Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang chủ]
ABHIDHAMMATTHASANGAHA
THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN
Tỳ kheo THÍCH
MINH CHÂU
(dịch và giải)
SAMUCCAYA-SANGAHA-VIBHÀGO:
I. PÀLI VĂN. Tesam dàni yathàyogam pavakkhàmi samuccayam. 2. Akusalasangaho, missakasangaho, bodhipakkhiya - sangaho, sabbasangaho ceti samuccaya-sangaho catubbiddho veditabbo. 2. Tập yếu các loại pháp cần phải được hiểu có bốn loại: Bất thiện tập yếu, tạp loại tập yếu, Bồ-đề-chi tập yếu, nhứt-thiết tập yếu. - Vatthudhammà, có tất cả là 72 = 1 + 52 + 18 + 1. - Tất cả 89 tâm xem là 1 pháp, vì tất cả đều có đặc tướng ý thức. - 52 Tâm-sở được phân biệt riêng, vì mỗi tâm sở có đặc tướng riêng. - 18 Sắc-pháp được kể riêng, vì chúng sai khác về đặc tướng. - Nibbàna xem là một vì đặc tánh
của Niết-Bàn là an tịnh.
I. PÀLI VĂN. 4) Cattàro oghà, kàmogho, bhavogho, ditthogho, avijjogho. 5) Cattàro yogà, kàmayogo, bhavayogo, ditthiyogo, avijjàyogo. 6) Cattàro ganthà, abhijjhà kàyagantho, byàpàdo kàyagantho, sìlabbataparàmàso kàyagantho, idamsaccàbhiniveso kàyagantho. 7) Cattàro upàdànà, kàmupàdànam, ditthupàdànam, sìlabbatupàdànam, attavàdupàdànam. 4) Có 4 Bạo lưu: Dục bạo lưu, Hữu bạo lưu, Kiến bạo lưu và Vô minh bạo lưu. 5) Có bốn Ách-phược: Dục ách-phược, Hữu ách-phược, Kiến ách-phược, Vô-minh ách-phược. 6) Có bốn Hệ-phược: Tham thân hệ-phược, Sân thân hệ-phược, Giới cấm-thủ thân hệ-phược, Thử-thực-chấp thân hệ-phược. 7) Có bốn Thủ: Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ và Ngã kiến thủ. - Àsavà, từ-ngữ-nguyên à + su, là chảy. Các pháp này được gọi vậy là vì chúng tràn ngập tất cả đời sống hay vì chúng tồn tại cho đến Gotrabhù tâm (chuyển-tánh-tâm) trước khi chứng Dự-lưu. Dục lậu chỉ cho sự tham ái các dục vọng. Hữu-lậu chỉ cho tham-ái sắc và vô sắc giới. Kiến lậu: chỉ cho 62 tà kiến như đã kể trong kinh Brahmajàla (Phạm-Võng), và Vô minh lậu: là vô minh đối với Tứ Ðế, đời quá khứ, đời vị lai, cả hai đời và đối với Lý Duyên-Khởi. Ogha, từ ngữ nguyên ava + han, nghĩa là hại hay giết. Chúng sanh bị đại thủy trào lôi cuốn, trôi giạt ra ngoài biển khơi và nhận chìm xuống đáy sâu, hoặc bị thương nặng, hoặc bị chết chìm. Cũng vậy, các Oghà này cuốn phăng chúng sanh xuống vực thẳm của ác thú. Yoga, từ ngữ nguyên "yuj" nghĩa là mắc cột vào, những gì cột dính chúng sanh vào bánh xe luân hồi sanh - tử. Ganthà là những gì cột tâm với thân, hay thân này với thân các đời sống khác. Chữ kàya dùng có nghĩa là nhóm, chỉ cả thân và tâm. Upàdànàni, từ ngữ căn upa + à + dà, nghĩa là cho. Ái tột độ là thủ. Do Ái nên mới Thủ. Ái như tên trộm sờ soạng trong đêm tối, Thủ chính là lúc ăn trộm. Ngã-kiến-thủ có đến 20 loại đối với 5 uẩn như sau: b) ngã là sở hữu của thân, c) ngã ở trong thân, d) thân ở trong ngã. I. PÀLI VĂN. 9) Sattànusaya - kàmaràgànusayo, bhavaràgànusayo, patighànusayo, mànànusayo, ditthànusayo, vicikicchànusayo, avijjànusayo. 9) Có bảy Tùy-miên: Dục-ái tùy-miên, Hữu-ái tùy-miên, Sân tùy-miên, Mạn tùy-miên, Kiến tùy-miên, Nghi tùy-miên, vô minh tùy-miên. - Nìvaranàni, từ ngữ-căn Nì
+ Var, nghĩa là ngăn che chướng ngại.
Sở dĩ gọi vậy vì các pháp này chướng ngại trên
con đường tiến tới Niết-Bàn
an lạc. Thường chỉ có 5 triền-cái mà thôi, vô-minh triền-cái
được
bỏ ra ngoài. Dục-lậu
được
ví như nước có nhiều màu sắc, sân ví như nước sôi,
thụy-miên được ví như nước có
nhiều rong rêu, trạo-hối được
ví như nước bị gió giao động và nghi được
ví như nước đục. Các triền-cái này được
các thiền làm cho tạm ngưng. Chúng chỉ được
trừ diệt hoàn toàn khi chứng 4 quả Thánh. Nghi được
trừ diệt khi chứng Dự-Lưu. Ái-Dục, Sân và Hối được
trừ diệt khi chứng Bất-Lai. Thụy - miên, hôn-trầm,
và trạo-cử được trừ diệt khi
chứng quả A-La-Hán. Anusaya: Tùy-miên, từ ngữ - căn
Anu + ssi, nghĩa là nằm xuống, ngủ nghỉ, những gì nằm
yên và khi có nhân-duyên sẽ khởi lên vì chưa được
diệt trừ. Tất cả phiền-não là Anusaya, nhưng chỉ
có bảy là mạnh nhất.
I. PÀLI VĂN. 11) Aparàni dasa samyojanàni - kàmaràga - samyojanam, bhavaràgasamyojanam, patighasamyojanam, mànasamyojanam, ditthisamyojanam, sìlabbataparàmàsasamyojanam, vicikicchà-samyojanam, issàsamyojanam, macchariyasamyojanam, avijjàsamyojanam, Abhidhamme. 12) Dasa kilesà: lobho, doso, moho, màno, ditthi, vicikicchà, thìnam, uddhaccam, ahirikam, anottappam. 11) Theo A-Tỳ-Ðàm Tạng, có 10 kiết-sử khác nữa như sau: Dục ái kiết-sử, Hữu ái kiết-sử, Sân kiết-sử, Mạn kiết-sử, Kiến kiết-sử, Giới cấm-thủ kiết-sử, Nghi kiết-sử, Tật kiết-sử, Xan kiết-sử, Vô minh kiết-sử. 12) Có 10 phiền não: Tham, sân, si, mạn, kiến, nghi, thụy miên, trạo-cử, vô tàm, vô quý. - Samyojana từ ngữ căn Sam + yuj, nghĩa là cột lại. Các pháp này trói buộc chúng sanh vào bánh xe luân-hồi sanh-tử. Kilesa: là những pháp làm ái-nhiễm và hành-hạ tâm trí. Ðồ-biểu sau đây sẽ nêu rõ các phiền-não được sắp loại theo các pháp bất thiện mới được đề cập.
(b) Ogha (Bạo lưu) (c) Yogà (Ách phược) (d) Ganthà (Hệ phược) (e) Upàdàna (Thủ) (f) Nìvarana (Triền cái) (g) Anusaya (Tùy miên) (h) Samyojana (Kiết sử) (i) Kilesà (Phiền não) 14) Àsavoghà ca yogà ca tayo ganthà ca vatthuto,
14) Theo căn bản, chỉ có ba lậu hoặc, ba bạo lưu, ba ách-phược, ba hệ-phược. Thủ chỉ có hai và Triền-cái có tám. Tùy miên có sáu và kiết-sử cần hiểu chỉ có chín. Phiền-não có mười. Như vậy, các ác-pháp tổng-hợp có chín loại. - Trong danh-từ các ác-pháp, chữ kàma chỉ cho Dục-giới và Bhava chỉ cho Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Lobha gồm cả Dục-ái và Hữu-ái. Sắc-giới-ái và Vô-sắc-giới-ái là Bhavatanhà (Hữu-ái). Giới-cấm-thủ, Thử-thực-chấp và Ngã-kiến-thủ bao-hàm nghĩa tà-kiến. Cả Kàmàsava và Bhavàsava có nghĩa lobha. Sự thực, chỉ có ba àsavà, ba oghà, ba yogà và ba ganthà. Cũng vậy, chỉ có hai upàdànà theo nghĩa lobha và ditthi. Khi thìna-middha và uddacca-kukkucca xem như là bốn tâm-sở, thời Nìvaranà có tám. Khi Kàmaràga và bhavaràga được hợp thành tanhà, thì anusayà chỉ có sáu. Mười samyojanà, theo Kinh Tạng chỉ còn bảy, khi Kàmaràga, rùparàga, arùparàga hợp lại thành lobha, và ditthi cùng sìlabbataparàmàsa hợp lại thành ditthi. Mười sanyojanà được xem là tám khi kàmaràga và bhavaràga hợp lại thành lobha, và ditthi cùng sìlabbataparàmàso hợp lại trong ditthi. Các kilesà chỉ có 10. Như vậy, 14 loại Bất thiện tâm sở hiện ra theo mức độ khác nhau trong chín loại Bất thiện pháp. Lobha chung cho tất cả. MISSAKO SANGAHO: TẠP LOẠI TẬP - YẾU I. PÀLI VĂN. 16) Satta jhànangàni: vitakko, vicàro, pìti, ekaggatà, somanassam domanassam, upekkhà, 17) Dvàdasa maggangàni: sammàditthi, sammàsan kappo, sammàvàcà, sammàkammanto, sammà-àjìvo, sammàvàyàmo, sammàsati, sammàsamàdhi, micchà ditthi, micchàsankappo, micchàvàyàmo, micchàsamàdhi. 16) Có bảy thiền-chi là tầm, tứ, hỷ, nhứt tâm, hoan-hỷ, ưu, xả. 17) Có 12 Ðạo-chi là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh-tấn, chánh niệm, chánh định, tà kiến, tà tư-duy, tà tinh-tấn, tà định. - Missakasangaho: Tạp loại tập-yếu. Sở dĩ gọi vậy vì ở đây, thiện (kusala), bất thiện (akusala) và vô ký (avyàkata) đều bao hàm tất cả. Jhànanga: jhàna có nghĩa là đốt cháy sự đối kháng của các triền-cái hay chú tâm sát trên đối tượng. Cả hai nghĩa được áp dụng trong cảnh giới thiền, do chú tâm chứng được. Maggangàni: Ðạo-chi, nghĩa là những pháp đưa đến Thiện-thú, ác-thú hay Niết-Bàn (Sugati-duggatìnam nibbànassa ca abhimukham pàpanto maggà). Trong 12 thiền-chi, 4 thiền-chi sau cùng đưa đến ác-thú. Các thiền-chi còn lại đưa đến Thiện-thú và Niết-Bàn. Khi nói đến 12 Ðạo-chi (maggangàni), thật sự chỉ nói đến 9 Tâm-sở đã khởi lên với một số Tâm. Trong 4 Bất-Thiện-đạo-chi, tà kiến có nghĩa là Bất-thiện ditthicetasika (kiến-tâm-sở); tà tư-duy, tà tinh-tấn, và tà nhứt-tâm có nghĩa là vitakka, vàyàma và ekaggatà cetasikà được tìm thấy trong các Bất thiện-tâm. Chánh tri-kiến có nghĩa là Pannà cetasika; chánh tư-duy, chánh
tinh-tấn, chánh niệm và chánh nhứt-tâm là Vitakka, vàyàma,
sati và ekaggatà cetasika được tìm
thấy trong thiện và vô-ký-tâm. Chánh ngữ, chánh nghiệp và
chánh mạng là ba Viriti (Thiết-chế tâm-sở), được
tìm thấy đồng một lần trong
các siêu-thế-tâm hay riêng biệt trong các Dục-giới
Thiện-tâm và Dị-thục-tâm. Cả tám Ðạo-chi đều
được tìm thấy đồng một
lần chỉ trong tám Siêu-thế-tâm. Nói đến
8 chánh-đạo là nói đến tám
thiện đạo chi ở đây.
I. PÀLI VĂN. - Indriya: Căn, sở dĩ gọi vậy vì
chúng có khả năng chi phối các đối
tượng liên hệ. 5 căn đều
thuộc 5 giác quan đã nói đến
trước. Căn thứ 6 và căn thứ
7 gọi là bhavindriya hay tánh căn.
Mạng căn gồm cả danh mạng căn và sắc mạng căn.
Căn số 10, 11, 12, 13 và 14 thuộc 15 loại thọ. Căn
số 15, 16, 17, 18 và 19 vừa là căn
vừa là lực, vì chúng chi phối những pháp câu hữu,
vừa điều phục các pháp đối lập.
Ba căn cuối rất quan hệ và thuộc siêu-thế. Cụ-tri-căn
chỉ Niết-Bàn. Khi chứng quả thứ nhất, Dự-Lưu, 4
Ðế được giác ngộ lần đầu tiên
và vì vậy Dự-Lưu đạo trí được
gọi là Vị tri đương tri căn.
6 trí chặng giữa từ Dự-Lưu quả-trí đến A la hán đạo
trí được gọi là Dĩ-tri-căn.
Vì trí-tuệ được tìm
thấy trong tất cả 7 siêu-thế-tâm chế-ngự 37 trợ-đạo-phẩm
câu-hữu, nên gọi là Indriya. Một vị A la hán được
gọi là Annàtàvì, vì vị này đã
giác ngộ hoàn toàn 4 Ðế. Căn cuối
cùng chỉ cho trí-tuệ vô-thượng của A la hán quả.
I. PÀLI VĂN. 20) Cattàro adhipati-chandàdhipati, cittàdhipati, viriyàhipati, vìmamsà-adhipati. 21) Cattàro àhàrà-kabalìkàro àhàro, phasso dutiyo, manosancetanà tatiyà, vinnànam catuttham. 20) Có bốn tăng-thượng: Dục tăng thượng, Tâm tăng thượng, Tinh tấn tăng thượng, Tư duy tăng thượng. 21) Có bốn đồ ăn: Ðoàn thực, xúc thực là thứ hai, tư thực là thứ ba, thức thực là thứ tư. - 19) Chín lực (bala), được gọi vậy vì chúng không bị chi phối bởi những lực lượng đối lập và vì chúng tăng cường cho các pháp câu hữu. 7 pháp đầu thuộc thiện pháp, hai pháp sau thuộc bất thiện pháp. Adhipati: Tăng thượng. Adhipati khác với căn. Tăng thượng có thể ví như một quốc vương, cầm đầu mọi bộ trưởng. Indiya (căn) được xem như các bộ trưởng cầm đầu bộ riêng của mình nhưng không can thiệp vào các bộ khác. Như nhãn căn chỉ chi phối các sắc pháp chớ không can thiệp vào đối tượng của nhĩ căn. Còn Ahipati thời chi phối mọi pháp câu hữu. Không hai Adhipati đồng khởi và chi phối một lần. Trái lại, các căn có thể đồng khởi. Cittàdhipati chỉ cho Javana citta (tốc hành tâm). Vìmamsàdhipati chỉ cho Tuệ căn (pannindriya). Àhàra: Ðoàn thực nuôi dưỡng thân-thể, xúc thực nuôi dưỡng 5 món cảm thọ. Tư thực chỉ cho các tư tâm sở có mặt trong 29 Thiện và bất thiện Dục giới, sắc giới, vô-sắc-giới tâm. Các tâm này nuôi dưỡng hay tạo ra tái-sanh trong ba giới. Thức thực chỉ cho Patisandhi vinnàna (Kiết-sanh-thức) đã
nuôi dưỡng nàmarùpa (Danh-sắc) đã
khởi tiếp tục theo. Có 19 loại kiết sanh thức. Ðối với
vô tưởng giới, thức thực chỉ nuôi dưỡng sắc pháp; Ðối
với Vô sắc giới, chỉ nuôi dưỡng danh-pháp. Trong các đời
sống có 5 uẩn, thức-thực nuôi dưỡng các tâm pháp, sắc
pháp.
I. PÀLI VĂN. 23) Pancavinnànesu jhànangàni, aviriyesu balàni, ahetukesu maggangàni na labbhanti. Tathà vicikicchàcitte ekaggatà maggindriyabalabhàvam na gacchati. Dvihetukatihetukajavanesveva yathàsambhavam adhipati ekova labbhati. 23) Các Thiền chi không thể tìm được trong 5 thức, các lực không thể tìm được trong các tâm không tinh tấn, các Ðạo chi không thể tìm được trong các vô nhân tâm; cũng vậy, trong nghi tâm, nhứt tâm không thể trở thành Ðạo chi, căn hay lực. Trong 4 Tăng Thượng (Dục, tâm, tinh tấn, tư duy) chỉ một Tăng thượng được chứng một lần, tùy theo trường hợp, chỉ ở trong các tâm, thuộc nhị nhân hay tam nhân tâm. - Không có một Thiền chi nào trong 10 thức vì sự cảm thọ
rất yếu và ý thức đối tượng
không có. Các tâm không tinh tấn và 16, tức 10 thức
tâm, 2 tiếp thọ tâm, 3 Suy đạc tâm,
và ngũ môn hướng tâm. Nhứt tâm trong các tâm này không
được
cho mạnh. Vô nhân tâm có 18. Nhứt tâm trong Nghi tâm giúp tâm
trí được thăng bằng, nhưng không mạnh. Không có Adhipati
trong vô nhân tâm và nhứt nhân tâm. Sự thật, chỉ có
5 Thiền chi và 3 cảm thọ có thể xem như một; Ðạo chi chỉ
có 9 vì tà tư duy, tà tinh tấn và nhứt tâm được
gồm vào trong Tầm, tinh tấn và nhứt tâm. Các căn
chỉ có 16 khi 5 cảm thọ xem như một và ba siêu thế
tâm được nhập vào Tuệ căn.
I. PÀLI VĂN. Solasindriyadhammà ca baladhammà naverit. Cattàrodhipati vuttà tathàhàrà ti sattadhà. Kusalàdisamàkinno vutto missakasangaho. 26) Cattàro samappadhànà-uppannànam pàpakànam dhammànam pahànàya vàyàmo, anuppannànam pàpakànam dhammànam anuppàdàya vàyàmo, anupannànam kusalànam dhammànam uppàdàya vàyàmo, uppannànam kusalànam dhammànam bhiyyobhàvàya vàyàmo. 26) Có bốn chánh - cần tức là tinh tấn trừ diệt các bất thiện pháp đã sanh, tinh tấn không cho sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn làm cho sanh các thiện pháp chưa sanh và tinh tấn làm cho tăng trưởng các thiện pháp đã sanh. 28) Pancindriyàni-saddhindriyam, viriyindriyam, satindriyam, samàdhindriyam, pannindriyam. 29) Panca balàni - saddhà balam, viriyabalam, satibalam, samàdhibalam, pannàbalam. 28) Có 5 căn: Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Tuệ căn. 29) Có 5 lực: Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực, Tuệ lực. 31) Attha maggangàni: Sammàditthi, sammàsankappo, sammàvàcà, sammàkammanto, sammààjìvo, sammàvàyàmo, sammàsati, sammàsamàdhi. 32) Ettha pana cattàro satipatthànà ti sammàsati ekà va pavuccati, tathà cattàro sammappadhànà tica sammàvàyàmo. 31) Có Tám Ðạo chi: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. 32) Ở nơi đây, 4 Niệm xứ được xem là một chánh niệm; cũng vậy, 4 chánh cần được xem là chánh tinh-tấn. Sammàditthi ca sankappo vàyàmo viratittayam Sammàsati samàdhìti cuddasete sabhàvato Sattatimsappabhedena sattadhà tattha sangaho. - Như vậy, 37 danh từ nêu trên được
diễn tả theo 7 loại như sau:
Nay 4 Niệm xứ xem như 1 Chánh niệm, và 4 Chánh cần như 1 Chánh niệm, thành thử thật sự chỉ có 14 Pháp như sau:
I. PÀLI VĂN. Navekatthànà viriyam navattha Sati, samàdhi catu panca pannà; Saddhà dutthànuttamasattatimsa, Dhammànameso pavaro vibhàgo. 35) Sabbe lokuttare honti na và sankappapìtiyo
35) Tất cả những pháp này, trừ đôi khi Tư-duy và Hỷ, khởi lên trong Siêu thế tâm, và cũng trong Thế giới, tùy theo trường hợp, trong sự diễn-tiến của 6 loại Thanh tịnh (Visuddhi). a). 9 pháp sau đây được nói đến một lần: Chánh Tư-duy, Khinh-an giác-chi, Hỷ giác-chi, Xả giác-chi, Dục như ý túc, Tâm như ý túc, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. b) Tinh-tấn được nói đến 9 lần: 4 chánh cần, Tinh-tấn như ý túc, Tinh-tấn căn, Tinh-tấn lực, Tinh-tấn giác chi, Chánh Tinh-tấn. c) Niệm được nói đến 8 lần; 4 Niệm xứ, Niệm căn, Niệm lực, Niệm giác-chi, Chánh niệm. d) Ðịnh được nói đến 4 lần: Ðịnh căn, Ðịnh lực, Ðịnh giác-chi, Chánh định. e) Tuệ được nói đến 5 lần: Quán như ý túc, Tuệ căn, Tuệ lực, Trạch pháp, Chánh tri-kiến. f) Tín được nói đến 2 lần: Tín căn và Tín lực. Khi chứng được Siêu-thế-tâm thuộc Ðệ Nhị thiền không có tầm (Vitakka). Khi chứng được Siêu-thế-tâm thuộc Ðệ Tam thiền, Ðệ Tứ thiền, thì không có Hỷ. 37 pháp này cùng khởi một lần trong Siêu-thế-tâm, nhưng trong các giới khác, chúng khởi lên riêng biệt.
(b) 4 Sammappadhàna: Chánh cần (c) 4 Iddhipàda: Như ý túc (d) 5 Indriya: Căn (e) 5 Bala: Lực (f) 7 Bojjhangà: Bồ-đề phần (g) 8 Maggangà: Ðạo chi I. PÀLI VĂN. 37)Pancupàdànakkhandhà: Rùpupàdànakkhandho, vedanupàdànakkhandho, sannupàdànakkhandho, sankhàrupàdànakkhan dho, vinnànupàdànakkhandho. 38)Dvàdasàyatanàni - cakkhàyatanam, sotàyatanam, ghànàyatanam, jivhàyatanam, kàyàyatanam, manàyatanam, rùpàyatanam, saddàyatanam, gandhàyatanam, rasàyatanam, photthabbàyatanam, dhammàyatanam. 37) Có 5 thủ-uẩn: Sắc thủ uẩn, Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn. 38) Có 12 xứ: Nhãn xứ, Nhĩ xứ, Tỷ xứ, Thiệt xứ, Thân xứ, Ý xứ, Sắc xứ, Thanh xứ, Hương xứ, Vị xứ, Xúc xứ, Pháp xứ. - Khandha: nghĩa là uẩn, nhóm họp. Ðức Phật chia chúng sanh thành 5 uẩn. Tất cả sắc-pháp quá khứ, hiện tại và vị lai đều chung gọi là Rùpakkhandha. Ở đây danh từ Sankhàra (Hành) được dùng theo nghĩa đặc biệt. Trong 52 tâm-sở, trừ thọ và tưởng-tâm-sở, còn lại 50 tâm-sở, được chung gọi là Hành (Sankhàra). Upàdànakkhandha: Thủ uẩn, sở dĩ gọi vậy vì chúng trở thành đối tượng để nắm giữ, ôm ấp. Tám siêu-thế-tâm và các tâm-sở câu hữu, cùng 10 sắc-pháp không do nghiệp sanh, không được xem là Thủ uẩn. Cakkhàyatana: nhãn xứ, chỉ cho tịnh sắc căn của con mắt. Manàyatana: Ý xứ đây
không có một căn đặc biệt cho ý như các căn khác. Chữ
ý xứ đây chỉ cho manadvàràvajjana (ý môn hướng tâm)
cùng với Bhavangupaccheda (Hữu phần dừng nghỉ).
I. PÀLI VĂN. 40) Cattàri ariyasaccàni: dukkham ariyasaccam, dukkhasamudaya ariyasaccam, dukkhanirodham ariyasaccam, dukkhanirodhagàminìpatipadà ariyasaccam. 41. Ettha pana cetasika - sukhumarùpa - nibbànavasena ekùnasattati dhammà dhammàyatanam, dhammadhàtù ti ca sankham gacchanti. Manàyatananameva sattavinnànadhàtu-vasena bhijjati. 40) Có 4 Thánh-đế: Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ diệt đạo thánh đế. 41) Ở đây 69 pháp gồm có tâm-sở, tế-sắc và Niết-Bàn được xem họp thành pháp-xứ và pháp-giới. Chỉ có ý xứ được chia thành 7 thức giới. - Dhàtu có nghĩa là cái gì mang theo đặc
tánh của mình. Dhammadhàtu đồng
nghĩa với dhammàyatana nhưng khác với Dhammàrammana (Pháp-sở-duyên),
vì không gồm có citta (tâm), pannatti (giả danh, thi thiết) và
pasàdarùpa (Tịnh-sắc-căn). Manovinnànadhàtu:
Ý-thức-giới. Trong 89 tâm, 76 tâm được
xem là ý thức, trừ 10 thức tâm và ba ý giới (2 tiếp-thọ-tâm
và ngũ môn hướng tâm).
I. PÀLI VĂN. Vinnànamiti pancete pancakkhandhà ti bhàsità, Pancupàdànakkhandhàti tathà tebhùmakà matà, Bhedàbhàvena nibbànam khandhasangahanissatam, Dvàràlambanabhedena bhavantàyatanàni ca, Dvàràlambanataduppanna-pariyàyena dhàtuyo. 43. Dukkham tebhùmakam vattam tanhà samùdayobhave,
Vì Niết-Bàn thiếu sự phân biệt (như quá khứ, hiện tại, vị lai), Niết-Bàn được đặt ra ngoài 5 uẩn. Do sự sai khác giữa căn môn và đối tượng nên có 12 xứ. Do sự phân biệt giữa căn môn, đối tượng và thức, y nơi chúng khởi, nên có các giới. 43) Sự có mặt trong ba giới là khổ. Tham-ái là nguyên nhân của chúng. Khổ diệt gọi là Niết-Bàn. Ðạo là con đường siêu thế. Các tâm sở tương ưng với Ðạo và Quả được đặt ra ngoài 4 Ðế. Như vậy tập yếu tổng kết được giải thích theo 5 đề mục. Ghi chú: Có thể tham chiếu thêm với: 1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh (với đầy đủ các ký tự Pàli). Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | Phụ lục |
Source BuddhaSasana[ Trở Về ]