|
Phần
I - Bài 5
Bốn đề mục quán
niệm
(Tứ niệm xứ)
Thích Phước Lượng
A- Dẫn nhập
Sau khi
thành đạo, Ðức Thế Tôn đã vận dụng phương tiện để dẫn dắt
chúng sanh đến với con đường giác ngộ theo từng cấp độ tùy thuận. Bốn
đề mục quán niệm là một trong những phương pháp tu tập được
Thế Tôn thuyết giảng đầu tiên.
Giáo lý Ðức Phật thuyết giảng tuy
bao la từ nhân sinh đến vũ trụ, nhưng tựu trung vẫn xoay quanh vấn đề
con người. Lấy con người làm đối tượng quán chiếu để thấy được
vũ trụ vạn hữu, pháp môn Bốn đề mục quán niệm giúp chúng ta nhận
diện được sự thật của tự thân, tha nhân và xã hội. Ðó cũng chính là
ý nghĩa cao cả mà Ðức Phật nhắm đến khi muốn giác ngộ chúng sanh.
B- Nội dung
I- Ðịnh nghĩa
Giáo lý Phật giáo khẳng định rằng:
Muốn thấu triệt một sự vật hiện tượng nào, nhất thiết phải dùng
phương pháp quán niệm. Không có quán niệm thì không thể đánh
giá được sự vật chân thật, khách quan được. Quán là dùng trí tuệ
để tư duy, soi rọi và phân tích đối tượng, để thấu triệt
được bản chất sự vật. Niệm được hiểu một cách đơn giản là nhớ
nghĩ đến đối tượng để thực hiện một quá trình quán sát, tư
duy. Ở giai đoạn sơ khởi thì niệm là tiền đề cho quán.
Nếu không có niệm thì quán không thể xảy ra. Niệm còn có
nghĩa là ký ức lưu giữ đối tượng sau khi quán. Nếu đối tượng cho
ta một kết quả tích cực, lợi ích cho việc tu tập dẫn đến giác
ngộ, thì ta dùng niệm để nhớ nghĩ mà hành trì. Trong giáo lý Tứ
diệu đế, Bốn đề mục quán niệm được Thế Tôn tuyên giảng
ở phần Ðạo đế. Trước hết, đây là một pháp môn tu tập quân bình
về chỉ và quán. Gồm có:
1. Quán niệm về thân
2. Quán niệm về thọ
3. Quán niệm về tâm
4. Quán niệm về pháp.
Theo dõi về sự có mặt của thân, các
cảm thọ, tâm thức và các pháp, đây gọi là thiền chỉ. Ði sâu
vào quán tánh sanh diệt để thấy được bản chất của chúng, đây
gọi là thiền quán.
II- Nội dung Bốn đề
mục quán niệm
1. Quán niệm về thân:
Quán niệm về thân có nghĩa là thực
hành thiền định về thân. Thực hành phép quán niệm này để
ý thức được về sự bình yên, thanh thản trong cuộc sống hiện tại,
để thực hành nếp sống oai nghi và để thấy được mặt trái của
thân này.
a/ Quán thân thông qua hơi thở
Ðây là hình thức quán sổ tức (đếm
hơi thở). Tuy nhiên, quán thân thông qua hơi thở không chỉ có đếm hơi
thở mà còn phải theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra dài ngắn như thế nào
và biết rõ như vậy. Nói cách khác, lúc ấy ta đang ý thức và nhận
biết chính mình. Hơi thở đối với sự sống con người là tối quan
trọng. Con người có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một thời gian dài,
nhưng mạng sống sẽ kết thúc nếu thiếu thở trong vài phút đồng
hồ. Trong kinh Tứ thập nhị chương, Ðức Phật hỏi các vị Sa môn: Mạng người
sống được bao lâu? Vị thứ nhất trả lời trong vài ngày. Vị thứ hai trả lời
trong một bữa ăn. Phật bảo hai vị ấy chưa hiểu đạo. Vị thứ ba trả lời
mạng sống trong chừng hơi thở. Phật khen vị ấy là người hiểu đạo. Chúng
ta thở suốt ngày suốt đêm, nhưng ít khi chúng ta nắm bắt được hơi thở của
mình. Chúng ta quá bận bịu lo cho cái ăn cái mặc mà quên đi tính diệu
dụng của hơi thở. Chúng ta chưa quan tâm hơi thở cho buồng phổi và trái tim
của chúng ta. Khi lo lắng, cáu giận làm cho tim đập nhanh, phổi khó hấp thu
không khí, thì chính lúc này việc nắm bắt hơi thở là hết sức quan
trọng, giúp ta lấy lại trạng thái bình tĩnh của tâm và điều hòa của
thân. Khi hơi thở và thân thể được điều hòa thì trạng thái an tịnh
của thân sẽ sanh khởi.
Thật ra, việc hít vào thở ra sâu cạn
chưa phải là điều quan trọng. Ðiều quan trọng hơn cả là ta có
ý thức được trong khi thở. Phật dạy khi hít vào thở ra ta phải ý
thức theo dõi hơi thở ấy. Hơi thở ra dài, ngắn thì phải biết là dài,
ngắn thật sáng suốt và tỉnh táo. Ngày nay trong cuộc sống văn minh hiện
đại, con người hoạt động như con thoi trong khung cửi. Con người có thể
thực tập phép quán niệm hơi thở để đem lại sức khỏe cũng như năng
suất công việc. Ở mức độ cao hơn, nó giúp hoàn thiện và phát
triển trí lực.
b/ Quán thân thông qua các cử chỉ hoạt
động
Ðây là hình thức quán thân thông qua đi,
đứng, ngồi, nằm, các hoạt động khác của thân, nhằm kiểm soát hoạt
động của thân bằng chánh niệm. Có nghĩa là dùng chánh kiến để
duy trì và phát huy chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Thật ra, ý nghĩa của việc quán
niệm là nhằm tập trung tư tưởng để sanh khởi ý thức. Ðức Phật
khuyến cáo người Phật tử phải ý thức trong từng hành động dù nhỏ
nhặt nhất. Cũng như ý thức về hơi thở, khi đi ta biết mình đang
đi, khi đứng biết mình đang đứng... Biết như vậy để cảm nhận
hành động được trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Sống như vậy là
sống trong chánh niệm, sống trong tỉnh thức và trong an lạc. Ý thức về
bước đi của mình để thấy rằng ta đang đi giữa đất trời mây nước,
với cỏ cây hoa lá chim muông... Mỗi bước đi của ta đang hòa với cảnh
vật, không gian và thời gian, hòa với cả vũ trụ bao la, và vũ trụ bao la đang
có mặt trong mỗi bước đi của mình. Ý thức rằng lời nói ta đang nói có
mặt của tham lam, sân hận hay không. Bởi vì ngôn từ mà ta nói ra đều hàm
chứa những tâm tư, suy nghĩ của mình. Trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta
không có đủ bản lĩnh để ý thức và kiểm nghiệm về mình.
Cuối cùng ta chỉ có ý thức về sự nông nổi, và cuộc sống bị đánh
mất trong giây phút hiện tại.
Thường thì trong cuộc sống, chúng ta bị chi
phối bởi quá khứ và tương lai. Do vậy, ta không thưởng thức được hạnh
phúc hiện tại. Hãy nhìn một người đang ngồi trong giảng đường nghe
pháp, nhưng tâm người ấy đang nghĩ đến số tiền cho vay chưa lấy lại
được và đang tìm cách lấy lại trong một ngày gần đây. Thử hỏi người ấy
có cảm nhận trọn vẹn nguồn pháp lạc hay đang vun đắp cho một mối lo toan
sầu não? Do vậy, ý nghĩa thật sự của việc tỉnh thức đối với hoạt
động của thân là sống với hành động hiện tại. Khi ta ý thức, tỉnh
táo trước một hành động thì có hai khả năng xảy ra: hoặc ta đang đắm mình
trong hành động, sống với hành động mà không nghĩ gì khác ngoài chánh
niệm, giác tỉnh, không thấy mình trong hành động thì ngay đó đã là một
kết quả tốt đẹp rồi. Hoặc là ta tự ý thức đến cái
"tôi" trong hành động, tức tư duy hữu ngã gắn liền với hành
động. Như vậy, ý thức về hành động của thân để nhiệt tâm
tinh cần thì đó là ý nghĩa đích thực của chánh niệm tỉnh giác. Còn
khi ý thức ta đang hành động gắn liền với cái "tôi" thì đó
là bước đầu quay về với sự tự chủ trong dòng vận hành của tự thân.
Như vậy, quán thân thông qua các hành động
nhằm giúp ta kiểm soát hoạt động của thân bằng chánh niệm, để
thực tập oai nghi chánh hạnh, đưa ta trở về sống với hiện tại; xa lìa
lối sống tìm cầu hạnh phúc bằng tưởng tượng, bằng mong cầu và bằng hồi
tưởng.
c/ Quán thân bất tịnh thông qua các bộ phận
sai biệt cấu thành
Bình thường ta ít khi để ý đến
thân thể của mình một cách chi tiết. Ta chỉ quan tâm nó về những
nhu cầu như ăn uống, ngủ nghỉ... làm thế nào cho có sức khỏe, cho thân
hình cân đối đẹp đẽ. Ta tự hào và trân quí thân ta, vì dưới con mắt
mọi người ta có được một thân thể đẹp đẽ, nhan sắc... Ta nâng niu,
nuôi dưỡng và bảo vệ nó tối đa. Ngược lại ta thật khổ đau và hổ thẹn
khi ta có một khuyết tật nào đó trên thân như mắt lé, mũi tẹt... ta cảm
thấy khổ tâm khi đối diện với mọi người.
Thế nhưng dù đẹp hay xấu, thân này vẫn
là bất tịnh, là duyên sinh, vô thường, vô ngã. Trong quan điểm truyền
thống của Phật giáo, thân con người là do tứ đại hợp thành, tức bốn
yếu tố: đất, nước, gió, lửa, hay còn gọi là bốn giới: địa giới là
chất rắn (xương, thịt), thủy giới là chất lỏng (máu, mủ...), hỏa giới là
sức nóng (nhiệt độ), phong giới là sức động (hơi thở).
Trong kinh Niệm xứ (Trung Bộ I), Ðức Phật
đã dạy phương pháp quán sát thân tứ đại như sau: quán từ lòng bàn chân
lên đến đỉnh tóc được bọc bởi lớp da và chứa đầy những thứ sai
biệt bất tịnh. Không những thế, thân này bất tịnh ngay khi còn nằm
trong bụng mẹ, hấp thụ huyết khí mà sống. Sự bất tịnh và tính giả hợp
của thân này càng được biểu lộ rõ hơn, mạnh mẽ hơn khi ta quán một thi
thể quăng ngoài nghĩa địa. Bước thứ nhất là quán thi thể trương
phồng lên, thối rữa ra. Bước thứ hai quán thi thể ấy bị các loài chim và
côn trùng ăn thịt. Bước thứ ba quán thi thể ấy chỉ còn lại bộ xương
kết dính với nhau nhờ vào các sợi gân. Bước thứ tư là quán thi thể
ấy chỉ còn lại các đốt xương trắng rời rạc, theo thời gian tan hoại thành
bột trắng. Trong khi quán niệm như vậy, người Phật tử biết rõ rằng:
"Thân này tính chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi
tánh ấy". Ðấy là lời khẳng định chắc thật của Thế Tôn. Thân này
chịu sự chi phối của sanh, già, bệnh, chết. Thời gian trôi qua thì mạng
sống cũng giảm dần. Một thân thể mà ta yêu chuộng ngày nào giờ đây chỉ
còn lại đống tro tàn nguội lạnh. Xấu - đẹp, giàu - nghèo, sang - hèn...
đều như thế cả.
Tuy nhiên, quán thân là bất tịnh, là vô
thường không có nghĩa là ta bi quan về nó, bỏ rơi hay hủy diệt nó.
Ðức Phật không cho phép người Phật tử bi quan về bất cứ một điều
gì trong cuộc sống. Nếu chúng ta thấy được mặt trái của thân mà bi quan,
tức chúng ta tự hủy hoại thân mình. Ðó là đi ngược lại lý tưởng cao
đẹp của Thế Tôn.
Bởi lẽ, mục đích của quán thân bất tịnh
là nhằm đưa con người vượt khỏi những vướng mắc, quị lụy đau khổ chấp
trước vào thân này. Quán như vậy nhằm để đối trị lòng ham muốn sắc
dục.
Tóm lại, quán thân có thể được
hiểu trên hai mặt: quán phần thô và quán phần tế. Phần thô là quán
các hoạt động bên ngoài của thân như đi, đứng, ngồi, nằm... Phần tế
là quán thân này do tứ đại hợp thành, được kết cấu với nhau qua các
thứ bất tịnh.
2. Quán niệm về thọ:
a/ Thọ là gì?
Thọ là nói tắt của cảm thọ. Khi
nhận lấy một vật gì, hay chấp nhận một điều gì thì gọi là thọ.
Thọ gồm có thân thọ và tâm thọ. Hai mặt này tương tác với nhau.
Có thể thân thọ mà tâm không thọ, hoặc thân và tâm đồng cảm
thọ. Từ ý này, ta có nội dung của thọ gồm có ba trạng thái: lạc
thọ là tâm lý hưng khởi sung sướng, thích thú trước đối tượng.
Khổ thọ là trạng thái tâm lý khổ não, buồn chán... Bất khổ bất lạc
thọ là tâm lý trung dung, không thiên lệch về phía lạc cũng
như về phía khổ. Ta có thể hiểu rằng: lạc thọ và khổ thọ
là tâm lý chủ quan, bất khổ bất lạc thọ là tâm lý khách quan.
Cảm thọ là cơ sở không thể
thiếu được trong việc hình thành tâm thức của con người. Do vậy,
quán niệm về cảm thọ chính là khảo sát tâm lý con người.
b/ Nội dung của quán niệm về thọ
Ðể cảm thọ có mặt, điều tất
yếu phải hội đủ ba yếu tố: nội căn, ngoại trần và xúc. Kinh Tương
Ưng III, Ðức Phật dạy rõ: "Thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc
sanh... thọ do ý xúc sanh. Do xúc sanh khởi nên thọ sanh khởi, do xúc
đoạn diệt nên thọ đoạn diệt". Sáu xúc xứ là những ấn
tượng về tình cảm liên hệ mật thiết với tất cả nhận thức của
sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý khi đối diện với sáu
cảnh trần tương ứng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Cơ sở của những cảm
thọ khổ, vui, trung tính là gì? Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, do
duyên tiếp xúc với lạc nên lạc thọ khởi. Do duyên tiếp xúc với
khổ nên khổ thọ khởi. Do duyên tiếp xúc với bất khổ bất lạc nên bất
khổ bất lạc thọ khởi" (theo kinh Trung Bộ III, số 140). Và làm thế
nào để nhận diện được thọ? Ðó là phải có mặt của ý thức.
Khi căn và trần duyên nhau, nếu không có ý thức về nó thì sẽ
không có cảm tưởng về lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc
thọ. Khi ta nhìn vào một bông hoa thì có hai khả năng xảy ra: hoặc có sự
đánh giá xấu đẹp, hoặc không có một sự đánh giá nào. Nếu ý thức
được bông hoa đẹp, có hương thơm... thì cảm giác lạc thọ sẽ sanh
khởi. Nếu bông hoa có những điểm dị ứng với ta thì ta cảm thấy khó
chịu, khi đó cảm giác khổ thọ sanh khởi. Còn khi nhìn bông hoa ta vẫn cảm
nhận được sắc đẹp, hương thơm hoặc những dị ứng khó chịu, nhưng ta không
bận tâm về nó, không thích thú cũng không buồn chán. Ðó là trạng thái
tâm lý không khổ không vui sanh khởi. Ðức Phật khẳng định: "Khi thức
được trong sạch, trong trắng, vị ấy biết được một số sự việc nhờ
thức ấy. Vị ấy thức tri được lạc, được khổ, được bất lạc bất khổ"
(sđd).
Chúng ta thọ những gì và tại sao nói
thọ là khổ? Cả ba trạng thái lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc
thọ có thể thuộc về vật chất, có thể không thuộc về vật
chất; thuộc về nội thọ hay thuộc về ngoại thọ. Ta thọ nhận
cái thân này là của ta, là ta. Muốn thân này tồn tại và đẹp đẽ, ta
thọ nhận thực phẩm và y phục, những nhu cầu trang bị cho cuộc sống; và
luôn có khuynh hướng muốn thọ nhiều hơn để chứng tỏ "cái
ta" với cuộc đời. Thọ càng nhiều chúng ta càng thấy hạnh phúc,
nhưng thực ra sự đau khổ luôn có mặt cùng niềm hạnh phúc. Con người
luôn lo sợ cái thân này chết sớm không thọ hưởng được của cải vật
chất đã tạo ra. Ðồng thời họ luôn lo sợ của cải bị đánh cắp và thật
khổ đau khi điều ấy xảy ra. Khi sa cơ lỡ vận trở nên trắng tay con người
lại càng đau khổ, cuộc đời đối với họ bây giờ là một bờ vực thẳm.
Ðó là nỗi khổ của những lạc thọ thuộc vật chất. Cảm thọ
tiền tài, danh vọng địa vị, tiếng khen, lời chê, lòng tham, sân
hận, lòng yêu thương của người... là những cảm thọ không thuộc vật
chất. Khi sáu căn duyên sáu trần sinh ra cảm thọ thì đây thuộc về
ngoại thọ. Cảm thọ về các trạng thái thiền lạc gọi là nội
thọ. Chung qui dù cảm thọ thuộc vật chất hay không vật chất đều do
tâm bị ràng buộc trong ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy (tức các ham muốn
về tiền bạc - của cải, sắc đẹp, danh vọng - địa vị, ăn ngon, ngủ
kỹ). Tuy nhiên, cảm thọ đưa đến khổ đau hay an lạc tùy thuộc rất
nhiều vào mức độ giác ngộ của chúng ta. Ðối với người Phật tử có tu
tập, có trí tuệ quán chiếu thì luôn làm chủ được tâm mình trước
những cảm thọ. Biết cảm giác ấy là vô thường và sẽ dễ bị trói
buộc bởi cảm giác ấy, người Phật tử không nhận cảm thọ ấy bằng dục
vọng. Sống trong lạc thọ nhưng không hệ lụy, sống trong khổ thọ
nhưng không khổ đau cùng cực vì có quán sát và liễu tri được bản chất
của chúng.
3. Quán niệm về tâm:
a/ Tâm là gì?
Khi bàn về tâm là bàn đến một vấn
đề phức tạp bởi vì khó mà định nghĩa tâm như thế nào. Ta không
thể nói tâm là... như nói đến một sự vật cụ thể. Vì lẽ, nói
đến con người là nói đến hoạt động của thân và tâm. Hoạt động
của thân thuộc phần thô, hoạt động của tâm thuộc phần tế. Tuy thế,
ta vẫn nắm bắt và nhận diện được nó. Ta vẫn thường nghe nói đến
tâm qua các khái niệm: tâm thiện, tâm ác, tâm ích kỷ, tâm tham,
tâm sân... Tất cả đều là những biểu hiện của tâm trong đời
sống. Trong cùng một thời điểm không thể có hai niệm đồng tồn
tại. Tâm thiện đang hoạt động thì vắng mặt tâm ác, tâm tham hoạt động
thì vắng mặt tâm bố thí (tâm từ)...
b/ Nội dung của quán niệm về tâm
Quán tâm tức là ta đang dùng tâm để
quán tâm, ngay trong bản thân của tâm mà không phải quán sát một đối tượng
nào khác ngoài tâm. Tức là ta đang ý thức về tâm mình để thấy
được sự có mặt và hoạt động của nó. Như đã đề cập, con người năm
uẩn được chia làm hai phần thân và tâm. Thân thuộc về sắc, và tâm
chính là thọ, tưởng, hành, thức. Thân và tâm có một sự liên hệ mật
thiết với nhau. Thân là cơ sở hoạt động của tâm và tâm mượn thân
để biểu hiện. Tâm là vô hình nhưng nó có những đặc tính của
thân. Nó có thể xúc chạm được (giao cảm), nó cũng có cảm giác đau khổ
và an tịnh. Vì vậy mà con người luôn tồn tại một căn bệnh trầm kha khó
chữa: tâm bệnh. Thân bệnh là do năm căn bất hòa (thiếu ăn,
thiếu uống, thiếu thuốc men...). Tâm bệnh thì có nhiều nguyên
nhân, nhưng nguyên nhân chính là do tham, sân, si: những vi trùng gây bệnh.
Tham về của cải vật chất, địa vị, tình cảm... Tham không được thì sân
hận, khổ đau sầu não mà sinh ra bệnh. Và thân bệnh có thể đưa
đến tâm bệnh và ngược lại. Có khi thân bệnh nhưng tâm không
bệnh, và có khi tâm bệnh đưa đến thân bệnh.
Tâm chúng ta không cố định tại một chỗ
nào cả, mà nó thường xuyên biến chuyển từ trạng thái này sang trạng
thái khác, tùy theo điều kiện khách quan hay chủ quan của chủ thể
và đối tượng. Trong Phật giáo, tâm thường được ví như con vượn leo cây,
chuyền từ cành này sang cành khác suốt ngày. Niệm trước như vậy
niệm sau đã khác, sanh diệt liên tục như dòng thác đổ. Hôm nay yêu
thương người hết mực, ngày mai lại ghét bỏ. Tâm là do nhân duyên sanh
diệt. Do vậy, tâm không phải là một thực thể tồn tại độc lập. Trên
cơ sở đó, tâm không có cái ngã của nó. Tâm sanh là do sắc, thọ,
tưởng, hành và thức. Bản thân của các yếu tố này cũng do duyên sinh, vô
thường, vô ngã. Cho nên tâm cũng vô thường - vô ngã. Ðức Phật dạy:
"Này các Tỳ kheo, chấp tâm thức là thường còn, còn sai lầm và tệ
hại hơn là chấp thân xác là thường còn. Vì thân xác người còn có thể
tồn tại vài chục năm cho tới một trăm năm, còn tâm thức của người thì sanh
diệt đổi thay trong từng giây phút" (Tạp A Hàm, T.II). Thật nguy
hiểm khi chấp rằng tâm là thường còn, là bất biến. Nếu chấp như
vậy thì cuộc đời này quả là một xã hội bất bình đẳng và mãi mãi rối
loạn, băng hoại. Vì nhân tâm con người không thể thay đổi được. Vai
trò của giáo dục, đạo đức sẽ không có giá trị. Người tham vẫn cứ tham,
người sân vẫn cứ sân. Không có quá trình tu tập đi đến giác ngộ giải
thoát. Chúng ta biết rằng nghiệp là do tâm tạo, mà đã chấp tâm là
thường thì làm sao chuyển đổi được nghiệp. Như vậy, trầm luân vẫn
cứ trầm luân, không thể khai phóng trí tuệ để đi vào giác ngộ.
4. Quán niệm về pháp:
a/ Pháp là gì?
Chữ "pháp" không có nghĩa giới hạn
ở những sự vật cụ thể thuộc về thế giới vật chất không tri giác.
Theo giáo lý đạo Phật, chữ pháp được hiểu với ý nghĩa rộng
rãi, bao hàm cả vũ trụ và nhân sinh, vật chất và tinh thần, tâm lý và
vật lý. Pháp được chia làm hai nhóm: sắc pháp và tâm pháp. Sắc pháp có
hình chất gây trở ngại và không có tri giác; như cái bàn, cái cây, ly
nước... Tâm pháp là pháp không có hình tướng, không thể nhìn thấy
được, nhưng có tri giác. Ở đây , con người hội đủ hai pháp ấy. Ðó
chính là con người ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc pháp là
sắc trong 5 uẩn (thân thể vật lý). Tâm pháp là thọ, tưởng, hành,
thức; là thế giới tâm thức nội tại mà tác dụng của nó là suy lường,
tư lự... để biểu hiện các trạng thái tâm lý buồn, vui... Ví
dụ sự dao động của tâm khi hoạt động của năm Triền cái và năm
Thiền chi (1), hay hoạt động của Thất giác chi (2).
b/ Nội dung của quán niệm về pháp
Con người là đối tượng để thực hành
quán niệm pháp. Vì nó hợp đủ sắc pháp và tâm pháp. Người Phật tử
quán chiếu thân ngũ uẩn để ý thức được mối liên hệ giữa
bản thân và vũ trụ vạn hữu. Nếu không có vũ trụ thì hợp thể ngũ
uẩn này không có được. Từ thực tính này ta càng thấy rõ về ý
nghĩa vô ngã của các pháp.
Trong các kinh - luận của Phật giáo Phát
triển, vô ngã bao gồm pháp vô ngã và nhân vô ngã, hay sắc pháp vô ngã
và tâm pháp vô ngã. Ở đây sắc pháp được chỉ chung cho thân người và
các pháp ngoại giới. Sắc pháp và tâm pháp đều nương vào nhân duyên mà
thành nên chúng là hư vọng. Kinh Lăng Nghiêm dạy: "Nhân duyên hòa
hợp hư vọng hữu sanh, nhân duyên ly tán hư vọng hữu diệt". Khi
nhìn vào cốc nước chanh, nó không có tự ngã của nó. Vì nó không phải là
một thực thể độc lập, mà nó chỉ có mặt trong mối tương quan duyên
khởi: nào là nước, nào là đường, là chanh... Tâm của ta cũng vậy, nó tùy
thuộc vào nội căn ngoại cảnh, vào xúc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi chủ
thể nhận thức và đối tượng nhận thức đều duyên sinh vô ngã thì
còn một cái ngã nào để tồn tại mà chấp trước.
Cần nói thêm rằng, thân và tâm chỉ tồn
tại trong một thời gian nào đó rồi theo qui luật sinh - thành - hoại - diệt
mà mất đi. Thân không thể tồn tại ngoài tâm, tâm không thể tồn tại
ngoài thân. Cũng như sắc không thể tồn tại ngoài thọ, tưởng, hành,
thức. Do vậy, Phật giáo không chấp nhận một linh hồn trường cửu sau khi sắc
thân hủy diệt. Sở dĩ có một tư tưởng về một linh hồn trường cửu
và xem đó là ngã, là do khẳng định tính tự tồn của con người theo thời
gian vô tận. Ý tưởng về một linh hồn, ngã như vậy - theo Phật giáo là
thật sai lầm và trống rỗng. Ðó chỉ là một khái niệm vọng tưởng
của tâm thức sai lạc không thể có mặt trong thực tại.
III- Ý nghĩa nhất quán
và lợi ích thiết thực khi tu tập Bốn đề mục quán niệm
Khi chọn Bốn đề mục quán niệm
để tu tập, chính là tu tập tự thân. Bởi vì giải thoát sanh tử luân hồi
cho con người là mục tiêu chính mà Ðức Phật nhắm vào cuộc đời này.
Hiểu được chính mình thì hiểu được tha nhân và vạn hữu. Thấy
được nhân duyên sanh diệt, vô thường, vô ngã trong con người thì thấy
được các pháp khác cũng như thế.
Tính vô thường nơi con người là ấn tượng
mạnh mẽ nhất làm ta thức tỉnh. Một con vật hay một cây xanh chết không
đủ sức mạnh cho ta giác tỉnh bằng chính bản thân con người. Trong quá trình
quán niệm các đề mục ấy, ta thấy chúng có chung một đặc điểm
về mặt bản thể - đó là tính nhân duyên sanh diệt, vô thường, vô
ngã. Ðó cũng là đặc tính chung cho tất cả các pháp hữu vi(3). Thật ra, nói
quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường chỉ là một cách nói để làm
nổi bật lên đặc điểm biểu hiện rõ nét nhất của chúng mà thôi.
Ví dụ thân bất tịnh thì rất dễ nhận diện. Thân bất tịnh là chính nó
bất tịnh. Còn tâm bất tịnh thì vi tế hơn.
Do vậy, pháp quán niệm này trước
hết là đưa thân và tâm trở về sống với giây phút hiện tại. Xua
đuổi quên lãng và phân tán để duy trì chánh niệm và duy trì sự
sống. Bốn đề mục quán niệm là giáo lý thực tiễn được rút ra
từ những thể nghiệm thiết thân trong đời sống. Ðó cũng là
yếu lý trong giáo lý đạo Phật: không tách rời cuộc sống, mà liên
hệ mật thiết với đời sống. Khi quán niệm về thân là quán
niệm về phương diện vật lý, tức là thấy được sự tổng hợp
các yếu tố vật chất cụ thể tạo nên thân người và thấy được sự
bất tịnh của thân khi còn sống cũng như khi chết nhằm đối trị lòng ham
muốn sắc dục. Quán niệm về cảm thọ và tâm thức là quán niệm
trên phương diện tâm lý, tức là thấy được sự sanh khởi và sự
biến chuyển vô thường của tâm, nhằm để hiểu biết tâm và
làm tâm thanh tịnh. Quán niệm về pháp để thấy tính vô ngã mà xa
rời chấp trước. Bát Nhã Tâm kinh dạy: "Khi Bồ tát Quán Thế Âm quán
chiếu về hợp thể ngũ uẩn và phát hiện ra cái trống rỗng
của tự ngã thì Ngài vượt qua tất cả mọi khổ đau ách nạn". Khi sự
thăng trầm và tính cách vô thường của vạn hữu không chi phối đời sống tâm
linh nội tại thì ta vượt qua được khổ đau như Bồ tát Quán Âm vậy.
Ðức Phật đã khẳng định lợi ích của
việc tu tập Bốn niệm xứ này: "Ðây là con đường duy nhất đưa
đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn" (Kinh Niệm xứ, Trung Bộ
I).
C. Kết luận
Ðối với cuộc sống thực tại, nếu Bốn
đề mục quán niệm được tu tập thì con người sẽ phần nào vượt qua
được những chướng ngại liên hệ đến thân và tâm. Tập khí thế
gian khiến con người khó có thể vượt qua những căn bệnh tâm sinh
lý được xem như là bản năng tiềm ẩn. Con người luôn có chiều
hướng sống trong dục vọng, khát ái. Khi bản năng không được giáo dục
thì khổ đau vẫn còn chồng chất. Hướng giáo dục của Bốn đề mục quán
niệm lấy tự tâm và tự thân làm cơ sở. Dù được giáo dục qua Bốn
đề mục quán niệm, thấy rõ bản chất con người và sự vật là như
vậy, thấy được sự tác hại khi đắm trước, thấy được lợi ích khi xuất ly,
nhưng thông thường chúng ta chưa có đủ bản lĩnh để tự chủ và giới
hạn mình trước sức mạnh của lòng ham muốn. Ðó là do chúng ta chỉ mới
hiểu vấn đề mà chưa thực sự hành trì. Cần chú ý rằng, người
học Phật khác với người tu Phật. Học Phật chỉ để làm giàu
kiến thức Phật học, thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, là người chỉ mới
đứng ngoài ngõ mà chưa vào trong nhà. Người học Phật lại vừa tu Phật
mới chính là người thực sự sống và hành trì theo chánh pháp. Chính những
người này mới có được hạnh phúc lâu dài, thành tựu đạo hạnh và có khả
năng chứng ngộ. Cái hiểu chưa phải là vốn sống thực sự của người cầu
đạo. Hành trì mới là vốn sống, là cốt lõi của người Phật tử trên bước
đường tìm về giải thoát./.
* Chú thích:
(1) Năm triền cái: là năm sự ngăn che
trí tuệ, là chướng ngại cho việc tu tập thiền định gồm: tham dục,
sân hận, hôn trầm - thụy miên, trạo cử, nghi.
Năm thiền chi: có bản chất ngược lại
với năm triền cái. Chúng là những yếu tố nhiếp phục năm triền
cái để đưa tâm vào định. Gồm: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.
(2) Thất giác chi (còn gọi là Thất Bồ
đề phần): là bảy phương tiện đưa đến giác ngộ, gồm: trạch
pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
(3) Pháp hữu vi: các pháp sinh ra do nhân
duyên tạo tác, đối lại với pháp vô vi là không do nhân duyên tạo tác, đó
là chân như, Phật tánh.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn
ôn tập
1- Trình bày sơ lược nội dung các
đề mục quán niệm.
2- Học viên hãy trình bày các lợi ích
thiết thực khi tu tập Bốn đề mục quán niệm theo kinh nghiệm bản
thân. |
[^]
-oOo-
Bài trước
| Mục lục | Bài kế
|