BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Thương yêu là thông cảm

Bình Anson

NXB Tôn Giáo
TL. 2005 - PL. 2549


  

-02-

Trăng tròn tháng Giêng

Có ba dịp lễ lớn trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy: Magha Puja là ngày lễ Rằm tháng Giêng, kỷ niệm ngày Đức Phật thuyết kệ Ovāda-pātimokkha (Giải thoát giáo), là căn bản cho các giới luật sau này; Vesakha Puja là ngày lễ Rằm tháng Tư, tức là ngày lễ Tam Hợp Đản Sinh - Thành Đạo - Đại Niết Bàn; và Asalha Puja là ngày lễ Rằm tháng Sáu, kỷ niệm ngày Đức Phật giảng kinh Chuyển Pháp Luân, và sau đó, chư Tăng Nam tông bắt đầu mùa An cư Kiết hạ.

Rằm tháng Giêng còn gọi là ngày Phật Di Chúc, kỷ niệm ngày Đức Phật tuyên bố xác định nền tảng của giáo pháp và giới luật đã thiết lập vững vàng, và Ngài sẽ nhập diệt (bát niết bàn) 3 tháng sau ngày đó.

*

1) Ovādapātimokkha

Khi Đức Phật ngụ tại khu vườn trúc (Trúc lâm) trong thành Vương xá, có 1250 vị tỳ-khưu dù không hẹn trước đến lễ bái Ngài vào ngày trăng tròn tháng Magha theo lịch Ấn Độ, tương ứng với tháng Giêng âm lịch. Các vị ấy là những đệ tử đầu tiên đã xuất gia với Ngài và đều đắc quả A-la-hán. Có sách ghi rằng trong số đó, 1000 vị là thuộc nhóm Jatila tức nhóm đạo sĩ tóc bính đã xin xuất gia theo Đức Phật sau khi được nghe Ngài giảng bài kinh Lửa Cháy (Tương Ưng 35.28); và 250 vị kia là thuộc nhóm Aggasāvaka trước kia là đệ tử của ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.

Trong dịp nầy, Ngài giảng bài kinh Ovāda-pātimokkha (Giải thoát giáo), tóm tắt căn bản của giáo pháp giải thoát và đời sống tu tập của bậc xuất gia như sau:

Chư Phật thường giảng dạy,
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết-bàn, quả tối thượng,
Xuất gia không phá người,
Sa-môn không hại người.

Không làm mọi điều ác,
Th
ành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.

Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
S
àng tọa chỗ nhàn tịnh,
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy
.

Giới bổn căn bản này được ghi lại trong kinh Đại Bổn (Trường Bộ 14). Trong kinh Pháp Cú, ba câu kệ trên cũng được tìm thấy trong Phẩm Phật-đà, với câu kệ thứ hai được chuyển thành câu kệ đầu (kệ số 183, 184, 185). Theo Chú Giải kinh Pháp Cú, ba câu kệ này được Đức Phật nhắc lại lúc Ngài ngụ ở tinh xá Kỳ Viên, để trả lời câu hỏi của Tôn giả A-nan.

Lúc đó, vào ngày Bố-tát đêm rằm tháng Magha, Tôn giả A-nan chợt nghĩ: "Ðức Thế Tôn đã dạy rõ về cha mẹ của bảy đời chư Phật, đã dạy về thọ mạng, cội cây của chư Phật ngồi thành đạo, đệ tử, vị thống lãnh Tăng đoàn và người ngoại hộ chính thức. Tất cả điều đó đã được đức Thế Tôn nói rõ, nhưng Ngài không nói về phương cách giáo giới của bảy đời chư Phật trong ngày Bố-tát. Không biết phương cách có giống như hôm nay hay khác?".

Nghĩ thế, Tôn giả đến bạch Phật và thưa hỏi những điều như trên. Đức Phật trả lời:

- Chư Phật tuy khác nhau về thời gian bố-tát, nhưng tương đồng về lời dạy khi giáo giới. Đó là:

Không làm mọi điều ác,
Th
ành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy. (PC 183)

Chư Phật thường giảng dạy,
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết-bàn, quả tối thượng,
Xuất gia không phá người,
Sa-môn không hại người. (PC 184)

Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
S
àng tọa chỗ nhàn tịnh,
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy. (PC 185)

Lời giáo giới trên chỉ được mỗi vị Phật tuyên bố lần đầu tiên khi hội đủ 4 điều kiện (Caturansasan-nipāta):

- Ðúng vào ngày trăng tròn tháng Magha,
- Có các vị tỳ-khưu tự động đến bái kiến Ðức Phật, không hẹn trước,
- Các vị đó đều là Thánh tăng A-la-hán có lục thông, và
- Các vị đó đều xuất gia với Đức Phật như là Thiện Lai Tỳ-Khưu (Ehi-bhikkhu).

Trong thời kỳ Đức Phật Thích Ca của chúng ta, số các vị tỳ-khưu đó là 1250 vị.

Vì thế, ngày rằm tháng Giêng mỗi năm được xem như là ngày lễ kỷ niệm Đại hội Chư Thánh Tăng. Ngày nầy được cử hành bằng nhiều hình thức nghi lễ khác nhau, như lễ hội đặt bát đến chư Tăng, lễ thọ giới, lễ quy y, lễ thuyết pháp, lễ nhiễu Phật, lễ thọ đầu đà, v.v. nhằm giúp người Phật tử cư sĩ có cơ hội gieo duyên lành trong chánh pháp. Ðặc biệt là lễ thọ đầu đà (dhutanga), trong đó, các cư sĩ đến chùa, thọ bát quan trai giới, thức trọn đêm để tham thiền, nghe pháp, tham vấn, luận đạo.

*

2) Phật Di Chúc

Trong 45 năm hoằng pháp, Đức Phật truyền dạy tất cả những điều cần thiết cho những ai quyết tâm cố gắng theo chân Ngài, cả bậc xuất gia lẫn hàng cư sĩ tại gia. Chẳng những các vị này đã nắm vững Giáo Lý mà còn có đủ khả năng để rộng truyền đến kẻ khác. Như đã ghi lại trong kinh Đại Bát Niết Bàn (kinh số 16, Trường Bộ): "... Các vị đó đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu". Vào năm tám mươi tuổi, Ngài quyết định từ bỏ từ bỏ thọ, hành, không duy trì mạng sống lâu hơn nữa. Lúc ấy, Ngài đang ngự tại thành Vesali.

Vào ngày trăng tròn tháng Magha, sau khi đi khất thực và thọ trai, Ngài đến nghỉ trưa tại đền Capala. Sau đó, Ngài cùng Tôn giả A-nan đi đến giảng đường Kutagara tại rừng Ðại Lâm. Ngài bảo Tôn giả A-nan đi mời tất cả Tỳ-khưu sống ở gần Vesali tụ họp tại giảng đường này.

Đức Thế Tôn nói với các vị Tỳ-khưu:

- "Này các Tỳ-khưu, những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.

Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỳ-khưu, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".

Rồi Ngài nói với các Tỳ-khưu:

- "Này các Tỳ-khưu, đây là lời Ta nhắn nhủ quý vị. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, vì không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ".

Ðó là lời Đức Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy, Ngài lại nói thêm:

Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao,
Từ biệt quý vị, Ta đi một mình.
Tự mình làm sở y cho chính mình,
Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,
Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.
Ai tinh tấn trong Pháp và Luật này
Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.

Dựa vào sự kiện lịch sử đó, ngày rằm tháng Magha (tháng Giêng âm lịch) mỗi năm được hàng Phật tử trong truyền thống Nguyên thủy tổ chức để kỷ niệm ngày Phật Di Chúc, 3 tháng trước khi Ngài nhập diệt.

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | Mục lục



[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 01-05-2005

Thuong yeu la Thong cam - Binh Anson

BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Thương yêu là thông cảm

Bình Anson

NXB Tôn Giáo
TL. 2005 - PL. 2549


  

-02-

Trăng tròn tháng Giêng

Có ba dịp lễ lớn trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy: Magha Puja là ngày lễ Rằm tháng Giêng, kỷ niệm ngày Đức Phật thuyết kệ Ovāda-pātimokkha (Giải thoát giáo), là căn bản cho các giới luật sau này; Vesakha Puja là ngày lễ Rằm tháng Tư, tức là ngày lễ Tam Hợp Đản Sinh - Thành Đạo - Đại Niết Bàn; và Asalha Puja là ngày lễ Rằm tháng Sáu, kỷ niệm ngày Đức Phật giảng kinh Chuyển Pháp Luân, và sau đó, chư Tăng Nam tông bắt đầu mùa An cư Kiết hạ.

Rằm tháng Giêng còn gọi là ngày Phật Di Chúc, kỷ niệm ngày Đức Phật tuyên bố xác định nền tảng của giáo pháp và giới luật đã thiết lập vững vàng, và Ngài sẽ nhập diệt (bát niết bàn) 3 tháng sau ngày đó.

*

1) Ovādapātimokkha

Khi Đức Phật ngụ tại khu vườn trúc (Trúc lâm) trong thành Vương xá, có 1250 vị tỳ-khưu dù không hẹn trước đến lễ bái Ngài vào ngày trăng tròn tháng Magha theo lịch Ấn Độ, tương ứng với tháng Giêng âm lịch. Các vị ấy là những đệ tử đầu tiên đã xuất gia với Ngài và đều đắc quả A-la-hán. Có sách ghi rằng trong số đó, 1000 vị là thuộc nhóm Jatila tức nhóm đạo sĩ tóc bính đã xin xuất gia theo Đức Phật sau khi được nghe Ngài giảng bài kinh Lửa Cháy (Tương Ưng 35.28); và 250 vị kia là thuộc nhóm Aggasāvaka trước kia là đệ tử của ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.

Trong dịp nầy, Ngài giảng bài kinh Ovāda-pātimokkha (Giải thoát giáo), tóm tắt căn bản của giáo pháp giải thoát và đời sống tu tập của bậc xuất gia như sau:

Chư Phật thường giảng dạy,
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết-bàn, quả tối thượng,
Xuất gia không phá người,
Sa-môn không hại người.

Không làm mọi điều ác,
Th
ành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.

Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
S
àng tọa chỗ nhàn tịnh,
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy
.

Giới bổn căn bản này được ghi lại trong kinh Đại Bổn (Trường Bộ 14). Trong kinh Pháp Cú, ba câu kệ trên cũng được tìm thấy trong Phẩm Phật-đà, với câu kệ thứ hai được chuyển thành câu kệ đầu (kệ số 183, 184, 185). Theo Chú Giải kinh Pháp Cú, ba câu kệ này được Đức Phật nhắc lại lúc Ngài ngụ ở tinh xá Kỳ Viên, để trả lời câu hỏi của Tôn giả A-nan.

Lúc đó, vào ngày Bố-tát đêm rằm tháng Magha, Tôn giả A-nan chợt nghĩ: "Ðức Thế Tôn đã dạy rõ về cha mẹ của bảy đời chư Phật, đã dạy về thọ mạng, cội cây của chư Phật ngồi thành đạo, đệ tử, vị thống lãnh Tăng đoàn và người ngoại hộ chính thức. Tất cả điều đó đã được đức Thế Tôn nói rõ, nhưng Ngài không nói về phương cách giáo giới của bảy đời chư Phật trong ngày Bố-tát. Không biết phương cách có giống như hôm nay hay khác?".

Nghĩ thế, Tôn giả đến bạch Phật và thưa hỏi những điều như trên. Đức Phật trả lời:

- Chư Phật tuy khác nhau về thời gian bố-tát, nhưng tương đồng về lời dạy khi giáo giới. Đó là:

Không làm mọi điều ác,
Th
ành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy. (PC 183)

Chư Phật thường giảng dạy,
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết-bàn, quả tối thượng,
Xuất gia không phá người,
Sa-môn không hại người. (PC 184)

Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
S
àng tọa chỗ nhàn tịnh,
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy. (PC 185)

Lời giáo giới trên chỉ được mỗi vị Phật tuyên bố lần đầu tiên khi hội đủ 4 điều kiện (Caturansasan-nipāta):

- Ðúng vào ngày trăng tròn tháng Magha,
- Có các vị tỳ-khưu tự động đến bái kiến Ðức Phật, không hẹn trước,
- Các vị đó đều là Thánh tăng A-la-hán có lục thông, và
- Các vị đó đều xuất gia với Đức Phật như là Thiện Lai Tỳ-Khưu (Ehi-bhikkhu).

Trong thời kỳ Đức Phật Thích Ca của chúng ta, số các vị tỳ-khưu đó là 1250 vị.

Vì thế, ngày rằm tháng Giêng mỗi năm được xem như là ngày lễ kỷ niệm Đại hội Chư Thánh Tăng. Ngày nầy được cử hành bằng nhiều hình thức nghi lễ khác nhau, như lễ hội đặt bát đến chư Tăng, lễ thọ giới, lễ quy y, lễ thuyết pháp, lễ nhiễu Phật, lễ thọ đầu đà, v.v. nhằm giúp người Phật tử cư sĩ có cơ hội gieo duyên lành trong chánh pháp. Ðặc biệt là lễ thọ đầu đà (dhutanga), trong đó, các cư sĩ đến chùa, thọ bát quan trai giới, thức trọn đêm để tham thiền, nghe pháp, tham vấn, luận đạo.

*

2) Phật Di Chúc

Trong 45 năm hoằng pháp, Đức Phật truyền dạy tất cả những điều cần thiết cho những ai quyết tâm cố gắng theo chân Ngài, cả bậc xuất gia lẫn hàng cư sĩ tại gia. Chẳng những các vị này đã nắm vững Giáo Lý mà còn có đủ khả năng để rộng truyền đến kẻ khác. Như đã ghi lại trong kinh Đại Bát Niết Bàn (kinh số 16, Trường Bộ): "... Các vị đó đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu". Vào năm tám mươi tuổi, Ngài quyết định từ bỏ từ bỏ thọ, hành, không duy trì mạng sống lâu hơn nữa. Lúc ấy, Ngài đang ngự tại thành Vesali.

Vào ngày trăng tròn tháng Magha, sau khi đi khất thực và thọ trai, Ngài đến nghỉ trưa tại đền Capala. Sau đó, Ngài cùng Tôn giả A-nan đi đến giảng đường Kutagara tại rừng Ðại Lâm. Ngài bảo Tôn giả A-nan đi mời tất cả Tỳ-khưu sống ở gần Vesali tụ họp tại giảng đường này.

Đức Thế Tôn nói với các vị Tỳ-khưu:

- "Này các Tỳ-khưu, những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.

Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỳ-khưu, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".

Rồi Ngài nói với các Tỳ-khưu:

- "Này các Tỳ-khưu, đây là lời Ta nhắn nhủ quý vị. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, vì không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ".

Ðó là lời Đức Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy, Ngài lại nói thêm:

Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao,
Từ biệt quý vị, Ta đi một mình.
Tự mình làm sở y cho chính mình,
Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,
Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.
Ai tinh tấn trong Pháp và Luật này
Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.

Dựa vào sự kiện lịch sử đó, ngày rằm tháng Magha (tháng Giêng âm lịch) mỗi năm được hàng Phật tử trong truyền thống Nguyên thủy tổ chức để kỷ niệm ngày Phật Di Chúc, 3 tháng trước khi Ngài nhập diệt.

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | Mục lục



[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 01-05-2005