau, kiết sanh tâm này bị thúc đẩy
bởi vô minh tùy miên, căn cứ
vào ái tùy miên, sanh ra bởi nghiệp, câu hữu với những
tâm sở tương ưng, hành động như
tâm xung phong cho những tâm sở câu hữu, và tiếp nối
những đời sống với nhau
IV. THÍCH NGHĨA.
- Lấy một trong ba tướng kể trên làm đối
tượng, lộ trình của tâm tuần tự diễn tiến, dầu
cho sự chết có đến hết sức bất
thần và lập tức. Sau đây là
lộ trình tâm của một người sắp chết và được
sanh lên cõi người, và đối
tượng của người này là một thiện nghiệp.
Tâm Bhavanga (hữu phần) dừng lại và rung động
hai tâm sát-na rồi diệt, tiếp theo là Ý môn hướng
tâm (manodvàràvajjana) khởi lên rồi diệt. Tiếp đến
là Javana (tốc hành tâm) chỉ có năm
tâm sát-na chớ không phải bảy như thường lệ vì yếu
ớt. Vì vậy tâm này thiếu khả năng
dẫn sanh mà chỉ có khả năng
điều hành cho một đời sống
mới Abhinavakarana. Ðối tượng trong trường hợp này
là thiện, tâm của người này là thiện, không cần nhắc
bảo hay phải được nhắc bảo, câu
hữu với hỷ tương ưng hay không tương ưng với trí, tùy
theo trường hợp. Tâm đồng sở duyên
(Tadàlambana), có công tác ghi giữ hay ghi nhận trong hai sát-na,
đối
tượng được nhận thức, có thể sanh hay không, tiếp đến
là Tử tâm (cuticitta), sát-na tâm cuối cùng trong đời
hiện tại. Có người hiểu lầm là đời
sống kế tiếp bị định đoạt chi phối bởi Tử tâm cuối
cùng này. Sự thật chính Tốc hành tâm mới chi phối
đời
sống đời sau. Khi tử tâm diệt, sự chết mới thiệt bắt
đầu. Bắt đầu từ đây, không có một sắc nào do
tâm tạo và do ăn uống tạo được
tạo ra (cittaja và àhàraja rùpa). Chỉ có các sắc do
khí nóng tạo ra (utuja) được tạo
ra cho đến khi thi thể trở thành tro bụi.
Sau khi Tử tâm đã diệt, một
Kiết sanh thức (Patisandhi) được sanh
trong một đời sống mới. Tiếp theo là mười sáu tâm
sát-na bhavanga. Tiếp đến là
Ý môn hướng tâm (manodvàràvajjana) và năm
tâm sát-na Javana (Tốc hành), phát sanh tâm ưa thích đối
với đời sống mới (bhava-nikànti-Javana). Rồi tâm bhavanga
khởi và diệt và dòng tâm thức trôi chảy như một dòng nước.
Trong trường hợp Vô sắc giới, sẽ không có hadayavatthu (đoàn
tâm).
KIẾT SANH THỨC VÀ ÐỐI TƯỢNG CỦA
NGƯỜI SẮP CHẾT
I. PÀLI VĂN.
- 37) Maranàsannavìthiyam panettha mandapavattàni panceva javanàni
pàtikankhitabbàni. Tasmà yadà paccuppannàrammanesu àpàthamàgatesu
dharantesvevamaranam hoti, tadà patisandhibhavangànampi paccupannàrammanatà
labbhatìti katvà kàmàvacarapatisandhiyà chadvàragahitam kammanimittam,
gatinimittanca paccuppannamatìtàrammanam upalabbhati, kamman pana atìtameva.
Tam ca manodvàragahitam. Tàmi pana sabbàni pi parittadhammabhùtànevàrammanàni.
II. THÍCH VĂN.
- Maranàsannavìthiyam: Trong lộ trình của tâm khi gần chết.
Mandapavattàni: Diễn tiến mdột cách yếu ớt. Pàtikankhitabbàni:
Trông đợi. Paccuppannàrammanesu
àpàthàmàgatesu: Trong khi các đối
tượng hiện tại vào trong khu vực nhận thức của căn.
Dharantesu: Nhiếp trì. Parittadhammabhùtàni àrammanàni: Các
đối
tượng được xem là tiểu pháp (thuộc về Dục giới).
III. VIỆT VĂN.
- 37) Ở đây, trong lộ trình
của tâm gần chết, chỉ có năm Tốc
hành tâm yếu ớt được mong
đợi. Do vậy, trong khi lâm chung, khi các đối tượng hiện
tại vào trong khu vực nhận thức thời Patisandhi và Bhavanga
cũng đều cùng một đối
tượng.
Như vậy, khi tái sanh ở Dục giới, Kammanimitta (nghiệp tướng)
nhận thức bởi một trong sáu căn
môn hay gatinimitta (Thú tướng) có thể quá khứ hoặc hiện
tại nhưng Kamma (nghiệp) được nhận thức bởi ý môn chỉ
thuộc về một đối tượng quá khứ. Tất cả những đối
tượng này phải được xem là
thuộc về tiểu pháp (Dục giới).
Ở SẮC VÀ VÔ SẮC GIỚI
I. PÀLI VĂN.
- 38) Rùpàvacarapatisandhiyà pana pannattibhùtam kammanimittamevàrammanam
hoti. Tathà àruppapatisandhiyà ca mahaggatabhùtam pannattibhùtam ca
kammanimittameva yathàraham àrammanam hoti. Asannasattànam jìvitanavakameva
patisandhibhàvena patitthàti. Tasmà te rùpapatisandhikà nàma. Arùpà
arùpapatisandhikà. Sesà rùpà-rùpapatisandhikà.
II. THÍCH VĂN.
- Pannattibhùtam: Là một khái niệm. Jìvitanavakam: Mạng
căn chín phần. Sesà: Những loài
hữu tình còn lại.
III. VIỆT VĂN.
- 38) Khi tái sanh ở Sắc giới, đối
tượng Kammanimitta (nghiệp tướng) thuộc về khái niệm. Khi
tái sanh ở Vô sắc giới, đối tượng nghiệp tướng thuộc
về Ðại hành và khái niệm (như hư không vô biên),
tùy theo trường hợp. Ðời sống của các loài hữu tình vô
tưởng, bắt đầu với một nhóm gồm
có 9 sắc pháp gọi là Jìvitanavaka. (Mạng căn
cửu phần). Do vậy sự tái sanh ở đây thuộc về sắc giới.
Các loài hữu tình sanh ở Vô sắc giới thuộc về vô
sắc. Những loại hữu tình còn lại thuộc sắc và vô sắc.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðối tượng của Kamma nimittam khi tái sanh ở Sắc giới
thuộc về khái niệm vì đây là
patibhàganimitta (quan tướng). Jìvitanavaka gồm có Ðịa, thủy,
hỏa, phong, sắc, hương, vị, ojà (Dưỡng chất) và mạng căn
(Jìvitindriya).
TOÁT YẾU
I. PÀLI VĂN.
- 39) Àruppacutiyà honti hetthimàruppavajjità.
Paramàruppasandhì ca tathà kàmatihetukà.
Rùpàvacaracutiyà aheturahità siyum.
Sabbà kàmatihetumhà, kàmesveva panetarà.
II. THÍCH VĂN.
- Hetthimàruppavajjità: Trừ vô sắc xứ thấp hơn. Paramàruppapatisandhì:
Vô sắc giới Kiết sanh thức cao hơn. Kàmatihetukà: Dục giới
ba nhân.
III. VIỆT VĂN.
- 39) Khi từ trần từ cõi vô sắc, sẽ được
tái sanh ở cõi vô sắc hay một cõi cao hơn nhưng không
ở một cõi thấp hơn, và có thể sanh ở cõi Dục giới với
ba nhân. Khi từ trần từ cõi Sắc giới, sẽ không bị tái
sanh làm thành một người vô nhân. Một hữu tình với ba nhân
có thể tái sanh ở mọi cảnh giới. Những loài hữu tình
khác (hai nhân hay không nhân) được
sanh ở Dục giới.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Với ba nhân là với vô tham, vô sân và vô sĩ. Một người
vô nhân là những người sinh ra ngu đần,
sanh ra đã mù hay điếc hay sinh
ra ở cõi ác thú.
DÒNG TÂM THỨC
I. PÀLI VĂN.
- 40) Iccevam gahitapatisandhikànam pana patisandhinirodhànantaratoppabhuti
tamevàrammariamàrabbha tadeva cittam yàva cuticittuppàdà asati vìthicittuppàde
bhavassa angabhàvena bhavangasantatisankhàtam mànasam abbhocchinnam
nadìsoto viya pavattati. Pariyosàne ca cavanavasena cuticittam hutvà
nirujjhati. Tato param ca patisandhàdayo rathacakkamiva yathàkkamam evameva
parivattantà pavattanti.
II. THÍCH VĂN.
- Gahitapatisandhikànam: Những chúng sanh phải tái sanh. Pabhuti:
Bắt đầu từ. Abbhocchinnam: Không gián
đoạn. Nadìsoto viya: Như dòng sông. Pariyosàne: Ðến đoạn
cuối. Rathacakkam: Bánh xe.
III. VIỆT VĂN.
- 40) Như vậy, những ai bị tái sanh, liền sau khi Kiết
sanh thức diệt, một dòng tâm thức trôi chảy, y cứ trên
một đối tượng, như dòng một
con sông, luôn luôn tiếp tục, và chỉ bị chận đứng
bởi lộ trình của tâm thức khi khởi lên, dòng tâm
thức này trôi chảy cho đến chết.
Dòng tâm thức này được gọi
là Bhavanga vì là một thành phần của sự sống. Ðến
cuối cùng đời sống, khi người ấy
lâm chung, dòng tâm thức trở thành Tử tâm (cuticittam)
rồi diệt. Tiếp theo đó, Kiết sanh
thức và các tâm khác vẫn tiếp nối diễn tiến tùy
theo trường hợp như bánh của một chiếc xe.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Patisandhi, Bhavanga và cuti của một đời
sống là giống nhau vì chúng cùng một đối
tượng. Các tâm sở của ba tâm này giống nhau. Chúng
chỉ khác nhau về danh từ và công tác. Liền sau đó,
Kiết sanh thức (patisandhi). Hữu phần (bhavanga) khởi lên.
Trong đời sống, khi không có sự diễn
tiến lộ trình của tâm, Hữu phần tâm này tiếp tục
trôi chảy. Trong một đời sống, vô
số Bhavanga (Hữu phần tâm) được khởi lên.
SỰ LIÊN TỤC CỦA DÒNG TÂM THỨC
I. PÀLI VĂN.
- 41) Patisandhi-bhavangavìthiyo cuti ceha tathà bhavantare.
Puna sandhi bhavangamiccayam parivattati cittasantati.
Patisankhàya panetamaddhuvam adhigantvà padamaccutam budhà.
Susamucchinnasinehabandhanà samamessanti ciràya subbatà.
II. THÍCH VĂN.
- Cittasantati: Sự tiếp diễn của tâm. Patisankhàya: Sau
khi suy tư. Budhà: Các vị sáng suốt. Addhuvam: Vô thường. Adhigantvà:
Sau khi chứng. Padamaccutam: Trạng thái bất tử (Niết bàn).
Susamucchinna: Khéo cắt. Sinehabandhanà: Triền ái hay sự trói
buộc của ái. Samamessanti: Sẽ chứng được
sự thanh tịnh. Ciràya: Trong một thời gian khá lâu. Subbatà:
Khéo điều phục.
III. VIỆT VĂN.
- 41) Cũng như ở đây, cũng vậy
ở đời kế tiếp, khởi lên Kiết sanh thức, Hữu phần,
lộ trình của tâm và Tử tâm. Lại một lần nữa, với Kiết
sanh thức và Hữu phần, dòng tâm thức trôi chảy.
Người có trí, tự khéo điều phục
trong một thời gian lâu dài, suy tư đến
lẽ vô thường, sẽ chứng ngộ sự bất diệt, và hoàn
toàn cắt bỏ triền phược của tham ái, chứng ngộ thanh tịnh.
Ghi chú: Có thể tham chiếu
thêm với:
1) Vi Diệu Pháp Toát
Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh (với đầy
đủ các ký tự Pàli).
2) A Manual of Abhidhamma, bản
dịch Anh ngữ và chú thích của Hòa Thượng Narada.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 | 04
| 05 | 06 | 07 | 08
| 09 | Phụ lục
|