BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Phật Giáo Nguyên Thủy
Ân Đức Tam Bảo
Hòa thượng Bửu Chơn
[1.3]
6. Anuttaro (Vô-Thượng-Sĩ) Tại sao Ðức Phật có hiệu là ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ)? Bởi Ngài có đức-hạnh không ai sánh bằng. Trong kinh Samyutta Nikãya có câu Phật-ngôn như vầy: "Như-Lai chẳng thấy trên thế-gian này, luôn cả Chư-Thiên, Ma-Vương và Phạm-Thiên, trong thế-hệ này luôn cả đạo-sĩ, Bà-La-Môn, Vua Chúa và Nhân-Loại, có chúng-sanh nào đức-hạnh cao thượng hơn Như-Lai". Thật vậy, trong thế-gian này không ai có thể sánh bằng Ðức Phật vì Ngài có những ân-đức cao quí-trọng kể sau đây: 1. Rupakãyesu Anuttaro: Quí trọng vì Sắc Thân không tội-lỗi, tật nguyền, có oai-nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), tốt đẹp, đằm thắm, đầy-đủ 32 tướng hảo và 80 tướng phụ có hào-quang phóng ra sáng ngời, nhân-loại và Chư-Thiên không ai sánh bằng. 2. Silesu Anuttaro: Quí trọng vì Giới-Hạnh. Giới có 2:
3. Samãdhimhi Anuttaro: Quí trọng vì Thiền-định. Thiền-định có 2:
4. Pannãsu Anuttaro: Quí trọng vì Trí-Tuệ:
Những Trí-Tuệ ấy chẳng phải Ðức Phật mới đắc được trong khi thành đạo, ngay trong những kiếp quá-khứ lúc còn Bồ-Tát tu huệ Ba-La-Mật (Pannã Parãmi), Ngài có tên là Mahodatha, Vidhura ... đã có Trí-Tuệ trội hẳn các bậc trí-thức khác trong thời-gian bấy giờ. 5. Purisasilamãcãresu: Quí trọng vì sanh làm người Nam (Thái-tử Sỉ-Ðạt-Ta) đầy đủ ngũ quan, diện mạo phi-phàm, học lực xuất chúng, thông hiểu trọn bộ kinh: phệ-đà, kiếm cung, tài-lực siêu phàm bạt-tụy, không người nam nào có thể sánh bằng, ai-ai cũng đều cảm-phục kính-nể. 6. Bhavassa Sammãcãresu: Quí trọng vì phẩm-hạnh thanh cao hơn tất-cả chúng-sanh trong Tam-Giới. 7. ParapuggalaVimuttinnãne: Quí trọng vì Trí-Tuệ thông-hiểu phương-pháp giải-thoát khỏi các Pháp-Ác (Phiền-Não) hơn các bậc trí-thức khác. 8. Pubbenivãsãnussatinnãne: Quí trọng vì Trí-Tuệ biết rõ các tiền-kiếp của Ngài và của các chúng-sanh là đắc Túc-Mạng-Thông. 9. Dibbacakkhunnãne: Quí trọng vì Ngài có Thiên-Nhãn-Thông. 10. Kammavipãkannãne: Quí trọng vì Trí-Tuệ biết rõ cái quả của mỗi chúng-sanh đều do nghiệp thiện hoặc ác đã tạo. 11. Yamakappãtihãriyannane: Quí trọng vì Ngài đã dùng lưỡng-thông là thần-thông hóa thân làm 2 vị Phật:
12. Lokavivaranappãtihãriyannãne: Quí trọng vì Ngài đã dùng thần-thông làm cho Chư-Thiên, nhân-loại và chúng-sanh trong địa ngục đồng nhìn thấy nhau rõ-ràng sau khi Ngài thuyết xong Tạng Luận, từ cõi trời Ðao-Lợi trở xuống trần-gian. 13. Apattikusalatãya: Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch sự phạm tội, vị tăng nào phạm tội (Giới-Luật) hoặc không phạm tội. Ngài đều rõ biết. 14. Apattivutthanakusalatãya: Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch cách thoát khỏi tội là nếu vị tăng nào sơ-ý phạm tội, Ngài từ-bi cho phép thực-hành những phương-thế giải-tội (sám-hối...) 15. Dhãtukusalatãya: Quí trọng vì Ngài hiểu biết rành-mạch bản-chất Tứ-Ðại Hữu-thức (Upãdinnaka Dhãtu) của chúng-sanh và bản-chất Tứ-Ðại Vô-thức (Anupãdinnaka Dhãtu) của Ðất, Núi, Cây, Ðá... luôn cả bản-chất của chúng-sanh vui-thích trong Tứ-Ðại là Ðất, Nước, Gió, Lửa. 16. Manasikãrakusalatãya: Quí trọng vì Ngài rành-mạch cách chú Tâm, điều chi Ngài để Tâm ghi nhớ thì không bao giờ quên. 17. Thãnãthãnakusalatãya: Quí trọng vì Ngài rành-mạch trong nguyên-nhân (Hetu) hay không phải nguyên-nhân. Nhân đây là nhân lành, có 3 là:
18. Dvisu Iddhisu: Quí trọng vì Thần-lực có 2:
19. Dvisu Anuttariyesu: Quí trọng vì 2 oai-đức cao thượng không ai sánh bằng là:
20. Tisukathãvatthũsu: Quí trọng vì 3 hạnh Tuyệt-Luận là:
21. Tisusamãdhisu: Quí trọng vì 3 bậc Thiền-Ðịnh là:
22. Tisu Pãtihãriyesu: Quí trọng vì những điều phi-thường xảy ra khi Ngài lên pháp-tòa, trong lúc đang thuyết pháp và khi xuống pháp-tòa. 23. Catũsu Satipatthãnesu: Quí trọng vì thông thấu Tứ-Niệm-Xứ là:
24. Catũsu Sampadãsu: Quí trọng vì 4 điều đầy đủ (Sampadã) khiến cho sự phước-thí được quả-báu cao-thượng.
25. Catũsu Iddhipãdesa: Quí-trọng vì Tứ-Thần-Túc (cũng gọi là 4 pháp căn-bản để thực-hành cho đắc thần-thông):
26. Catũsu Maggesu Catũsu Phalesu: Quí trọng vì 4 quả bắt đầu từ Tu-Ðà-Hườn-Ðạo, Tu-Ðà-Hườn-Quả... 27. Catũsu Ariyavamsesu: Quí trọng vì 4 pháp Thánh Tông:
28. Catũsu vimuttinnãnesu: Quí trọng vì Trí-Tuệ, thông hiểu 4 phương-pháp giải-thoát khỏi các Pháp-Ác (Phiền-não):
29. Pancabalesu: Quí trọng vì Ngũ-Lực:
30. Pancindriyesu: Quí trọng vì Ngũ-Căn (Tinh-Thần):
31. Pancãbhinnãsu: Quí trọng vì Ngũ-Thông.
32. Chãsãdhãranannãreru: Quí trọng vì Trí-Tuệ Vô-Thường (Asãdhãranannãna), có 6:
33. Sattavisuddhidesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp về 7 Pháp Thanh-Tịnh.
34. Sattãkhinãsavabalesu: Quí trọng vì thông hiểu Ðạo-Tuệ của 7 bậc Thánh-nhân là những bậc hữu học (Sekkho Puggalo) có mãnh-lực diệt-tận từng giai-đoạn các Pháp Trầm-Luân; nhất là 10 Sử (Samyouana: Pháp Thẳng-Thúc). 7 bậc Thánh-nhân ấy là:
35. Navasattãvãsadesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp về 9 chỗ trú-ngụ của chúng-sanh. 36. Dasakasinãyatanesu: Quí trọng vì 10 đề Kasina.
37. Ekãdasamettãnisansadesanãsu: Quí trọng vì hiểu rõ 11 phước-báu do sự rải lòng bác-ái:
38. Dvãdasãkusaladesanãsu: Quí trọng vì biết rõ Tâm của chúng-sanh ở trong đều tội-lỗi là 12 Ác-Tâm (Akusalacitta):
39. Terasa Dhutangagunesu: Quí trọng vì thông hiểu cách hành 13 Pháp Ðầu-Ðà.
40. Cuddasabuđhannãnesu: Quí trọng vì Trí-Tuệ hoàn-toàn sáng-suốt, vô-lượng vô-biên, có 14:
41. Ekavisatikusaladesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp về Sanginippakarana (trong Tạng-Luận) chia Tâm lành ra 21:
42. Catuvisatipasayadesanãsu: Quí trọng vì sự thuyết-pháp Mãhãpatthãna (Duyên-Khởi-Ðại-Luận) về 24 cái nhân (Paccaya) [1] bắt đầu từ Hetuppaccaya (Nguyên-Khởi-Nhân) và cuối cùng là Avigatappaccaya (Bất-Tán-Nhân). 43. Kotisatasahassa Sancaritadhamma Vajirannãnesu: Quí trọng vì Huệ thông suốt hằng-hà vô-tận; Pháp Môn là Dukapatthãna, Tikapatthãna, Dukatikapatthãna, Tikadukapatihana... [2]. Do nhờ những Ân-Ðức quí trọng, không ai có thể sánh bằng vừa kể trên, nên Ðức Phật có hiệu là ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ).
7. Purisadammasãrathi (Ðiều-Ngự Trượng-Phu) Tại sao Ðức Phật có hiệu là PURISADAMMASARATHI (Ðiều-Ngự Trượng-Phu)? Bởi Ngài là đấng tế-độ những người hữu duyên nên tế-độ. Người hữu-duyên. Người Hữu-Duyên là người trong kiếp quá khứ đã thực-hành pháp Ba-La-Mật, là người năng bố-thí, chuyên cần trì-giới, tham-thiền, thính pháp. Người đã thực-hành những hạnh thanh cao ấy là người đã tập duyên lành (Upanissaya) đáng được tế-độ. Tùy theo trình-độ phẩm hạnh thấp hoặc cao, thiện-duyên nhiều hoặc ít, Ðức Thế-Tôn dùng phương-tiện thích-ứng để tế-độ mỗi người Hữu-Duyên. Có 2 hạng người Hữu-Duyên:
Hạng người nào Hữu-Duyên cùng Ðức Phật thì tự Ngài đến tế-độ, còn hạng người nào Ngài biết rõ hữu-duyên với bậc Thinh-Văn nào thì Ngài bảo vị ấy đến tế-độ. Phương-tiện tế-độ chúng-sanh. Ðức Thế-Tôn tùy theo tâm tánh và căn-cơ của mỗi hạng người mà giảng-giải rõ-ràng về phước hoặc tội:
Kế tiếp với những hạng người đã trau-giồi giới-hạnh thanh-tịnh rồi, Ngài thuyết về các pháp Thiền-Ðịnh và phước báu do các pháp ấy từ bậc Sơ-Thiền đến Tứ-Thiền. Với những bậc đã đắc Thiền-Ðịnh, Ngài lại giảng-giải về các pháp Minh-Sát, hầu những vị ấy tu-tập lần lần để phát sanh Trí-Tuệ thấy rõ thật tướng các pháp hữu-vi diệt-trừ Phiền-Não và đắc đạo-quả Thánh-Nhân từ Tu-Ðà-Hườn đến A-La-Hán. Chúng ta không lấy làm lạ rằng trong tích xưa, có nhiều Chư-Thiên và bậc Ðại Thiện-Duyên, khi nghe qua một câu kệ-ngôn hoặc một thời pháp do Ðức Phật thuyết được, liền chứng đạo-quả Thánh-nhân ngay tại chỗ ngồi của mình. Nguyên do là các bậc ấy đã thực-hành viên-mãn, các pháp Ba-La-Mật và tập hợp Thiện-Duyên cao dày, quí báu từ vô-số kiếp quá-khứ, đến kiếp hiện-đại, hữu phước gặp Ðức Phật giảng dạy tế-độ cho, nên được nếm hương-vị an-vui tuyệt-đối, ví như trái cây đã chín mùi từ bao nhiêu ngày trên cành cao, chỉ một luồng gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng vậy. Trong kinh Anguttara Nikãya, có câu Phật-ngôn như vậy: "Này Kesi! Như-Lai huấn-luyện chúng-sanh đáng tế-độ khi thì bằng phương cách dịu-dàng, lúc thì bằng phương-tiện cứng rắn và khi thì bằng cả 2 cách: dịu-dàng và cứng rắn". Nói tóm lại, Ngài tế-độ chúng-sanh bằng 3 phương-tiện sau đây:
Ðức Thế-Tôn rất thông-thạo, rành-mạch trong sự giáo hóa chúng-sanh ví như nài voi đã thuần-thục trong sự tập luyện voi, bởi Ngài thông-hiểu Tâm của tất-cả chúng-sanh như đã giải trong hiệu Thế-Gian-Giải, đoạn "Chúng-Sanh Thế-Gian". Do nhờ hiểu biết tường-tận tánh nết, hạnh-kiểm, trình-độ Trí-Tuệ và duyên lành của mỗi chúng-sanh, nên Ngài mới có thể giáo-hóa Chư-Thiên và Nhân-Loại một cách dễ-dàng. Vì thế các bậc hữu-duyên nên tế-độ đều vâng theo lời khuyên bảo và giáo-huấn của Ngài. Chúng-sanh được tế-độ. Nếu dịch sát nghĩa thì chữ "Parisadammasãrathi" có nghĩa là Bậc Chỉ Ðạo (Sãrathi) những người Nam (Purisa) đáng được Giáo-Hóa (Damma). Như thế thì Ðức Phật chỉ độ toàn những người Nam thôi hay sao? Không phải vậy, Ngài tế-độ cả người Nam và người Nữ, những lệ thường thì nói đến người Nam trước vì theo Phật-giáo người Nam hữu phước hơn người Nữ và hành-đạo cũng được tiện-lợi dễ-dàng hơn. Lại nữa, chẳng những chỉ riêng Nhân-Loại thôi, Ngài còn tế-độ luôn cả loài thú và phi-nhân (Chư-Thiên, Dạ-xoa, Ngã-Quỉ...) có duyên lành. Hạng Nam (Purisa) được tế-độ có 3:
Những thú đực như rồng chúa Apalãlo trong núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, Cũlodara và Mahodara trong thế-giới loài rồng. Aggisikha và Dhũmasikha trong đạo Tích-Lan, Aravãla.., đã được Ðức Thế-Tôn có Tâm Bi-Mẫn dùng Thần-Thông tế-độ cho, khiến các rồng chúa ấy hết hung-dữ và dứt nộc-độc là lòng sân-hận, rồi thọ Tam-Qui Ngũ-Giới. Voi Dhanãpãlaka cũng được Ngài tế-độ cho thọ Tam-qui. Không phải chỉ có bao nhiêu ấy thôi, các thú khác nữa cũng được Ngài từ-bi tế-độ rất nhiều. Những người Nam đã làm các điều tội-lỗi, hằng chấp tà-kiến như người con trai ngoại-đạo Nigantha (Jain) tên Saccaka, những người Bà-La-Môn tên Ambattha, Pokkharasãti, Sonadanda, Kutadanta..., đã được Ðức Thế-Tôn từ-bi thuyết-pháp tế-độ cho, khiến phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, xa lìa Tà-Kiến; được Chánh-Kiến và đắc đạo-quả cao thượng. Những người Nam đã rơi vào lưới Huệ của Ngài và được tế-độ không phải chỉ bao nhiêu ấy thôi, còn rất nhiều không kể hết được. Những phi-nhân Nam như các dạ-xoa Alavaka, Sũciloma, Kharaloma, Ðức Ðế-Thích (Sakka), Ðại-Phạm-Thiên Pakã... đã chấp Tà-Kiến và Ngã-Mạn, tự cho mình là bậc có đức-hạnh tối cao, được Ðức Phật thuyết pháp tế-độ cho đến khi phát Tâm tín thành Tam-Bảo. Huấn-từ của Ðức Thế-Tôn. Lời Ðức Thế-Tôn thốt ra để giáo-hóa chúng-sanh rất nhiều không thể kể xiết. Khi giáo-huấn, Ngài tùy theo:
Nói tóm lại, huấn-từ của Ngài có 3:
1. Ðức Thế-Tôn bảo đừng làm điều ác là nên xa lánh 10 Pháp Hành Ác do Thân, Khẩu, Ý gọi là Thập-Ác:
2. Ngài khuyến-lệ nên làm các điều lành là nên hành 10 Phạm Hành Pháp (Punnakiriya):
3. Ngài dạy bảo nên trau-dồi Tâm cho sạch là nên cố-gắng diệt-tận các Phiền-não (Kilesa) và các pháp Ngủ-ngầm trong Tâm (Anusaya) là những điều làm cho Tâm bẩn nhơ và khiến chúng-sanh sa-đọa trong vòng sanh tử luân-hồi. Những Phiền-Não ấy chia ra 2 hạng:
Nếu tóm tắt thêm nữa, huấn-từ của Ðức Chánh-Biến-Tri có thể thâu ngắn lại trong 2 khuyên ngôn quí báu sau đây:
1. Sự Dễ-Duôi hằng ngự trong Tâm của hạng người hay quên mình, thường buông-lung trí-nhớ, không nhất quyết làm một việc gì cho lâu dài, thành tựu. Tâm chúng-sanh mải say-mê theo sự cám-dỗ của Ngũ-Trần lục-dục, tự nghĩ rằng ta còn trẻ chưa già, còn đang mạnh chưa đau, còn vui chưa khổ.... nên ít có dịp tưởng nhớ đến các Pháp lành và các công-đức. Dẩu có nhớ đi nữa cũng làm qua-loa cho có chừng, khộng để hết Tâm-Trí vào sự thực-hành những Thiện-Pháp. Ðó là Tâm Dễ-Duôi. Lại nữa, chẳng khác nào con cắc-kè chạy một đoạn đường rồi ngừng lại một chập, không bao giờ chạy một mạch đến đích; có người làm việc phước thí hoặc Trì-giới hoặc Thính-Pháp, Tham-Thiền... một hôm rồi bỏ luôn nhiều ngày; có người xuất gia trong một thời-gian rồi hoàn-tục, không còn tưởng nhớ chi đến Phật-Pháp nữa... Tất cả sự kiện ấy là trạng-thái của Tâm Dễ-Duôi. Sự dễ-duôi là nguồn cội và chủ-động các Pháp Ác. Chúng-sanh nào làm nô-lệ cho sự dễ-duôi rồi thì bằng chất-chứa Phiền-Não trong thân tâm, phải chịu những sự thống-khổ của Sanh, Già, Ðau, Chết, đời này qua kiếp khác không ngừng. 2. Sự Không Dễ-Duôi Nghịch hẳn với Sự Dễ-Duôi. Người không Dễ-Duôi là người hằng có sự ghi nhớ trong Tâm, chẳng phải chỉ trong một thời-gian mà thôi, trong bất cứ lúc nào, nơi nào và hành động nào cũng vậy. Ðặc-tính của người Không Dễ-Duôi có 5:
Sự Không Dễ-Duôi là bức tường ngăn-cản rất hiệu-quả các Pháp Ác không cho xâm-nhập và nảy-nở trong thân-Tâm được, là nguồn cội và chủ-động các Pháp Lành. Nên có câu Phật-ngôn như vậy:" Này các thầy Tỳ-Khưu! dấu chân của tất cả loài thú đều có thể nằm trọn trong dấu chân của con voi như thế nào; các thiện Pháp hằng qui-tụ cả thảy dưới năng lực của sự không dễ-duôi như thế ấy!". "Appamãdo Amatam Padam ": Sự Không Dễ-Duôi là con đường đi đến nơi bất-diệt. Chúng-sanh nào có Tâm Không Dễ-Duôi, thường tưởng nhớ đến những pháp hành, chuyên cần thực-hành các công đức như Bố-Thí, Trì-Giới, Thính-Pháp, Tham Thiền... và cố gắng không ngừng gìn-giữ Lục-Căn thanh-tịnh, không cho duyên theo trần-dục; chúng-sanh ấy, chắc chắn một ngày kia sẽ diệt-tận được các Phiền-Não trọng đại, vi-tế và sẽ được nếm hương-vị Niết-Bàn là nơi Vô-Sanh Bất-Diệt vậy. Vì thế, nên trong khi lâm trọng bệnh sắp nhập Niết-Bàn, Ðức Thế-Tôn nhìn hàng tứ-chúng đang ngồi đầy-dẫy trước mặt Ngài, người thì gương mặt âu-sầu, buồn-bã, người thì giọt lệ đầm-đìa... ai ai cũng đều tỏ vẻ ảo não, tiếc thương đấng Từ-phụ trong giờ vĩnh-biệt... Khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, Ngài bèn thốt lời căn dặn như vậy:" Này các đệ tử! Các người nên nhớ rằng các Pháp Hữu-Vi đều phải bị tiêu hoại, ấy là lẽ dĩ nhiên. Các người không nên Dễ-Duôi, hãy cố-gắng hành những điều lợi-ích đến thân-Tâm cho được mau kết quả!" Ấy là lời cuối cùng của Ðức Thế-Tôn khi sắp lìa cõi thế-gian, tiếng Palĩ gọi là "Pacchimabuddhavacana " (Tối-Hậu-Ngôn). Bao nhiêu lời ấy bao gồm trọn vẹn Giáo-Pháp mà Ðức Thế-Tôn đã khổ công truyền bá trong 45 năm trường dài đăng-đẳng, vì vậy chúng ta là hàng Phật-tử, hữu-duyên gặp được Chánh-Pháp, cũng nên khắc tạc nơi Tâm khảm lời di-huấn vàng ngọc của Ngài và cố-gắng thực-hành "Sự Không Dễ-Duôi" hầu thấy rõ con đường giải-thoát trong ngày tương-lai. Do nhờ những Ân-Ðức Từ-Bi phổ-độ chúng-sanh vừa kể trên, nên Ðức Phật có hiệu là PURISADAMMASARATHI (Ðiều- Ngự-Trượng-Phu). -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002)
[Trở
về trang Thư Mục]
updated: 18-04-2002