BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Sống Thiền - Ðạo Lý Tỉnh Giác Trong Ðời Sống Thường Ngày
Từ Thám dịch


SINH HOẠT THIỀN

Trong khi tu Thiền Quán, hành giả không nhất thiết phải tu Chỉ để đạt tới tình trạng an định. Ðiều tối cần là hành giả phải có trí tuệ ba-la-mật (panna paramita) tức là trí thông minh có sẳn. Nếu hành giả có trí tuệ ba-la-mật và ở tình trạng sẳn sàng, thì y có thể đắc ngộ ngay sau khi chỉ nghe một bài giảng. Do đó, với trí tuệ giải thoát, hành giả sống tại gia vẫn có thể đắc ngộ khi quán chiếu vô thường bên trong hay ngoài bản tâm, tại gia hay ngoài xã hội.

Ledi Sayadaw
(Vipassana Dipani)

Thiền Trong Sinh Hoạt

A: Tôi có nhiều lo lắng và căng thẳng. Tôi thử tập thiền để thư giãn, nhưng không có hiệu quả...

T: Trong thế giới vội vàng nầy, thiền được xem là phương trị liệu tức thời cho những căn bịnh của đời sống. Nhưng nếu xem thiền như là phương thuốc an thần thì ta đã đánh giá nó quá thấp. Ðúng vậy, thiền định đem tới sự thư giãn, nhưng đó chỉ là một trong nhiều hiệu quả của nó. Thiền trong Phật giáo không phải là một trị liệu cấp thời hay chỉ là một phương cách thư giãn căng thẳng.

Trong Phật giáo, thiền là phương pháp rèn luyện tâm để đạt tới tuệ giác (panna) và cuối cùng đến giải thoát và Niết-bàn.

D: Xin để Niết-bàn qua một bên, tôi muốn tu thiền nhưng không có thì giờ.

Khi nói về thiền, có lẽ bạn đang nghĩ về lối thiền thông dụng thời nay, tức là lối thiền ngồi (tọa thiền). Nhưng hình thức thiền ngồi nầy chỉ là phụ trợ cho chúng ta phát triển một thứ kỷ luật nội tâm gọi là Tỉnh Giác và Bình Ðẳng Tâm. Bạn đừng lầm lẫn hình thức với con đường nhé.

Thông thường, người ta nói là bạn cần để riêng ra một ít thì giờ và một nơi nào để tập thiền. Nhưng nếu thiền là nhằm mục đích giúp bạn đạt được tâm bình an trong đời sống, thì nó phải là hành vi sinh động và phải là một bộ phận của cuộc sống thường ngày. Thiền là ở đây và ngay lúc nầy, từng giây phút một, giữa các thăng trầm của đời sống, giữa đấu tranh, thất vọng, đau đớn, giữa thành công và căng thẳng. Nếu bạn muốn thông hiểu và giải quyết những sự tức giận, ham muốn, bám níu và đủ loại cảm xúc hay xung đột khác bên trong, bạn có cần đi đâu khác để tìm giải pháp chăng? Nếu chính ngôi nhà của bạn đang bốc lửa, chắc là bạn không đi nơi nào khác để dập tắt lửa, đúng không?

Nếu bạn thật sự muốn hiểu bản tâm, bạn phải ngắm nhìn nó trong lúc nó nổi giận, trong lúc nó ham muốn, trong lúc nó đang xung đột. Bạn phải chú ý nhìn vào tâm mình trong khi muôn ngàn tư tưởng và tình cảm nổi lên và rơi rụng. Ngay lúc bạn chú ý vào cảm xúc của mình, bạn sẽ thấy nó mất năng lực và cuối cùng biến mất. Nhưng nếu bạn lơ là không chú ý thì nó sẽ tiếp tục và tiếp tục. Chỉ khi nào cơn giận đã chấm dứt thì lúc đó bạn mới biết rằng mình đã nổi nóng. Nhưng muộn rồi vì bạn đã vô ý phạm lỗi lầm, hay đã cảm thấy quá mệt nhọc vì cảm xúc.

R: Làm sao đối phó với những cảm xúc đó? Tôi biết là trong khi nổi giận thì tôi muốn la hét và ném đồ vật. Tôi phải kiểm soát chúng, hay là để chúng phát tiết?

Khuynh hướng tự nhiên là kiểm soát cảm xúc. Nhưng nếu mình cố đè nén thì nó sẽ cố bung ra. Nó sẽ nổ tung hay phát tiết bằng cách gây bịnh hay rối loạn thần kinh.

R: Như vậy tôi phải làm sao? Chả lẽ tôi để cho chúng tự do bộc phát?

Dĩ nhiên là không. Ðó là điều chúng ta không muốn làm. Phát tiết cảm xúc một cách bất chợt là một cực đoan khác. Ðiều quan trọng là không phải kiểm soát mà cũng không phải không kiểm soát. Trong cả hai trường hợp, anh đều có ý muốn kiểm soát nó, nên cả hai đều không tốt. Khi nào ý muốn kiểm soát nầy còn chi phối bên trong thì tâm anh không còn tự do để ngắm nhìn cơn giận đúng như thực tế của nó. Do đó mâu thuẫn lại nổi lên: anh càng cố gắng để khỏi nổi giận thì lại càng hoài công.

Muốn hiểu bản tâm, anh phải ngắm nhìn và chú ý nó với một tâm thức tập trung, im lặng. Khi tâm anh ồn náo, luôn luôn đặt câu hỏi thì nó thiếu năng lực quan sát. Nó quá bận rộn đặt câu hỏi, trả lời, rồi lại đặt câu hỏi.

Anh hãy kinh nghiệm tự ngắm nhìn tâm mình trong im lặng. Sự im lặng nầy là sự im lặng của một tâm thức vô phân biệt, không còn thích hay không thích, không còn bám níu.

Bản chất của tư tưởng và tình cảm là tạm bợ và tự chúng không có đời sống riêng biệt. Nếu bạn bám níu chúng thì bạn làm cho chúng ở lại lâu hơn

Chỉ khi nào tâm thức bạn không còn bám níu hay vất bỏ thì nó mới có thể nhìn cơn giận như là cơn giận, ham muốn như là ham muốn. Ngay khi bạn 'thấy', thì tâm thức của bạn bị bận bịu vì 'thấy', và chính trong giây phút đó cơn giận của bạn tự nhiên chết mất. Sự thấy biết hay tuệ giác nầy, gọi là Panna, xảy tới như là một thứ nhận thức tức thời mà chúng ta không thể tu tập hay rèn luyện được. Nhận thức nầy đem tuệ giác mới mẻ vào đời sống, sự trong sáng và tức thời của hành động.

Như vậy, bạn thấy là thiền định không nhất thiết phải xa rời đời sống với những thăng trầm của nó. Nếu bạn muốn kinh nghiệm được bình an trong cuộc sống thường ngày, bạn cần phải ngắm nhìn, am hiểu và đối phó với tham sân si của bạn ngay khi chúng vừa nổi lên. Chỉ khi nào bạn không còn dính líu với cảm xúc thì lúc đó bản chất bình an của tâm thức mới hiện ra. Bản chất bình an nầy làm bạn có thể sống trọn vẹn từng giây phút của đời sống. Với sự thông hiểu và nhận thức mới tìm được, bạn sẽ có thể sống như một con người trọn vẹn và nhạy cảm hơn. Bạn sẽ nhìn đời với một quan điểm mới mẻ và tươi mát. Và kỳ diệu thay, những vấn đề trước kia không còn là vấn đề nữa.

Sống Với Giây Phút Hiện Tại

R: Bà nói rằng tôi có thể thiền định trong sinh hoạt thường ngày bằng cách tu tập chú ý (sati) trong tâm. Nhưng tôi thấy điều đó thật là khó khăn; tâm của tôi quá lơ đãng.

T: Ðiều đó không có gì lạ. Anh thấy, muốn chú ý đến tâm mình trong khi anh sinh hoạt thường ngày, anh phải lật ngược tâm thức vào bên trong. Ðúng thế, tâm của anh cần phải mạnh mẽ và tập trung thì mới có thể tỉnh giác về chính nó được. Do đó khi anh bị xúc động hay lơ đãng thì dĩ nhiên là rất khó chú ý đến tâm mình.

R: Vậy tôi phải bắt đầu làm sao đây?

Hãy tập có tỉnh giác về bất cứ hành động nào của anh ngay lúc nầy: đi bộ, ngồi, tắm, hút bụi, ngắm hoa, vv...Anh có thể tập điều nầy bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Trong khi rèn luyện tâm tập trung, anh sẽ thấy là mình càng ngày càng bớt lơ đãng. Rồi về sau, khi anh tiếp tục rèn luyện, anh sẽ có thể tỉnh giác về tư tưởng và tình cảm của mình ngay khi chúng mới nổi lên.

Giả sử như anh đang lái xe. Anh phải chú ý về hành động lái xe, phải không? Tâm của anh phải ở tại chỗ và ngay giây phút đó, chú ý nhìn trên xa lộ, quan sát các tài xế khác. Anh không thể nào để mình quá lơ đãng bởi những tư tưởng khác. Lái xe cũng giống như tập tỉnh giác về hành động đang làm của mình. Nhưng thường là chúng ta không làm những hành động khác một cách tập trung như vậy.

R: Tại sao không?

Có lẽ vì những hành động khác ít nguy hiểm hơn lái xe. Nhưng anh có thể áp dụng cùng nguyên tắc đó cho những hành động khác. Giả sử như anh đang ăn. Nếu tâm anh lơ đãng, có thể là anh không có nhận thức mình đang nếm mùi vị của thức ăn, huống hồ là có thể thưởng thức nó. Chỉ khi nào anh chú ý trên hành động ăn thì anh mới có thể thật sự thưởng thức được mùi vị của thức ăn.

Trong những hoạt động tiêu cực cũng vậy. Giả sử như anh đang ngồi trên xe buýt. Anh chỉ cần để tâm tại chỗ, đừng để nó chạy lang thang. Hãy chú ý ở cảnh vật chung quanh. Hãy có nhận thức về những người khác ở trên xe, chiếc xe chạy nhanh hay chậm và chạy về đâu. Ðây là cách rất tốt để bắt đầu tập thiền. Hãy giữ tâm tại chỗ thay vì để nó chạy rong.

P: Tôi đã cố gắng tập tỉnh giác về giây phút hiện tại. Nhưng thật là khó quá, và tâm tôi bị rối bời.

Hỡi ôi, sống với giây phút hiện tại chỉ là một cách nói, không phải là một điều răn phải răm rắp tuân theo. Ðây không phải là cuộc thi sát hạch. Anh phải hiểu điều nầy ngay lúc đầu, bằng không thì tâm anh bị rối như bòng bong vì quá cố gắng với mọi giây phút trong ngày.

Nếu bạn quá đeo níu vào giây phút hiện tại thì bạn sẽ mất đi nghệ thuật sống thư thả.

Anh cần hiểu rằng sống với giây phút hiện tại chỉ là một phương tiện để phá bỏ thói quen của tâm thức. Nó thường nhảy chuyền giữa các tư tưởng và cảm xúc về quá khứ, hiện tại và tương lai. Sống với giây phút hiện tại chỉ là một cách để tập cho tâm mình thôi nhảy chuyền.

Sống tất cả với từng giây phút hiện tại không phải là điều quan trọng. Ðiều quan trọng là học tập bỏ thói quen tâm thức luôn luôn nhảy chuyền, luyện cho tâm mình được tập trung và vững vàng hơn.

Khi đã phá bỏ được thói quen của tâm chạy rong, anh sẽ thấy mình được tự chủ hơn và có thể sống với giây phút hiện tại nhiều hơn.

SD: Như vậy thì chúng ta được ích lợi gì?

Ðây là câu hỏi rất hợp tình. Dĩ nhiên là tâm anh sẽ được tập trung hơn, nhưng anh có thể được vậy mà không cần phải học tập nghệ thuật thiền định. Một số hoạt động như chơi gôn, đánh cờ, đọc sách, vv...có thể tăng cường tập trung.

SD: Có gì khác biệt giữa các hoạt động đó và lối thiền định quán tâm từng giây phút?

Nếu anh nhìn vào tiến trình của những hoạt động đó, anh sẽ thấy có yếu tố ham muốn: ham muốn đạt tới sự toàn thiện, ham muốn thắng cuộc chơi, ham muốn được thoải mái, hay cái gì nữa. Dục vọng kích thích anh. Và khi hoạt động đó chấm dứt thì sự tập trung cũng không còn. Trong thiền định, sự tập trung cũng rất quan trọng, nhưng không phải là tất cả. Nếu chúng ta chỉ tập trung thôi, thì không được ích lợi gì nhiều hơn.

Muốn thiền định, điều tối cần là phải tỉnh giác nhưng không có lòng mong cầu (dục vọng), không ghét bỏ, không có thích và không thích, không có mục tiêu.

Nếu bạn có thể tỉnh giác mà không có phán đoán, không có thích hay không thích, thì đúng là bạn đang tu tập Tâm Im Lặng hay Tâm Xả (tức Bình Ðẳng Tâm), gọi là Upekha trong tiếng Pali.

Nguyên tắc nầy đúng cho cả hai lối thiền định: lối ngồi thiền chính thức và lối thiền định trong sinh hoạt (không chính thức), mà chúng ta đang bàn đây. Có hai yếu tố cần nhớ: sống với giây phút hiện tại và nhìn mọi sự vật mà không có 'thích' và 'không thích'.

R: Ồ, điều nầy không dễ dàng vậy đâu. Ngoài chuyện phải chú ý tới cảnh vật chung quanh, còn nhiều chuyện khác chúng ta cần làm nữa.

Ðúng vậy, không dễ dàng đâu. Do đó tốt hơn là nên từ từ bắt đầu bằng cách chú tâm vào giây phút nào đó. Có thể là bạn không thể làm tốt được liền. Nhưng bạn sẽ thấy rằng tập sống với giây phút hiện tại giúp chúng ta dễ dàng đạt được 'tâm im lặng'. Nếu bạn tập trung vào giây phút hiện tại, và sự tập trung của bạn tốt, thì sẽ không có vọng tưởng len lõi vào tâm trí. Trong khi bạn tu tập, ngoài chuyện tâm được tập trung hơn, bạn còn sẽ trở nên cảnh giác và nhạy cảm hơn đối với mọi chuyện chung quanh. Khi sự tỉnh giác đã đủ mạnh, bạn có thể hướng sự chú ý vào bên trong tâm để ngắm nhìn cảm xúc và tư tưởng của bạn.

SD: Như vậy, chỉ tỉnh giác thôi thì chưa đủ?

Ðúng thế. Chỉ tỉnh giác thì chưa đủ đâu. Ðó chỉ là phương tiện thôi. Ðiểm cần yếu là phải lồng được tâm Bình Thản (upekha) hay tâm Xả vào trong sự tỉnh giác của bạn.

SD: Phải chăng sự bình thản sẽ đưa tới Tâm Im Lặng?

Ðúng vậy, tâm của bạn chỉ đạt được sự im lặng khi nó có sự bình thản (upekha). Tâm bình thản Upekha không phải chỉ là sản phẩm của sự tu tập thiền định. Chính nó cũng là một công cụ cho sự thiền định. Khi bạn đã có thể rành rẽ quay vào bên trong tâm, nhìn tư tưởng và tình cảm của mình với sự bình thản, thì đường lối bình thản nầy sẽ lan rộng đến các lãnh vực khác của đời sống. Bạn sẽ bắt đầu nghe, nhìn, cảm nhận và liên hệ với mọi sự vật bằng tâm bình thản.

Chỉ tỉnh giác và tập trung thôi thì chưa đủ cho sự thiền định. Tâm Bình Thản phải là yếu tố cố định.

SD: Phải chăng tâm bình thản có nghĩa là tách rời?

Ðôi khi Upekha được dịch là tách rời, nhưng dịch như vậy rất thiếu sót. Bạn phải hiểu là Upekha vượt thoát cả hai nghĩa Tách Rời và Bám Níu. Ðôi khi vì muốn tách ly, bạn có thể trở nên lãnh đạm nếu bạn không cẩn thận. Sự lãnh đạm nầy có thể dẫn tới sự xa lánh và chối từ tế nhị. Upekha không những vượt thoát nghĩa 'không bám níu', mà cả nghĩa 'chối từ' nữa.

Tâm của bạn rất tinh quái, nó có lắm trò mà bạn cần phải biết.

Tinh yếu của 'Bình Thản Tâm' là vượt thoát cả Bám Níu và Tách Rời, vượt thoát Thích và Không Thích, nghĩa là liên hệ với sự vật đúng như thực tế của chúng.

Do đó điểm thiết yếu là bạn phải bắt đầu tu tập sự tỉnh giác trên căn bản của tâm bình thản, không nhị phân - đó là Trung Ðạo. Nếu bạn có thể nhìn thế giới, nhìn chính mình và bản tâm với sự bình thản, thì bạn đang đi trên con đường thiền định đúng đắn.

Sống Với Nhiều Giây Phút Khác

P: Ðôi khi chúng ta không đủ sức giữ tỉnh giác về một công việc mà không bị phân tâm. Tôi chỉ thất vọng thôi nếu tôi cố gắng giữ tỉnh giác về một công việc trong khi đám con nhỏ đòi hỏi sự chú ý của tôi. Hình như tôi chỉ còn cách là chú tâm đến đám con nhỏ và làm công việc đó một cách máy móc.

T: Tôi thích cách nói 'làm một cách máy móc' của chị. Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh: giữ tỉnh giác chỉ là một phương tiện để tu luyện tâm tập trung. Chị đừng đấu đá với chính mình. Chị cần chú ý vào đâu là tùy trường hợp. Nếu bọn trẻ cần chị, thì chị cứ chú tâm đến chúng chớ có sao đâu.

Chỉ có một nguyên tắc nên theo là tránh tình trạng điều-kiện- hóa cứng ngắc của tâm thức.

Ðiều nầy có nghĩa là trong khi nấu rau, chị không nhất thiết phải hoàn toàn tỉnh giác về màu sắc và mùi thơm của rau mà bỏ quên những câu hỏi của đám nhỏ. Bởi vì nếu như thế thì chị đang bám níu vào công tác nấu rau.

P: Ồ, thì ra vì thế mà tôi cảm thấy thất vọng?

Ðúng vậy, bởi vì chị đang bám níu. Một lần nữa, chị nên hiểu là mình phải có Tâm Bình Thản (upekha) trong mọi hành động. Nếu chị nhìn công tác nấu rau với Tâm Bình Thản thì chị đâu có vấn đề gì khi xả bỏ sự tỉnh giác trên công việc nấu rau và quay sự chú tâm đến đứa nhỏ. Ðôi khi, như chị vừa nói, mình có thể tự động nấu rau và đồng thời trả lời đứa nhỏ. Có những lúc khác, nếu đứa nhỏ rất cần đến chị, có lẽ chị sẽ thấy là tốt hơn mình nên bỏ dở việc nấu rau để có thể hoàn toàn chú tâm đến nó. Không có một nguyên tắc cứng ngắc nào cả.

Nên nhớ là bạn có thể bám níu vào sự tỉnh giác về giây phút hiện tại của mình cũng như bạn đang bám níu vào những thứ khác. Ðó là điều phải tránh.

Lỗi nầy rất tế nhị và khó thấy, nên bạn cần hiểu từ khi bắt đầu là nếu không khéo thì bạn có thể bị cột trói bởi sự tỉnh giác của chính mình!

P: Nếu công việc quá bận rộn thì tôi đâu còn có thể chú tâm đến việc khác, và thấy rằng tôi phải chấp nhận sống trong sự bấn loạn đó.

Vậy thì, buông xả sự tỉnh giác có thể là cần thiết. Nhưng chúng ta cũng phải bàn đến cách sống trong bấn loạn. Chúng ta đối phó làm sao với sự bấn loạn đó?

P: Ðôi khi tôi bị sự bấn loạn lôi kéo và hoàn toàn mất tự chủ.

Phải, nếu sự tỉnh giác không đủ mạnh thì chị có thể bị lôi kéo vào cơn bấn loạn. Sự tỉnh giác mà tôi nói đây là sự tỉnh giác về chính tâm thức của chị. Nếu chị không có tỉnh giác về tư tưởng và cảm xúc của mình thì chị dễ bị rơi vào phản ứng với tình thế, phản ứng với sự bấn loạn. Trước khi hiểu chuyện gì đang xảy ra thì chị đã phóng bừa qua cơn bấn loạn, và do đó tạo thêm rối loạn.

Nếu chị tỉnh giác về cảm xúc của mình khi chị nhìn tình thế bấn loạn thì chị có thể chọn hành động hợp tình hợp lý.

Thay vì chỉ để ý đến tình thế hỗn loạn bên ngoài, bạn hãy dừng lại và nhìn vào bên trong tâm mình xem có gì trong đó.

D: Nhưng điều nầy không dễ làm đâu!

Dĩ nhiên là không dễ dàng. Nhưng bạn phải bắt đầu từ một điểm nào đó chớ. Nếu bên trong tâm không được im lặng thì bạn sẽ phải lặn hụp mãi với tình thế hỗn loạn bên ngoài.

Tự nhìn thẳng vào tâm mình là cách trở về với nguồn tự lực để đạt tới một tình trạng cân bằng và im lặng bên trong. Chính là nhờ tình trạng cân bằng nầy mà bạn có thể nhìn sự hỗn loạn bên ngoài một cách khách quan.

Nếu được vậy thì bạn sẽ thấy hỗn loạn chỉ là hỗn loạn, chỉ là một tình thế xảy ra. Bạn sẽ thấy nguyên nhân nằm sau sự hỗn loạn và bạn có thể hành động thích hợp. Nói vắn tắt, khi bạn nhìn xuyên qua được trung tâm của sự hỗn loạn thì bạn cũng đồng thời giải quyết được vấn đề một cách tốt nhất. Ðây gọi là Panna (Tuệ giác), hay là cái nhìn giác ngộ xuyên suốt.

P: Bà muốn nói là chúng ta phải thụ động trong tình thế xung đột hỗn loạn?

Không phải đâu. Một lần nữa, không có nguyên tắc cứng ngắc nào về chuyện đó. Có trường hợp cần mạnh tay giải quyết thẳng vào trọng tâm của vấn đề. Nếu bạn hành động với nhận thức thì đó là hành động đúng đắn. Có trường hợp khác cần bạn giữ bình tĩnh và không gây thêm lộn xộn nữa. Nếu bạn dừng lại và nhìn, bạn sẽ biết cách phải làm thế nào trong mỗi trường hợp. Nếu bạn nhìn tình thế hỗn loạn và tâm mình với sự bình thản (upekha), bạn sẽ biết mình phải làm sao và không bị tình thế hỗn loạn làm khó bạn.

P: Nếu chúng ta dừng lại để nhìn, làm sao chúng ta có thể phản ứng thích nghi đối với người khác? Chúng ta sẽ không có thì giờ suy nghĩ mình phải làm sao.

Ðây là điểm khó giải thích nhất. Chúng ta luôn luôn có thói quen làm việc bằng trí thức và hình như không thể nào ứng phó với tình thế mà không cần có khái niệm trước. Bạn thấy, ở đây chúng ta bàn về Tuệ giác (panna). Ðây lại là một sự mâu thuẫn: tuệ giác không thể có mặt trừ phi mọi sự khái-niệm-hóa đều chấm dứt. Trong tình thế hỗn loạn, tuệ giác chỉ hiện lên khi chúng ta thôi không còn khái-niệm-hóa tình thế hỗn loạn nữa. Trong thực tế, sự tỉnh giác về chính tâm thức của mình sẽ giúp chúng ta chấm dứt được sự khái-niệm-hóa mà tâm trí chúng ta thường phải đi qua. Khi sự tỉnh giác đã đủ mạnh và trong tâm có sự im lặng hoàn toàn thì tuệ giác sẽ tức thời hiện đến cho chúng ta biết cách tốt nhất để đối phó với tình thế trước mắt.

D: Tôi còn một câu hỏi. Tôi tự thấy mình có thể dừng được cảm xúc ngay giữa một tình thế khó xử, nhưng sau đó tôi không biết mình phải làm gì nữa. BởI vì tôi đang học Phật và tu tập theo Phật pháp, tôi cảm thấy mình cần phản ứng với lòng bi mẫn nhiều hơn. Nhưng có thể là tôi không có lòng bi mẫn lúc đó. Bởi vì không biết phải làm gì nữa, tôi trở về với nề nếp cũ là bực tức hay hung tợn.

Bạn thân mến của tôi, đây chỉ là một giai đoạn trong quá trình tiến bộ của bạn. Bạn đã tiến tới mức đó. Bạn có thể tiến xa hơn nữa. Bạn hãy nhìn vào tiến trình xảy ra trong tâm ngay khi bạn phản ứng. Khi bạn có thể dừng lại ngay trên đường đi, là bạn đã tiến bộ khá lắm rồi.

Chỉ khi nào bạn bắt đầu lý luận trở lại là bạn bắt đầu gặp khó khăn. Nếu bạn có khái niệm là tu Phật thì phải từ bi, thì bạn đã dựng lên một hình ảnh của chính bạn. Khi nào tư tưởng đó còn vào tâm trí, là bạn chưa có tự do. Bởi vì lúc đó tâm trí bạn tràn đầy dục vọng muốn hoàn thành hình ảnh của bạn như là một người tu Phật.

Khi tâm thức chưa được tự do, thì chưa có cơ hội cho lòng bi mẫn thật sự nổi lên.

Ðiều nầy thật là đơn giản. Chỉ khi nào bạn vất bỏ được hết những thành kiến về chính mình thì lòng bi mẫn mới tức thời hiện đến. Khi tâm không còn thành kiến, bạn sẽ có thể hành động tức thời, đầy bi mẫn và sáng tạo.

Thiền Trong Hành Ðộng

D: Bà nói là chúng ta có thể tập thiền trong cuộc sống thường ngày. Cách tốt nhất để bắt đầu là thế nào?

T: Nói một cách tổng quát thì tâm trí của bạn bị thế giới bên ngoài chi phối, và bạn phản ứng với nó một cách máy móc và theo thói quen. Khi bạn bị kẹt với ngoại cảnh, bạn bỏ quên hẳn tâm mình. Do đó điểm thiết yếu nhất bạn cần nhận ra là bạn phải quay sự chú ý bên ngoài vào bên trong, nhắm vào tâm mình. Nói cách khác, bạn phải tập chú ý đến tâm mình trong phạm vi sinh hoạt thường ngày - ngay khi bạn đang ăn, làm việc, giữ con, nấu ăn, hút bụi, vv...hay bất cứ làm việc gì.

R: Có phải bà muốn nói tôi phải ghi nhận tất cả những gì xảy đến trong tâm tôi? Ðiều đó thật vô cùng khó khăn. Giả sử như khi tôi đang lái xe, làm sao tôi có thể vừa quán tâm mà vẫn chú ý tới diễn biến trên xa lộ?

Câu hỏi nầy rất hợp tình. Chúng ta không thể lúc nào cũng quán tâm được. Bởi vì làm như thế khi lái xe là bạn tự trói tâm mình, và xe bạn sẽ chạy tuốt ra khỏi xa lộ. Thay vì làm thái quá như vậy, bạn nên bắt đầu bằng cách tập trung vào một cảm xúc nào đó bên trong bạn. Hãy chọn loại cảm xúc nào làm bạn khó chịu nhiều nhất, hay loại cảm xúc nào nổi bật nhất. Thí dụ như nếu bạn là người nóng tánh, hãy bắt đầu quán sự tức giận của mình. Nếu bạn là người nhiều tự ái, hãy quán sự thay đổi tâm trạng. Hãy chú ý đến loại cảm xúc nào dễ thấy nhất và quấy nhiễu bạn nhiều nhất.

Ðối với nhiều người, quán sự tức giận là điểm bắt đầu tốt vì nó dễ nhận ra và tan biến mau hơn các loại cảm xúc khác. Khi bạn bắt đầu quán sự tức giận của mình, bạn sẽ khám phá một điều lý thú. Bạn sẽ thấy rằng ngay khi bạn vừa biết mình đang tức giận thì cơn giận tự nó tan biến đi. Ðiểm quan trọng là bạn phải nhìn nó với tâm bình thản, không có 'thích' hay 'không thích'. Khi bạn càng có khả năng nhìn cơn tức giận của mình mà không phê phán thì nó càng dễ tan biến hơn.

Có thể là lúc ban đầu bạn chỉ ghi nhận được cơn tức giận khi nó gần chấm dứt. Ðiều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là bạn quyết tâm chú ý vào sự tức giận của mình. Dần dần sự quán tâm sẽ trở nên tự nhiên hơn. Không bao lâu, bạn sẽ thấy rằng, đột nhiên giữa một cơn giận dữ, cơn giận của bạn bỗng nhiên biến đi mà không báo trước. Bạn sẽ thấy mình tỉnh giác và không bị cơn giận cột trói nữa.

A: Ðiều nầy thực sự có thể xảy ra hay sao?

Dĩ nhiên. Bạn thấy, khi bạn cố gắng quay sự chú ý vào bên trong là bạn đã thay đổi tâm trạng của mình. Trước kia, bạn chỉ nhìn ra bên ngoài. Bây giờ bạn tự đổi mới và nhìn vào bên trong, một phần thời gian trong ngày. Sự quán tâm nầy có thể trở thành một thói quen, một trạng thái mà tâm bạn luôn luôn tự động chú ý tới chính nó. Lúc ban đầu, có thể là không thường xuyên, nhưng bạn đừng chán nản. Trải qua thời gian, bạn sẽ ngạc nhiên thấy là mình ý thức về cơn nóng giận sớm hơn trước nhiều.

Khi nhận thức nầy trở nên mạnh mẽ hơn, nó sẽ lan qua lãnh vực của những cảm xúc khác. Có thể là bạn thấy mình đang ngắm nhìn sự ham muốn của mình. Trong sự ngắm nhìn nầy, sự ham muốn sẽ tan đi và bạn chỉ còn lại sự nhận thức. Hay bạn có thể quán sự buồn phiền, nó nổi lên và tan đi chậm hơn các loại cảm xúc khác. Khó quán nhất là sự trầm cảm (depression). Nhưng bạn vẫn có thể quán nó với sự tỉnh giác mạnh hơn.

Khi bạn tiến bộ dần, bạn sẽ thấy nhận thức của mình ngày càng nhạy bén. Ðồng thời, các cơn tức giận ngắn bớt và ít xảy ra hơn. Khi cường độ của các cơn giận giảm dần, bạn sẽ thấy là mình ít khi phải vật lộn với cảm xúc của mình hơn. Cuối cùng, bạn ngạc nhiên nhận ra là trước đây bạn chưa bao giờ có thể làm bạn với cảm xúc của mình một cách dễ dàng như vậy.

R: Bà muốn nói gì đây? Tôi không thể tưởng tượng nỗi là tôi có thể cảm thấy dễ chịu với cơn giận dữ của mình.

Bởi vì bạn không còn vật lộn với cảm xúc, bạn có thể tập nhìn chúng mà không phê phán, bám níu hay vất bỏ. Chúng không còn đe dọa bạn nữa. Bạn học tập cách nhìn cảm xúc của mình một cách tự nhiên, như là một chứng nhân. Ngay cả khi bạn đối diện với xung đột và lòng tràn đầy cảm xúc, bạn vẫn có thể bình thản nhìn chúng. Khi tâm bạn trở nên vững vàng hơn, bạn có thể đối phó với xung đột mà không mất quân bình cảm xúc.

D: Nếu sự tỉnh giác của tôi càng trở nên nhạy bén hơn, tâm tôi có thể nhận biết được cơn giận ngay khi nó vừa nổi lên hay không?

Chắc chắn như vậy. Bạn thấy, khi sự tỉnh giác của bạn trở nên mạnh và cảnh-giác hơn, tâm của bạn sẽ nhận biết hoạt động của chính nó nhiều hơn. Khi sự tỉnh giác được trọn vẹn và sinh động, bạn sẽ nhận biết được cơn giận ngay khi nó vừa nổi lên, và ngay khi bạn vừa nhận diện được nó thì nó bắt đầu tan biến.

D: Tôi đã thử quán cơn nóng giận của mình và thấy nó giảm bớt trong giây lát, nhưng sau đó nó trở lại và trở lại nữa. Tại sao thế?

Trong giai đoạn ban đầu, khi sự tỉnh giác còn yếu và chưa trọn vẹn, cơn giận có thể tạm biến trong giây lát khi bạn nhìn nó. Nhưng rồi, tâm bạn trở lại với thói quen nóng giận như cũ. Bởi vì nề nếp cũ còn mạnh và bạn chưa làm chủ được nghệ thuật sống tỉnh giác. Bạn có thói quen trí-thức-hóa nguyên nhân của cơn giận - ai lầm lỗi đây, tại sao xung đột leo thang, và vv...Thực ra, đây chính là tâm của bạn đang trở về với lối mòn phản ứng cũ.

Chính bạn lập lại chu trình tạo ra cơn giận, suy nghĩ về cơn giận, và phản ứng theo nó. Ở đây bạn có một chu trình 'nóng giận - trí thức hóa - phản ứng' rất tai hại.

Khi ta học cách chú ý đến cơn giận bằng tâm im lặng là nhằm phá hủy chu trình nóng giận và trí thức hoá nóng giận.

Chỉ có giải pháp hợp lý là thôi trí thức hóa sự xung đột, và chỉ im lặng nhìn tâm mình trong lúc lộn xộn đó.

R: Bà muốn nói là tôi phải dừng sự suy nghĩ trong tình thế đó và không làm gì khác hơn là quán tâm?

Thật đúng như vậy.

SD: Giả sử như tôi thấy khó lòng chú tâm trên sự nóng giận. Tôi phải làm sao đây?

Nếu như thế, bạn nên tập trung trên những cảm xúc nhẹ hơn như là ghét bỏ và ưa thích. Chuyện sẽ xảy ra giống như trước. Ngay khi bạn nhận biết sự ghét bỏ, bạn thấy cường độ của nó giảm đi; và khi sự tỉnh giác của bạn đủ mạnh, sự ghét bỏ hay ưa thích sẽ tan mất. Dần dần khi bạn tiến bộ hơn và tăng cường sự tỉnh giác của mình, bạn sẽ thấy mình có khả năng đương đầu với những loại cảm xúc mạnh hơn như là giận dữ, khao khát và ham muốn.

SD: Còn việc giải quyết vấn đề thì sao? Làm sao tôi có thể giải quyết được những tình huống phức tạp trong đó sự nóng giận và phê phán ảnh hưởng đến sự tỉnh giác của tôi?

Trong những tình huống phức tạp cũng vậy. Chúng ta cần hiểu rất rõ một điểm: phải tỉnh giác và đừng phê phán. Sự tỉnh giác chính nó sẽ tập cho chúng ta có được một tâm trí đơn giản và trong sạch, không có phê phán và phân biệt. Giữ tỉnh giác là một hành động siêu thoát - siêu thoát giận dữ, siêu thoát phê phán. Do đó nếu bạn làm chủ được nghệ thuật tỉnh giác, bạn sẽ không còn phản ứng với giận dữ hay phê phán, bởi vì sự chú ý chính nó là một hành động siêu thoát.

M: Còn đối với những người khác thì sao? Làm sao tôi phản ứng đối với những người khác? Tôi vẫn phải phản ứng để ra khỏi một tình thế xung đột.

Ðó chính là điểm then chốt. Thường thì bạn chỉ phản ứng thay vì hành động. Bạn phản ứng theo đường lối đã điều-kiện-hóa của tâm bạn. Muốn dừng phản ứng, phải phá vỡ sự điều kiện hóa đó.

Hãy dừng lý luận. Hãy dừng sự suy nghĩ và tập cho tâm kinh nghiệm về chính nó bằng cách tự nhìn nó.

Khi tâm bạn không còn lặn hụp trong suy tưởng, nó nhìn thấy tình huống đúng như thực tế. Ðiều nầy là tối cần. Sự nhìn thấy, sự nhận biết là toàn bộ.

Bạn phải bắt đầu với chính mình. Hãy quyết chí quán tâm, và rồi nhìn tiến trình của nó. Mặc dầu bạn bắt đầu với chính mình, sự tự nhìn của bạn trong thực tế bao gồm toàn bộ tình huống. Bạn không còn nhìn mình trong cô lập nữa, mà sẽ nhìn mình trong toàn bộ nội dung của tình huống.

Rồi sẽ không còn ngoại giới hay nội tâm nữa. Bạn là một phần của toàn bộ. 'Bạn' bây giờ không còn quan trọng như 'bạn' lúc trước nữa.

Trước kia bạn nhìn tình huống và sự quan trọng của bản thân, bạn thấy cần phải bảo vệ lai lịch của mình và kiểm soát tình huống. Bây giờ, khi không còn ranh giới giữa bạn và người khác nữa, bạn và người khác quan trọng như nhau - thì bạn mới có thể thấy được rất rõ ràng toàn bộ tình huống, vấn đề nằm ở đâu, và thay vì phản ứng bạn chỉ hành động thôi.

D: Xin cho chúng tôi một thí dụ trong đời sống thường ngày.

Ở đây có bạn nào muốn cho một thí dụ không?

P: Giả sử như đứa con nhỏ của tôi đang khóc vì tôi không cho nó vật nó muốn. Nếu tôi dừng lại để nhìn, tôi thấy sự bực dọc của mình. Tôi còn có thể nổi giận vì không thể nói lý lẽ với đứa nhỏ. Ngay lúc tôi nhìn thấy sự nóng giận, nó tan đi - và thay vì đáp ứng với con tôi bằng sự giận dữ, tôi có thể thông cảm nhưng cương quyết đối với nó. Thật là lạ, bởi vì đột nhiên tôi biết cách đối phó với vấn đề. Tôi không can dự vào sự nóng nảy của nó, hay của chính tôi. Hình như đứa nhỏ cảm nhận được điều nầy và nó cũng trở nên bình tĩnh hơn.

Phải, thật đúng như vậy. Ngay khi bạn nhìn thấy sự nóng giận, bạn siêu thoát cảm xúc bực tức của mình. Bạn không bị giao động. Bạn không còn tạo ra xung đột, và bởi vì bạn bình tĩnh hơn nên tự nhiên đứa nhỏ đáp ứng.

Thường khi, hành động trong tỉnh giác của bạn rất trọn vẹn đến nỗi sự xung đột sẽ không tiếp diễn; bạn không tạo ra lý do để tiếp tục cuộc xung đột. Hành động trọn vẹn, vô vi nầy trong Phật giáo gọi là Chánh Nghiệp, hay là Samma Kammanta trong tiếng Pàli. Hành động đúng đắn nầy là cái mà tôi gọi là thiền định trong hành động. Nếu hành động được như thế là bạn đã sống đúng với Bát Thánh Ðạo.

Buông Xả và Nhặt Lên

J: Tại sao 'buông xả' là hết sức quan trọng trong Phật giáo?

T: Từ ngữ 'buông xả' đã trở thành câu thiệu trong các nhóm học Phật. Thật đúng, 'buông xả' là tối cần để đi tới đắc ngộ và tự do nội tâm, nhưng bạn cần hiểu phải làm sao để buông xả.

J: Chúng ta phải buông xả những gì đây?

Hãy buông xả sự bám níu của bạn. Hãy buông xả động lực ham muốn đằng sau bất cứ chuyện gì bạn đang làm. Có thể đó là sự ao ước được thành công, được hoàn thiện, được điều khiển người khác hay được vinh danh. Bạn làm gì, điều đó không quan trọng, mà quan trọng là sự ham muốn đằng sau hành động đó. Rất dễ lầm lẫn sự ham muốn với hành động.

Buông xả ở đây là buông xả sự bám níu vào tham dục, chớ không phải buông xả hành động.

Chúng ta đã nói nhiều về 'dừng lại và nhìn vào cảm xúc' của mình. Bạn hãy thử dừng lại để nhìn vào hành động của mình, xem bạn có thể nhận diện được sự ham muốn đang thúc đẩy nó hay không. Khi bạn thấy được sự ham muốn, bạn cũng thấy được sự bám níu vào ham muốn đó. Và khi bạn nhận ra sự bám níu, bạn thấy nó tan biến đi và bạn tức thời buông xả.

R: Nhưng trong đời sống có nhiều thứ mà tôi không muốn dứt bỏ hay buông xả.

Dĩ nhiên là vậy. Nhưng không phải chúng ta buông xả là để buông xả mà thôi. Có câu chuyện ngụ ngôn về một thiền sinh đến tham vấn vị thiền sư. Thiền sinh hỏi: 'Bây giờ trong tâm con không còn gì cả, con phải làm gì nữa?'. 'Hãy nhặt nó lên', vị thiền sư đáp. Ðây là một thí dụ rất hay về sự phủ định đi với chánh kiến, nó đối nghịch với sự hư vô hóa hoàn toàn.

Nếu chúng ta bị cột trói bởi khái niệm 'buông xả' thì chúng ta đâu có tự do. Khi không có tự do thì Tuệ giác - Panna - không hiện đến. Nhưng nếu chúng ta thật sự thấy rõ sự bám níu vào ham muốn, và buông xả nó đi - thì hành động nầy là thanh tịnh, không có căng thẳng hay bực dọc kèm theo. Khi hành động được thanh tịnh và giản dị, chúng ta có thể hoàn tất được nhiều chuyện hơn và ít bị căng thẳng hơn. Tới điểm nầy, bạn đang 'nhặt lên' cũng như bạn đang 'buông xả'.

D: Tại sao 'buông xả' khó quá vậy? Tôi có thể quán những cảm xúc như nóng giận và thù hận, nhưng thật là khó thấy được sự ham muốn và bám níu.

Ðó là bởi vì sự ham muốn và bám níu đi trước sự nóng giận và thù hận. Trong những cơn xúc động - bởi vì tâm hành của chúng ta biến đổi quá nhanh - chúng ta chỉ nhận diện được những cảm xúc thô kệch như nóng giận và thù hận. Sự ham muốn và bám níu thì tế nhị hơn nhiều, nên cần có định lực mạnh hơn mới có thể nhận ra chúng được.

Bạn đã được điều kiện hóa từ lúc tấm bé để có thể liên hệ mọi việc với bản thân bạn. Khi bạn vừa biết nhận ra người khác và sự vật, thì người ta dạy bạn cách liên hệ những thứ đó với cái 'tôi' và 'của tôi' - mẹ tôi, cha tôi, đồ chơi của tôi, vv...Khi lớn lên thì bạn được dạy cách liên hệ những ý tưởng và khái niệm với bản thân bạn. Bạn phải học điều nầy để có thể hoạt động hữu hiệu trong xã hội.

Nhưng đồng thời, tiến trình nầy từ từ và trong vô thức tạo nên một khái niệm về cái tôi, và bạn bồi đắp cái ngã của mình. Sự tăng cường bản ngã nầy được thang giá trị của xã hội khuyến khích. Bạn học cách phấn đấu, thành tựu, gom chứa tri kiến, tài sản và quyền thế. Nói cách khác, bạn được huấn luyện để chiếm hữu và bám giữ.

Ðến khi khôn lớn thì cái khái niệm về bản ngã của bạn đã trở nên 'hiện thực' đến nỗi thật là khó phân biệt được đâu là ảo tưởng và đâu là thực tế. Thật là khó nhận ra cái 'tôi' và 'của tôi' chỉ là tạm bợ, tương đối và luôn thay đổi. Những gì liên hệ với cái 'tôi' và 'của tôi' cũng thế. Bởi vì không hiểu được cái 'tôi' và 'của tôi' chỉ là tạm bợ, bạn tranh đấu để giữ cho chúng tồn tại mãi, bạn bám níu vào chúng. Sự ham muốn 'giữ cho mọi sự vật còn mãi' làm cho việc tu tập 'buông xả' thật là khó khăn.

M: Tôi thấy khó chấp nhận quan điểm của Phật giáo về cái ngã chỉ là ảo tưởng.

Bạn đã quá quen thuộc lề lối làm việc với cái 'tôi' và 'của tôi', quá quen thuộc với ý tưởng cái 'tôi' là hiện thực, nên tự nhiên là rất khó hiểu được đường lối suy tưởng của Phật giáo. Cái 'tôi' và 'của tôi', bởi vì chỉ là ảo tưởng, chỉ có thể tồn tại qua sự bám níu vào ảo tưởng về sự hình thành của chúng. Chúng bám níu vào đủ thứ ý niệm sở hữu trong tâm - dầu đó là quyền thế, tài sản, địa vị hay bất cứ gì - những thứ nầy chính chúng cũng là sản phẩm khái niệm của tâm thức và không có chút thực chất nào cả. Nói vắn tắt, chúng cũng là ảo tưởng.

R: Nếu cái 'tôi' chỉ là ảo tưởng và không phải hiện thực, làm sao 'tôi' có thể hủy bỏ cái 'tôi' được?

Làm sao bạn có thể hủy bỏ được một cái không bao giờ có thật?

R: Tôi cảm thấy rằng nếu tôi buông xả cái 'tôi' và 'của tôi' thì tôi mất hết lai lịch. Làm sao tôi có thể hiện hữu nếu tôi buông xả tất cả? Tôi sẽ trở thành lạnh lùng và vô cảm chăng? Nghe thật đáng sợ, giống như là sống trong khoảng trống không.

Bạn nên hiểu cái bạn mất đi chỉ là một ảo tưởng. Nó không bao giờ có thật. Bạn trút bỏ trong tâm cái ảo tưởng về bản ngã. Chỉ buông xả cái ảo tưởng thôi.

Thực ra, bạn không mất mát gì cả. Bạn chỉ bỏ đi một bức màn che tưởng tượng ở trước mắt bạn. Trong tiến trình nầy, bạn có được Trí tuệ, hay Panna. Từ trí tuệ nầy sẽ phát xuất bốn vô lượng tâm là Từ Bi Hỉ Xả. Bốn đức tánh nầy biểu hiện thành sự quan tâm, lòng nhân ái và sự nhạy cảm đối với người khác. Khi có trí tuệ thì bạn có thể trọn vẹn kinh nghiệm được sự đẹp đẽ và ấm áp trong sự quan hệ giữa người với người.

Ðó là lý do tại sao buông xả không phải là mất đi cái bản ngã tưởng tượng của bạn. Thực ra là bạn khám phá được một kho tàng vĩ đại.

Tâm Bình An

Nếu bạn chỉ dừng sự suy nghĩ trong phút chốc và ngồi lại để hồi quang phản chiếu trên tâm mình, bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng bạn đang được bình an. Dù bạn đồng ý với tôi điểm nầy, bạn vẫn có thể biện minh rằng sự bình an nầy chỉ là tạm thời. Cứ cho là như vậy đi. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào tâm trạng an tĩnh nầy, dù nó có tạm bợ hay không, bởi vì nó đã đến với chúng ta mà chúng ta không cần cố gắng chút nào để được an tâm.

Bạn đã sanh ra với bản chất bình an nầy của tâm thức; bằng không thì bạn chẳng được như thế nầy, phải không? Bạn không cần chạy quanh quẩn học thiền để đạt được sự bình an nầy, cũng không cần học hỏi nơi ai hay ở quyển sách nào để làm cho sự bình an nầy có thể có mặt bên trong bạn. Nói cách khác, cái 'tôi' của bạn không có liên hệ gì với nó. Bình an là bản chất tự nhiên của tâm thức trong mỗi người chúng ta. Bình an đã có mặt ở đó kể từ ngày chúng ta sanh ra và nó sẽ tiếp tục ở đó cho tới ngày chúng ta chết đi. Ðó là món quà vĩ đại cho chúng ta; như vậy tại sao chúng ta lại nghĩ rằng mình không được bình an trong tâm?

Chúng ta kinh nghiệm sự bình an cũng giống như khi chúng ta nhìn vào bàn tay mình. Thường thì chúng ta chỉ thấy mấy ngón tay chớ không thấy khoảng trống giữa các ngón. Cũng tương tợ như vậy, khi nhìn vào tâm mình chúng ta chỉ nhận biết các tâm trạng hoạt động, như là các tư tưởng và một-ngàn-lẻ-một cảm xúc đi chung với chúng. Nhưng chúng ta có khuynh hướng bỏ quên các khoảng thời gian bình an ở giữa các tư tưởng và cảm xúc đó. Nếu con người phải khổ sở hay buồn bực từng phút một trong suốt 24 giờ mỗi ngày, thì cái gì sẽ xảy tới cho chúng ta? Tôi đoán là chúng ta tất cả sẽ phải vào nhà thương điên!

Thế thì tại sao chúng ta nghĩ rằng mình không bao giờ được bình an trong tâm?

Ðó là bởi vì chúng ta không bao giờ tự cho phép mình được bình an. Chúng ta quá say mê đấu đá với chính mình và cảm xúc của mình đến nỗi sự đấu tranh nầy trở thành bản chất thứ hai của chúng ta. Thế rồi chúng ta lại than phiền rằng tâm mình không được bình an!

Tại sao chúng ta không gạt qua một bên tất cả những ý tưởng phức tạp nầy trong phút chốc để có thể ngắm nhìn bản chất bình an nầy của chúng ta - bởi vì chúng ta rất may mắn có sẳn nó - thay vì lăng xăng đi tìm nó ở nơi nào khác? Làm sao chúng ta có thể tìm được nó ở chỗ nào khác trong khi nó đang ở ngay bên trong chúng ta? Ðó có lẽ là lý do tại sao chúng ta thường tìm mãi mà không gặp.

Chúng ta không cần làm gì cả để có được tâm bình an nầy, phải không? Tâm thức của chúng ta tự nó là bình an.

Nhưng chúng ta đã làm điều gì đó cho bản tâm khiến cho chúng ta phải nóng giận hay buồn phiền.

Bạn hãy tưởng tượng mình đang thưởng thức một giây phút yên tịnh. Ðột nhiên có cái gì phá rối sự yên tịnh của bạn. Bạn tức thời trở nên bực tức vì sự quấy rối đó. Tại sao thế? Bởi vì bạn ghét sự gián đoạn. Tâm bạn hoạt động, nó ghét. Nó dựng lên tư tưởng ghét, theo sau là sự bực tức và một chuỗi dài các phản ứng khác.

Tư tưởng diễn ra cực nhanh, cho nên bạn không nhận ra giây phút mà tâm bạn dựng lên tư tưởng ghét. Thường thì chúng ta cho tình huống bên ngoài là nguyên nhân gây ra sự bực tức của chúng ta. Nhưng ngay cả trong những kinh nghiệm khổ đau và dai dẳng nhất của đời sống, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những giây phút mà chúng ta lơ đãng đối với hoàn cảnh đau khổ và tâm chúng ta tương đối thoát khỏi tình trạng cảm xúc đau khổ đó. Nhưng khi chúng ta để tâm trở lại biến cố thì những cảm xúc khó chịu đó lại nổi lên ngay. Khi những cảm xúc nầy biến mất, cái gì xảy ra cho chúng? Chúng ta thường mặc nhiên chấp nhận là chúng nó tan biến hay đi ra ngoài tâm. Nhưng nếu chúng phát xuất từ trong tâm thì chúng cũng phải chấm dứt bên trong tâm. Nếu chúng phát xuất từ một tâm trạng bình an thì chúng cũng phải chấm dứt trong tâm trạng bình an đó. Ðiều nầy chỉ là hợp lý.

Chúng ta hãy ngắm nhìn tâm trạng bình an nầy. Chúng ta nhận diện nó trước khi các cảm xúc nổi lên và sau lúc chúng biến mất. Còn khoảng thời gian giữa thì sao?

Phải chăng là sự bình an đã bị hủy diệt trong khi chúng ta nóng giận hay buồn phiền? Chúng ta thường có thói quen nghĩ là sự việc nầy hay biến cố kia đã hủy diệt sự an tâm của chúng ta, đến nỗi chúng ta đi đến giả định là sự an tâm là một tình trạng khả tạo và có thể đạt được hay hủy diệt đi theo ý muốn.

Thật ra không phải vậy. Hoà bình và an tịnh là một phần trong cấu trúc của tâm thức. Nếu chúng bị hủy diệt khi cảm xúc nổi lên thì có thể tâm thức chúng ta cũng bị hủy diệt theo. Bình an là bản chất bẩm sinh và tự nhiên của tâm thức chúng ta, và nó không bao giờ có thể bị hủy diệt.

Bình an ở với chúng ta từng giây phút của đời sống, nhưng chúng ta không nhận ra nó. Ðó là bởi vì chúng ta ngu dốt về bình an - tâm chúng ta lúc nào cũng bận bịu vì ngoại cảnh cùng với những tư tưởng lăng xăng và cảm xúc để nhận biết về ngoại cảnh đó. Chúng ta mất liên lạc với nội tâm của chúng ta, với những gì tốt đẹp nhất. Chúng ta lăng xăng đi tìm giải pháp ở bên ngoài trong khi bình an lúc nào cũng ở trong đó, im lặng chờ đợi chúng ta trở về với nó.

Tâm Bất An

Nếu chúng ta đồng ý là tâm có bản chất bình an bẩm sinh, bạn thử nghĩ xem cái gì đã gây bất an cho chúng ta? Xét trên quan điểm tâm bình an thì tư tưởng tự nó không tốt cũng không xấu. Chỉ khi nào khái niệm về 'tôi' và 'của tôi' nổi lên thì tâm thức mới bị lôi kéo vào xung đột. Thích và không thích mau lẹ đi theo những khái niệm chấp ngã đó. Ðây là khởi đầu của phiền toái.

Một tư tưởng tự nó không có vấn đề. Giả sử như bạn làm mất xâu chìa khóa. Nó xảy ra. Vấn đề bắt đầu khi bạn bắt đầu phê phán sự kiện bạn làm mất xâu chìa khóa. 'Tôi không thích bị mất chìa khóa. Tôi thích hơn rất nhiều nếu tôi có chìa khóa và có thể tiếp tục công việc bận rộn'. Bạn còn có thể tiếp tục suy nghĩ: 'Tại sao tôi lại vô ý quá như thế? Chắc là tại tụi nhỏ quá ồn náo' Rồi bạn đưa tư tưởng ra thành lời nói: 'Coi tụi con làm mẹ điên đầu...Mẹ quá bận bịu đến nỗi bỏ quên đâu mất xâu chìa khóa rồi'. Bạn lại có thể đưa tư tưởng và cảm xúc thành hành động bằng cách đổ xô đi tìm xâu chìa khóa.

Tất cả những sự phiền hà nầy nổi lên từ phản ứng của bạn đối với xâu chìa khóa bỏ quên đâu đó. Chúng ta hãy quay lại điểm khởi đầu của sự bực bội. Khi bạn có tư tưởng 'Tôi mất xâu chìa khóa', bạn đã không thể buông xả tư tưởng đó. Thay vào đó, bạn tức khắc nhảy vào 'thích' hay 'không thích'. Cảm xúc, xung đột và bực dọc đều phát xuất từ nhị nguyên 'thích' và 'không thích' nầy. Bạn đã tự để cho mình bị cuốn trôi đi bởi những phê phán, cảm xúc và bực bội.

Nhưng chúng ta hãy ngắm nhìn những tư tưởng trong giây lát. Chúng nó nổi lên rồi tự chúng rơi rụng. Ðó là, trừ phi chúng ta bám níu vào chúng. Nếu chúng ta để cho tư tưởng tiếp tục đi hết đời sống bình thường của chúng, chúng tự nhiên rơi rụng. Tư tưởng của chúng ta cũng phải chịu qui luật phổ quát về Vô thường (Anicca).

Những bạn chưa quen thuộc với Phật giáo cũng biết qui luật biến đổi nầy. Bạn chấp nhận nó trong nhiều khía cạnh của đời sống. Nhưng các bạn có thể áp dụng nó vào lãnh vực quan trọng nhất - tâm bạn - hay không? Bạn có thể ngắm nhìn tư tưởng và cảm xúc khi chúng vừa nổi lên trong tâm hay không? Bạn có thể để cho chúng tự nhiên tan biến đi, mà không dính níu vào chúng hay không? Hay là bạn say mê để cho cái 'tôi' bám níu vào tư tưởng hay cảm xúc của mình?

Bản chất của tư tưởng là tạm bợ, trừ khi cái 'tôi' can thiệp và không cho chúng ra đi. Bằng cách bám níu vào tư tưởng và cảm xúc, cái 'tôi' tiếp tục kéo dài quá trình cảm xúc. Chính là cái 'tôi' cố bám níu vào tư tưởng và cảm xúc và để cho chúng gây bất an.

Tâm bình an không có liên hệ gì đến cái 'tôi'. Nó không phải là bình an 'của tôi'. Khi nào bạn còn nghĩ là bạn sở hữu bình an, khi nào bạn còn nghĩ 'Tôi thích sự bình an của tôi' thì bạn chưa thực sự kinh nghiệm được tâm bình an.

Bạn của tôi, một nhà giáo dục tâm linh, nghĩ ra câu ngụ ngôn có thể giải thích được tiến trình nầy. Hãy lấy câu nói 'I like peace' (Tôi thích bình an). Nếu bạn bỏ chữ 'I' thì còn lại 'like peace' (tương tợ như bình an thôi). Nhưng nếu bạn tiếp tục bỏ luôn chữ 'like' (thích) thì tất cả chỉ còn lại 'peace' (đây là bình an thật sự). Bình an là điều có thể cảm thấy được chớ không thể sở hữu. Chúng ta chỉ có thể kinh nghiệm được bình an khi loại trừ được ý tưởng 'thích' hay 'không thích' về bình an.

P: Tôi nghe như là mình có thể làm cái gì để thực hiện được tâm trạng bình an nầy...chẳng hạn như chúng ta cố ý loại bỏ khái niệm về 'tôi', 'thích' và 'không thích'.

Không phải đâu, đây chỉ là một câu ngụ ngôn. Tâm bình an được thực hiện không phải bằng cách 'làm' điều gì, mà cũng không phải là 'không làm'. 'Làm' hay 'không làm' cũng chỉ là những ý niệm để bám níu, đúng không? Khi bạn buông xả được những ý tưởng về 'làm cách nào' để được tâm bình an, mình nên làm gì hay không nên làm gì - thì tâm bạn được im lặng và bạn có thể thực sự kinh nghiệm được tâm bình an. Khi nào tâm bạn còn nhảy chuyền giữa 'thích' và 'không thích' thì nó quá bận bịu nên không thể kinh nghiệm được bình an. Khi tâm được yên lặng thì bạn sẽ thực hiện được bình an trong bản chất bẩm sinh của nó.

Quán Chiếu Về Tâm Bình An

Nhiều người hỏi tôi làm thế nào để tìm được bình an trong tâm. Khi bạn đã nhìn nhận rằng

- Tâm bình an không phải là một tâm trạng có thể tạo ra được, nhưng là bản chất bẩm sinh của tâm.

thì bạn có thể bắt đầu ngay từ đó. Tuyệt đối không cần làm điều gì cả trừ việc quay tâm vào trong và nhận ra bình an ngay giây phút nầy. Khi bạn nhận ra bình an trong tâm là bạn đã có thể kinh nghiệm bình an rồi.

Nếu thỉnh thoảng bạn nhận thấy có những giây phút bình an, thì bạn đã bắt đầu rồi đó. Bạn đừng bận tâm nếu những giây phút nầy rất ngắn ngủi. Bạn có thể dùng những phút bình an nầy làm căn cứ để thăm dò tâm mình. Ðây có thể tiêu điểm từ đó bạn có thể khám phá tâm. Và đáng ngạc nhiên thay, bạn sẽ thấy đây cũng chính là ngôi nhà mà bạn tìm về.

Có thể bạn thấy rằng không dễ gì trở lại với giây phút bình an. Ðiều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là bạn cần quyết chí chú ý đến tâm mình từ nay. Chúng ta bị xã hội nhồi nắn đến nỗi tâm chúng ta như bị rơi vào một thung lũng. Thật là khó trèo lên và rời khỏi thung lũng tâm, bởi vì ở đó bạn thấy dễ chịu và thoải mái. Quay sự chú ý ngoại cảnh vào bên trong thật là khó trừ khi chúng ta có quyết tâm.

Trong những lần đầu tiên tìm giây phút bình an, chúng có thể hiếm hoi và ngắn ngủi, nhưng điều nầy không hại gì. Có khi bạn còn có thể cảm thấy rằng mình càng cố gắng bao nhiêu, thì càng khó thấy được bình an hay giây phút bình an bấy nhiêu. Nếu thế, bạn chỉ cần buông xả tất cả. Rất thường khi, nhận thức về giây phút bình an không thể đoán trước được, nó đến với bạn vào lúc bất ngờ nhất.

Bạn có thể hỏi tôi là có phương pháp đặc biệt nào để thấy được những giây phút bình an hay không? Tôi phải trả lời là không có - ngoại trừ ý chí muốn quán tâm. Việc quán tâm không cần thời giờ hay nơi chốn đặc biệt nào cả. Bạn có thể quán tâm trong đời sống thường ngày khi bạn làm việc, vui chơi, hay làm một-ngàn-lẽ-một chuyện khác của đời sống. Không có chuyện gì khác cần làm, ngoài quán tâm. Chỉ có một điều đặc biệt bạn không nên làm là để cho ý kiến, phê phán và phân biệt chất chứa chật nghẹt trong tâm. Tâm tự quán cần phải tròn đủ thì mới có thể chú ý hoàn toàn được.

Khi bạn bắt đầu phân biệt, thì tâm bạn trở nên bận bịu vì nó phê phán. Tâm bạn không còn tự do nữa. Do đó bạn không thể thấy hay kinh nghiệm được bình an trong tâm.

Giả sử như muốn thấy vật thể di động trong không gian như thế nào, bạn phải có thể thấy được trọn khoảng không gian và các vật thể trong đó. Không có không gian thì vật thể không di động được. Vật thể có thể bị tạo tác, nhưng không gian thì không thể bị tạo tác được. Vật thể có thể biến mất trong không gian, nhưng không gian vẫn còn đó.

Căn cứ địa của bạn - tức là bản chất bình an của tâm - có thể ví như một khoảng không gian bên trong bạn. Tư tưởng và tình cảm thì cũng như những vật thể di động trong khoảng không gian ý thức nầy. Nhờ 'khoảng không gian' nầy mà tư tưởng và cảm xúc có thể tự do nổi lên hay rơi rụng. Nếu nó đã chật cứng thì đâu còn chỗ cho cái gì khác, như trí tuệ và từ bi, nổi lên được.

Nếu bạn có thể thấy rõ được khoảng không gian nầy, bạn cũng sẽ thấy rõ hơn cái gì nổi lên và rơi rụng trong đó. Lúc đầu, có thể là bạn chỉ thấy cái gì rơi rụng bởi vì nó hiển nhiên hơn. Nhưng rồi bạn sẽ thấy mình ít dính dáng với cảm xúc và gần với căn cứ địa của mình hơn. Và khi càng ở gần căn cứ địa thì bạn càng cảm thấy mình càng được bình an với bản thân và với thế giới.

Có thể là bạn chưa được bình an trọn vẹn, nhưng ít ra bạn đã có được một khoảng trống để thở, và nghỉ ngơi. Ðây là lúc bạn học cách làm bạn với bản tâm và cảm xúc của mình. Bạn sẽ thấy mình không còn vật lộn với chúng như trước. Ðiều tốt đẹp là bạn cảm thấy bên trong tâm rất thư thả. Sự thư thả nầy có thể bạn cho là không quan trọng, nhưng thật ra bước đầu tiên lúc nào cũng là quan trọng nhất. Khi bạn không tự trói chặc và làm tâm mình rối như bòng bong, thì bạn có thể tự nhìn mình một cách khách quan hơn.

Ðừng bận tâm nếu bạn chưa thấy được lúc tư tưởng và cảm xúc nổi lên. Việc gì cũng cần có thời gian. Nhưng ngay cả lúc bạn thấy chúng rơi rụng, bạn sẽ để ý có sự thay đổi. Bạn có kinh nghiệm phần nào về bình an. Hãy tiếp tục kinh nghiệm sự bình an nầy như là bạn thưởng thức một tách cà phê hay một ly kem ngon. Sau một thời gian, bạn sẽ thấy mình có thể kinh nghiệm cảm xúc mà không cần dính dáng với chúng. Bởi vì bạn ở gần căn cứ địa hơn, bạn sẽ nhận thấy rằng cảm xúc tự chúng là phù du.

Thí dụ như, bạn có thể ngạc nhiên vì thấy rằng cảm xúc không ở lại lâu nếu bạn không mời gọi hay bám níu chúng. Cảm xúc là một phần của những hiện tượng tự nhiên trong tâm bạn. Trong Phật giáo, mọi hiện tượng đều không bền, không có thật ngã, và là căn bản của đau khổ.

Nếu có nhận thức về cảm xúc như thế thì giống như là bạn tìm được một người bạn mới. Khi bạn nhận ra là những cảm xúc tạm bợ nầy không có lực lượng riêng, chúng không còn đe dọa bạn được nữa. Ðiều nầy làm bạn cảm thấy phấn chấn vì bạn không còn bị cảm xúc chế ngự nữa.

Khi bạn tìm hiểu thêm về chính mình bằng cách nầy, bạn sẽ càng ngày càng thấy rằng mình ở trong căn cứ địa bình an nhiều hơn. Bạn cũng nhận ra là sự bình an xưa nay vẫn có mặt trong tâm. Chỉ vì bạn quá bận bịu tìm cách loại trừ sự bực bội nên bạn không có thì giờ và khả năng để khám phá sự bình an, trong khi nó vẫn muôn thuở có mặt để cho bạn tái khám phá.

Ðạo lý của tâm bình an rất đơn giản. Nhưng bạn làm cho nó phức tạp bằng cách nghĩ rằng phương pháp tìm nó phải là khó khăn. Bạn bị điều kiện hóa để đạt được điều nầy, thành tựu điều kia, vv...Tâm bạn lúc nào cũng động. Dĩ nhiên bạn phải làm ăn, nuôi gia đình, kết bạn, đưa con tới trường, vv...vì đó là đời sống. Nhưng nếu bạn cứ tiếp tục nếp sống vội vã như là cách để tìm bình an, bạn sẽ không tìm được bình an.

Ðiều chúng ta cần quan tâm là nên sống chậm lại...để cho bạn có thể tự hiểu mình và kinh nghiệm được những gì đã có sẳn trong tâm bạn. Khi bạn đã ở tại căn cứ địa bình an rồi, thì bạn có cần làm gì để được ở lại chăng?

Bạn chỉ cần thức tỉnh và nhận ra là lúc nào mình cũng đang ở nhà.

Chúng ta cần ý thức rằng lối thiền định nầy là cách điều nghiên và tìm hiểu chính mình, tỉnh giác về tâm trạng hiện tại của mình và những tâm hành đang nổi lên hay rơi rụng. Ðây là cửa ngõ vào tâm. Chúng ta sẽ khám phá điều xấu cũng như điều tốt, nhưng cuối cùng sự điều nghiên sẽ có kết quả. Bởi vì bây giờ chúng ta tìm được cơ hội để khám phá những chiều sâu huy hoàng của nội tâm và thưởng thức được tinh hoa của những gì đẹp nhất trong đó.

Tâm Im Lặng

J: Tôi vẫn chưa hiểu làm sao có thể làm cho tâm mình im lặng được.

T: Bạn cần nhận ra là mình không thể làm cho tâm im lặng được. Bạn càng cố ý muốn làm cho nó im lặng, bạn càng tự làm cho mình bị rối beng, và bạn càng thúc đẩy nó hoạt động nhiều hơn. Nếu bạn cố chế ngự tâm, hành động nầy chính nó là ồn náo. Bạn thấy, tâm đã không im lặng thì không thể nào đối phó với tâm loạn động được. Cái chu trình tai hại nầy tạo ra một tình trạng rối loạn liên tục.

M: Bà nói tâm im lặng là nghĩa thế nào? Nếu trong tâm không có hoạt động thì phải chăng chúng ta bị tê liệt? Làm sao chúng ta có thể sinh hoạt được?

Tâm im lặng không phải là tâm chết cứng. Tâm bạn bị chết cứng khi nó bị cùn nhụt bởi sự ngu dốt về chính mình. Phật giáo gọi sự ngu dốt nầy là Vô Minh. Sự tự cao, nóng giận, ham muốn và lầm lẫn che mờ bản tâm. Tâm mình có thể rất hoạt động với ham muốn, thù hận và nóng giận - nhưng đối với thế giới và người khác, coi như nó đã chết. Bị che phủ bởi sự lầm lẫn về chính nó, tâm đó không còn nhạy cảm về nhu cầu của người khác. Ðây chính là sự tê liệt của tâm, làm cho nó không thể cởi mở với người khác. Tâm im lặng thật sự thì trái lại rất nhạy cảm với môi trường chung quanh. Bởi vì tâm im lặng thì không có phê phán, bám níu hay vất bỏ. Nó được giải thoát khỏi sự thù ghét, nóng giận, ganh tỵ, lầm lẫn và xung đột.

J: Bà nói nghe tuyệt quá ! Nhưng làm sao chúng ta đạt được tâm im lặng đó?

Tâm được im lặng khi nó siêu thoát được nhị nguyên của 'thích' và 'không thích'. Nói chung, chúng ta nhìn thế giới qua một khung khái niệm dựa trên lối suy nghĩ nhị nguyên. Khi vừa nhận thức một sự vật, chúng ta phê phán nó liền. Thí dụ như chúng ta phê phán là nó tốt. Ngay khi ta vừa phê nó tốt, thì những cái gì trái lại tự nhiên trở thành xấu. Chúng ta chia thế giới khái niệm của chúng ta theo sự phân cực nầy; chúng ta dựng lên thiện và ác, tốt và xấu, đúng và sai, theo tiêu chuẩn riêng của chúng ta.

M: Nhưng chúng ta phải phân biệt thì mới có thể sinh hoạt trong đời sống thường ngày được. Tôi sẽ không ăn một quả táo thối. Nó sẽ làm tôi bị bịnh. Tôi phải phê phán rằng quả táo nầy thối, quả kia thì chín và ăn rất tốt.

Dĩ nhiên là bạn cần phải phê phán để có thể sinh hoạt trong thế giới nầy. Bạn cần phải phân biệt một quả táo ngon lành và một quả táo thối. Ðây là phê phán dựa trên lý luận chớ không phải cảm xúc. Nhưng thường thì chúng ta không dừng lại ở phê phán dựa trên lý luận. Chúng ta tiếp tục áp đặt thêm phê phán cảm xúc về 'thích' hay 'không thích' trên nhận thức về quả táo. Chúng ta không thích quả táo thối, phải không? Do đó, chúng ta bám níu vào sự không thích nó.

Giả sử có người hiến cho bạn một quả táo thối. Bạn sẽ cảm thấy thế nào?

M: Tôi sẽ cảm thấy phiền.

Phải. Và nếu họ cho bạn một quả táo bự trông ngon lành?

M: Tôi sẽ khoái lắm.

Bạn thấy không, cảm xúc bạn nổi lên chung quanh cái 'thích' và 'không thích' đó? Khi bạn nhận ra cái gì hấp dẫn - một ý niệm, một người hay một vật nào đó - thì bạn liền muốn bám vào nó, chiếm hữu nó. Bạn bị kẹt ngay trong nhị nguyên của đẹp và xấu, thiện và ác, và nhiều thứ khác.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại chuyện quả táo. Giả sử có ai giật đi quả táo ngon lành của bạn thì thế nào?

M: Tôi sẽ bực tức.

Bạn thấy đó. Vấn đề là ở đâu?

M: Ồ, bà muốn nói quả táo không phải là vấn đề, mà chính chúng ta ?

Ðúng vậy. Quả táo chỉ là quả táo, tốt hay thối. Bạn có thể lấy nó hay bỏ nó. Bạn có thể có phán đoán luận lý về nó. Nhưng vấn đề là chúng ta lại phán đoán dựa trên cảm xúc. Ðây là điều mà chúng ta cần hiểu rõ.

Khi chúng ta phê phán dựa trên cảm xúc, chúng ta làm cho tâm bị gợn sóng. Những gợn sóng nầy tạo thành sóng lớn hơn và phút chốc bão tố có thể nổi lên, làm cho tâm bị xáo động. Tựu trung là chúng ta mất liên lạc với sự im lặng bên trong, tức tâm bình an. Chỉ khi nào chúng ta trừ được những gợn sóng nầy thì tâm chúng ta mới có thể ở trong trạng thái im lặng, bình thản của chính nó. Và khi tâm có thể nghỉ ngơi trong sự yên tĩnh, nó mới có thể nhìn sự vật đúng như thực tế. Tôi gọi tâm im lặng nầy là 'tâm bình an'.

Nếu chúng ta không để cho tâm được im lặng, chúng ta phê phán với cảm xúc thì chúng ta sẽ gặp rắc rối ngay. Ðây là điểm cuộc chiến bắt đầu, bên trong và bên ngoài chúng ta.

J: Ồ, tôi hiểu rồi. Chúng ta bám níu vào điều gì chúng ta cho là tốt đẹp hay đúng đắn, và vất bỏ cái gì trái lại.

Phải, bạn đã hiểu rồi đó.

J: Nhưng làm sao chúng ta đột phá được nhị nguyên nầy?

Nên nhớ nhị nguyên là sự tạo tác của tâm khái niệm. Chúng ta thích bám níu vào những gì chúng ta đã tạo ra. Nhị nguyên do chúng ta tạo đã trở thành một vật sở hữu. 'Tôi' muốn bám giữ ý tưởng 'của tôi' về cái đúng, cái đẹp, cái tốt lành. Do đó tâm chúng ta bị cứng ngắc, và cuối cùng chúng ta nhìn thế giới qua những khe hở nhỏ hẹp.

J: Làm sao chúng ta có thể tự giải thoát khỏi sự dính cứng nầy?

Bằng cách tỉnh giác. Khi bạn tỉnh giác là bạn đang phê phán ngay lúc đó, sự phê phán sẽ dừng lại. Khi không còn phê phán, thì 'nhìn sự vật đúng như thực tế' sẽ tự nhiên tiếp theo. Cuối cùng bạn sẽ trở nên bình thản hơn, tâm bạn biết dừng lại để nhìn thay vì chạy vòng vòng. Khi tâm bị bận bịu vì phê phán, bám níu hay vất bỏ, nó không còn thì giờ cho chuyện gì khác. Chỉ khi nào bạn thôi phân biệt thì bạn có thể nhìn sự vật đúng như thực tế, không phải đúng như ý bạn muốn. Ðây là cách duy nhất để siêu thoát nhị nguyên của 'thích' và 'không thích'.

Khi chúng ta siêu thoát nhị nguyên, khi chúng ta đột phá được giới hạn của cái khung khái niệm, thế giới như nở rộng hơn. Nó không còn bị giới hạn bởi cái nhìn theo đường hầm của chúng ta nữa. Khi sự trói buộc được cởi bỏ thì những gì trước đây bị gò bó bên trong sẽ có dịp trổi dậy. Tình thương (lòng Từ) - và kèm theo nó là lòng Bi, Hỉ và Xả - sẽ lại đến để đem lại sự cảm thông với người khác.

Trước kia, năng lực chúng ta bị thất thoát vì xung đột, bực tức, nóng giận, chối bỏ, vv...Sư xung đột nầy rất là mệt nhọc. Nay vì xung đột không còn nên chúng ta có thể hướng mình về nếp sống hài hòa và sự quan hệ và đầy ý nghĩa với những người khác. Chỉ khi đó đời mới trở nên đáng sống, bởi vì chúng ta có thể kinh nghiệm trọn vẹn từng giây phút tươi đẹp trôi qua. Chúng ta cũng có thể nhìn sự quan hệ của mình với người khác trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Bây giờ chúng ta đích thực sống hài hoà với người khác.

Tứ Diệu Ðế Trong Ðời Sống Thường Ngày

T: Tứ Diệu Ðế (Bốn Chân Lý Cao Thượng) là cột trụ của Phật giáo. Hiểu chúng sẽ giúp cho đời sống thường ngày của chúng ta được tốt đẹp hơn. Chân lý thứ nhất là Dukka tức Khổ. Chân lý thứ hai là Samudaya tức là Khát Vọng. Chân lý thứ ba là Nirodha tức là Sự Chấm Dứt Ðau Khổ. Chân lý thứ tư là Magga tức Bát Thánh Ðạo, con đường dẫn tới sự chấm dứt đau khổ.

M: Khi tôi nghe Chân Lý Thứ Nhất nói đời là đau khổ, tôi nghĩ Phật giáo là một triết lý bi quan và tiêu cực.

Phải, một số người hiểu lầm như thế. Nhưng là vì họ chưa hiểu giáo lý thấu đáo. Khi Dukkha được dịch là Ðau Khổ, nó được hiểu là đau khổ thể chất có tính thô. Nhưng thực ra, Dukkha có thể được kinh nghiệm ở nhiều mức độ, nghĩa đúng của Dukkha bao gồm toàn bộ kinh nghiệm của con người từ sự bất mãn rất nhỏ nhiệm tới sự đau khổ thô kệch nhất. Dukkha là sự kiện không tránh được của Già, Bịnh và Chết. Nó tách rời khỏi những gì chúng ta thích, và bao gồm những gì chúng ta không thích.

Ở mức độ thâm sâu nhất, Dukkha là không hiểu được tính giả tạm của mọi sự mọi vật. Mọi sự vật đều không có thực chất, không có gì là cụ thể, không có gì có thể nắm bắt được. Sự ngu dốt về điều nầy, hay là sự đi ngược lại với tình trạng tự nhiên của vô thường, chính nó là đau khổ cả.

Phật giáo chỉ có vẻ tiêu cực nếu chúng ta nhìn Chân Lý Thứ Nhất một cách riêng lẻ. Nhưng nếu bạn nhìn toàn bộ bốn chân lý, bạn sẽ thấy là chúng rất tích cực bởi vì ba chân lý kia chỉ rõ con đường thoát khỏi đau khổ.

M: Nhưng làm sao chúng ta có thể áp dụng Tứ Diệu Ðế vào đời sống thường ngày?

Ðiều đó không khó. Ðể bắt đầu, bạn phải nhìn Dukkha trong toàn bộ của nó trước khi có thể thấy được cách giải quyết vấn đề. Bạn không cần phải ngoắc ngoải trong đau khổ thể chất hay tâm thần mới có thể hiểu được Dukka. Nó ở khắp nơi chung quanh bạn. Ngay lúc nầy, bạn cảm thấy thế nào về tiếng đập ầm ĩ ở bên cạnh?

(Nhà bên cạnh đang sửa chữa nên gây tiếng động rất ồn)

M: Tôi cảm thấy bức rức bởi vì tôi muốn có sự yên tịnh để nghe và học những điều bà đang nói. Trong thực tế, tôi đang cố gắng loại trừ tiếng động ra khỏi ý thức tôi, nhưng không thể được.

Bởi vì đó không phải là cách giải quyết vấn đề.

M: Tiếng động làm phiền tôi và tôi muốn chấm dứt nó. Tôi khao khát muốn cho mấy người thợ dừng tay.

Bởi vậy, bạn đã dựng lên một ham muốn là tiếng động phải chấm dứt. Sự ham muốn nầy làm sao nổi lên? Nó nổi lên từ sự bất mãn của bạn với tình thế hiện tại. Nói cách khác, bạn muốn được yên tịnh ngay lúc nầy. Bởi vì không có được, nên bạn bực bội. Trong tâm bạn đã có sự ghét bỏ.

Giả sử như bạn đang phải làm chuyện gì rất quan trọng đối với bạn. Sự ghét bỏ nầy có thể bừng lên thành nổi giận, thù ghét và cả bạo lực nữa. Sự ghét bỏ đã là một tình trạng căng thẳng. Nóng giận, hận thù và bạo lực đem đến thêm căng thẳng và đau khổ cho chính mình và người khác. Ðây là những sự thực mà chúng ta phải đối diện trong từng giây phút của đời sống thường ngày. Nhưng chúng ta không nhận thức được sự ghét bỏ và sự đau khổ nó đem đến. Chúng ta cho Dukkha là do người nào hay việc nào khác gây nên.

Sự thiếu nhận thức nầy gọi là Vô Minh hay Ngu Dốt, ngu dốt về Bốn Sự Thật Cao Thượng. Sự ngu dốt nầy được diễn tả là tình trạng thiếu tỉnh giác. Nếu bạn thức tỉnh về tâm trạng của mình ngay lúc nầy, bạn sẽ thấy điều gì đang xảy ra trong đó.

Ngay lúc nầy, bạn hãy nhìn vào bản tâm để xem cái gì đang xảy ra ?

M: Nhìn cái gì?

Nhìn chuyện gì xảy đến cho sự bực bội của bạn.

M: Khi tôi ý thức về sự bực bội, hình như nó giảm bớt.

Khi bạn ý thức về sự bực bội, sự ghét bỏ tan đi. Nó tan mất vào tâm.

M: Phải, bớt chút ít.

Nó còn đó chăng?

M: Bà muốn nói sự bực bội? Nó vẫn còn đó nhưng bớt đi nhiều (cười lớn). Tôi hiểu rồi. Vấn đề không phải là đem sự bức rức ra khỏi tâm. Vấn đề là chấp nhận sự kiện mình đang bức rức và bực bội.

Bạn nói đúng. Vấn đề không phải là tiếng ồn, mà là phản ứng của bạn với nó. Bạn phải đối phó với mình trước khi đối phó với tiếng ồn. Bây giờ, bạn sẽ làm gì đây?

M: Ðó là câu hỏi kế tiếp của tôi. Chúng ta có một số lựa chọn. Chúng ta có thể rời xa tiếng ồn. Chúng ta có thể yêu cầu mấy người thợ ngưng đóng đinh. Chúng ta có thể ngồi lại đây và cố giữ ý thức của mình về tiếng ồn để giảm bớt sự khó chịu.

Bạn phải rõ ràng. Ðó là ý thức về tiếng ồn hay là ý thức về chính tâm trạng của bạn?

M: Ý thức về tâm trạng của tôi đối với tiếng ồn.

Ðúng vậy. Trong đời sống có nhiều trường hợp mà bạn không thể loại trừ được những yếu tố bên ngoài. Chúng ta không thể loại trừ hay kiểm soát hầu hết ngoại duyên trong đời sống, nhưng chúng ta có thể làm một cái gì cho chính mình. Bạn bắt đầu với chính bạn. Bởi vì bạn được sinh ra với ý chí tự do, nên bạn có thể làm bất cứ điều gì với chính mình.

M: Có phải bà đang nói là bởi vì tôi không thể chấm dứt tiếng ồn, tôi phải lựa chọn chấp nhận nó?

Bạn phải phân biệt giữa chấp nhận một cách mù quáng và chấp nhận một cách thông minh. Chấp nhận chỉ có thể được trọn vẹn nếu bạn không chứa chấp sự phê phán.

Bây giờ hãy trở lại Tứ Diệu Ðế. Sự bất mãn của bạn với tình trạng ồn là chân lý thứ nhất về Khổ - tức Dukkha. Sự ham muốn hay khao khát được yên tịnh là chân lý thứ hai - Samudaya - tức Tập, hay là nguyên nhân của Khổ. Bây giờ khi bạn nhìn vào bản tâm và giải quyết sự bực bội, bạn thoát khỏi chu trình ham muốn- ghét bỏ- ham muốn. Phải không? Bây giờ bạn hãy nhìn vào trong tâm nữa xem.

M: Sự bực bội đã biến mất ! Thật lạ lùng là bà đã phải đem tiếng ồn trở lại trong ý thức của tôi.

Hãy nhìn lại những gì chúng ta mới trải qua. Bạn đã thấy là mình có thể phá vỡ được chu trình đau khổ bằng cách chỉ nhìn vào trong tâm trạng của mình. Ðây thực ra là sự tỉnh giác của tâm, là căn bản của sự tu tập 'thiền quán tâm' (Sati-patthana) trong Phật giáo.

Bây giờ, bạn thấy là tu tập tỉnh giác có thể đưa tới sự chấm dứt đau khổ hay chưa?

M: Thưa chưa đâu. Sự tỉnh giác có liên hệ thế nào với sự chấp nhận tiếng ồn?

Sự chấp nhận tiếng ồn là kết quả của sự tỉnh giác. Sự tỉnh giác là hành động siêu thoát. Nó siêu thoát 'thích' và 'không thích' và làm thanh tịnh nhãn quan của chúng ta. Chúng ta nhìn sự vật 'như chúng là'. Khi chúng ta thấy hay nghe sự vật đúng như thực tế, sự chấp nhận tự nhiên đến.

M: Ta có ý thức về tiếng ồn. Ta loại trừ sự bám níu vào yên tịnh và ta chấp nhận tiếng ồn. Ta chấp nhận tiếng ồn như là một phần của kinh nghiệm.

Cả đến cái 'ta' cũng không có đó. Chỉ là sự chấp nhận thôi.

M: Ồ, tôi hiểu rồi.

Sự chấp nhận đến từ tự do của tâm trong lúc đó. Khi chu trình bị phá vỡ, bạn không còn cảm thấy bực bội nữa. Khi tâm thoát khỏi cảm xúc về tiếng ồn, nó có tình trạng bình thản và chấp nhận.

M: Mình không mong đợi tiếng ồn chấm dứt và cũng không mong đợi nó trở nên ồn hơn.

Ðúng vậy. Bạn thoát khỏi sự khái niệm hóa về tiếng ồn. Bạn đi tới điểm bạn nghe nó như 'nó là như vậy'. Với sự nghe tiếng ồn đúng như thực tế của nó, sự chấp nhận đã là một phần của tình huống. Bạn không thể gượng ép mình chấp nhận nó. Bởi thế tôi phải rất cẩn thận khi dùng từ. Khi bạn nói 'Tôi chấp nhận' thường có nghĩa là...

M: Tôi đang kiểm soát tình hình.

Phải, điều đó đúng và nó không thực sự giải quyết vấn đề. Sự chấp nhận mà chúng ta đang nói đây là sự tự nhiên và tức thời hòa nhập và làm một thể với môi trường.

M: A, tôi hiểu rồi. Không còn có sự ngăn cách giữa tiếng ồn và kinh nghiệm tiếng ồn của tôi. Do đó không có gì để chấp nhận hay bực bội vì nó cả.

Ðúng. Bây giờ chúng ta hãy trở lại kinh nghiệm của bạn ngay giây phút nầy. Bạn còn khó chịu về tiếng ồn hay không?

M: Không còn khó chịu nữa. Tôi hoàn toàn được tự do đối với tiếng ồn. Bà đã nói tỉnh giác là nền tảng của thiền định. Nó hoạt động ra sao?

Phải. Sự tỉnh giác của bản tâm ở từng giây phút là một phần của cách tu tập 'thiền quán tâm' (satipatthana). Trong trường hợp đặc biệt nầy, sự tỉnh giác của chính bạn về sự bực bội là bạn quán chân lý thứ nhất - Khổ. Sự tỉnh giác về ham muốn được an tịnh và sự bám níu vào yên lặng, tức nguyên nhân của Khổ, là bạn quán chân lý thứ hai - Samudhaya - hay là Tập. Giây phút bạn được tự do thoát khỏi sự bực bội về tiếng ồn là Nirodha (Diệt) tức chân lý thứ ba. Trong trường hợp nầy, sự dừng khổ là tạm thời nên được gọi là Tadanga Nirodha.

M: Còn Chân Lý Thứ Tư (tức Ðạo)?

Khi bạn tu tập tỉnh giác, thực ra bạn đang thực hành Magga, hay Bát Thánh Ðạo. Bạn đang chánh tinh tiến (gọi là Samma Vayama) để tu tập Tỉnh Giác (gọi là Samma Sati ) về sự bực bội của bạn. Do đó tâm bạn được tập trung, tức Chánh Ðịnh (gọi là Samma Samadhi ). Khi bạn siêu việt sự không thích tiếng ồn và không còn khó chịu, ngay lúc đó bạn có thể nghe tiếng ồn như thực tế. Ðây là Samma Ditthi hay là Chánh Kiến. Khi bạn không mong đợi nó chấm dứt hay trở nên ồn hơn, đó là Chánh Tư Duy (samma sankappa). Bạn có thể nói lên tình hình với nhận thức đúng đắn, gọi là Chánh Ngữ (samma vaca). Bây giờ bạn còn muốn rời xa tiếng ồn nữa hay không?

M: Không còn nữa. Lúc ban đầu tôi muốn rời xa nó, và còn có thể đã nói hoặc hành động bậy bạ nếu tôi có cơ hội.

Nhưng bạn đã không làm, đó là Samma Kammanta, tức Chánh Nghiệp.

M: Bà muốn nói không làm gì trong trường hợp nầy là hành động đúng?

Ðúng thế. Như vậy bạn đã thấy nếu tu tập tỉnh giác với tâm bình thản trong đời sống thường ngày, là bạn đang áp dụng Bốn Chân Lý Cao Thượng và phối hợp với Bát Thánh Ðạo trong lối tu sinh hoạt thiền.

Tính Hợp Nhất Của Bát Thánh Ðạo

Trong Phật giáo, Bát Thánh Ðạo là con đường dẫn tới sự giải thoát. Muốn hiểu Bát Thánh Ðạo và áp dụng nó vào đời sống, chúng ta phải nhìn nó với sự hợp nhất của thân, khẩu và ý. Bát Thánh Ðạo có thể được điều nghiên với rất nhiều chi tiết đến nỗi chúng ta có thể bị lạc lối. Ðể tránh điều nầy, chúng ta phải có một cái nhìn thực tế, chính xác và tổng quát về Bát Thánh Ðạo. Chúng ta nhìn nó trên bình diện trí tuệ, giới hạnh và thiền định (tức Tuệ, Giới, Ðịnh), trong tiếng Pàli gọi là Panna, SilaSamadhi.

TRÍ TUỆ (Panna)

1) Chánh Kiến (samma ditthi)
2) Chánh Tư Duy
(samma sankappa)

GIỚI HẠNH (Sila)

3) Chánh Ngữ (samma vaca)
4) Chánh Nghiệp (samma kammanta)
5) Chánh Mạng
(samma ajiva)

THIỀN ÐỊNH (Samadhi)

6) Chánh Tinh Tiến (samma vayama)
7) Chánh Niệm (samma sati)
8) Chánh Ðịnh
(samma samadhi)

Ngay cả ba khía cạnh nầy của Bát Thánh Ðạo, mặc dầu được nhận diện riêng để dễ hiểu, cũng không phải là riêng biệt. Trong khi thực hành, nếu chúng ta hiểu rõ thì Giới-Ðịnh-Tuệ phải được đồng hóa trong từng giây phút, từng tư tưởng, ngôn ngữ và hành động.

Thí dụ như Giới, tức là kiểm soát Hạnh Kiểm. Làm sao chúng ta tránh khỏi ngôn ngữ xấu và hành động xấu? Trước nhất, thử hỏi thế nào là ngôn ngữ tốt và thế nào là ngôn ngữ xấu? Phải chăng là nó chỉ có tính cách tương đối với thời gian, không gian và con người? Có cái gì là tuyệt đối đúng hay tuyệt đối sai chăng? Chúng ta có thể tiếp tục hỏi thêm nữa mà không đi tới một kết luận rõ rệt nào, mà chỉ làm cho chúng ta càng lạc xa vấn đề - đó là bản tâm của chúng ta.

Mục đích chánh của Giới là để tránh làm tổn hại người khác bằng ngôn ngữ và hành động xấu - nhưng chúng ta phải giới hạn mình tới mức độ nào trong mọi lúc đây?

Chúng ta phản ứng với môi trường theo thói quen nên nhiều khi chúng ta đã làm tổn hại đến người khác trước khi chúng ta nhận thức được điều gì đã xảy ra trong bản tâm. Ðây là bởi vì chúng ta đã được điều kiện hóa để lơ là với tâm thức của mình trong đời sống thường ngày. Chúng ta hầu như lúc nào cũng chú tâm hướng ra phía ngoài. Sự bận tâm nầy đối với ngoại cảnh là điều chúng ta phải vượt thoát.

Mặc dầu chúng ta đối phó với hành động của thân và khẩu, tất cả chúng đều phát xuất từ tâm. Hành động của tâm, khẩu và thân xảy ra liên tiếp nhau rất nhanh đến nỗi hình như là không có khoảng trống ở giữa. Khi tư tưởng vừa nổi lên thì chúng ta thấy mình nói năng hay làm chuyện gì rồi. Chúng ta thấy mình không thể kiểm soát lời nói và hành động mình đủ nhanh để tránh làm tổn hại đến người khác. Nhưng sự tỉnh giác (sati) của bản tâm sẽ làm cho nó cảnh giác về hành động và lời nói của chính nó.

Làm sao chúng ta có thể quay ngược sự chú ý vào bản tâm? Ðó là mục đích của Ðức Phật khi ngài vạch ra con đường tu tập tỉnh giác. Mục tiêu của sự luyện tâm là học cách phá được thói quen bận tâm về ngoại cảnh để có ý thức về những gì xảy ra bên trong, trong tâm chúng ta khi chúng ta sinh hoạt thường ngày. Khi sự tỉnh giác hay chánh niệm (samma sati) xảy ra, chúng ta thấy tâm mình không còn hành động nữa, nó dừng lại như là một chứng nhân để nhìn vào trạng thái bên trong. Khi sự quán tâm nầy đã trở thành thói quen cố định, như là bản chất thứ hai, thì chu trình phản ứng vô ý thức đối với ngoại cảnh bị phá vỡ. Trong giây phút đột phá nầy, sự 'thấy biết' hay 'ý thức' xảy ra: đó là sự nhận thức trong sáng như pha-lê về sự vật đúng như thực tế, về tình huống và nhân vật trong nhãn quan vô phân biệt, không có 'thích và 'không thích'. Từ tuệ giác mới mẻ nầy - Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp sẽ tiếp theo - tương đối và thích ứng với mỗi trường hợp. Do đó không còn vấn đề tuyệt đối đúng hay tuyệt đối sai nữa.

Như vậy, trên phương diện Bát Thánh Ðạo, ngay khi chúng ta chú ý đến bản tâm thì đã có Chánh Tinh Tiến (samma vayama) và Chánh Niệm (samma sati). Khi chánh niệm đã tròn đầy, thì bản tâm tức khắc đi vào Chánh Ðịnh Hiện Tiền (khanikha samadhi) và dẫn đến tiếp theo là Trí Tuệ (panna). Trí tuệ giúp ta nhìn sự vật đúng như thực tế của chúng, tức là Chánh Kiến (samma ditthi). Trí Tuệ sẽ đem tới Chánh Tư Duy (samma sankapa), và do đó Chánh Ngữ (samma vaca), Chánh Nghiệp (samma kammanta) và Chánh Mạng (samma ajiva).

Do đó, Giới Ðịnh Tuệ có thể được bao gồm trong từng giây phút tỉnh giác của đời sống thường ngày - ngay khi chúng ta ăn uống, làm việc, giải trí hay phấn đấu. Tóm lại, đời sống của chúng ta chính nó đã trở thành Bát Thánh Ðạo.

MS: Bà đã dịch Samma Samadhi là 'tập trung tâm ý', hay là 'Chánh Ðịnh'. Phải chăng trên phương diện ngôn từ thì Samma Samadhi là an trụ vào Tứ Thiền? Sự tập trung tâm ý có thể là tốt hay xấu, và do đó có thể không hợp với nghĩa đúng 'Chánh Ðịnh' của từ Samma Samadhi. Sự phân biệt nầy trở nên quan trọng khi chúng ta nói về thiền định và tập trung trong đời sống thường ngày.

T: Phải, Samma Samadhi thường được dịch là 'tập trung tâm ý', hay là 'Chánh Ðịnh'. Nhưng khi được diễn tả chi tiết, nó được phân thành hai loại: tu Chỉ (samatha meditation: dừng tâm, tức Ðịnh) và tu Ðịnh Tạm Thời như là trong pháp tu quán (vipassana meditation) theo đạo lý 'khô thiền' (sukkha-vipassaka: thuần quán) (*) áp dụng cho đời sống thường ngày.

Do đó tôi nghĩ không nên dịch nó là 'an trụ tứ thiền' (tập trung tâm ý) mà nên dịch là Chánh Ðịnh (right concentration). Ðây là tôi theo Luận chớ không theo Kinh.

Tuy nhiên, bạn đã nói đúng: sự tập trung có thể là tốt hay xấu, bởi vì sức mạnh của tâm tập trung là rất lớn và có thể nhằm vào những hành động tai hại nếu nó không được trí tuệ hướng dẫn. Ðây chính là lý do tại sao Bát Thánh Ðạo phải được hiểu và hành một cách toàn bộ. Nếu bạn tách rời thiền định khỏi nội dung của Bát Thánh Ðạo, nghĩa là không cần giữ Giới (sila) và theo đuổi Trí Tuệ (panna), thì dĩ nhiên nó không còn được gọi là Chánh Ðịnh nữa. Trường hợp thiền định trong sinh hoạt thường ngày, điều quan trọng là Trí Tuệ (panna) phải đến như là hậu quả của sự tỉnh giác về giây phút hiện tại - như là biện pháp nhằm ngăn ngừa tư tưởng, lời nói, hành động hay nghề nghiệp xấu.

[Bát Thánh Ðạo sẽ được giải thích theo quan điểm cổ truyền ở phần cuối của sách.]

(*) Xem lời giải thích của Ngài Ledi Sayadaw, ở đầu sách. Bạn có thể đọc thêm sách của Jayasuriya, W.F., "The Psychology and Philosophy of Buddhism", trang 162-164

Năng Ðộng Tính Của Thiền

M: Ðiều làm tôi sợ hãi về thiền định là ý nghĩ tôi trở thành hoàn toàn không có tư tưởng, hoàn toàn không có tâm.

T: Hãy để tôi làm sáng tỏ cách dùng từ 'không có tư tưởng' và 'không có tâm' của bạn. 'Không có tâm' trong ý nghĩa của bạn dùng có nghĩa là tâm hoàn toàn vắng mặt, không có ý thức, một khoảng trống không. Ðiều nầy không thể xảy ra. Không có ý thức, chúng ta sẽ chết. 'Hoàn toàn không có tư tưởng' nghĩa là ý thức có mặt, nhưng không có tư tưởng nào nổi lên. Trong thiền định, điều nầy có thể được nhưng chỉ trong một số điều kiện nào đó. Trong một vài hình thức tọa thiền, người ta có thể đạt tới một tình trạng mà tâm thức hoàn toàn vắng lặng, tập trung và tự chế, gọi là Vô Tưởng Ðịnh (jhanic samadhi). Trong tình trạng thiền định nầy, hành giả không thể sinh hoạt được.

M: Tôi không nghĩ là tôi có thể hoàn toàn không có tư tưởng. Nghe như là tôi sẽ trở nên giống như một xác ướp.

Ðây chỉ là một tình trạng tạm thời mà hành giả sẽ ra khỏi. Nhưng chúng ta đã nói về một lối thiền định khác, không qua tình trạng Vô Tưởng Ðịnh. Nếu bạn tu tập tỉnh giác trong đời sống thường ngày như là bạn đang kinh nghiệm ngay lúc nầy, bạn không phải đi qua tình trạng tự chế đó.

M: Bà nói như thiền định thường ngày là một tiến trình tích cực hơn tôi nghĩ. Sự tỉnh giác liên hệ với loại thiền định nầy như thế nào?

Chúng ta phải rõ ràng. Tiến trình thiền định luôn luôn tích cực mặc dù bạn tọa thiền hay thiền trong sinh hoạt thường ngày. Trong lối thiền tĩnh tọa, mặc dù thân thể ngồi yên, tâm chúng ta vẫn tích cực quán, nó có tỉnh giác về thân hay tâm. Thiền định là kỷ luật nội tâm cuối cùng sẽ đưa tâm ta về tình trạng thanh tịnh hóa.

M: Trong sinh hoạt thiền, có phải là tâm tích cực tự quán qua một tình trạng vô tưởng?

Phải. Khi sự tỉnh giác lên cao điểm, bạn có thể kinh nghiệm một tình trạng mà tư tưởng lặn mất. Nhưng tình trạng vô tưởng nầy chỉ kéo dài trong một phần của giây. Bạn kinh nghiệm được một ý thức vừa tập trung vừa tuyệt đối yên tịnh. Sự tập trung hay 'định tạm thời' nầy có tên là Khanika Samadhi. Mặc dầu định nầy không kéo dài như các loại định khác trong tọa thiền, Khanika Samadhi cũng có cường độ và chất lượng tương đồng. Trong Khanika Samadhi, tư tưởng chìm mất và tâm chúng ta đạt tới tình trạng thanh tịnh nhất.

M: Nếu tư tưởng chìm mất, phải chăng là cái 'Tôi' không còn hiện diện lúc đó?

Ðúng, nhưng chỉ là tạm thời.

M: Nếu cái 'Tôi' không hiện diện lúc đó, thì cái gì hiện hữu? Cái gì xảy ra trong giây phút không còn tư tưởng?

Khi 'định một-phần-của-giây' xảy ra, trong lúc đó không có tư tưởng nhưng chỉ có một ý thức tuyệt đối thanh tịnh và cao độ. Trong lúc đó, Panna tức trí tuệ (hay tuệ giác) xảy tới. Hành giả có một cái nhìn hoàn toàn thanh tịnh, gọi là Ditthi Visudhi. Trong tiếng Pàli, Ditthi nghĩa là 'cái nhìn' và Visudhi nghĩa là 'thanh tịnh'.

Mặc dù kinh nghiệm nầy có thể là ngắn ngủi, nó siêu việt thời gian và vô giới hạn, đó là một giây phút chuyển hóa. Ðó là giây phút mà cái 'Tôi' và 'Của Tôi' tan biến. Sau giây phút vô tưởng đó, cái nhìn thanh tịnh được tiếp theo bằng tư tưởng - nhưng tư tưởng, cảm xúc và hành động lúc nầy không còn theo thói quen cũ. Trong giây phút hoàn toàn an tịnh đó của tâm thức, cái nhìn thanh tịnh (trí tuệ hay tuệ giác) cùng với Từ và Bi nổi lên trong tâm ở từng sâu thẳm. Những tư tưởng và hành động tiếp theo đó đượm nhuần tính Từ Bi.

Bạn thân mến của tôi, bạn thấy đó, thiền định không làm cho bạn trở nên một người ù lì, vô tưởng hay vô cảm đâu. Thật ra thiền định đem lại những gì tốt đẹp nhất trong bạn - tình thương, sự nồng ấm và nhạy cảm đối với mọi chúng sinh.

Sự tu tập tỉnh giác, mặc dầu là trong lối tọa thiền hay sinh hoạt thiền, là một tiến trình tích cực và tiếp diễn. Trong tọa thiền, mặc dầu thân ngồi yên, tâm ta vẫn tích cực quán và có ý thức về thân tâm. Trong sinh hoạt thiền cũng thế, tâm tích cực tự quán mà không phụ thuộc vào cử động hay thời gian. Cái kỷ luật tâm linh trong mỗi hình thức là điều tối quan trọng sẽ đưa tâm chúng ta tới tình trạng thanh tịnh. Không phải tư thế ngồi đưa tới sự giác ngộ, mặc dầu tư thế cũng hữu ích khi giúp cho tâm tự an định. Nếu bạn hiểu rõ điều nầy, bạn có thể thiền định bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

An Trú Nội Tâm

L: Tôi vừa trải qua một khóa tu thiền tại một trung tâm và tôi đang gặp khó khăn thích ứng với thế giới bên ngoài. Bên trong trung tâm thật là yên tịnh đến nỗi hiện nay tôi thấy thật là khó thích hợp với cảnh náo nhiệt và xô bồ bên ngoài. Làm sao tôi có thể thích ứng với giai đoạn chuyển tiếp?

T: Kinh nghiệm của bạn không phải là bất thường. Nhiều người cảm thấy giống như bạn khi họ mới rời thiền viện. Trong khóa tu thiền, điều kiện an tịnh được thiết lập và bạn có thể tu tập thiền định mà không bị quấy rầy. Trong khi tu học, bạn tạm thời bị điều kiện hóa với khung cảnh yên tịnh đó. Do đó khi rời thiền viện, bạn thấy cảnh ồn náo thật là khó đối phó.

L: Làm sao tôi có thể thích ứng tốt hơn với giai đoạn chuyển tiếp?

Chúng ta hãy nhìn xem tâm bạn hoạt động ra sao khi ở bên trong và bên ngoài thiền viện. Khi ở trong thiền viện, bạn tu tập tỉnh giác rất mạnh mẽ. Sự tỉnh giác của bạn đang ở cao độ. Nhưng khi rời thiền viện, có lẽ bạn đã bỏ lại sự tỉnh giác đằng sau, đúng không?

L: À, đúng như vậy.

Bạn thấy đó! Khi bạn vừa rời thiền viện thì bạn đã 'đổi số' rồi. Bạn buông bỏ sự tỉnh giác và trở lại với tình trạng thiếu tỉnh giác trước đây. Do đó khi đột nhiên bị đối diện với cảnh xô bồ của thế giới bên ngoài, bạn thấy thật khó thích hợp. Bạn gặp khó khăn là vì bạn tách rời thiền định khỏi kinh nghiệm thường ngày. Thật ra, đáng lẽ là sự tỉnh giác bạn học được bên trong thiền viện đã trang bị cho bạn tốt hơn để đối diện với thế giới bên ngoài.

L: Làm sao được?

Trước hết, bạn phải buông bỏ ấn tượng là sự tỉnh giác chỉ có thể tu tập bên trong thiền viện, ở một nơi và một lúc nào đó. Sự điều kiện hóa nầy làm cho ai cũng cảm thấy khó khăn khi nối liền khoảng cách giữa thiền viện và thế giới bên ngoài. Bên trong thiền viện, bạn học cách tỉnh giác trong khi ngồi yên tréo chân và nhắm mắt. Bây giờ ở bên ngoài, bạn cũng có thể tu tập tỉnh giác giống như vậy, nhưng bạn phải có khả năng làm vậy với đôi mắt mở rộng, trong khi bạn đối phó với các kích động và hàng loạt vấn đề.

L: Thật là khó quá, phải không?

Không có gì quá khó nếu bạn biết cách. Có lẽ việc đầu tiên bạn học trong khóa thiền là cách sống với giây phút hiện tại. Bạn cũng có thể tu tập điều đó bên ngoài thiền viện. Bạn có thể tỉnh giác về bất cứ chuyện gì bạn làm - nấu nướng, giặt giũ, tắm rửa, lái xe, đi bộ, vv...Gần như bất cứ chuyện gì.

Không những thế, trong khóa thiền bạn đã phải học cách quán tâm mình như là một chứng nhân, không có 'thích' hay 'không thích'. Trong đời sống thường ngày, bạn cũng có thể quán tâm như là một chứng nhân, giống như vậy. Bạn có thể nhìn sự ghét bỏ cảnh ồn náo, khi nó đến với bạn. Hãy để nó đến rồi ra đi. Hãy bình thản đối với cảm xúc của bạn về thế giới bên ngoài, và sự bình thản sẽ lan qua chính thế giới bên ngoài nữa.

Khi bạn là chứng nhân về phản ứng của bạn đối với thế giới bên ngoài, bạn cũng trở thành chứng nhân của cảnh ồn náo, và không bị nó quấy rối nữa. Khi bạn nắm vững được điều nầy, thì là bạn đang sống trong An Trú Nội Tâm với bất cứ trường hợp nào, dù có an tịnh hay không. Thế giới có thể quay cuồng nhưng thế giới bên trong của bạn vẫn là an tịnh và bạn thấy rằng mình không cần có một nơi hay một thời gian riêng biệt nào để tu tập thiền định.

L: Còn chuyện để dành một thời gian riêng trong ngày để ngồi thiền ở nhà?

Ðiều nầy tốt nếu bạn không thiên chấp về khoảng thời gian tu tập đó. Bạn thấy, điều xảy ra là nhiều người trở thành lệ thuộc với lối tập thiền đó và thấy rằng họ không thể hoạt động hữu hiệu suốt ngày nếu họ không có cơ hội ngồi xuống tập thiền vào buổi sáng.

L: Tại sao thế?

Ðó là một hình thức bị điều kiện hóa như những thứ khác. Giống như mình ghiền một tách cà-phê hay trà buổi sáng. Bạn cũng có thể ghiền ngồi thiền. Mặc dầu sự điều kiện hóa nầy tự nó không phải là một điều xấu, có nhiều điểm tế nhị mà bạn cần phải biết về thiền định. Tâm của mình rất tinh quái, và bạn cần phải biết kẻo bị nó lừa.

L: Vậy mình phải làm sao trong những trường hợp đó?

Ðiều quan trọng nhất là tập mở mang tâm bình thản đối với sự tu tập của mình. Ðây có thể là điều khó làm nhất bởi vì, cũng như những chuyện khác, bạn có thể bị dính níu vào sự tu tập thiền định của mình. Chúng ta học cách bình thản với mọi chuyện khác, nhưng lại quên bình thản với sự tu tập của chính mình.

L: Nếu chúng ta bình thản với sự tu tập của mình, có thể nào chúng ta dành riêng một thời gian ngồi thiền mà vẫn giữ được sự quân bình trong suốt ngày hay không?

Ðiều nầy có thể được nếu bạn có thể bình thản và đồng thời tỉnh giác bên ngoài các buổi tập thiền. Nếu được như vậy thì bạn có thể tập thiền tốt, trong và ngoài các thời gian đó.

-ooOoo-

Ðầu trang | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5

-ooOoo-


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 07-03-2003

Song Thien - 02

BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Sống Thiền - Ðạo Lý Tỉnh Giác Trong Ðời Sống Thường Ngày
Từ Thám dịch


SINH HOẠT THIỀN

Trong khi tu Thiền Quán, hành giả không nhất thiết phải tu Chỉ để đạt tới tình trạng an định. Ðiều tối cần là hành giả phải có trí tuệ ba-la-mật (panna paramita) tức là trí thông minh có sẳn. Nếu hành giả có trí tuệ ba-la-mật và ở tình trạng sẳn sàng, thì y có thể đắc ngộ ngay sau khi chỉ nghe một bài giảng. Do đó, với trí tuệ giải thoát, hành giả sống tại gia vẫn có thể đắc ngộ khi quán chiếu vô thường bên trong hay ngoài bản tâm, tại gia hay ngoài xã hội.

Ledi Sayadaw
(Vipassana Dipani)

Thiền Trong Sinh Hoạt

A: Tôi có nhiều lo lắng và căng thẳng. Tôi thử tập thiền để thư giãn, nhưng không có hiệu quả...

T: Trong thế giới vội vàng nầy, thiền được xem là phương trị liệu tức thời cho những căn bịnh của đời sống. Nhưng nếu xem thiền như là phương thuốc an thần thì ta đã đánh giá nó quá thấp. Ðúng vậy, thiền định đem tới sự thư giãn, nhưng đó chỉ là một trong nhiều hiệu quả của nó. Thiền trong Phật giáo không phải là một trị liệu cấp thời hay chỉ là một phương cách thư giãn căng thẳng.

Trong Phật giáo, thiền là phương pháp rèn luyện tâm để đạt tới tuệ giác (panna) và cuối cùng đến giải thoát và Niết-bàn.

D: Xin để Niết-bàn qua một bên, tôi muốn tu thiền nhưng không có thì giờ.

Khi nói về thiền, có lẽ bạn đang nghĩ về lối thiền thông dụng thời nay, tức là lối thiền ngồi (tọa thiền). Nhưng hình thức thiền ngồi nầy chỉ là phụ trợ cho chúng ta phát triển một thứ kỷ luật nội tâm gọi là Tỉnh Giác và Bình Ðẳng Tâm. Bạn đừng lầm lẫn hình thức với con đường nhé.

Thông thường, người ta nói là bạn cần để riêng ra một ít thì giờ và một nơi nào để tập thiền. Nhưng nếu thiền là nhằm mục đích giúp bạn đạt được tâm bình an trong đời sống, thì nó phải là hành vi sinh động và phải là một bộ phận của cuộc sống thường ngày. Thiền là ở đây và ngay lúc nầy, từng giây phút một, giữa các thăng trầm của đời sống, giữa đấu tranh, thất vọng, đau đớn, giữa thành công và căng thẳng. Nếu bạn muốn thông hiểu và giải quyết những sự tức giận, ham muốn, bám níu và đủ loại cảm xúc hay xung đột khác bên trong, bạn có cần đi đâu khác để tìm giải pháp chăng? Nếu chính ngôi nhà của bạn đang bốc lửa, chắc là bạn không đi nơi nào khác để dập tắt lửa, đúng không?

Nếu bạn thật sự muốn hiểu bản tâm, bạn phải ngắm nhìn nó trong lúc nó nổi giận, trong lúc nó ham muốn, trong lúc nó đang xung đột. Bạn phải chú ý nhìn vào tâm mình trong khi muôn ngàn tư tưởng và tình cảm nổi lên và rơi rụng. Ngay lúc bạn chú ý vào cảm xúc của mình, bạn sẽ thấy nó mất năng lực và cuối cùng biến mất. Nhưng nếu bạn lơ là không chú ý thì nó sẽ tiếp tục và tiếp tục. Chỉ khi nào cơn giận đã chấm dứt thì lúc đó bạn mới biết rằng mình đã nổi nóng. Nhưng muộn rồi vì bạn đã vô ý phạm lỗi lầm, hay đã cảm thấy quá mệt nhọc vì cảm xúc.

R: Làm sao đối phó với những cảm xúc đó? Tôi biết là trong khi nổi giận thì tôi muốn la hét và ném đồ vật. Tôi phải kiểm soát chúng, hay là để chúng phát tiết?

Khuynh hướng tự nhiên là kiểm soát cảm xúc. Nhưng nếu mình cố đè nén thì nó sẽ cố bung ra. Nó sẽ nổ tung hay phát tiết bằng cách gây bịnh hay rối loạn thần kinh.

R: Như vậy tôi phải làm sao? Chả lẽ tôi để cho chúng tự do bộc phát?

Dĩ nhiên là không. Ðó là điều chúng ta không muốn làm. Phát tiết cảm xúc một cách bất chợt là một cực đoan khác. Ðiều quan trọng là không phải kiểm soát mà cũng không phải không kiểm soát. Trong cả hai trường hợp, anh đều có ý muốn kiểm soát nó, nên cả hai đều không tốt. Khi nào ý muốn kiểm soát nầy còn chi phối bên trong thì tâm anh không còn tự do để ngắm nhìn cơn giận đúng như thực tế của nó. Do đó mâu thuẫn lại nổi lên: anh càng cố gắng để khỏi nổi giận thì lại càng hoài công.

Muốn hiểu bản tâm, anh phải ngắm nhìn và chú ý nó với một tâm thức tập trung, im lặng. Khi tâm anh ồn náo, luôn luôn đặt câu hỏi thì nó thiếu năng lực quan sát. Nó quá bận rộn đặt câu hỏi, trả lời, rồi lại đặt câu hỏi.

Anh hãy kinh nghiệm tự ngắm nhìn tâm mình trong im lặng. Sự im lặng nầy là sự im lặng của một tâm thức vô phân biệt, không còn thích hay không thích, không còn bám níu.

Bản chất của tư tưởng và tình cảm là tạm bợ và tự chúng không có đời sống riêng biệt. Nếu bạn bám níu chúng thì bạn làm cho chúng ở lại lâu hơn

Chỉ khi nào tâm thức bạn không còn bám níu hay vất bỏ thì nó mới có thể nhìn cơn giận như là cơn giận, ham muốn như là ham muốn. Ngay khi bạn 'thấy', thì tâm thức của bạn bị bận bịu vì 'thấy', và chính trong giây phút đó cơn giận của bạn tự nhiên chết mất. Sự thấy biết hay tuệ giác nầy, gọi là Panna, xảy tới như là một thứ nhận thức tức thời mà chúng ta không thể tu tập hay rèn luyện được. Nhận thức nầy đem tuệ giác mới mẻ vào đời sống, sự trong sáng và tức thời của hành động.

Như vậy, bạn thấy là thiền định không nhất thiết phải xa rời đời sống với những thăng trầm của nó. Nếu bạn muốn kinh nghiệm được bình an trong cuộc sống thường ngày, bạn cần phải ngắm nhìn, am hiểu và đối phó với tham sân si của bạn ngay khi chúng vừa nổi lên. Chỉ khi nào bạn không còn dính líu với cảm xúc thì lúc đó bản chất bình an của tâm thức mới hiện ra. Bản chất bình an nầy làm bạn có thể sống trọn vẹn từng giây phút của đời sống. Với sự thông hiểu và nhận thức mới tìm được, bạn sẽ có thể sống như một con người trọn vẹn và nhạy cảm hơn. Bạn sẽ nhìn đời với một quan điểm mới mẻ và tươi mát. Và kỳ diệu thay, những vấn đề trước kia không còn là vấn đề nữa.

Sống Với Giây Phút Hiện Tại

R: Bà nói rằng tôi có thể thiền định trong sinh hoạt thường ngày bằng cách tu tập chú ý (sati) trong tâm. Nhưng tôi thấy điều đó thật là khó khăn; tâm của tôi quá lơ đãng.

T: Ðiều đó không có gì lạ. Anh thấy, muốn chú ý đến tâm mình trong khi anh sinh hoạt thường ngày, anh phải lật ngược tâm thức vào bên trong. Ðúng thế, tâm của anh cần phải mạnh mẽ và tập trung thì mới có thể tỉnh giác về chính nó được. Do đó khi anh bị xúc động hay lơ đãng thì dĩ nhiên là rất khó chú ý đến tâm mình.

R: Vậy tôi phải bắt đầu làm sao đây?

Hãy tập có tỉnh giác về bất cứ hành động nào của anh ngay lúc nầy: đi bộ, ngồi, tắm, hút bụi, ngắm hoa, vv...Anh có thể tập điều nầy bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Trong khi rèn luyện tâm tập trung, anh sẽ thấy là mình càng ngày càng bớt lơ đãng. Rồi về sau, khi anh tiếp tục rèn luyện, anh sẽ có thể tỉnh giác về tư tưởng và tình cảm của mình ngay khi chúng mới nổi lên.

Giả sử như anh đang lái xe. Anh phải chú ý về hành động lái xe, phải không? Tâm của anh phải ở tại chỗ và ngay giây phút đó, chú ý nhìn trên xa lộ, quan sát các tài xế khác. Anh không thể nào để mình quá lơ đãng bởi những tư tưởng khác. Lái xe cũng giống như tập tỉnh giác về hành động đang làm của mình. Nhưng thường là chúng ta không làm những hành động khác một cách tập trung như vậy.

R: Tại sao không?

Có lẽ vì những hành động khác ít nguy hiểm hơn lái xe. Nhưng anh có thể áp dụng cùng nguyên tắc đó cho những hành động khác. Giả sử như anh đang ăn. Nếu tâm anh lơ đãng, có thể là anh không có nhận thức mình đang nếm mùi vị của thức ăn, huống hồ là có thể thưởng thức nó. Chỉ khi nào anh chú ý trên hành động ăn thì anh mới có thể thật sự thưởng thức được mùi vị của thức ăn.

Trong những hoạt động tiêu cực cũng vậy. Giả sử như anh đang ngồi trên xe buýt. Anh chỉ cần để tâm tại chỗ, đừng để nó chạy lang thang. Hãy chú ý ở cảnh vật chung quanh. Hãy có nhận thức về những người khác ở trên xe, chiếc xe chạy nhanh hay chậm và chạy về đâu. Ðây là cách rất tốt để bắt đầu tập thiền. Hãy giữ tâm tại chỗ thay vì để nó chạy rong.

P: Tôi đã cố gắng tập tỉnh giác về giây phút hiện tại. Nhưng thật là khó quá, và tâm tôi bị rối bời.

Hỡi ôi, sống với giây phút hiện tại chỉ là một cách nói, không phải là một điều răn phải răm rắp tuân theo. Ðây không phải là cuộc thi sát hạch. Anh phải hiểu điều nầy ngay lúc đầu, bằng không thì tâm anh bị rối như bòng bong vì quá cố gắng với mọi giây phút trong ngày.

Nếu bạn quá đeo níu vào giây phút hiện tại thì bạn sẽ mất đi nghệ thuật sống thư thả.

Anh cần hiểu rằng sống với giây phút hiện tại chỉ là một phương tiện để phá bỏ thói quen của tâm thức. Nó thường nhảy chuyền giữa các tư tưởng và cảm xúc về quá khứ, hiện tại và tương lai. Sống với giây phút hiện tại chỉ là một cách để tập cho tâm mình thôi nhảy chuyền.

Sống tất cả với từng giây phút hiện tại không phải là điều quan trọng. Ðiều quan trọng là học tập bỏ thói quen tâm thức luôn luôn nhảy chuyền, luyện cho tâm mình được tập trung và vững vàng hơn.

Khi đã phá bỏ được thói quen của tâm chạy rong, anh sẽ thấy mình được tự chủ hơn và có thể sống với giây phút hiện tại nhiều hơn.

SD: Như vậy thì chúng ta được ích lợi gì?

Ðây là câu hỏi rất hợp tình. Dĩ nhiên là tâm anh sẽ được tập trung hơn, nhưng anh có thể được vậy mà không cần phải học tập nghệ thuật thiền định. Một số hoạt động như chơi gôn, đánh cờ, đọc sách, vv...có thể tăng cường tập trung.

SD: Có gì khác biệt giữa các hoạt động đó và lối thiền định quán tâm từng giây phút?

Nếu anh nhìn vào tiến trình của những hoạt động đó, anh sẽ thấy có yếu tố ham muốn: ham muốn đạt tới sự toàn thiện, ham muốn thắng cuộc chơi, ham muốn được thoải mái, hay cái gì nữa. Dục vọng kích thích anh. Và khi hoạt động đó chấm dứt thì sự tập trung cũng không còn. Trong thiền định, sự tập trung cũng rất quan trọng, nhưng không phải là tất cả. Nếu chúng ta chỉ tập trung thôi, thì không được ích lợi gì nhiều hơn.

Muốn thiền định, điều tối cần là phải tỉnh giác nhưng không có lòng mong cầu (dục vọng), không ghét bỏ, không có thích và không thích, không có mục tiêu.

Nếu bạn có thể tỉnh giác mà không có phán đoán, không có thích hay không thích, thì đúng là bạn đang tu tập Tâm Im Lặng hay Tâm Xả (tức Bình Ðẳng Tâm), gọi là Upekha trong tiếng Pali.

Nguyên tắc nầy đúng cho cả hai lối thiền định: lối ngồi thiền chính thức và lối thiền định trong sinh hoạt (không chính thức), mà chúng ta đang bàn đây. Có hai yếu tố cần nhớ: sống với giây phút hiện tại và nhìn mọi sự vật mà không có 'thích' và 'không thích'.

R: Ồ, điều nầy không dễ dàng vậy đâu. Ngoài chuyện phải chú ý tới cảnh vật chung quanh, còn nhiều chuyện khác chúng ta cần làm nữa.

Ðúng vậy, không dễ dàng đâu. Do đó tốt hơn là nên từ từ bắt đầu bằng cách chú tâm vào giây phút nào đó. Có thể là bạn không thể làm tốt được liền. Nhưng bạn sẽ thấy rằng tập sống với giây phút hiện tại giúp chúng ta dễ dàng đạt được 'tâm im lặng'. Nếu bạn tập trung vào giây phút hiện tại, và sự tập trung của bạn tốt, thì sẽ không có vọng tưởng len lõi vào tâm trí. Trong khi bạn tu tập, ngoài chuyện tâm được tập trung hơn, bạn còn sẽ trở nên cảnh giác và nhạy cảm hơn đối với mọi chuyện chung quanh. Khi sự tỉnh giác đã đủ mạnh, bạn có thể hướng sự chú ý vào bên trong tâm để ngắm nhìn cảm xúc và tư tưởng của bạn.

SD: Như vậy, chỉ tỉnh giác thôi thì chưa đủ?

Ðúng thế. Chỉ tỉnh giác thì chưa đủ đâu. Ðó chỉ là phương tiện thôi. Ðiểm cần yếu là phải lồng được tâm Bình Thản (upekha) hay tâm Xả vào trong sự tỉnh giác của bạn.

SD: Phải chăng sự bình thản sẽ đưa tới Tâm Im Lặng?

Ðúng vậy, tâm của bạn chỉ đạt được sự im lặng khi nó có sự bình thản (upekha). Tâm bình thản Upekha không phải chỉ là sản phẩm của sự tu tập thiền định. Chính nó cũng là một công cụ cho sự thiền định. Khi bạn đã có thể rành rẽ quay vào bên trong tâm, nhìn tư tưởng và tình cảm của mình với sự bình thản, thì đường lối bình thản nầy sẽ lan rộng đến các lãnh vực khác của đời sống. Bạn sẽ bắt đầu nghe, nhìn, cảm nhận và liên hệ với mọi sự vật bằng tâm bình thản.

Chỉ tỉnh giác và tập trung thôi thì chưa đủ cho sự thiền định. Tâm Bình Thản phải là yếu tố cố định.

SD: Phải chăng tâm bình thản có nghĩa là tách rời?

Ðôi khi Upekha được dịch là tách rời, nhưng dịch như vậy rất thiếu sót. Bạn phải hiểu là Upekha vượt thoát cả hai nghĩa Tách Rời và Bám Níu. Ðôi khi vì muốn tách ly, bạn có thể trở nên lãnh đạm nếu bạn không cẩn thận. Sự lãnh đạm nầy có thể dẫn tới sự xa lánh và chối từ tế nhị. Upekha không những vượt thoát nghĩa 'không bám níu', mà cả nghĩa 'chối từ' nữa.

Tâm của bạn rất tinh quái, nó có lắm trò mà bạn cần phải biết.

Tinh yếu của 'Bình Thản Tâm' là vượt thoát cả Bám Níu và Tách Rời, vượt thoát Thích và Không Thích, nghĩa là liên hệ với sự vật đúng như thực tế của chúng.

Do đó điểm thiết yếu là bạn phải bắt đầu tu tập sự tỉnh giác trên căn bản của tâm bình thản, không nhị phân - đó là Trung Ðạo. Nếu bạn có thể nhìn thế giới, nhìn chính mình và bản tâm với sự bình thản, thì bạn đang đi trên con đường thiền định đúng đắn.

Sống Với Nhiều Giây Phút Khác

P: Ðôi khi chúng ta không đủ sức giữ tỉnh giác về một công việc mà không bị phân tâm. Tôi chỉ thất vọng thôi nếu tôi cố gắng giữ tỉnh giác về một công việc trong khi đám con nhỏ đòi hỏi sự chú ý của tôi. Hình như tôi chỉ còn cách là chú tâm đến đám con nhỏ và làm công việc đó một cách máy móc.

T: Tôi thích cách nói 'làm một cách máy móc' của chị. Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh: giữ tỉnh giác chỉ là một phương tiện để tu luyện tâm tập trung. Chị đừng đấu đá với chính mình. Chị cần chú ý vào đâu là tùy trường hợp. Nếu bọn trẻ cần chị, thì chị cứ chú tâm đến chúng chớ có sao đâu.

Chỉ có một nguyên tắc nên theo là tránh tình trạng điều-kiện- hóa cứng ngắc của tâm thức.

Ðiều nầy có nghĩa là trong khi nấu rau, chị không nhất thiết phải hoàn toàn tỉnh giác về màu sắc và mùi thơm của rau mà bỏ quên những câu hỏi của đám nhỏ. Bởi vì nếu như thế thì chị đang bám níu vào công tác nấu rau.

P: Ồ, thì ra vì thế mà tôi cảm thấy thất vọng?

Ðúng vậy, bởi vì chị đang bám níu. Một lần nữa, chị nên hiểu là mình phải có Tâm Bình Thản (upekha) trong mọi hành động. Nếu chị nhìn công tác nấu rau với Tâm Bình Thản thì chị đâu có vấn đề gì khi xả bỏ sự tỉnh giác trên công việc nấu rau và quay sự chú tâm đến đứa nhỏ. Ðôi khi, như chị vừa nói, mình có thể tự động nấu rau và đồng thời trả lời đứa nhỏ. Có những lúc khác, nếu đứa nhỏ rất cần đến chị, có lẽ chị sẽ thấy là tốt hơn mình nên bỏ dở việc nấu rau để có thể hoàn toàn chú tâm đến nó. Không có một nguyên tắc cứng ngắc nào cả.

Nên nhớ là bạn có thể bám níu vào sự tỉnh giác về giây phút hiện tại của mình cũng như bạn đang bám níu vào những thứ khác. Ðó là điều phải tránh.

Lỗi nầy rất tế nhị và khó thấy, nên bạn cần hiểu từ khi bắt đầu là nếu không khéo thì bạn có thể bị cột trói bởi sự tỉnh giác của chính mình!

P: Nếu công việc quá bận rộn thì tôi đâu còn có thể chú tâm đến việc khác, và thấy rằng tôi phải chấp nhận sống trong sự bấn loạn đó.

Vậy thì, buông xả sự tỉnh giác có thể là cần thiết. Nhưng chúng ta cũng phải bàn đến cách sống trong bấn loạn. Chúng ta đối phó làm sao với sự bấn loạn đó?

P: Ðôi khi tôi bị sự bấn loạn lôi kéo và hoàn toàn mất tự chủ.

Phải, nếu sự tỉnh giác không đủ mạnh thì chị có thể bị lôi kéo vào cơn bấn loạn. Sự tỉnh giác mà tôi nói đây là sự tỉnh giác về chính tâm thức của chị. Nếu chị không có tỉnh giác về tư tưởng và cảm xúc của mình thì chị dễ bị rơi vào phản ứng với tình thế, phản ứng với sự bấn loạn. Trước khi hiểu chuyện gì đang xảy ra thì chị đã phóng bừa qua cơn bấn loạn, và do đó tạo thêm rối loạn.

Nếu chị tỉnh giác về cảm xúc của mình khi chị nhìn tình thế bấn loạn thì chị có thể chọn hành động hợp tình hợp lý.

Thay vì chỉ để ý đến tình thế hỗn loạn bên ngoài, bạn hãy dừng lại và nhìn vào bên trong tâm mình xem có gì trong đó.

D: Nhưng điều nầy không dễ làm đâu!

Dĩ nhiên là không dễ dàng. Nhưng bạn phải bắt đầu từ một điểm nào đó chớ. Nếu bên trong tâm không được im lặng thì bạn sẽ phải lặn hụp mãi với tình thế hỗn loạn bên ngoài.

Tự nhìn thẳng vào tâm mình là cách trở về với nguồn tự lực để đạt tới một tình trạng cân bằng và im lặng bên trong. Chính là nhờ tình trạng cân bằng nầy mà bạn có thể nhìn sự hỗn loạn bên ngoài một cách khách quan.

Nếu được vậy thì bạn sẽ thấy hỗn loạn chỉ là hỗn loạn, chỉ là một tình thế xảy ra. Bạn sẽ thấy nguyên nhân nằm sau sự hỗn loạn và bạn có thể hành động thích hợp. Nói vắn tắt, khi bạn nhìn xuyên qua được trung tâm của sự hỗn loạn thì bạn cũng đồng thời giải quyết được vấn đề một cách tốt nhất. Ðây gọi là Panna (Tuệ giác), hay là cái nhìn giác ngộ xuyên suốt.

P: Bà muốn nói là chúng ta phải thụ động trong tình thế xung đột hỗn loạn?

Không phải đâu. Một lần nữa, không có nguyên tắc cứng ngắc nào về chuyện đó. Có trường hợp cần mạnh tay giải quyết thẳng vào trọng tâm của vấn đề. Nếu bạn hành động với nhận thức thì đó là hành động đúng đắn. Có trường hợp khác cần bạn giữ bình tĩnh và không gây thêm lộn xộn nữa. Nếu bạn dừng lại và nhìn, bạn sẽ biết cách phải làm thế nào trong mỗi trường hợp. Nếu bạn nhìn tình thế hỗn loạn và tâm mình với sự bình thản (upekha), bạn sẽ biết mình phải làm sao và không bị tình thế hỗn loạn làm khó bạn.

P: Nếu chúng ta dừng lại để nhìn, làm sao chúng ta có thể phản ứng thích nghi đối với người khác? Chúng ta sẽ không có thì giờ suy nghĩ mình phải làm sao.

Ðây là điểm khó giải thích nhất. Chúng ta luôn luôn có thói quen làm việc bằng trí thức và hình như không thể nào ứng phó với tình thế mà không cần có khái niệm trước. Bạn thấy, ở đây chúng ta bàn về Tuệ giác (panna). Ðây lại là một sự mâu thuẫn: tuệ giác không thể có mặt trừ phi mọi sự khái-niệm-hóa đều chấm dứt. Trong tình thế hỗn loạn, tuệ giác chỉ hiện lên khi chúng ta thôi không còn khái-niệm-hóa tình thế hỗn loạn nữa. Trong thực tế, sự tỉnh giác về chính tâm thức của mình sẽ giúp chúng ta chấm dứt được sự khái-niệm-hóa mà tâm trí chúng ta thường phải đi qua. Khi sự tỉnh giác đã đủ mạnh và trong tâm có sự im lặng hoàn toàn thì tuệ giác sẽ tức thời hiện đến cho chúng ta biết cách tốt nhất để đối phó với tình thế trước mắt.

D: Tôi còn một câu hỏi. Tôi tự thấy mình có thể dừng được cảm xúc ngay giữa một tình thế khó xử, nhưng sau đó tôi không biết mình phải làm gì nữa. BởI vì tôi đang học Phật và tu tập theo Phật pháp, tôi cảm thấy mình cần phản ứng với lòng bi mẫn nhiều hơn. Nhưng có thể là tôi không có lòng bi mẫn lúc đó. Bởi vì không biết phải làm gì nữa, tôi trở về với nề nếp cũ là bực tức hay hung tợn.

Bạn thân mến của tôi, đây chỉ là một giai đoạn trong quá trình tiến bộ của bạn. Bạn đã tiến tới mức đó. Bạn có thể tiến xa hơn nữa. Bạn hãy nhìn vào tiến trình xảy ra trong tâm ngay khi bạn phản ứng. Khi bạn có thể dừng lại ngay trên đường đi, là bạn đã tiến bộ khá lắm rồi.

Chỉ khi nào bạn bắt đầu lý luận trở lại là bạn bắt đầu gặp khó khăn. Nếu bạn có khái niệm là tu Phật thì phải từ bi, thì bạn đã dựng lên một hình ảnh của chính bạn. Khi nào tư tưởng đó còn vào tâm trí, là bạn chưa có tự do. Bởi vì lúc đó tâm trí bạn tràn đầy dục vọng muốn hoàn thành hình ảnh của bạn như là một người tu Phật.

Khi tâm thức chưa được tự do, thì chưa có cơ hội cho lòng bi mẫn thật sự nổi lên.

Ðiều nầy thật là đơn giản. Chỉ khi nào bạn vất bỏ được hết những thành kiến về chính mình thì lòng bi mẫn mới tức thời hiện đến. Khi tâm không còn thành kiến, bạn sẽ có thể hành động tức thời, đầy bi mẫn và sáng tạo.

Thiền Trong Hành Ðộng

D: Bà nói là chúng ta có thể tập thiền trong cuộc sống thường ngày. Cách tốt nhất để bắt đầu là thế nào?

T: Nói một cách tổng quát thì tâm trí của bạn bị thế giới bên ngoài chi phối, và bạn phản ứng với nó một cách máy móc và theo thói quen. Khi bạn bị kẹt với ngoại cảnh, bạn bỏ quên hẳn tâm mình. Do đó điểm thiết yếu nhất bạn cần nhận ra là bạn phải quay sự chú ý bên ngoài vào bên trong, nhắm vào tâm mình. Nói cách khác, bạn phải tập chú ý đến tâm mình trong phạm vi sinh hoạt thường ngày - ngay khi bạn đang ăn, làm việc, giữ con, nấu ăn, hút bụi, vv...hay bất cứ làm việc gì.

R: Có phải bà muốn nói tôi phải ghi nhận tất cả những gì xảy đến trong tâm tôi? Ðiều đó thật vô cùng khó khăn. Giả sử như khi tôi đang lái xe, làm sao tôi có thể vừa quán tâm mà vẫn chú ý tới diễn biến trên xa lộ?

Câu hỏi nầy rất hợp tình. Chúng ta không thể lúc nào cũng quán tâm được. Bởi vì làm như thế khi lái xe là bạn tự trói tâm mình, và xe bạn sẽ chạy tuốt ra khỏi xa lộ. Thay vì làm thái quá như vậy, bạn nên bắt đầu bằng cách tập trung vào một cảm xúc nào đó bên trong bạn. Hãy chọn loại cảm xúc nào làm bạn khó chịu nhiều nhất, hay loại cảm xúc nào nổi bật nhất. Thí dụ như nếu bạn là người nóng tánh, hãy bắt đầu quán sự tức giận của mình. Nếu bạn là người nhiều tự ái, hãy quán sự thay đổi tâm trạng. Hãy chú ý đến loại cảm xúc nào dễ thấy nhất và quấy nhiễu bạn nhiều nhất.

Ðối với nhiều người, quán sự tức giận là điểm bắt đầu tốt vì nó dễ nhận ra và tan biến mau hơn các loại cảm xúc khác. Khi bạn bắt đầu quán sự tức giận của mình, bạn sẽ khám phá một điều lý thú. Bạn sẽ thấy rằng ngay khi bạn vừa biết mình đang tức giận thì cơn giận tự nó tan biến đi. Ðiểm quan trọng là bạn phải nhìn nó với tâm bình thản, không có 'thích' hay 'không thích'. Khi bạn càng có khả năng nhìn cơn tức giận của mình mà không phê phán thì nó càng dễ tan biến hơn.

Có thể là lúc ban đầu bạn chỉ ghi nhận được cơn tức giận khi nó gần chấm dứt. Ðiều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là bạn quyết tâm chú ý vào sự tức giận của mình. Dần dần sự quán tâm sẽ trở nên tự nhiên hơn. Không bao lâu, bạn sẽ thấy rằng, đột nhiên giữa một cơn giận dữ, cơn giận của bạn bỗng nhiên biến đi mà không báo trước. Bạn sẽ thấy mình tỉnh giác và không bị cơn giận cột trói nữa.

A: Ðiều nầy thực sự có thể xảy ra hay sao?

Dĩ nhiên. Bạn thấy, khi bạn cố gắng quay sự chú ý vào bên trong là bạn đã thay đổi tâm trạng của mình. Trước kia, bạn chỉ nhìn ra bên ngoài. Bây giờ bạn tự đổi mới và nhìn vào bên trong, một phần thời gian trong ngày. Sự quán tâm nầy có thể trở thành một thói quen, một trạng thái mà tâm bạn luôn luôn tự động chú ý tới chính nó. Lúc ban đầu, có thể là không thường xuyên, nhưng bạn đừng chán nản. Trải qua thời gian, bạn sẽ ngạc nhiên thấy là mình ý thức về cơn nóng giận sớm hơn trước nhiều.

Khi nhận thức nầy trở nên mạnh mẽ hơn, nó sẽ lan qua lãnh vực của những cảm xúc khác. Có thể là bạn thấy mình đang ngắm nhìn sự ham muốn của mình. Trong sự ngắm nhìn nầy, sự ham muốn sẽ tan đi và bạn chỉ còn lại sự nhận thức. Hay bạn có thể quán sự buồn phiền, nó nổi lên và tan đi chậm hơn các loại cảm xúc khác. Khó quán nhất là sự trầm cảm (depression). Nhưng bạn vẫn có thể quán nó với sự tỉnh giác mạnh hơn.

Khi bạn tiến bộ dần, bạn sẽ thấy nhận thức của mình ngày càng nhạy bén. Ðồng thời, các cơn tức giận ngắn bớt và ít xảy ra hơn. Khi cường độ của các cơn giận giảm dần, bạn sẽ thấy là mình ít khi phải vật lộn với cảm xúc của mình hơn. Cuối cùng, bạn ngạc nhiên nhận ra là trước đây bạn chưa bao giờ có thể làm bạn với cảm xúc của mình một cách dễ dàng như vậy.

R: Bà muốn nói gì đây? Tôi không thể tưởng tượng nỗi là tôi có thể cảm thấy dễ chịu với cơn giận dữ của mình.

Bởi vì bạn không còn vật lộn với cảm xúc, bạn có thể tập nhìn chúng mà không phê phán, bám níu hay vất bỏ. Chúng không còn đe dọa bạn nữa. Bạn học tập cách nhìn cảm xúc của mình một cách tự nhiên, như là một chứng nhân. Ngay cả khi bạn đối diện với xung đột và lòng tràn đầy cảm xúc, bạn vẫn có thể bình thản nhìn chúng. Khi tâm bạn trở nên vững vàng hơn, bạn có thể đối phó với xung đột mà không mất quân bình cảm xúc.

D: Nếu sự tỉnh giác của tôi càng trở nên nhạy bén hơn, tâm tôi có thể nhận biết được cơn giận ngay khi nó vừa nổi lên hay không?

Chắc chắn như vậy. Bạn thấy, khi sự tỉnh giác của bạn trở nên mạnh và cảnh-giác hơn, tâm của bạn sẽ nhận biết hoạt động của chính nó nhiều hơn. Khi sự tỉnh giác được trọn vẹn và sinh động, bạn sẽ nhận biết được cơn giận ngay khi nó vừa nổi lên, và ngay khi bạn vừa nhận diện được nó thì nó bắt đầu tan biến.

D: Tôi đã thử quán cơn nóng giận của mình và thấy nó giảm bớt trong giây lát, nhưng sau đó nó trở lại và trở lại nữa. Tại sao thế?

Trong giai đoạn ban đầu, khi sự tỉnh giác còn yếu và chưa trọn vẹn, cơn giận có thể tạm biến trong giây lát khi bạn nhìn nó. Nhưng rồi, tâm bạn trở lại với thói quen nóng giận như cũ. Bởi vì nề nếp cũ còn mạnh và bạn chưa làm chủ được nghệ thuật sống tỉnh giác. Bạn có thói quen trí-thức-hóa nguyên nhân của cơn giận - ai lầm lỗi đây, tại sao xung đột leo thang, và vv...Thực ra, đây chính là tâm của bạn đang trở về với lối mòn phản ứng cũ.

Chính bạn lập lại chu trình tạo ra cơn giận, suy nghĩ về cơn giận, và phản ứng theo nó. Ở đây bạn có một chu trình 'nóng giận - trí thức hóa - phản ứng' rất tai hại.

Khi ta học cách chú ý đến cơn giận bằng tâm im lặng là nhằm phá hủy chu trình nóng giận và trí thức hoá nóng giận.

Chỉ có giải pháp hợp lý là thôi trí thức hóa sự xung đột, và chỉ im lặng nhìn tâm mình trong lúc lộn xộn đó.

R: Bà muốn nói là tôi phải dừng sự suy nghĩ trong tình thế đó và không làm gì khác hơn là quán tâm?

Thật đúng như vậy.

SD: Giả sử như tôi thấy khó lòng chú tâm trên sự nóng giận. Tôi phải làm sao đây?

Nếu như thế, bạn nên tập trung trên những cảm xúc nhẹ hơn như là ghét bỏ và ưa thích. Chuyện sẽ xảy ra giống như trước. Ngay khi bạn nhận biết sự ghét bỏ, bạn thấy cường độ của nó giảm đi; và khi sự tỉnh giác của bạn đủ mạnh, sự ghét bỏ hay ưa thích sẽ tan mất. Dần dần khi bạn tiến bộ hơn và tăng cường sự tỉnh giác của mình, bạn sẽ thấy mình có khả năng đương đầu với những loại cảm xúc mạnh hơn như là giận dữ, khao khát và ham muốn.

SD: Còn việc giải quyết vấn đề thì sao? Làm sao tôi có thể giải quyết được những tình huống phức tạp trong đó sự nóng giận và phê phán ảnh hưởng đến sự tỉnh giác của tôi?

Trong những tình huống phức tạp cũng vậy. Chúng ta cần hiểu rất rõ một điểm: phải tỉnh giác và đừng phê phán. Sự tỉnh giác chính nó sẽ tập cho chúng ta có được một tâm trí đơn giản và trong sạch, không có phê phán và phân biệt. Giữ tỉnh giác là một hành động siêu thoát - siêu thoát giận dữ, siêu thoát phê phán. Do đó nếu bạn làm chủ được nghệ thuật tỉnh giác, bạn sẽ không còn phản ứng với giận dữ hay phê phán, bởi vì sự chú ý chính nó là một hành động siêu thoát.

M: Còn đối với những người khác thì sao? Làm sao tôi phản ứng đối với những người khác? Tôi vẫn phải phản ứng để ra khỏi một tình thế xung đột.

Ðó chính là điểm then chốt. Thường thì bạn chỉ phản ứng thay vì hành động. Bạn phản ứng theo đường lối đã điều-kiện-hóa của tâm bạn. Muốn dừng phản ứng, phải phá vỡ sự điều kiện hóa đó.

Hãy dừng lý luận. Hãy dừng sự suy nghĩ và tập cho tâm kinh nghiệm về chính nó bằng cách tự nhìn nó.

Khi tâm bạn không còn lặn hụp trong suy tưởng, nó nhìn thấy tình huống đúng như thực tế. Ðiều nầy là tối cần. Sự nhìn thấy, sự nhận biết là toàn bộ.

Bạn phải bắt đầu với chính mình. Hãy quyết chí quán tâm, và rồi nhìn tiến trình của nó. Mặc dầu bạn bắt đầu với chính mình, sự tự nhìn của bạn trong thực tế bao gồm toàn bộ tình huống. Bạn không còn nhìn mình trong cô lập nữa, mà sẽ nhìn mình trong toàn bộ nội dung của tình huống.

Rồi sẽ không còn ngoại giới hay nội tâm nữa. Bạn là một phần của toàn bộ. 'Bạn' bây giờ không còn quan trọng như 'bạn' lúc trước nữa.

Trước kia bạn nhìn tình huống và sự quan trọng của bản thân, bạn thấy cần phải bảo vệ lai lịch của mình và kiểm soát tình huống. Bây giờ, khi không còn ranh giới giữa bạn và người khác nữa, bạn và người khác quan trọng như nhau - thì bạn mới có thể thấy được rất rõ ràng toàn bộ tình huống, vấn đề nằm ở đâu, và thay vì phản ứng bạn chỉ hành động thôi.

D: Xin cho chúng tôi một thí dụ trong đời sống thường ngày.

Ở đây có bạn nào muốn cho một thí dụ không?

P: Giả sử như đứa con nhỏ của tôi đang khóc vì tôi không cho nó vật nó muốn. Nếu tôi dừng lại để nhìn, tôi thấy sự bực dọc của mình. Tôi còn có thể nổi giận vì không thể nói lý lẽ với đứa nhỏ. Ngay lúc tôi nhìn thấy sự nóng giận, nó tan đi - và thay vì đáp ứng với con tôi bằng sự giận dữ, tôi có thể thông cảm nhưng cương quyết đối với nó. Thật là lạ, bởi vì đột nhiên tôi biết cách đối phó với vấn đề. Tôi không can dự vào sự nóng nảy của nó, hay của chính tôi. Hình như đứa nhỏ cảm nhận được điều nầy và nó cũng trở nên bình tĩnh hơn.

Phải, thật đúng như vậy. Ngay khi bạn nhìn thấy sự nóng giận, bạn siêu thoát cảm xúc bực tức của mình. Bạn không bị giao động. Bạn không còn tạo ra xung đột, và bởi vì bạn bình tĩnh hơn nên tự nhiên đứa nhỏ đáp ứng.

Thường khi, hành động trong tỉnh giác của bạn rất trọn vẹn đến nỗi sự xung đột sẽ không tiếp diễn; bạn không tạo ra lý do để tiếp tục cuộc xung đột. Hành động trọn vẹn, vô vi nầy trong Phật giáo gọi là Chánh Nghiệp, hay là Samma Kammanta trong tiếng Pàli. Hành động đúng đắn nầy là cái mà tôi gọi là thiền định trong hành động. Nếu hành động được như thế là bạn đã sống đúng với Bát Thánh Ðạo.

Buông Xả và Nhặt Lên

J: Tại sao 'buông xả' là hết sức quan trọng trong Phật giáo?

T: Từ ngữ 'buông xả' đã trở thành câu thiệu trong các nhóm học Phật. Thật đúng, 'buông xả' là tối cần để đi tới đắc ngộ và tự do nội tâm, nhưng bạn cần hiểu phải làm sao để buông xả.

J: Chúng ta phải buông xả những gì đây?

Hãy buông xả sự bám níu của bạn. Hãy buông xả động lực ham muốn đằng sau bất cứ chuyện gì bạn đang làm. Có thể đó là sự ao ước được thành công, được hoàn thiện, được điều khiển người khác hay được vinh danh. Bạn làm gì, điều đó không quan trọng, mà quan trọng là sự ham muốn đằng sau hành động đó. Rất dễ lầm lẫn sự ham muốn với hành động.

Buông xả ở đây là buông xả sự bám níu vào tham dục, chớ không phải buông xả hành động.

Chúng ta đã nói nhiều về 'dừng lại và nhìn vào cảm xúc' của mình. Bạn hãy thử dừng lại để nhìn vào hành động của mình, xem bạn có thể nhận diện được sự ham muốn đang thúc đẩy nó hay không. Khi bạn thấy được sự ham muốn, bạn cũng thấy được sự bám níu vào ham muốn đó. Và khi bạn nhận ra sự bám níu, bạn thấy nó tan biến đi và bạn tức thời buông xả.

R: Nhưng trong đời sống có nhiều thứ mà tôi không muốn dứt bỏ hay buông xả.

Dĩ nhiên là vậy. Nhưng không phải chúng ta buông xả là để buông xả mà thôi. Có câu chuyện ngụ ngôn về một thiền sinh đến tham vấn vị thiền sư. Thiền sinh hỏi: 'Bây giờ trong tâm con không còn gì cả, con phải làm gì nữa?'. 'Hãy nhặt nó lên', vị thiền sư đáp. Ðây là một thí dụ rất hay về sự phủ định đi với chánh kiến, nó đối nghịch với sự hư vô hóa hoàn toàn.

Nếu chúng ta bị cột trói bởi khái niệm 'buông xả' thì chúng ta đâu có tự do. Khi không có tự do thì Tuệ giác - Panna - không hiện đến. Nhưng nếu chúng ta thật sự thấy rõ sự bám níu vào ham muốn, và buông xả nó đi - thì hành động nầy là thanh tịnh, không có căng thẳng hay bực dọc kèm theo. Khi hành động được thanh tịnh và giản dị, chúng ta có thể hoàn tất được nhiều chuyện hơn và ít bị căng thẳng hơn. Tới điểm nầy, bạn đang 'nhặt lên' cũng như bạn đang 'buông xả'.

D: Tại sao 'buông xả' khó quá vậy? Tôi có thể quán những cảm xúc như nóng giận và thù hận, nhưng thật là khó thấy được sự ham muốn và bám níu.

Ðó là bởi vì sự ham muốn và bám níu đi trước sự nóng giận và thù hận. Trong những cơn xúc động - bởi vì tâm hành của chúng ta biến đổi quá nhanh - chúng ta chỉ nhận diện được những cảm xúc thô kệch như nóng giận và thù hận. Sự ham muốn và bám níu thì tế nhị hơn nhiều, nên cần có định lực mạnh hơn mới có thể nhận ra chúng được.

Bạn đã được điều kiện hóa từ lúc tấm bé để có thể liên hệ mọi việc với bản thân bạn. Khi bạn vừa biết nhận ra người khác và sự vật, thì người ta dạy bạn cách liên hệ những thứ đó với cái 'tôi' và 'của tôi' - mẹ tôi, cha tôi, đồ chơi của tôi, vv...Khi lớn lên thì bạn được dạy cách liên hệ những ý tưởng và khái niệm với bản thân bạn. Bạn phải học điều nầy để có thể hoạt động hữu hiệu trong xã hội.

Nhưng đồng thời, tiến trình nầy từ từ và trong vô thức tạo nên một khái niệm về cái tôi, và bạn bồi đắp cái ngã của mình. Sự tăng cường bản ngã nầy được thang giá trị của xã hội khuyến khích. Bạn học cách phấn đấu, thành tựu, gom chứa tri kiến, tài sản và quyền thế. Nói cách khác, bạn được huấn luyện để chiếm hữu và bám giữ.

Ðến khi khôn lớn thì cái khái niệm về bản ngã của bạn đã trở nên 'hiện thực' đến nỗi thật là khó phân biệt được đâu là ảo tưởng và đâu là thực tế. Thật là khó nhận ra cái 'tôi' và 'của tôi' chỉ là tạm bợ, tương đối và luôn thay đổi. Những gì liên hệ với cái 'tôi' và 'của tôi' cũng thế. Bởi vì không hiểu được cái 'tôi' và 'của tôi' chỉ là tạm bợ, bạn tranh đấu để giữ cho chúng tồn tại mãi, bạn bám níu vào chúng. Sự ham muốn 'giữ cho mọi sự vật còn mãi' làm cho việc tu tập 'buông xả' thật là khó khăn.

M: Tôi thấy khó chấp nhận quan điểm của Phật giáo về cái ngã chỉ là ảo tưởng.

Bạn đã quá quen thuộc lề lối làm việc với cái 'tôi' và 'của tôi', quá quen thuộc với ý tưởng cái 'tôi' là hiện thực, nên tự nhiên là rất khó hiểu được đường lối suy tưởng của Phật giáo. Cái 'tôi' và 'của tôi', bởi vì chỉ là ảo tưởng, chỉ có thể tồn tại qua sự bám níu vào ảo tưởng về sự hình thành của chúng. Chúng bám níu vào đủ thứ ý niệm sở hữu trong tâm - dầu đó là quyền thế, tài sản, địa vị hay bất cứ gì - những thứ nầy chính chúng cũng là sản phẩm khái niệm của tâm thức và không có chút thực chất nào cả. Nói vắn tắt, chúng cũng là ảo tưởng.

R: Nếu cái 'tôi' chỉ là ảo tưởng và không phải hiện thực, làm sao 'tôi' có thể hủy bỏ cái 'tôi' được?

Làm sao bạn có thể hủy bỏ được một cái không bao giờ có thật?

R: Tôi cảm thấy rằng nếu tôi buông xả cái 'tôi' và 'của tôi' thì tôi mất hết lai lịch. Làm sao tôi có thể hiện hữu nếu tôi buông xả tất cả? Tôi sẽ trở thành lạnh lùng và vô cảm chăng? Nghe thật đáng sợ, giống như là sống trong khoảng trống không.

Bạn nên hiểu cái bạn mất đi chỉ là một ảo tưởng. Nó không bao giờ có thật. Bạn trút bỏ trong tâm cái ảo tưởng về bản ngã. Chỉ buông xả cái ảo tưởng thôi.

Thực ra, bạn không mất mát gì cả. Bạn chỉ bỏ đi một bức màn che tưởng tượng ở trước mắt bạn. Trong tiến trình nầy, bạn có được Trí tuệ, hay Panna. Từ trí tuệ nầy sẽ phát xuất bốn vô lượng tâm là Từ Bi Hỉ Xả. Bốn đức tánh nầy biểu hiện thành sự quan tâm, lòng nhân ái và sự nhạy cảm đối với người khác. Khi có trí tuệ thì bạn có thể trọn vẹn kinh nghiệm được sự đẹp đẽ và ấm áp trong sự quan hệ giữa người với người.

Ðó là lý do tại sao buông xả không phải là mất đi cái bản ngã tưởng tượng của bạn. Thực ra là bạn khám phá được một kho tàng vĩ đại.

Tâm Bình An

Nếu bạn chỉ dừng sự suy nghĩ trong phút chốc và ngồi lại để hồi quang phản chiếu trên tâm mình, bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng bạn đang được bình an. Dù bạn đồng ý với tôi điểm nầy, bạn vẫn có thể biện minh rằng sự bình an nầy chỉ là tạm thời. Cứ cho là như vậy đi. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào tâm trạng an tĩnh nầy, dù nó có tạm bợ hay không, bởi vì nó đã đến với chúng ta mà chúng ta không cần cố gắng chút nào để được an tâm.

Bạn đã sanh ra với bản chất bình an nầy của tâm thức; bằng không thì bạn chẳng được như thế nầy, phải không? Bạn không cần chạy quanh quẩn học thiền để đạt được sự bình an nầy, cũng không cần học hỏi nơi ai hay ở quyển sách nào để làm cho sự bình an nầy có thể có mặt bên trong bạn. Nói cách khác, cái 'tôi' của bạn không có liên hệ gì với nó. Bình an là bản chất tự nhiên của tâm thức trong mỗi người chúng ta. Bình an đã có mặt ở đó kể từ ngày chúng ta sanh ra và nó sẽ tiếp tục ở đó cho tới ngày chúng ta chết đi. Ðó là món quà vĩ đại cho chúng ta; như vậy tại sao chúng ta lại nghĩ rằng mình không được bình an trong tâm?

Chúng ta kinh nghiệm sự bình an cũng giống như khi chúng ta nhìn vào bàn tay mình. Thường thì chúng ta chỉ thấy mấy ngón tay chớ không thấy khoảng trống giữa các ngón. Cũng tương tợ như vậy, khi nhìn vào tâm mình chúng ta chỉ nhận biết các tâm trạng hoạt động, như là các tư tưởng và một-ngàn-lẻ-một cảm xúc đi chung với chúng. Nhưng chúng ta có khuynh hướng bỏ quên các khoảng thời gian bình an ở giữa các tư tưởng và cảm xúc đó. Nếu con người phải khổ sở hay buồn bực từng phút một trong suốt 24 giờ mỗi ngày, thì cái gì sẽ xảy tới cho chúng ta? Tôi đoán là chúng ta tất cả sẽ phải vào nhà thương điên!

Thế thì tại sao chúng ta nghĩ rằng mình không bao giờ được bình an trong tâm?

Ðó là bởi vì chúng ta không bao giờ tự cho phép mình được bình an. Chúng ta quá say mê đấu đá với chính mình và cảm xúc của mình đến nỗi sự đấu tranh nầy trở thành bản chất thứ hai của chúng ta. Thế rồi chúng ta lại than phiền rằng tâm mình không được bình an!

Tại sao chúng ta không gạt qua một bên tất cả những ý tưởng phức tạp nầy trong phút chốc để có thể ngắm nhìn bản chất bình an nầy của chúng ta - bởi vì chúng ta rất may mắn có sẳn nó - thay vì lăng xăng đi tìm nó ở nơi nào khác? Làm sao chúng ta có thể tìm được nó ở chỗ nào khác trong khi nó đang ở ngay bên trong chúng ta? Ðó có lẽ là lý do tại sao chúng ta thường tìm mãi mà không gặp.

Chúng ta không cần làm gì cả để có được tâm bình an nầy, phải không? Tâm thức của chúng ta tự nó là bình an.

Nhưng chúng ta đã làm điều gì đó cho bản tâm khiến cho chúng ta phải nóng giận hay buồn phiền.

Bạn hãy tưởng tượng mình đang thưởng thức một giây phút yên tịnh. Ðột nhiên có cái gì phá rối sự yên tịnh của bạn. Bạn tức thời trở nên bực tức vì sự quấy rối đó. Tại sao thế? Bởi vì bạn ghét sự gián đoạn. Tâm bạn hoạt động, nó ghét. Nó dựng lên tư tưởng ghét, theo sau là sự bực tức và một chuỗi dài các phản ứng khác.

Tư tưởng diễn ra cực nhanh, cho nên bạn không nhận ra giây phút mà tâm bạn dựng lên tư tưởng ghét. Thường thì chúng ta cho tình huống bên ngoài là nguyên nhân gây ra sự bực tức của chúng ta. Nhưng ngay cả trong những kinh nghiệm khổ đau và dai dẳng nhất của đời sống, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những giây phút mà chúng ta lơ đãng đối với hoàn cảnh đau khổ và tâm chúng ta tương đối thoát khỏi tình trạng cảm xúc đau khổ đó. Nhưng khi chúng ta để tâm trở lại biến cố thì những cảm xúc khó chịu đó lại nổi lên ngay. Khi những cảm xúc nầy biến mất, cái gì xảy ra cho chúng? Chúng ta thường mặc nhiên chấp nhận là chúng nó tan biến hay đi ra ngoài tâm. Nhưng nếu chúng phát xuất từ trong tâm thì chúng cũng phải chấm dứt bên trong tâm. Nếu chúng phát xuất từ một tâm trạng bình an thì chúng cũng phải chấm dứt trong tâm trạng bình an đó. Ðiều nầy chỉ là hợp lý.

Chúng ta hãy ngắm nhìn tâm trạng bình an nầy. Chúng ta nhận diện nó trước khi các cảm xúc nổi lên và sau lúc chúng biến mất. Còn khoảng thời gian giữa thì sao?

Phải chăng là sự bình an đã bị hủy diệt trong khi chúng ta nóng giận hay buồn phiền? Chúng ta thường có thói quen nghĩ là sự việc nầy hay biến cố kia đã hủy diệt sự an tâm của chúng ta, đến nỗi chúng ta đi đến giả định là sự an tâm là một tình trạng khả tạo và có thể đạt được hay hủy diệt đi theo ý muốn.

Thật ra không phải vậy. Hoà bình và an tịnh là một phần trong cấu trúc của tâm thức. Nếu chúng bị hủy diệt khi cảm xúc nổi lên thì có thể tâm thức chúng ta cũng bị hủy diệt theo. Bình an là bản chất bẩm sinh và tự nhiên của tâm thức chúng ta, và nó không bao giờ có thể bị hủy diệt.

Bình an ở với chúng ta từng giây phút của đời sống, nhưng chúng ta không nhận ra nó. Ðó là bởi vì chúng ta ngu dốt về bình an - tâm chúng ta lúc nào cũng bận bịu vì ngoại cảnh cùng với những tư tưởng lăng xăng và cảm xúc để nhận biết về ngoại cảnh đó. Chúng ta mất liên lạc với nội tâm của chúng ta, với những gì tốt đẹp nhất. Chúng ta lăng xăng đi tìm giải pháp ở bên ngoài trong khi bình an lúc nào cũng ở trong đó, im lặng chờ đợi chúng ta trở về với nó.

Tâm Bất An

Nếu chúng ta đồng ý là tâm có bản chất bình an bẩm sinh, bạn thử nghĩ xem cái gì đã gây bất an cho chúng ta? Xét trên quan điểm tâm bình an thì tư tưởng tự nó không tốt cũng không xấu. Chỉ khi nào khái niệm về 'tôi' và 'của tôi' nổi lên thì tâm thức mới bị lôi kéo vào xung đột. Thích và không thích mau lẹ đi theo những khái niệm chấp ngã đó. Ðây là khởi đầu của phiền toái.

Một tư tưởng tự nó không có vấn đề. Giả sử như bạn làm mất xâu chìa khóa. Nó xảy ra. Vấn đề bắt đầu khi bạn bắt đầu phê phán sự kiện bạn làm mất xâu chìa khóa. 'Tôi không thích bị mất chìa khóa. Tôi thích hơn rất nhiều nếu tôi có chìa khóa và có thể tiếp tục công việc bận rộn'. Bạn còn có thể tiếp tục suy nghĩ: 'Tại sao tôi lại vô ý quá như thế? Chắc là tại tụi nhỏ quá ồn náo' Rồi bạn đưa tư tưởng ra thành lời nói: 'Coi tụi con làm mẹ điên đầu...Mẹ quá bận bịu đến nỗi bỏ quên đâu mất xâu chìa khóa rồi'. Bạn lại có thể đưa tư tưởng và cảm xúc thành hành động bằng cách đổ xô đi tìm xâu chìa khóa.

Tất cả những sự phiền hà nầy nổi lên từ phản ứng của bạn đối với xâu chìa khóa bỏ quên đâu đó. Chúng ta hãy quay lại điểm khởi đầu của sự bực bội. Khi bạn có tư tưởng 'Tôi mất xâu chìa khóa', bạn đã không thể buông xả tư tưởng đó. Thay vào đó, bạn tức khắc nhảy vào 'thích' hay 'không thích'. Cảm xúc, xung đột và bực dọc đều phát xuất từ nhị nguyên 'thích' và 'không thích' nầy. Bạn đã tự để cho mình bị cuốn trôi đi bởi những phê phán, cảm xúc và bực bội.

Nhưng chúng ta hãy ngắm nhìn những tư tưởng trong giây lát. Chúng nó nổi lên rồi tự chúng rơi rụng. Ðó là, trừ phi chúng ta bám níu vào chúng. Nếu chúng ta để cho tư tưởng tiếp tục đi hết đời sống bình thường của chúng, chúng tự nhiên rơi rụng. Tư tưởng của chúng ta cũng phải chịu qui luật phổ quát về Vô thường (Anicca).

Những bạn chưa quen thuộc với Phật giáo cũng biết qui luật biến đổi nầy. Bạn chấp nhận nó trong nhiều khía cạnh của đời sống. Nhưng các bạn có thể áp dụng nó vào lãnh vực quan trọng nhất - tâm bạn - hay không? Bạn có thể ngắm nhìn tư tưởng và cảm xúc khi chúng vừa nổi lên trong tâm hay không? Bạn có thể để cho chúng tự nhiên tan biến đi, mà không dính níu vào chúng hay không? Hay là bạn say mê để cho cái 'tôi' bám níu vào tư tưởng hay cảm xúc của mình?

Bản chất của tư tưởng là tạm bợ, trừ khi cái 'tôi' can thiệp và không cho chúng ra đi. Bằng cách bám níu vào tư tưởng và cảm xúc, cái 'tôi' tiếp tục kéo dài quá trình cảm xúc. Chính là cái 'tôi' cố bám níu vào tư tưởng và cảm xúc và để cho chúng gây bất an.

Tâm bình an không có liên hệ gì đến cái 'tôi'. Nó không phải là bình an 'của tôi'. Khi nào bạn còn nghĩ là bạn sở hữu bình an, khi nào bạn còn nghĩ 'Tôi thích sự bình an của tôi' thì bạn chưa thực sự kinh nghiệm được tâm bình an.

Bạn của tôi, một nhà giáo dục tâm linh, nghĩ ra câu ngụ ngôn có thể giải thích được tiến trình nầy. Hãy lấy câu nói 'I like peace' (Tôi thích bình an). Nếu bạn bỏ chữ 'I' thì còn lại 'like peace' (tương tợ như bình an thôi). Nhưng nếu bạn tiếp tục bỏ luôn chữ 'like' (thích) thì tất cả chỉ còn lại 'peace' (đây là bình an thật sự). Bình an là điều có thể cảm thấy được chớ không thể sở hữu. Chúng ta chỉ có thể kinh nghiệm được bình an khi loại trừ được ý tưởng 'thích' hay 'không thích' về bình an.

P: Tôi nghe như là mình có thể làm cái gì để thực hiện được tâm trạng bình an nầy...chẳng hạn như chúng ta cố ý loại bỏ khái niệm về 'tôi', 'thích' và 'không thích'.

Không phải đâu, đây chỉ là một câu ngụ ngôn. Tâm bình an được thực hiện không phải bằng cách 'làm' điều gì, mà cũng không phải là 'không làm'. 'Làm' hay 'không làm' cũng chỉ là những ý niệm để bám níu, đúng không? Khi bạn buông xả được những ý tưởng về 'làm cách nào' để được tâm bình an, mình nên làm gì hay không nên làm gì - thì tâm bạn được im lặng và bạn có thể thực sự kinh nghiệm được tâm bình an. Khi nào tâm bạn còn nhảy chuyền giữa 'thích' và 'không thích' thì nó quá bận bịu nên không thể kinh nghiệm được bình an. Khi tâm được yên lặng thì bạn sẽ thực hiện được bình an trong bản chất bẩm sinh của nó.

Quán Chiếu Về Tâm Bình An

Nhiều người hỏi tôi làm thế nào để tìm được bình an trong tâm. Khi bạn đã nhìn nhận rằng

- Tâm bình an không phải là một tâm trạng có thể tạo ra được, nhưng là bản chất bẩm sinh của tâm.

thì bạn có thể bắt đầu ngay từ đó. Tuyệt đối không cần làm điều gì cả trừ việc quay tâm vào trong và nhận ra bình an ngay giây phút nầy. Khi bạn nhận ra bình an trong tâm là bạn đã có thể kinh nghiệm bình an rồi.

Nếu thỉnh thoảng bạn nhận thấy có những giây phút bình an, thì bạn đã bắt đầu rồi đó. Bạn đừng bận tâm nếu những giây phút nầy rất ngắn ngủi. Bạn có thể dùng những phút bình an nầy làm căn cứ để thăm dò tâm mình. Ðây có thể tiêu điểm từ đó bạn có thể khám phá tâm. Và đáng ngạc nhiên thay, bạn sẽ thấy đây cũng chính là ngôi nhà mà bạn tìm về.

Có thể bạn thấy rằng không dễ gì trở lại với giây phút bình an. Ðiều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là bạn cần quyết chí chú ý đến tâm mình từ nay. Chúng ta bị xã hội nhồi nắn đến nỗi tâm chúng ta như bị rơi vào một thung lũng. Thật là khó trèo lên và rời khỏi thung lũng tâm, bởi vì ở đó bạn thấy dễ chịu và thoải mái. Quay sự chú ý ngoại cảnh vào bên trong thật là khó trừ khi chúng ta có quyết tâm.

Trong những lần đầu tiên tìm giây phút bình an, chúng có thể hiếm hoi và ngắn ngủi, nhưng điều nầy không hại gì. Có khi bạn còn có thể cảm thấy rằng mình càng cố gắng bao nhiêu, thì càng khó thấy được bình an hay giây phút bình an bấy nhiêu. Nếu thế, bạn chỉ cần buông xả tất cả. Rất thường khi, nhận thức về giây phút bình an không thể đoán trước được, nó đến với bạn vào lúc bất ngờ nhất.

Bạn có thể hỏi tôi là có phương pháp đặc biệt nào để thấy được những giây phút bình an hay không? Tôi phải trả lời là không có - ngoại trừ ý chí muốn quán tâm. Việc quán tâm không cần thời giờ hay nơi chốn đặc biệt nào cả. Bạn có thể quán tâm trong đời sống thường ngày khi bạn làm việc, vui chơi, hay làm một-ngàn-lẽ-một chuyện khác của đời sống. Không có chuyện gì khác cần làm, ngoài quán tâm. Chỉ có một điều đặc biệt bạn không nên làm là để cho ý kiến, phê phán và phân biệt chất chứa chật nghẹt trong tâm. Tâm tự quán cần phải tròn đủ thì mới có thể chú ý hoàn toàn được.

Khi bạn bắt đầu phân biệt, thì tâm bạn trở nên bận bịu vì nó phê phán. Tâm bạn không còn tự do nữa. Do đó bạn không thể thấy hay kinh nghiệm được bình an trong tâm.

Giả sử như muốn thấy vật thể di động trong không gian như thế nào, bạn phải có thể thấy được trọn khoảng không gian và các vật thể trong đó. Không có không gian thì vật thể không di động được. Vật thể có thể bị tạo tác, nhưng không gian thì không thể bị tạo tác được. Vật thể có thể biến mất trong không gian, nhưng không gian vẫn còn đó.

Căn cứ địa của bạn - tức là bản chất bình an của tâm - có thể ví như một khoảng không gian bên trong bạn. Tư tưởng và tình cảm thì cũng như những vật thể di động trong khoảng không gian ý thức nầy. Nhờ 'khoảng không gian' nầy mà tư tưởng và cảm xúc có thể tự do nổi lên hay rơi rụng. Nếu nó đã chật cứng thì đâu còn chỗ cho cái gì khác, như trí tuệ và từ bi, nổi lên được.

Nếu bạn có thể thấy rõ được khoảng không gian nầy, bạn cũng sẽ thấy rõ hơn cái gì nổi lên và rơi rụng trong đó. Lúc đầu, có thể là bạn chỉ thấy cái gì rơi rụng bởi vì nó hiển nhiên hơn. Nhưng rồi bạn sẽ thấy mình ít dính dáng với cảm xúc và gần với căn cứ địa của mình hơn. Và khi càng ở gần căn cứ địa thì bạn càng cảm thấy mình càng được bình an với bản thân và với thế giới.

Có thể là bạn chưa được bình an trọn vẹn, nhưng ít ra bạn đã có được một khoảng trống để thở, và nghỉ ngơi. Ðây là lúc bạn học cách làm bạn với bản tâm và cảm xúc của mình. Bạn sẽ thấy mình không còn vật lộn với chúng như trước. Ðiều tốt đẹp là bạn cảm thấy bên trong tâm rất thư thả. Sự thư thả nầy có thể bạn cho là không quan trọng, nhưng thật ra bước đầu tiên lúc nào cũng là quan trọng nhất. Khi bạn không tự trói chặc và làm tâm mình rối như bòng bong, thì bạn có thể tự nhìn mình một cách khách quan hơn.

Ðừng bận tâm nếu bạn chưa thấy được lúc tư tưởng và cảm xúc nổi lên. Việc gì cũng cần có thời gian. Nhưng ngay cả lúc bạn thấy chúng rơi rụng, bạn sẽ để ý có sự thay đổi. Bạn có kinh nghiệm phần nào về bình an. Hãy tiếp tục kinh nghiệm sự bình an nầy như là bạn thưởng thức một tách cà phê hay một ly kem ngon. Sau một thời gian, bạn sẽ thấy mình có thể kinh nghiệm cảm xúc mà không cần dính dáng với chúng. Bởi vì bạn ở gần căn cứ địa hơn, bạn sẽ nhận thấy rằng cảm xúc tự chúng là phù du.

Thí dụ như, bạn có thể ngạc nhiên vì thấy rằng cảm xúc không ở lại lâu nếu bạn không mời gọi hay bám níu chúng. Cảm xúc là một phần của những hiện tượng tự nhiên trong tâm bạn. Trong Phật giáo, mọi hiện tượng đều không bền, không có thật ngã, và là căn bản của đau khổ.

Nếu có nhận thức về cảm xúc như thế thì giống như là bạn tìm được một người bạn mới. Khi bạn nhận ra là những cảm xúc tạm bợ nầy không có lực lượng riêng, chúng không còn đe dọa bạn được nữa. Ðiều nầy làm bạn cảm thấy phấn chấn vì bạn không còn bị cảm xúc chế ngự nữa.

Khi bạn tìm hiểu thêm về chính mình bằng cách nầy, bạn sẽ càng ngày càng thấy rằng mình ở trong căn cứ địa bình an nhiều hơn. Bạn cũng nhận ra là sự bình an xưa nay vẫn có mặt trong tâm. Chỉ vì bạn quá bận bịu tìm cách loại trừ sự bực bội nên bạn không có thì giờ và khả năng để khám phá sự bình an, trong khi nó vẫn muôn thuở có mặt để cho bạn tái khám phá.

Ðạo lý của tâm bình an rất đơn giản. Nhưng bạn làm cho nó phức tạp bằng cách nghĩ rằng phương pháp tìm nó phải là khó khăn. Bạn bị điều kiện hóa để đạt được điều nầy, thành tựu điều kia, vv...Tâm bạn lúc nào cũng động. Dĩ nhiên bạn phải làm ăn, nuôi gia đình, kết bạn, đưa con tới trường, vv...vì đó là đời sống. Nhưng nếu bạn cứ tiếp tục nếp sống vội vã như là cách để tìm bình an, bạn sẽ không tìm được bình an.

Ðiều chúng ta cần quan tâm là nên sống chậm lại...để cho bạn có thể tự hiểu mình và kinh nghiệm được những gì đã có sẳn trong tâm bạn. Khi bạn đã ở tại căn cứ địa bình an rồi, thì bạn có cần làm gì để được ở lại chăng?

Bạn chỉ cần thức tỉnh và nhận ra là lúc nào mình cũng đang ở nhà.

Chúng ta cần ý thức rằng lối thiền định nầy là cách điều nghiên và tìm hiểu chính mình, tỉnh giác về tâm trạng hiện tại của mình và những tâm hành đang nổi lên hay rơi rụng. Ðây là cửa ngõ vào tâm. Chúng ta sẽ khám phá điều xấu cũng như điều tốt, nhưng cuối cùng sự điều nghiên sẽ có kết quả. Bởi vì bây giờ chúng ta tìm được cơ hội để khám phá những chiều sâu huy hoàng của nội tâm và thưởng thức được tinh hoa của những gì đẹp nhất trong đó.

Tâm Im Lặng

J: Tôi vẫn chưa hiểu làm sao có thể làm cho tâm mình im lặng được.

T: Bạn cần nhận ra là mình không thể làm cho tâm im lặng được. Bạn càng cố ý muốn làm cho nó im lặng, bạn càng tự làm cho mình bị rối beng, và bạn càng thúc đẩy nó hoạt động nhiều hơn. Nếu bạn cố chế ngự tâm, hành động nầy chính nó là ồn náo. Bạn thấy, tâm đã không im lặng thì không thể nào đối phó với tâm loạn động được. Cái chu trình tai hại nầy tạo ra một tình trạng rối loạn liên tục.

M: Bà nói tâm im lặng là nghĩa thế nào? Nếu trong tâm không có hoạt động thì phải chăng chúng ta bị tê liệt? Làm sao chúng ta có thể sinh hoạt được?

Tâm im lặng không phải là tâm chết cứng. Tâm bạn bị chết cứng khi nó bị cùn nhụt bởi sự ngu dốt về chính mình. Phật giáo gọi sự ngu dốt nầy là Vô Minh. Sự tự cao, nóng giận, ham muốn và lầm lẫn che mờ bản tâm. Tâm mình có thể rất hoạt động với ham muốn, thù hận và nóng giận - nhưng đối với thế giới và người khác, coi như nó đã chết. Bị che phủ bởi sự lầm lẫn về chính nó, tâm đó không còn nhạy cảm về nhu cầu của người khác. Ðây chính là sự tê liệt của tâm, làm cho nó không thể cởi mở với người khác. Tâm im lặng thật sự thì trái lại rất nhạy cảm với môi trường chung quanh. Bởi vì tâm im lặng thì không có phê phán, bám níu hay vất bỏ. Nó được giải thoát khỏi sự thù ghét, nóng giận, ganh tỵ, lầm lẫn và xung đột.

J: Bà nói nghe tuyệt quá ! Nhưng làm sao chúng ta đạt được tâm im lặng đó?

Tâm được im lặng khi nó siêu thoát được nhị nguyên của 'thích' và 'không thích'. Nói chung, chúng ta nhìn thế giới qua một khung khái niệm dựa trên lối suy nghĩ nhị nguyên. Khi vừa nhận thức một sự vật, chúng ta phê phán nó liền. Thí dụ như chúng ta phê phán là nó tốt. Ngay khi ta vừa phê nó tốt, thì những cái gì trái lại tự nhiên trở thành xấu. Chúng ta chia thế giới khái niệm của chúng ta theo sự phân cực nầy; chúng ta dựng lên thiện và ác, tốt và xấu, đúng và sai, theo tiêu chuẩn riêng của chúng ta.

M: Nhưng chúng ta phải phân biệt thì mới có thể sinh hoạt trong đời sống thường ngày được. Tôi sẽ không ăn một quả táo thối. Nó sẽ làm tôi bị bịnh. Tôi phải phê phán rằng quả táo nầy thối, quả kia thì chín và ăn rất tốt.

Dĩ nhiên là bạn cần phải phê phán để có thể sinh hoạt trong thế giới nầy. Bạn cần phải phân biệt một quả táo ngon lành và một quả táo thối. Ðây là phê phán dựa trên lý luận chớ không phải cảm xúc. Nhưng thường thì chúng ta không dừng lại ở phê phán dựa trên lý luận. Chúng ta tiếp tục áp đặt thêm phê phán cảm xúc về 'thích' hay 'không thích' trên nhận thức về quả táo. Chúng ta không thích quả táo thối, phải không? Do đó, chúng ta bám níu vào sự không thích nó.

Giả sử có người hiến cho bạn một quả táo thối. Bạn sẽ cảm thấy thế nào?

M: Tôi sẽ cảm thấy phiền.

Phải. Và nếu họ cho bạn một quả táo bự trông ngon lành?

M: Tôi sẽ khoái lắm.

Bạn thấy không, cảm xúc bạn nổi lên chung quanh cái 'thích' và 'không thích' đó? Khi bạn nhận ra cái gì hấp dẫn - một ý niệm, một người hay một vật nào đó - thì bạn liền muốn bám vào nó, chiếm hữu nó. Bạn bị kẹt ngay trong nhị nguyên của đẹp và xấu, thiện và ác, và nhiều thứ khác.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại chuyện quả táo. Giả sử có ai giật đi quả táo ngon lành của bạn thì thế nào?

M: Tôi sẽ bực tức.

Bạn thấy đó. Vấn đề là ở đâu?

M: Ồ, bà muốn nói quả táo không phải là vấn đề, mà chính chúng ta ?

Ðúng vậy. Quả táo chỉ là quả táo, tốt hay thối. Bạn có thể lấy nó hay bỏ nó. Bạn có thể có phán đoán luận lý về nó. Nhưng vấn đề là chúng ta lại phán đoán dựa trên cảm xúc. Ðây là điều mà chúng ta cần hiểu rõ.

Khi chúng ta phê phán dựa trên cảm xúc, chúng ta làm cho tâm bị gợn sóng. Những gợn sóng nầy tạo thành sóng lớn hơn và phút chốc bão tố có thể nổi lên, làm cho tâm bị xáo động. Tựu trung là chúng ta mất liên lạc với sự im lặng bên trong, tức tâm bình an. Chỉ khi nào chúng ta trừ được những gợn sóng nầy thì tâm chúng ta mới có thể ở trong trạng thái im lặng, bình thản của chính nó. Và khi tâm có thể nghỉ ngơi trong sự yên tĩnh, nó mới có thể nhìn sự vật đúng như thực tế. Tôi gọi tâm im lặng nầy là 'tâm bình an'.

Nếu chúng ta không để cho tâm được im lặng, chúng ta phê phán với cảm xúc thì chúng ta sẽ gặp rắc rối ngay. Ðây là điểm cuộc chiến bắt đầu, bên trong và bên ngoài chúng ta.

J: Ồ, tôi hiểu rồi. Chúng ta bám níu vào điều gì chúng ta cho là tốt đẹp hay đúng đắn, và vất bỏ cái gì trái lại.

Phải, bạn đã hiểu rồi đó.

J: Nhưng làm sao chúng ta đột phá được nhị nguyên nầy?

Nên nhớ nhị nguyên là sự tạo tác của tâm khái niệm. Chúng ta thích bám níu vào những gì chúng ta đã tạo ra. Nhị nguyên do chúng ta tạo đã trở thành một vật sở hữu. 'Tôi' muốn bám giữ ý tưởng 'của tôi' về cái đúng, cái đẹp, cái tốt lành. Do đó tâm chúng ta bị cứng ngắc, và cuối cùng chúng ta nhìn thế giới qua những khe hở nhỏ hẹp.

J: Làm sao chúng ta có thể tự giải thoát khỏi sự dính cứng nầy?

Bằng cách tỉnh giác. Khi bạn tỉnh giác là bạn đang phê phán ngay lúc đó, sự phê phán sẽ dừng lại. Khi không còn phê phán, thì 'nhìn sự vật đúng như thực tế' sẽ tự nhiên tiếp theo. Cuối cùng bạn sẽ trở nên bình thản hơn, tâm bạn biết dừng lại để nhìn thay vì chạy vòng vòng. Khi tâm bị bận bịu vì phê phán, bám níu hay vất bỏ, nó không còn thì giờ cho chuyện gì khác. Chỉ khi nào bạn thôi phân biệt thì bạn có thể nhìn sự vật đúng như thực tế, không phải đúng như ý bạn muốn. Ðây là cách duy nhất để siêu thoát nhị nguyên của 'thích' và 'không thích'.

Khi chúng ta siêu thoát nhị nguyên, khi chúng ta đột phá được giới hạn của cái khung khái niệm, thế giới như nở rộng hơn. Nó không còn bị giới hạn bởi cái nhìn theo đường hầm của chúng ta nữa. Khi sự trói buộc được cởi bỏ thì những gì trước đây bị gò bó bên trong sẽ có dịp trổi dậy. Tình thương (lòng Từ) - và kèm theo nó là lòng Bi, Hỉ và Xả - sẽ lại đến để đem lại sự cảm thông với người khác.

Trước kia, năng lực chúng ta bị thất thoát vì xung đột, bực tức, nóng giận, chối bỏ, vv...Sư xung đột nầy rất là mệt nhọc. Nay vì xung đột không còn nên chúng ta có thể hướng mình về nếp sống hài hòa và sự quan hệ và đầy ý nghĩa với những người khác. Chỉ khi đó đời mới trở nên đáng sống, bởi vì chúng ta có thể kinh nghiệm trọn vẹn từng giây phút tươi đẹp trôi qua. Chúng ta cũng có thể nhìn sự quan hệ của mình với người khác trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Bây giờ chúng ta đích thực sống hài hoà với người khác.

Tứ Diệu Ðế Trong Ðời Sống Thường Ngày

T: Tứ Diệu Ðế (Bốn Chân Lý Cao Thượng) là cột trụ của Phật giáo. Hiểu chúng sẽ giúp cho đời sống thường ngày của chúng ta được tốt đẹp hơn. Chân lý thứ nhất là Dukka tức Khổ. Chân lý thứ hai là Samudaya tức là Khát Vọng. Chân lý thứ ba là Nirodha tức là Sự Chấm Dứt Ðau Khổ. Chân lý thứ tư là Magga tức Bát Thánh Ðạo, con đường dẫn tới sự chấm dứt đau khổ.

M: Khi tôi nghe Chân Lý Thứ Nhất nói đời là đau khổ, tôi nghĩ Phật giáo là một triết lý bi quan và tiêu cực.

Phải, một số người hiểu lầm như thế. Nhưng là vì họ chưa hiểu giáo lý thấu đáo. Khi Dukkha được dịch là Ðau Khổ, nó được hiểu là đau khổ thể chất có tính thô. Nhưng thực ra, Dukkha có thể được kinh nghiệm ở nhiều mức độ, nghĩa đúng của Dukkha bao gồm toàn bộ kinh nghiệm của con người từ sự bất mãn rất nhỏ nhiệm tới sự đau khổ thô kệch nhất. Dukkha là sự kiện không tránh được của Già, Bịnh và Chết. Nó tách rời khỏi những gì chúng ta thích, và bao gồm những gì chúng ta không thích.

Ở mức độ thâm sâu nhất, Dukkha là không hiểu được tính giả tạm của mọi sự mọi vật. Mọi sự vật đều không có thực chất, không có gì là cụ thể, không có gì có thể nắm bắt được. Sự ngu dốt về điều nầy, hay là sự đi ngược lại với tình trạng tự nhiên của vô thường, chính nó là đau khổ cả.

Phật giáo chỉ có vẻ tiêu cực nếu chúng ta nhìn Chân Lý Thứ Nhất một cách riêng lẻ. Nhưng nếu bạn nhìn toàn bộ bốn chân lý, bạn sẽ thấy là chúng rất tích cực bởi vì ba chân lý kia chỉ rõ con đường thoát khỏi đau khổ.

M: Nhưng làm sao chúng ta có thể áp dụng Tứ Diệu Ðế vào đời sống thường ngày?

Ðiều đó không khó. Ðể bắt đầu, bạn phải nhìn Dukkha trong toàn bộ của nó trước khi có thể thấy được cách giải quyết vấn đề. Bạn không cần phải ngoắc ngoải trong đau khổ thể chất hay tâm thần mới có thể hiểu được Dukka. Nó ở khắp nơi chung quanh bạn. Ngay lúc nầy, bạn cảm thấy thế nào về tiếng đập ầm ĩ ở bên cạnh?

(Nhà bên cạnh đang sửa chữa nên gây tiếng động rất ồn)

M: Tôi cảm thấy bức rức bởi vì tôi muốn có sự yên tịnh để nghe và học những điều bà đang nói. Trong thực tế, tôi đang cố gắng loại trừ tiếng động ra khỏi ý thức tôi, nhưng không thể được.

Bởi vì đó không phải là cách giải quyết vấn đề.

M: Tiếng động làm phiền tôi và tôi muốn chấm dứt nó. Tôi khao khát muốn cho mấy người thợ dừng tay.

Bởi vậy, bạn đã dựng lên một ham muốn là tiếng động phải chấm dứt. Sự ham muốn nầy làm sao nổi lên? Nó nổi lên từ sự bất mãn của bạn với tình thế hiện tại. Nói cách khác, bạn muốn được yên tịnh ngay lúc nầy. Bởi vì không có được, nên bạn bực bội. Trong tâm bạn đã có sự ghét bỏ.

Giả sử như bạn đang phải làm chuyện gì rất quan trọng đối với bạn. Sự ghét bỏ nầy có thể bừng lên thành nổi giận, thù ghét và cả bạo lực nữa. Sự ghét bỏ đã là một tình trạng căng thẳng. Nóng giận, hận thù và bạo lực đem đến thêm căng thẳng và đau khổ cho chính mình và người khác. Ðây là những sự thực mà chúng ta phải đối diện trong từng giây phút của đời sống thường ngày. Nhưng chúng ta không nhận thức được sự ghét bỏ và sự đau khổ nó đem đến. Chúng ta cho Dukkha là do người nào hay việc nào khác gây nên.

Sự thiếu nhận thức nầy gọi là Vô Minh hay Ngu Dốt, ngu dốt về Bốn Sự Thật Cao Thượng. Sự ngu dốt nầy được diễn tả là tình trạng thiếu tỉnh giác. Nếu bạn thức tỉnh về tâm trạng của mình ngay lúc nầy, bạn sẽ thấy điều gì đang xảy ra trong đó.

Ngay lúc nầy, bạn hãy nhìn vào bản tâm để xem cái gì đang xảy ra ?

M: Nhìn cái gì?

Nhìn chuyện gì xảy đến cho sự bực bội của bạn.

M: Khi tôi ý thức về sự bực bội, hình như nó giảm bớt.

Khi bạn ý thức về sự bực bội, sự ghét bỏ tan đi. Nó tan mất vào tâm.

M: Phải, bớt chút ít.

Nó còn đó chăng?

M: Bà muốn nói sự bực bội? Nó vẫn còn đó nhưng bớt đi nhiều (cười lớn). Tôi hiểu rồi. Vấn đề không phải là đem sự bức rức ra khỏi tâm. Vấn đề là chấp nhận sự kiện mình đang bức rức và bực bội.

Bạn nói đúng. Vấn đề không phải là tiếng ồn, mà là phản ứng của bạn với nó. Bạn phải đối phó với mình trước khi đối phó với tiếng ồn. Bây giờ, bạn sẽ làm gì đây?

M: Ðó là câu hỏi kế tiếp của tôi. Chúng ta có một số lựa chọn. Chúng ta có thể rời xa tiếng ồn. Chúng ta có thể yêu cầu mấy người thợ ngưng đóng đinh. Chúng ta có thể ngồi lại đây và cố giữ ý thức của mình về tiếng ồn để giảm bớt sự khó chịu.

Bạn phải rõ ràng. Ðó là ý thức về tiếng ồn hay là ý thức về chính tâm trạng của bạn?

M: Ý thức về tâm trạng của tôi đối với tiếng ồn.

Ðúng vậy. Trong đời sống có nhiều trường hợp mà bạn không thể loại trừ được những yếu tố bên ngoài. Chúng ta không thể loại trừ hay kiểm soát hầu hết ngoại duyên trong đời sống, nhưng chúng ta có thể làm một cái gì cho chính mình. Bạn bắt đầu với chính bạn. Bởi vì bạn được sinh ra với ý chí tự do, nên bạn có thể làm bất cứ điều gì với chính mình.

M: Có phải bà đang nói là bởi vì tôi không thể chấm dứt tiếng ồn, tôi phải lựa chọn chấp nhận nó?

Bạn phải phân biệt giữa chấp nhận một cách mù quáng và chấp nhận một cách thông minh. Chấp nhận chỉ có thể được trọn vẹn nếu bạn không chứa chấp sự phê phán.

Bây giờ hãy trở lại Tứ Diệu Ðế. Sự bất mãn của bạn với tình trạng ồn là chân lý thứ nhất về Khổ - tức Dukkha. Sự ham muốn hay khao khát được yên tịnh là chân lý thứ hai - Samudaya - tức Tập, hay là nguyên nhân của Khổ. Bây giờ khi bạn nhìn vào bản tâm và giải quyết sự bực bội, bạn thoát khỏi chu trình ham muốn- ghét bỏ- ham muốn. Phải không? Bây giờ bạn hãy nhìn vào trong tâm nữa xem.

M: Sự bực bội đã biến mất ! Thật lạ lùng là bà đã phải đem tiếng ồn trở lại trong ý thức của tôi.

Hãy nhìn lại những gì chúng ta mới trải qua. Bạn đã thấy là mình có thể phá vỡ được chu trình đau khổ bằng cách chỉ nhìn vào trong tâm trạng của mình. Ðây thực ra là sự tỉnh giác của tâm, là căn bản của sự tu tập 'thiền quán tâm' (Sati-patthana) trong Phật giáo.

Bây giờ, bạn thấy là tu tập tỉnh giác có thể đưa tới sự chấm dứt đau khổ hay chưa?

M: Thưa chưa đâu. Sự tỉnh giác có liên hệ thế nào với sự chấp nhận tiếng ồn?

Sự chấp nhận tiếng ồn là kết quả của sự tỉnh giác. Sự tỉnh giác là hành động siêu thoát. Nó siêu thoát 'thích' và 'không thích' và làm thanh tịnh nhãn quan của chúng ta. Chúng ta nhìn sự vật 'như chúng là'. Khi chúng ta thấy hay nghe sự vật đúng như thực tế, sự chấp nhận tự nhiên đến.

M: Ta có ý thức về tiếng ồn. Ta loại trừ sự bám níu vào yên tịnh và ta chấp nhận tiếng ồn. Ta chấp nhận tiếng ồn như là một phần của kinh nghiệm.

Cả đến cái 'ta' cũng không có đó. Chỉ là sự chấp nhận thôi.

M: Ồ, tôi hiểu rồi.

Sự chấp nhận đến từ tự do của tâm trong lúc đó. Khi chu trình bị phá vỡ, bạn không còn cảm thấy bực bội nữa. Khi tâm thoát khỏi cảm xúc về tiếng ồn, nó có tình trạng bình thản và chấp nhận.

M: Mình không mong đợi tiếng ồn chấm dứt và cũng không mong đợi nó trở nên ồn hơn.

Ðúng vậy. Bạn thoát khỏi sự khái niệm hóa về tiếng ồn. Bạn đi tới điểm bạn nghe nó như 'nó là như vậy'. Với sự nghe tiếng ồn đúng như thực tế của nó, sự chấp nhận đã là một phần của tình huống. Bạn không thể gượng ép mình chấp nhận nó. Bởi thế tôi phải rất cẩn thận khi dùng từ. Khi bạn nói 'Tôi chấp nhận' thường có nghĩa là...

M: Tôi đang kiểm soát tình hình.

Phải, điều đó đúng và nó không thực sự giải quyết vấn đề. Sự chấp nhận mà chúng ta đang nói đây là sự tự nhiên và tức thời hòa nhập và làm một thể với môi trường.

M: A, tôi hiểu rồi. Không còn có sự ngăn cách giữa tiếng ồn và kinh nghiệm tiếng ồn của tôi. Do đó không có gì để chấp nhận hay bực bội vì nó cả.

Ðúng. Bây giờ chúng ta hãy trở lại kinh nghiệm của bạn ngay giây phút nầy. Bạn còn khó chịu về tiếng ồn hay không?

M: Không còn khó chịu nữa. Tôi hoàn toàn được tự do đối với tiếng ồn. Bà đã nói tỉnh giác là nền tảng của thiền định. Nó hoạt động ra sao?

Phải. Sự tỉnh giác của bản tâm ở từng giây phút là một phần của cách tu tập 'thiền quán tâm' (satipatthana). Trong trường hợp đặc biệt nầy, sự tỉnh giác của chính bạn về sự bực bội là bạn quán chân lý thứ nhất - Khổ. Sự tỉnh giác về ham muốn được an tịnh và sự bám níu vào yên lặng, tức nguyên nhân của Khổ, là bạn quán chân lý thứ hai - Samudhaya - hay là Tập. Giây phút bạn được tự do thoát khỏi sự bực bội về tiếng ồn là Nirodha (Diệt) tức chân lý thứ ba. Trong trường hợp nầy, sự dừng khổ là tạm thời nên được gọi là Tadanga Nirodha.

M: Còn Chân Lý Thứ Tư (tức Ðạo)?

Khi bạn tu tập tỉnh giác, thực ra bạn đang thực hành Magga, hay Bát Thánh Ðạo. Bạn đang chánh tinh tiến (gọi là Samma Vayama) để tu tập Tỉnh Giác (gọi là Samma Sati ) về sự bực bội của bạn. Do đó tâm bạn được tập trung, tức Chánh Ðịnh (gọi là Samma Samadhi ). Khi bạn siêu việt sự không thích tiếng ồn và không còn khó chịu, ngay lúc đó bạn có thể nghe tiếng ồn như thực tế. Ðây là Samma Ditthi hay là Chánh Kiến. Khi bạn không mong đợi nó chấm dứt hay trở nên ồn hơn, đó là Chánh Tư Duy (samma sankappa). Bạn có thể nói lên tình hình với nhận thức đúng đắn, gọi là Chánh Ngữ (samma vaca). Bây giờ bạn còn muốn rời xa tiếng ồn nữa hay không?

M: Không còn nữa. Lúc ban đầu tôi muốn rời xa nó, và còn có thể đã nói hoặc hành động bậy bạ nếu tôi có cơ hội.

Nhưng bạn đã không làm, đó là Samma Kammanta, tức Chánh Nghiệp.

M: Bà muốn nói không làm gì trong trường hợp nầy là hành động đúng?

Ðúng thế. Như vậy bạn đã thấy nếu tu tập tỉnh giác với tâm bình thản trong đời sống thường ngày, là bạn đang áp dụng Bốn Chân Lý Cao Thượng và phối hợp với Bát Thánh Ðạo trong lối tu sinh hoạt thiền.

Tính Hợp Nhất Của Bát Thánh Ðạo

Trong Phật giáo, Bát Thánh Ðạo là con đường dẫn tới sự giải thoát. Muốn hiểu Bát Thánh Ðạo và áp dụng nó vào đời sống, chúng ta phải nhìn nó với sự hợp nhất của thân, khẩu và ý. Bát Thánh Ðạo có thể được điều nghiên với rất nhiều chi tiết đến nỗi chúng ta có thể bị lạc lối. Ðể tránh điều nầy, chúng ta phải có một cái nhìn thực tế, chính xác và tổng quát về Bát Thánh Ðạo. Chúng ta nhìn nó trên bình diện trí tuệ, giới hạnh và thiền định (tức Tuệ, Giới, Ðịnh), trong tiếng Pàli gọi là Panna, SilaSamadhi.

TRÍ TUỆ (Panna)

1) Chánh Kiến (samma ditthi)
2) Chánh Tư Duy
(samma sankappa)

GIỚI HẠNH (Sila)

3) Chánh Ngữ (samma vaca)
4) Chánh Nghiệp (samma kammanta)
5) Chánh Mạng
(samma ajiva)

THIỀN ÐỊNH (Samadhi)

6) Chánh Tinh Tiến (samma vayama)
7) Chánh Niệm (samma sati)
8) Chánh Ðịnh
(samma samadhi)

Ngay cả ba khía cạnh nầy của Bát Thánh Ðạo, mặc dầu được nhận diện riêng để dễ hiểu, cũng không phải là riêng biệt. Trong khi thực hành, nếu chúng ta hiểu rõ thì Giới-Ðịnh-Tuệ phải được đồng hóa trong từng giây phút, từng tư tưởng, ngôn ngữ và hành động.

Thí dụ như Giới, tức là kiểm soát Hạnh Kiểm. Làm sao chúng ta tránh khỏi ngôn ngữ xấu và hành động xấu? Trước nhất, thử hỏi thế nào là ngôn ngữ tốt và thế nào là ngôn ngữ xấu? Phải chăng là nó chỉ có tính cách tương đối với thời gian, không gian và con người? Có cái gì là tuyệt đối đúng hay tuyệt đối sai chăng? Chúng ta có thể tiếp tục hỏi thêm nữa mà không đi tới một kết luận rõ rệt nào, mà chỉ làm cho chúng ta càng lạc xa vấn đề - đó là bản tâm của chúng ta.

Mục đích chánh của Giới là để tránh làm tổn hại người khác bằng ngôn ngữ và hành động xấu - nhưng chúng ta phải giới hạn mình tới mức độ nào trong mọi lúc đây?

Chúng ta phản ứng với môi trường theo thói quen nên nhiều khi chúng ta đã làm tổn hại đến người khác trước khi chúng ta nhận thức được điều gì đã xảy ra trong bản tâm. Ðây là bởi vì chúng ta đã được điều kiện hóa để lơ là với tâm thức của mình trong đời sống thường ngày. Chúng ta hầu như lúc nào cũng chú tâm hướng ra phía ngoài. Sự bận tâm nầy đối với ngoại cảnh là điều chúng ta phải vượt thoát.

Mặc dầu chúng ta đối phó với hành động của thân và khẩu, tất cả chúng đều phát xuất từ tâm. Hành động của tâm, khẩu và thân xảy ra liên tiếp nhau rất nhanh đến nỗi hình như là không có khoảng trống ở giữa. Khi tư tưởng vừa nổi lên thì chúng ta thấy mình nói năng hay làm chuyện gì rồi. Chúng ta thấy mình không thể kiểm soát lời nói và hành động mình đủ nhanh để tránh làm tổn hại đến người khác. Nhưng sự tỉnh giác (sati) của bản tâm sẽ làm cho nó cảnh giác về hành động và lời nói của chính nó.

Làm sao chúng ta có thể quay ngược sự chú ý vào bản tâm? Ðó là mục đích của Ðức Phật khi ngài vạch ra con đường tu tập tỉnh giác. Mục tiêu của sự luyện tâm là học cách phá được thói quen bận tâm về ngoại cảnh để có ý thức về những gì xảy ra bên trong, trong tâm chúng ta khi chúng ta sinh hoạt thường ngày. Khi sự tỉnh giác hay chánh niệm (samma sati) xảy ra, chúng ta thấy tâm mình không còn hành động nữa, nó dừng lại như là một chứng nhân để nhìn vào trạng thái bên trong. Khi sự quán tâm nầy đã trở thành thói quen cố định, như là bản chất thứ hai, thì chu trình phản ứng vô ý thức đối với ngoại cảnh bị phá vỡ. Trong giây phút đột phá nầy, sự 'thấy biết' hay 'ý thức' xảy ra: đó là sự nhận thức trong sáng như pha-lê về sự vật đúng như thực tế, về tình huống và nhân vật trong nhãn quan vô phân biệt, không có 'thích và 'không thích'. Từ tuệ giác mới mẻ nầy - Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp sẽ tiếp theo - tương đối và thích ứng với mỗi trường hợp. Do đó không còn vấn đề tuyệt đối đúng hay tuyệt đối sai nữa.

Như vậy, trên phương diện Bát Thánh Ðạo, ngay khi chúng ta chú ý đến bản tâm thì đã có Chánh Tinh Tiến (samma vayama) và Chánh Niệm (samma sati). Khi chánh niệm đã tròn đầy, thì bản tâm tức khắc đi vào Chánh Ðịnh Hiện Tiền (khanikha samadhi) và dẫn đến tiếp theo là Trí Tuệ (panna). Trí tuệ giúp ta nhìn sự vật đúng như thực tế của chúng, tức là Chánh Kiến (samma ditthi). Trí Tuệ sẽ đem tới Chánh Tư Duy (samma sankapa), và do đó Chánh Ngữ (samma vaca), Chánh Nghiệp (samma kammanta) và Chánh Mạng (samma ajiva).

Do đó, Giới Ðịnh Tuệ có thể được bao gồm trong từng giây phút tỉnh giác của đời sống thường ngày - ngay khi chúng ta ăn uống, làm việc, giải trí hay phấn đấu. Tóm lại, đời sống của chúng ta chính nó đã trở thành Bát Thánh Ðạo.

MS: Bà đã dịch Samma Samadhi là 'tập trung tâm ý', hay là 'Chánh Ðịnh'. Phải chăng trên phương diện ngôn từ thì Samma Samadhi là an trụ vào Tứ Thiền? Sự tập trung tâm ý có thể là tốt hay xấu, và do đó có thể không hợp với nghĩa đúng 'Chánh Ðịnh' của từ Samma Samadhi. Sự phân biệt nầy trở nên quan trọng khi chúng ta nói về thiền định và tập trung trong đời sống thường ngày.

T: Phải, Samma Samadhi thường được dịch là 'tập trung tâm ý', hay là 'Chánh Ðịnh'. Nhưng khi được diễn tả chi tiết, nó được phân thành hai loại: tu Chỉ (samatha meditation: dừng tâm, tức Ðịnh) và tu Ðịnh Tạm Thời như là trong pháp tu quán (vipassana meditation) theo đạo lý 'khô thiền' (sukkha-vipassaka: thuần quán) (*) áp dụng cho đời sống thường ngày.

Do đó tôi nghĩ không nên dịch nó là 'an trụ tứ thiền' (tập trung tâm ý) mà nên dịch là Chánh Ðịnh (right concentration). Ðây là tôi theo Luận chớ không theo Kinh.

Tuy nhiên, bạn đã nói đúng: sự tập trung có thể là tốt hay xấu, bởi vì sức mạnh của tâm tập trung là rất lớn và có thể nhằm vào những hành động tai hại nếu nó không được trí tuệ hướng dẫn. Ðây chính là lý do tại sao Bát Thánh Ðạo phải được hiểu và hành một cách toàn bộ. Nếu bạn tách rời thiền định khỏi nội dung của Bát Thánh Ðạo, nghĩa là không cần giữ Giới (sila) và theo đuổi Trí Tuệ (panna), thì dĩ nhiên nó không còn được gọi là Chánh Ðịnh nữa. Trường hợp thiền định trong sinh hoạt thường ngày, điều quan trọng là Trí Tuệ (panna) phải đến như là hậu quả của sự tỉnh giác về giây phút hiện tại - như là biện pháp nhằm ngăn ngừa tư tưởng, lời nói, hành động hay nghề nghiệp xấu.

[Bát Thánh Ðạo sẽ được giải thích theo quan điểm cổ truyền ở phần cuối của sách.]

(*) Xem lời giải thích của Ngài Ledi Sayadaw, ở đầu sách. Bạn có thể đọc thêm sách của Jayasuriya, W.F., "The Psychology and Philosophy of Buddhism", trang 162-164

Năng Ðộng Tính Của Thiền

M: Ðiều làm tôi sợ hãi về thiền định là ý nghĩ tôi trở thành hoàn toàn không có tư tưởng, hoàn toàn không có tâm.

T: Hãy để tôi làm sáng tỏ cách dùng từ 'không có tư tưởng' và 'không có tâm' của bạn. 'Không có tâm' trong ý nghĩa của bạn dùng có nghĩa là tâm hoàn toàn vắng mặt, không có ý thức, một khoảng trống không. Ðiều nầy không thể xảy ra. Không có ý thức, chúng ta sẽ chết. 'Hoàn toàn không có tư tưởng' nghĩa là ý thức có mặt, nhưng không có tư tưởng nào nổi lên. Trong thiền định, điều nầy có thể được nhưng chỉ trong một số điều kiện nào đó. Trong một vài hình thức tọa thiền, người ta có thể đạt tới một tình trạng mà tâm thức hoàn toàn vắng lặng, tập trung và tự chế, gọi là Vô Tưởng Ðịnh (jhanic samadhi). Trong tình trạng thiền định nầy, hành giả không thể sinh hoạt được.

M: Tôi không nghĩ là tôi có thể hoàn toàn không có tư tưởng. Nghe như là tôi sẽ trở nên giống như một xác ướp.

Ðây chỉ là một tình trạng tạm thời mà hành giả sẽ ra khỏi. Nhưng chúng ta đã nói về một lối thiền định khác, không qua tình trạng Vô Tưởng Ðịnh. Nếu bạn tu tập tỉnh giác trong đời sống thường ngày như là bạn đang kinh nghiệm ngay lúc nầy, bạn không phải đi qua tình trạng tự chế đó.

M: Bà nói như thiền định thường ngày là một tiến trình tích cực hơn tôi nghĩ. Sự tỉnh giác liên hệ với loại thiền định nầy như thế nào?

Chúng ta phải rõ ràng. Tiến trình thiền định luôn luôn tích cực mặc dù bạn tọa thiền hay thiền trong sinh hoạt thường ngày. Trong lối thiền tĩnh tọa, mặc dù thân thể ngồi yên, tâm chúng ta vẫn tích cực quán, nó có tỉnh giác về thân hay tâm. Thiền định là kỷ luật nội tâm cuối cùng sẽ đưa tâm ta về tình trạng thanh tịnh hóa.

M: Trong sinh hoạt thiền, có phải là tâm tích cực tự quán qua một tình trạng vô tưởng?

Phải. Khi sự tỉnh giác lên cao điểm, bạn có thể kinh nghiệm một tình trạng mà tư tưởng lặn mất. Nhưng tình trạng vô tưởng nầy chỉ kéo dài trong một phần của giây. Bạn kinh nghiệm được một ý thức vừa tập trung vừa tuyệt đối yên tịnh. Sự tập trung hay 'định tạm thời' nầy có tên là Khanika Samadhi. Mặc dầu định nầy không kéo dài như các loại định khác trong tọa thiền, Khanika Samadhi cũng có cường độ và chất lượng tương đồng. Trong Khanika Samadhi, tư tưởng chìm mất và tâm chúng ta đạt tới tình trạng thanh tịnh nhất.

M: Nếu tư tưởng chìm mất, phải chăng là cái 'Tôi' không còn hiện diện lúc đó?

Ðúng, nhưng chỉ là tạm thời.

M: Nếu cái 'Tôi' không hiện diện lúc đó, thì cái gì hiện hữu? Cái gì xảy ra trong giây phút không còn tư tưởng?

Khi 'định một-phần-của-giây' xảy ra, trong lúc đó không có tư tưởng nhưng chỉ có một ý thức tuyệt đối thanh tịnh và cao độ. Trong lúc đó, Panna tức trí tuệ (hay tuệ giác) xảy tới. Hành giả có một cái nhìn hoàn toàn thanh tịnh, gọi là Ditthi Visudhi. Trong tiếng Pàli, Ditthi nghĩa là 'cái nhìn' và Visudhi nghĩa là 'thanh tịnh'.

Mặc dù kinh nghiệm nầy có thể là ngắn ngủi, nó siêu việt thời gian và vô giới hạn, đó là một giây phút chuyển hóa. Ðó là giây phút mà cái 'Tôi' và 'Của Tôi' tan biến. Sau giây phút vô tưởng đó, cái nhìn thanh tịnh được tiếp theo bằng tư tưởng - nhưng tư tưởng, cảm xúc và hành động lúc nầy không còn theo thói quen cũ. Trong giây phút hoàn toàn an tịnh đó của tâm thức, cái nhìn thanh tịnh (trí tuệ hay tuệ giác) cùng với Từ và Bi nổi lên trong tâm ở từng sâu thẳm. Những tư tưởng và hành động tiếp theo đó đượm nhuần tính Từ Bi.

Bạn thân mến của tôi, bạn thấy đó, thiền định không làm cho bạn trở nên một người ù lì, vô tưởng hay vô cảm đâu. Thật ra thiền định đem lại những gì tốt đẹp nhất trong bạn - tình thương, sự nồng ấm và nhạy cảm đối với mọi chúng sinh.

Sự tu tập tỉnh giác, mặc dầu là trong lối tọa thiền hay sinh hoạt thiền, là một tiến trình tích cực và tiếp diễn. Trong tọa thiền, mặc dầu thân ngồi yên, tâm ta vẫn tích cực quán và có ý thức về thân tâm. Trong sinh hoạt thiền cũng thế, tâm tích cực tự quán mà không phụ thuộc vào cử động hay thời gian. Cái kỷ luật tâm linh trong mỗi hình thức là điều tối quan trọng sẽ đưa tâm chúng ta tới tình trạng thanh tịnh. Không phải tư thế ngồi đưa tới sự giác ngộ, mặc dầu tư thế cũng hữu ích khi giúp cho tâm tự an định. Nếu bạn hiểu rõ điều nầy, bạn có thể thiền định bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

An Trú Nội Tâm

L: Tôi vừa trải qua một khóa tu thiền tại một trung tâm và tôi đang gặp khó khăn thích ứng với thế giới bên ngoài. Bên trong trung tâm thật là yên tịnh đến nỗi hiện nay tôi thấy thật là khó thích hợp với cảnh náo nhiệt và xô bồ bên ngoài. Làm sao tôi có thể thích ứng với giai đoạn chuyển tiếp?

T: Kinh nghiệm của bạn không phải là bất thường. Nhiều người cảm thấy giống như bạn khi họ mới rời thiền viện. Trong khóa tu thiền, điều kiện an tịnh được thiết lập và bạn có thể tu tập thiền định mà không bị quấy rầy. Trong khi tu học, bạn tạm thời bị điều kiện hóa với khung cảnh yên tịnh đó. Do đó khi rời thiền viện, bạn thấy cảnh ồn náo thật là khó đối phó.

L: Làm sao tôi có thể thích ứng tốt hơn với giai đoạn chuyển tiếp?

Chúng ta hãy nhìn xem tâm bạn hoạt động ra sao khi ở bên trong và bên ngoài thiền viện. Khi ở trong thiền viện, bạn tu tập tỉnh giác rất mạnh mẽ. Sự tỉnh giác của bạn đang ở cao độ. Nhưng khi rời thiền viện, có lẽ bạn đã bỏ lại sự tỉnh giác đằng sau, đúng không?

L: À, đúng như vậy.

Bạn thấy đó! Khi bạn vừa rời thiền viện thì bạn đã 'đổi số' rồi. Bạn buông bỏ sự tỉnh giác và trở lại với tình trạng thiếu tỉnh giác trước đây. Do đó khi đột nhiên bị đối diện với cảnh xô bồ của thế giới bên ngoài, bạn thấy thật khó thích hợp. Bạn gặp khó khăn là vì bạn tách rời thiền định khỏi kinh nghiệm thường ngày. Thật ra, đáng lẽ là sự tỉnh giác bạn học được bên trong thiền viện đã trang bị cho bạn tốt hơn để đối diện với thế giới bên ngoài.

L: Làm sao được?

Trước hết, bạn phải buông bỏ ấn tượng là sự tỉnh giác chỉ có thể tu tập bên trong thiền viện, ở một nơi và một lúc nào đó. Sự điều kiện hóa nầy làm cho ai cũng cảm thấy khó khăn khi nối liền khoảng cách giữa thiền viện và thế giới bên ngoài. Bên trong thiền viện, bạn học cách tỉnh giác trong khi ngồi yên tréo chân và nhắm mắt. Bây giờ ở bên ngoài, bạn cũng có thể tu tập tỉnh giác giống như vậy, nhưng bạn phải có khả năng làm vậy với đôi mắt mở rộng, trong khi bạn đối phó với các kích động và hàng loạt vấn đề.

L: Thật là khó quá, phải không?

Không có gì quá khó nếu bạn biết cách. Có lẽ việc đầu tiên bạn học trong khóa thiền là cách sống với giây phút hiện tại. Bạn cũng có thể tu tập điều đó bên ngoài thiền viện. Bạn có thể tỉnh giác về bất cứ chuyện gì bạn làm - nấu nướng, giặt giũ, tắm rửa, lái xe, đi bộ, vv...Gần như bất cứ chuyện gì.

Không những thế, trong khóa thiền bạn đã phải học cách quán tâm mình như là một chứng nhân, không có 'thích' hay 'không thích'. Trong đời sống thường ngày, bạn cũng có thể quán tâm như là một chứng nhân, giống như vậy. Bạn có thể nhìn sự ghét bỏ cảnh ồn náo, khi nó đến với bạn. Hãy để nó đến rồi ra đi. Hãy bình thản đối với cảm xúc của bạn về thế giới bên ngoài, và sự bình thản sẽ lan qua chính thế giới bên ngoài nữa.

Khi bạn là chứng nhân về phản ứng của bạn đối với thế giới bên ngoài, bạn cũng trở thành chứng nhân của cảnh ồn náo, và không bị nó quấy rối nữa. Khi bạn nắm vững được điều nầy, thì là bạn đang sống trong An Trú Nội Tâm với bất cứ trường hợp nào, dù có an tịnh hay không. Thế giới có thể quay cuồng nhưng thế giới bên trong của bạn vẫn là an tịnh và bạn thấy rằng mình không cần có một nơi hay một thời gian riêng biệt nào để tu tập thiền định.

L: Còn chuyện để dành một thời gian riêng trong ngày để ngồi thiền ở nhà?

Ðiều nầy tốt nếu bạn không thiên chấp về khoảng thời gian tu tập đó. Bạn thấy, điều xảy ra là nhiều người trở thành lệ thuộc với lối tập thiền đó và thấy rằng họ không thể hoạt động hữu hiệu suốt ngày nếu họ không có cơ hội ngồi xuống tập thiền vào buổi sáng.

L: Tại sao thế?

Ðó là một hình thức bị điều kiện hóa như những thứ khác. Giống như mình ghiền một tách cà-phê hay trà buổi sáng. Bạn cũng có thể ghiền ngồi thiền. Mặc dầu sự điều kiện hóa nầy tự nó không phải là một điều xấu, có nhiều điểm tế nhị mà bạn cần phải biết về thiền định. Tâm của mình rất tinh quái, và bạn cần phải biết kẻo bị nó lừa.

L: Vậy mình phải làm sao trong những trường hợp đó?

Ðiều quan trọng nhất là tập mở mang tâm bình thản đối với sự tu tập của mình. Ðây có thể là điều khó làm nhất bởi vì, cũng như những chuyện khác, bạn có thể bị dính níu vào sự tu tập thiền định của mình. Chúng ta học cách bình thản với mọi chuyện khác, nhưng lại quên bình thản với sự tu tập của chính mình.

L: Nếu chúng ta bình thản với sự tu tập của mình, có thể nào chúng ta dành riêng một thời gian ngồi thiền mà vẫn giữ được sự quân bình trong suốt ngày hay không?

Ðiều nầy có thể được nếu bạn có thể bình thản và đồng thời tỉnh giác bên ngoài các buổi tập thiền. Nếu được như vậy thì bạn có thể tập thiền tốt, trong và ngoài các thời gian đó.

-ooOoo-

Ðầu trang | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5

-ooOoo-


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 07-03-2003