|
Phần
I - Bài 6
Bảy phương pháp đi
đến giác ngộ
(Thất giác chi)
Thích Thiện Bảo
A- Dẫn nhập
Giáo lý đạo Phật
được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết
những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau
trói buộc do chính con người tạo nên, và nó đã trở nên một phương
tiện, hay một phương pháp giúp cho mọi người vượt khỏi những bế
tắc trong đời sống mà con người gặp phải, hay nói cách khác, giáo lý
đạo Phật là những phương thuốc trị những căn bệnh cho mọi người,
chính vì thế mà chúng ta thường nghe: "Chúng sanh đa bệnh, Phật
pháp đa phương" (chúng sanh có nhiều bệnh, Phật pháp cũng có
nhiều phương thuốc trị cho nhiều căn bệnh khác nhau). Thất giác chi
là bảy phương pháp nhằm giúp cho chúng sanh thoát khỏi những vọng
niệm mê lầm để đạt sự tỉnh giác trong đời sống.
B- Nội dung
I- Ðịnh nghĩa
Thất giác chi (Satta sambojjhanga, Seven Factors
of Enlightenment), còn gọi là Thất bồ đề phần, Trung Hoa dịch là Giác
đạo (con đường đưa đến giác ngộ), một trong những thắng pháp
(paramattha dhamma) của 37 phẩm trợ đạo được Ðức Phật đề cập ở phần
Ðạo đế. Thất giác chi là bảy phương pháp tu tập nhằm giúp cho hành giả
đạt được giác ngộ, thành tựu đạo quả giải thoát.
II- Nội dung của Thất
giác chi
1)- Trạch pháp giác chi
(Dhammavicaya sambojjhanga):
Trạch là sự chọn lựa, pháp là pháp
môn, trạch pháp là sự chọn lựa pháp môn tu tập sao cho phù hợp với trình
độ căn cơ của chính mình. Nó còn giúp cho mọi người nhận thức một
cách sáng suốt để phân biệt, lựa chọn một cách chính xác những
phương thức khế hợp với chính mình, vì thế cho nên các vị Tổ sư
thường dạy: "Thuốc không có quý-tiện, lành bệnh là thuốc hay,
Pháp không có đốn-tiệm (mau, chậm), hợp cơ là pháp diệu".
Chọn được hướng để đi đúng với chánh pháp là chúng ta đã thực
hiện tinh thần trạch pháp giác chi. Trong kinh Sa Di Thập Giới nói:
"Cái khổ ở địa ngục, của con lừa, con lạc đà chở nặng chưa phải là
khổ, không tìm thấy được hướng đi mới thực sự là khổ". Người muốn
có một chánh tư duy (suy tư một cách chân chánh) phải thực hành trạch pháp,
vì chính đây là một phương pháp phân tích, suy luận nhận chân các giá trị
hiện thực. Ðạo Phật xem sự tự giác trong niềm tin phải được qua gạn
lọc của trí tuệ được gọi là chánh kiến (sự thấy biết
một cách chân chánh), điều này Ðức Phật nói: "Tin ta mà không
hiểu ta là phỉ báng ta". Trong kinh Kamala (Tăng Chi I), Ðức Phật nói:
"Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó thường nghe nhắc
nhở đến luôn. Ðừng tin tưởng điều gì mà điều đó là một tập
tục đã qua cả ngàn xưa để lại. Ðừng tin tưởng những điều sáo ngữ
hay bất cứ một điều gì mà người ta thường nói đến nhiều quá.
Ðừng tin tưởng bất cứ điều gì, dù cho điều đó là bút tích của
thánh nhân xưa để lại bảo ta phải tin. Ðừng tin một điều gì dù
điều đó ở dưới mãnh lực của ông thầy hay nhà truyền giáo. Tất cả
những sự thật, theo suy nghiệm riêng của mình và sau khi xác nhận rõ ràng,
phù hợp với lẽ phải, tạo thành hạnh phúc riêng cho mình và hạnh phúc cho
tất cả mọi người thì chính đó là sự thật và ta cố gắng sống theo sự
thật ấy". Người xưa cũng thường dạy: "Thà ngàn năm không ngộ, còn
hơn một phút sai lầm". Tổ Lâm Tế nói: "Nhất niệm hào ly,
thiên địa huyền cách" (Một niệm lìa xa, đất trời xa cách).
Nếu chúng ta chọn sai con đường đi không đúng chánh pháp thì muôn
kiếp khó tìm lại được. Cho nên trạch pháp giác chi là yếu tố
để giúp người học Phật nhận thức một cách sáng suốt tỉnh táo trên
con đường chọn lựa pháp môn tu tập.
2)- Niệm giác chi (Sati
sambojjhanga):
Niệm là nhớ nghĩ, giác là sự tỉnh
giác. Niệm giác chi là luôn luôn nhớ đến sự tỉnh giác. Ðây là
phương pháp được Ðức Phật đề cập nhằm giúp cho con người phát
triển tuệ giác, đồng thời có công năng làm cho các vọng niệm
không dấy khởi. Như chúng ta biết, tạp niệm là nguyên nhân làm cho con
người kinh nghi và thoái hóa, nó là bước trở ngại đáng kể cho tuệ
giác phát triển, làm phân tán sức mạnh của tâm thức.
Trái lại, chánh niệm giúp cho chúng ta
nhận thức một cách rõ sự vật hiện tượng qua các pháp vô thường, khổ,
vô ngã trong đời sống, những đổi thay của những dục niệm, cho chúng ta
cái nhìn xét đoán chuyển biến của tâm thức trong từng sát na sanh
diệt, thấy rõ các tà niệm, có nhận thức đúng đắn (chánh kiến)
và nhờ đó chúng ta nhận thức rõ sự thật của các pháp. Niệm giác chi
giúp cho chúng ta luôn tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh khi đối diện với
thực tế của đời sống.
3)- Tinh tấn giác chi (Virya
sambojjhanga):
Tinh tấn giác chi là nỗ lực chuyên ròng
hướng đến tỉnh giác để loại trừ các tư hoặc, thực hành chánh pháp
làm cho tuệ giác được phát triển, dù chúng ta có một lý tưởng
cao đẹp nhưng thiếu chuyên chú, nỗ lực và bền bỉ (tinh tấn) thì
khó thành tựu được chí nguyện. Nhà triết gia Huxley đã nói:
"Mục đích tối cao trong đời người là sự hành động, không phải là sự
hiểu biết suông". Vì thế cho nên tinh tấn là yếu tố tối
quan trọng trong việc thực hiện lý tưởng giải thoát giác ngộ;
thiếu sự tinh tấn, nỗ lực của tự thân để tạo thành sức mạnh nội
tại thì không thể chiến đấu chống giặc phiền não. Hình ảnh đầy
sinh động dưới cội cây bồ đề khi Ðức Bổn Sư Thích Ca dùng bát sữa
của Sujàta, xong Ngài quăng bát đựng sữa xuống dòng sông Ni Liên Thuyền
và phát đại nguyện: "Dù thân ta có khô, máu ta có cạn, nếu
không thành đạo, ta nguyện không rời khỏi chỗ ngồi này".
Qua đó, chúng ta nhận thấy trong tu tập hay
đời sống thường nhật của con người, bao giờ sự thành công cũng dành cho
những con người siêng năng và chăm chỉ (tinh tấn), thiếu chuyên cần thì
dù có thông minh đến đâu cũng khó thành tựu được sự nghiệp. Ðức
Phật dạy: "Hết ngày này qua tháng khác, hết giờ nọ sang giờ
kia, người thợ vàng phải nỗ lực công phu mới lọc được vàng ròng.
Con người muốn cho thân tâm trong sạch cũng phải cố gắng rèn luyện như
thế" (Pháp Cú).
4)- Hỷ giác chi (Piti
sambojjhanga):
Hỷ giác chi là sự vui có tỉnh giác, khi
tu tập, chúng ta luôn luôn cảm nhận niềm an lạ trong đời sống hàng ngày,
không bị phiền não trói buộc, tùy hỷ với những thiện pháp mà
mọi người xung quanh đã đạt được. Vì thế cho nên người tu tập
phải biết khởi tâm hoan hỷ trong mọi hoàn cảnh để vượt qua
mọi chướng duyên, trở ngại trên bước đường tìm cầu sự an lạc giải
thoát. Nếu như trong đời sống không có sự vui tỉnh giác thì
việc tu tập của hành giả khó mà đạt được cứu cánh của sự giác ngộ.
Trong nền giáo lý của đạo Phật, tâm hỷ là yếu tố cơ bản, có
công năng chuyển hóa và hóa giải các cấu uế phiền não, nó là
nhân tố giúp cho người thực hành pháp cảm nhận phấn khởi trên bước đường
tu tập, giúp cho hành giả có một niềm tin mãnh liệt để đi
đến thành tựu đạo quả Bồ đề. Mục đích chính của đạo Phật là
"chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc" (chuyển sự mê mờ làm
cho chúng sanh giác ngộ, lìa khổ được vui).
5)- Khinh an giác chi (Passaddhi
sambojjhanga):
Khinh có nghĩa nhẹ nhàng, an là an ổn, khinh
an giác chi là trạng thái nhẹ nhàng an lạc tỉnh giác trong đời sống, luôn
luôn thư thái do đạt được niềm hỷ lạc thanh tịnh của các pháp
thiện. Nó có công năng làm cho các phiền não trói buộc bị tiêu trừ
và đối trị những bất thiện tâm sở làm dao động bất an. khi người tu
tập đạt được khinh an sẽ cảm nhận một trạng thái nhẹ nhàng, ví như người
bị bệnh qua được cơn đau lâu ngày hành hạ cơ thể. Do đó, họ
có thể vững bước trên con đường đi tới đích vì đã đạt được sự
nhẹ nhàng của tâm.
Trong kinh A Hàm kể một pháp thoại: Có
một vị Tỳ kheo đang ngồi tĩnh tọa trong rừng bỗng nhiên tâm hoan
hỷ phát sanh thốt lớn lên: "Ôi, hạnh phúc quá. Ôi, hạnh phúc
quá...". Những người bạn đồng tu ngồi bên cạnh nghe được liền đem
bạch lại với Phật. Ðức Phật nhân câu chuyện đó giảng cho mọi người
nghe và hỏi vị Tỳ kheo kia nguyên nhân vì sao khi tĩnh tọa lại phát ra
những lời như thế?
Vị Tỳ kheo bạch Phật: "Trong lúc ngồi
thiền đạt được trạng thái an lạc, cảm nhận thân tâm được nhẹ nhàng,
con có thốt ra những lời đó vì trước đây con làm quan trong triều, có
đầy đủ cao lương mỹ vị, kẻ hầu người hạ nhưng không ngày nào con cảm
thấy yên tâm, luôn luôn lo sợ bị người khác chiếm lấy quyền lực,
địa vị của mình, đối với nhà vua thì sợ bị khiển trách do kẻ sàm tấu
tâu lên. Trái lại từ khi con vào đây sống với đời sống phạm hạnh, con thấy
không bị những bất an sợ hãi lo lắng như ở triều đình, nên khi ngồi
tĩnh tọa dưới gốc cây, con cảm nhận có một niềm an lạc khinh an (nhẹ
nhàng) hạnh phúc tràn ngập trong lòng nên con thốt lên những lời như
thế".
6)- Ðịnh giác chi (Samadhi
sambojjhanga):
Ðịnh là samadhi, là giữ tâm an trụ vào một
điểm, một đối tượng, không cho tâm phan duyên phóng đi nơi khác. Ðịnh
giác chi là tâm luôn luôn an định tỉnh giác, không bị chi phối bởi phiền
não vọng tưởng và các duyên bên ngoài tác động vào tâm thức. Chúng ta
biết giáo lý đạo Phật là giáo lý nội quan, cho nên việc thực
hành chánh định không thể thiếu trong đời sống của người con Phật.
Mục tiêu của đạo Phật là giúp con người quay lại tìm về chính mình,
nhận chân giá trị của mọi giá trị không có giá trị nào bằng giá trị
nơi từng con người, vì chính hạnh phúc hay khổ đau đều do con người tạo
nên. Cho nên Ðức Phật từng nói: con người là tối thượng. Việc tu tập
để tâm định không có nghĩa là để biết người khác, tìm tòi
"soi căn, soi kiếp của người khác", hay để có thần thông,
phép lạ trị bệnh chữa tà, sai khiến quỷ thần, những điều đó
trái với tinh thần đạo Phật. Trái lại, định của Phật dạy là để chữa
căn bệnh vọng tưởng chạy theo cảnh duyên bên ngoài, không nhận chân
được giá trị của nguồn hạnh phúc của chính mình, đây thực sự là
điểm khác biệt của đạo Phật với các tôn giáo khác.
7)- Xả giác chi (Upekkhà
sambojjhanga):
Xả là upekkhà, do hai từ gốc upa là đúng
đắn, chân chánh, vô tư, và ikkha trông thấy, nhận thức, suy luận. Vậy,
upekkhà là trông thấy đúng đắn, nhận định chân chánh, hoặc suy luận vô
tư, không luyến ái, không ghét bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn.
Kinh Jãtaka nói: "Trong hạnh phúc, trong phiền não, lúc thăng, lúc
trầm, ta phải giữ tâm như đất. Cũng như thế, trên đất, ta có thể
vất bất cứ vật gì, dầu chua, ngọt, sạch, dơ, đất vẫn thản nhiên, một
mực trơ trơ. Ðất không giận cũng không thương". Dùng tuệ quán đối
trị với chấp thủ của tâm, không để cho bóng dáng của vọng tưởng
lưu lại nơi tâm thức, luôn luôn để tâm đạt được sự an tịnh, đó là
chúng ta thực hành tâm xả. Không một đối tượng nào có thể làm cho
người có tâm xả bị lay chuyển. Thuận và nghịch cảnh không làm cho người
có tâm xả cảm thấy bất an trước những thuận nghịch của ngoại duyên. Bát
phong không làm cho người thực hành pháp xả bị cuốn theo. Người thực hành
tâm xả không chấp thủ vào các pháp mình đã tu, đã đạt được. Kinh Kim
Cang Sớ nói: "Người tu tập phải như thuyền qua sông, khi thuyền
đã cập bến, nếu ta không bỏ để lên bờ thì đừng hòng đi
đến đâu và biết được gì".
III- Một số ý
niệm khi thực hành pháp giác chi
1)- Khi thực hành trạch pháp giúp cho người
con Phật nhận thức một cách độc lập, tự do, tự chủ, có tỉnh giác, không bị
những tín điều, giáo điều, những xu hướng ỷ lại vào những
quyền năng thần lực gia hộ, phù trì, làm đức tin bị mù quáng, thủ tiêu
hết mọi ý chí suy tư tự chủ cá nhân của con người.
2)- Con người luôn luôn bị những tà
niệm, tạp niệm chi phối không giữ được chánh niệm, phân tán sức
mạnh nội tại, làm tiêu tan ý chí với những hoài nghi tìm cầu viển
vông không thiết thực. Thực hành niệm giác chi là chúng ta đã
điều chỉnh tâm sinh lý về mặt tự thân.
3)- Thực hành pháp tinh tấn giác chi là
chúng ta loại trừ tính biếng nhác, do dự và bất nhất trong đời sống khi
gặp nhiều chướng duyên trắc trở. Có thể nói tinh tấn là yếu tố
phát triển đức tính kiên trì giúp cho con người thành công trên bước
đường lập nghiệp.
4)- Những lo âu phiền muộn là nguyên
nhân gặm nhấm thiêu đốt con người trở nên héo tàn theo thời gian, cho nên
người ta thường nói: "Nụ cười hơn mười thang thuốc bổ". Thật vậy,
ứng dụng hỷ giác chi là chúng ta có nụ cười trong tỉnh thức. Ngài
Dhammanda nói: "Bí quyết của một đời sống hạnh phúc và thành công
là cố gắng làm những điều đáng làm trong hiện tại, không lo âu
tương lai, không phiền muộn về quá khứ".
5)- Mọi sự chấp trước bất an, sợ
sệt đều là những nguyên nhân làm cho thân tâm chúng ta nặng nề
không thoải mái trong đời sống, bực dọc trong sinh hoạt. Thực hành khinh an
giác chi là chúng ta có một thân tâm nhẹ nhàng, trút bỏ gánh nặng của lo
âu, sợ hãi. Thảnh thơi tự tại ung dung trong công việc là chúng ta đã
thể hiện người con Phật hưởng được pháp vị của Phật.
6)- Oán thù, chiến tranh, tranh chấp
quyền lợi hơn thua, phải quấy làm khổ mình, khổ người. Mọi sự đổ
vỡ hạnh phúc, bạn bè thân thuộc, trong gia đình đều bắt nguồn từ nguyên
nhân không làm chủ được tâm. Hành pháp định giác chi là người con Phật
học pháp làm chủ mình, phát triển sức mạnh tinh thần, không bị những
tác duyên bên ngoài sai khiến.
7)- Những đố kỵ, ganh ghét, bỏn xẻn
đều bắt nguồn từ chỗ thiếu tâm xả mà ra, cho nên phiền não
khổ đau cũng từ nơi đất này phát sinh trổ quả. Thực hành xả giác chi là
chúng ta đã mở rộng lòng từ, buông xả, tiêu trừ hết mọi tâm lý
nhỏ hẹp, ích kỷ, đập tan tường thành cá nhân chủ nghĩa. Vì thế cho
nên muốn cho đời sống của mình và người có hạnh phúc an vui, phải thực
hành xả giác chi: chỉ có lòng thương yêu chân thật đặt trên tư tưởng
bình đẳng mới đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
C- Kết luận
Qua những yếu tố trên, cho chúng ta một
nhận thức: chỉ có con đường thực hành bảy phương pháp đưa đến giác
ngộ (Thất giác chi) mới đem lại đời sống an vui hạnh phúc, thoát khỏi khổ
đau mà Ðức Phật đã tuyên bố: "Nước của bốn biển chỉ có một vị
duy nhất, đó là vị mặn của muối; giáo pháp của Như Lai cũng thế, chỉ
có một vị, đó là vị giải thoát"./.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn
ôn tập
1- Thất giác chi là gì?
2- Hãy giải thích tóm tắt từng giác chi.
3- Trong những giác chi thì giác chi nào giúp
cho người Phật tử xây dựng quyền tự do cá nhân tuyệt đối?
4- Theo quan niệm của riêng từng cá nhân
thì Thất giác chi góp phần được gì trong việc xây dựng một gia đình tin
Phật có hạnh phúc? Cho thí dụ về gia đình mình sau khi ứng dụng tu tập. |
[^]
-oOo-
Bài trước
| Mục lục | Bài kế
|