| 
         THIÊN THỨ 
        MƯỜI BA (b) 
        NHỮNG 
        CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM  
        TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
        -ooOoo- 
        
        CẮM THẮNG 
        TƯỢNG NÀLÀGIRÌ 
        NÀLÀGIRIM GAJAVARAM 
        ATIMATTABHÙTAM 
        DAVAGGICAKKAMASANIVA SUDARUNANTAM 
        METTAMBUSEKAVIDHINÀ JITAVA MUNINDO 
        TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI. 
        Nghĩa: Ðức Phật đã 
        cảm thắng voi Nàlàgirì (Na la gi ri) đến cơn hung ác, dữ tợn 
        như lửa rừng, như sấm sét, nhờ rải lòng Từ bi mà đức 
        Chánh Biến Tri cảm hóa được voi ấy. Do nhờ Phật lực nầy, 
        xin cho hạnh phúc phát sanh đến người. 
        Chuyện nầy tôi đã 
        có tường thuật trong Thiên thứ tư nhưng chỉ tóm tắt sơ 
        lược thôi. Nên nơi đây tôi xin giải rõ thêm cho đủ tám 
        điều thắng hóa của đức Thế Tôn mà các bực Thánh nhơn 
        khi xưa hằng ca tụng. 
        Ðệ tử Phật là ông 
        Ðề Bà Ðạt Ða muốn thay Phật để dạy dỗ chư Tăng, 
        nhưng đức Phật không nhận lời, tức giận tìm thế hại 
        Phật đủ điều nhứt là thả tượng Nàlàgirì ra giết Phật. 
        CHUYỆN TÍCH 
        Ðề Bà Ðạt Ða không 
        sao hại được đức Thế Tôn nên ông mới vào thăm đức 
        vua A Xà Thế xúi Ngài thả tượng Nàlàgirì là tượng trận 
        hung dữ nhất không tượng nào bằng, nhứt là khi được uống 
        tám tĩn rượu to. Khi thả tượng ra giết Phật, đức vua A 
        Xà Thế dạy quản tượng hãy cho tượng uống rượu gấp 
        đôi là mười sáu tĩn rượu to, còn Ðề Bà Ðạt Ða là người 
        trông nom sắp đặt việc làm cho chu đáo. 
        Tất cả tín đồ hay 
        biết tin ấy mới vào hầu Phật và bạch cho Ngài rõ chuyện 
        sắp xảy ra, yêu cầu Ngài đừng đi khất thực. 
        Ðức Thế Tôn liền 
        dùng Tuệ giác quan sát: Sáng ngày mai ta sẽ hóa độ tượng 
        và không cho tượng ấy còn hung ác nữa, mà cũng nhân cơ hội 
        nầy hóa độ rất nhiều người ngoại đạo hồi đầu hướng 
        thiện. Sau khi hóa độ tượng xong ta dẫn chư Tăng vào 
        thành Vương Xá khất thực. 
        Rạng đông sáng hôm 
        sau đức Thế Tôn dùng trí tuệ xem coi chúng sanh nào có 
        duyên với Ngài trong ngày ấy. Ngài thấy rằng: Nếu sáng 
        ngày, Ngài vào thành khất thực cảm hóa được tượng Nàlàgiri 
        thì Ngài sẽ độ được tám muôn bốn ngàn người. 
        Khi mặt trời mọc lên, 
        đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành khất thực, Ngài dạy 
        Ðại Ðức Ananda: Ngươi hãy cho chư Tăng trong mười tám 
        chùa tại thành Vương Xá tựu tại Kỳ Viên tịnh xá. Ðức 
        Ananda vâng lời cho chư Tăng hay. Khi chư Tăng tựu hội lại 
        đủ đức Thế Tôn dẫn vào thành Vương Xá khất thực. 
        Những người quản tượng 
        đã chuẩn bị sẵn là cho tượng uống rượu xong, khi trông 
        thấy đức Thế Tôn liền thả tượng ra để giết Phật. 
        Tất cả thiện nam tín 
        nữ, dân chúng và những người ngoại đạo kẻ leo lên nóc 
        nhà người leo lên cây, người thì ở trên lầu để xem coi 
        tượng làm gì Phật. Thiện tín thì tin rằng: Phật sẽ cảm 
        hóa tượng, còn ngoại đạo thì nghĩ tượng sẽ giết Phật, 
        dân chúng chỉ mong thấy kết quả thôi. 
        Tượng Nàlàgirì trông 
        thấy đức Thế Tôn từ xa ngự đến, tỏ vẻ rất hung 
        hăng chân dậm đất bụi bay mịt mù, miệng gầm thét thật 
        là kinh khủng. Khi tượng được thả ra lập tức nhắm hướng 
        đức Thế Tôn đang ngự đi chạy đến, coi hình như là nó 
        quyết giày đạp Ngài cho tan nát. Chư Tăng còn phàm thấy vậy 
        kinh sợ bỏ đứng vẹt ra một bên đường. Khi ấy Ðại Ðức 
        Xá Lợi Phất xin đức Thế Tôn để Ngài cảm hóa tượng dữ 
        ấy nhưng đức Thế Tôn không nhậm lời; tuần tự đến các 
        chư đại đệ tử nhưng không vị nào được phép. Trong khi 
        ấy tượng đã đến gần lắm rồi mà đức Thế Tôn vẫn 
        thản nhiên, làm cho Ðại Ðức Ananda nóng lòng, vì tất cả 
        chư đệ tử có thể nói là không ai thương Phật bằng Ðại 
        Ðức Ananda , vì Ngài còn là bực hữu học nghĩa là mới đắc 
        quả Tu-đà-hườn vẫn còn mến thương vạn vật. Ðại Ðức 
        Ananda thấy tượng đến gần Ngài liền ra đứng cản tượng 
        trước mặt Phật. Ðức Thế Tôn thấy Ðại Ðức Ananda 
        hành động như vậy. Ngài liền dạy rằng: Ananda , ngươi hãy 
        đứng dang ra, nhung Ngài vẫn không vâng lời. Ðức Thế Tôn 
        dùng lòng Từ Bi làm cho tượng kinh sợ chạy đi nơi khác. 
        Trong khi ấy, có một 
        người phụ nữ bồng con nhỏ thấy tượng chạy đến gần 
        mình nên kinh sợ bỏ con nằm trên đất chạy thoát lấy 
        thân. Khi tượng không rượt theo kịp cô ấy, liền trở lại 
        đi quanh bên đứa trẻ. Ðức Thế Tôn thấy vậy thương hại 
        đứa bé Ngài liền rải lòng từ bi đến tượng và gọi: Nầy 
        Nàlàgirì hãy dừng lại. Tiếng của Ngài rất thanh và rất 
        mềm dịu, vì lòng từ bi đánh thức trí giác của tượng. 
        Tượng liền quay lại ngó ngay vào Phật, trông thấy đức 
        Thế Tôn mặt đầy vẻ từ bi hào quang chiếu sáng, chung 
        quanh Ngài có chư Thánh nhơn giới đức trang nghiêm, thật 
        là một cảnh huy hoàng trang nghiêm và đầy từ ái. Tượng 
        phát tâm tín thành trong sạch với Phật bảo và Tăng bảo, 
        nhìn lại tội lỗi của bản thân lấy làm hổ thẹn, chất 
        rượu tiêu tan mất hết, từ từ tiến đến bên Phật và 
        quì xuống. 
        Ðức Thế Tôn liền dạy 
        rằng: Màkinjaranàgapara v.v... Sugati gamissasìti , nghĩa: Hỡi nầy 
        tượng Nàlàgirì, ngươi không nên si mê. Lẽ cố nhiên những 
        điều tội lỗi là ác pháp, hằng đưa đến sự thống khổ 
        trong lòng ngươi, hãy làm cho tâm ngươi trong sạch, không 
        nên để cho tâm nóng nảy bực bội vì tội lỗi nặng nề. 
        Nên tập cho tâm hiền từ lương thiện thêm càng nhiều 
        càng quí. Sau khi ngươi chết sẽ được sanh về cõi trời hưởng 
        an lạc. 
        Dứt lời dạy bảo của 
        đức Thế Tôn tâm tượng sanh hỉ lạc rất mạnh. Nếu tượng 
        là con người thì đã đắc Tu-đà-hườn trong khi ấy. Kể từ 
        giờ phút ấy trở đi tượng Nàlàgirì trở nên hiền từ 
        không khác con mèo con, nên lại đổi tên là DHÀNAPÀLA (có 
        nghĩa là người giữ lấy di sản quí). 
        Trong khi đức Thế Tôn 
        dạy tượng Nàlàgirì thì có tám muôn bốn ngàn người nghe 
        lời dạy bảo ấy mà đắc đạo quả, và có rất nhiều người 
        xin thọ Tam qui trì ngũ giới. 
        Ðến chiều chư Tỳ 
        khưu hội đến nơi đức Thế Tôn thường thuyết pháp bàn 
        với nhau về việc buổi ban sáng và chuyện Ðại Ðức 
        Ananda hy sinh cho Phật. Các vị ấy có vị nói: Thật ra Ðại 
        Ðức Ananda là vị đệ tử chí hiếu biết ân thầy dám đứng 
        ra chịu chết thế cho thầy, đây chuyện thế gian hi hữu vậy. 
        Khi đức Thế Tôn ngự 
        đ?n nghe và biết các thầy đang nói chuyện ban sáng. Ngài liền 
        dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, chẳng phải Ananda mới 
        hy sinh đời sống nầy cho ta trong kiếp nầy đâu. Kiếp quá 
        khứ cũng đã từng hy sinh cho Như Lai rồi. 
        Chư Tỳ khưu yêu cầu 
        đức Thế Tôn thuyết Túc Sanh truyện. 
        Ðức Thế Tôn dạy; Kiếp 
        quá khứ có đức vua tên SAGALABRAHMADATTA ngự trị tại xứ 
        Sàgala. Gần thành Sàgala có một người thợ săn ở tại làng 
        Nesàdagàma. Tại xứ Sàgala có một cái ao to đến mười hai 
        do tuần, trong ao ấy có nhiều thứ sen đủ màu thật đẹp. 
        Ðồng thời ấy có một bầy hạc chín muôn con; hạc chúa 
        tên là Dhatarattha và một hạc phó tên là Sumukha, bầy hạc 
        nầy thường ở tại núi tên Gittrakuta. Ngài nọ có ba con hạc 
        đến tắm chơi ở ao gần thành Sàgala. Khi trở về thuật lại 
        cho Hạc chúa nghe, và mô tả nơi ấy thật là đẹp có vật 
        thực, ao to, bông nhiều v.v... 
        Hạc chúa là một vị 
        Bồ Tát nên có nhiều trí tuệ, Ngài sợ có tai hại cho đoàn 
        nên Ngài cấm không cho hạc đến nơi ấy, nhưng ba con hạc 
        ấy cứ theo yêu cầu nhiều lượt. Ðức Bồ Tát mới dẫn 
        đoàn hạc đi đến nơi ấy chơi và tìm thức ăn. Vì vô ý 
        chân của đức Bồ Tát bị mắc vào bẫy của người thợ 
        săn. Ðức Bồ Tát không dám la, sợ kinh động bầy không 
        dám ăn no. Sau khi biết đoàn đã ăn no, Ngài liền hét to 
        lên, đoàn hạc nghe tiếng hét ấy kinh khủng bay hết. Chỉ 
        có hạc Sumukha nghĩ rằng: Tiếng hét của chúa ta bất thường, 
        chắc Ngài đã bị tai nạn chi đây. Nghĩ vậy lập tức bay 
        thật mau để kiểm điểm coi thiếu hạc nào trong đoàn. Khi 
        thấy thiếu hạc chúa, lập tức bay trở lại, thấy hạc 
        chúa đoàn đứng trên vũng bùn liền đến g?n hỏi rằng: Tâu 
        Ðại vương xin Ngài đừng kinh sợ, tôi là Sumukha sẽ chết 
        thay Ngài để đền lại công ơn của Ngài. 
        Nói xong liền đứng gần 
        bên hạc chúa. 
        Hạc chúa thấy Sumukha 
        hành động như vậy liền hỏi: 
        SUMUKHA ANUCINANTÀ 
        PAKKAMANTI VIHIMGAMÀ 
        GACCHA TVAMPI MAKANKHI 
        NATTHI PHANDHE SAHAYATA. 
        Nghĩa: Nầy Sumukha, đoàn 
        hạc chín muôn không có con hạc nào ngó đến ta, không thương 
        yêu quí mến ta nên bỏ đi vì sợ chết. Tại sao ngươi lại 
        trở lại lo cho ta làm gì? Người không nên ở nơi đây, vì 
        ta đã mắc bẫy rồi. Ngươi ở lại làm chi chỉ tốn công 
        vô ích. 
        Sumukha nói: Tâu Ðại vương, 
        tôi hằng hạnh đúng theo Chánh pháp. Tôi suy nghĩ và thấy 
        rõ rằng: Sự hành theo thiện pháp sẽ đem sự lợi ích đến, 
        hơn nữa trước nhứt phải diệt trừ tội lỗi giảm bớt 
        đi trong tâm. Do nhờ hành theo thiện pháp ấy nên tôi phải 
        trở lại với Ngài, dầu cho tôi có bị giết tôi cũng không 
        thể trốn tránh. Tôi nguyện hy sinh vì Ngài và chống lại tất 
        cả mọi việc trở ngại. Ðại vương ơi, không bao giờ 
        tôi biết kinh sợ tên thợ săn ấy. 
        Trong khi đức Bồ Tát 
        và Sumukha đang nói chuyện với nhau, tên thợ săn cũng vừa 
        đến và thấy hạc mắc vào bẫy, nên nhè nhẹ lần đến. 
        Hai hạc trông thấy người thợ săn đi đến nhưng không bao 
        giờ biết sợ. Người thợ săn thấy vậy lấy làm lạ nên 
        hỏi. Khi ấy người thợ săn mới biết rằng: Ðây là hai hạc 
        chúa tôi, Sumukha quyết lòng hy sinh cho chúa. Người thợ săn 
        nghe xong phát tâm trong sạch vì tấm lòng trung nghĩa của hạc 
        Sumukha nên tình nguyện thả cả hai hạc chúa tôi. Nên đến 
        gần mở bẫy, lấy nước rửa chân hạc cho thật sạch. 
        Sau khi được trả tự 
        do hạc chúa mới bàn với Sumukha rằng: Người thợ săn nầy 
        thật là có ơn với ta, ta phải đền đáp cho xứng đáng. 
        Hạc chúa liền nói với 
        người thợ săn rằng: Người ơi, người đem hai chúng tôi 
        đến nạp cho đức vua thì chắc chắn người sẽ được trọng 
        thưởng. 
        Người thợ săn từ chối 
        không bằng lòng vì không tham lợi, nên hai hạc giải thích 
        nhiều lần, và yêu cầu hai hạc hãy bay về rừng. Trái lại, 
        hạc chúa và Sumukha không chịu về và nhứt định yêu cầu 
        người thợ săn phải đem hai hạc đi. Khi đến nội thành 
        xin vào chầu vua và dâng hai hạc quí. 
        Khi đức vua trông thấy 
        hai hạc Ngài lấy làm hài lòng ban thưởng trọng hậu cho 
        người thợ săn... Khi ấy, hạc chúa mới dùng tiếng người 
        nói chuyện với đức vua. Nhà vua lấy làm trong sạch với hạc 
        chúa. Rồi xin hạc chúa dạy đạo làm vua thế nào cho hợp 
        pháp. 
        Hạc chúa dạy nhà vua 
        trì ngũ giới và hành theo mười pháp của một vị minh 
        quân hằng hành theo. Ðức vua trong sạch với Pháp bảo của 
        hạc chúa, sau khi nhiều lần yêu cầu hạc chúa ở lại 
        trong thành nội để dạy đạo và nhường ngôi cho hạc 
        chúa. Hạc chúa và Sumukha liền từ tạ đức vua mà bay về 
        rừng. 
        
        Sau khi thuyết xong Túc Sanh truyện ấy, đức Thế 
        Tôn mới dạy rằng: 
        
        - Người thợ săn ấy 
        chính là Xa Nặc, đức vua Sàgala khi ấy là tiền thân của 
        Xá Lợi Phất hiện nay. Hạc Sumukha ấy chính là Ananda , còn 
        Như Lai hôm nay chính là hạc chúa vậy. 
        
        HÓA ÐỘ 
        VÔ NÃO 
        
        UKKHITTAKHAGGAMATÌHATTHASUDDÀRUNANTAM. 
        DHÀVANTIYOJANAPATHANGULIMÀLAVANTAM 
        IDDHÌBHI SANKHATAMÀNO JITAVÀ MUNINDO 
        TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI. 
        Nghĩa: Ðức Phật dụng 
        phép thần thông cảm thắng ANGULIMÀLA (An Gu Li Ma La), kẻ cướp 
        sát nhơn, cắt ngón tay người làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo, 
        nhưng rất tinh nhuệ, cầm gươm rượt đức Chánh Biến Tri, 
        xa ba do tuần. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc 
        phát sanh đến người. 
        CHUYỆN TÍCH 
        Nơi rừng thẳm xứ Ma 
        Kiệt Ðà có một tướng cướp hung ác phi thường nhưng tài 
        cao sức mạnh muôn người khó chống nổi. Tướng cướp ấy 
        được người đặt tên là ANGULIMÀLA có nghĩa là: Người 
        đeo tràng chuỗi bằng lóng tay người. Tướng cướp nầy 
        ngang tàn không hề biết sợ một nhân vật nào dầu là vua 
        chúa, mà cũng chẳng tha ai khi mà gặp. Vì vậy nên đức Thế 
        Tôn mới ngự đi độ tên tướng cướp ấy. 
        Trước kia tướng cướp 
        Angulimàla là con của một vị Quân sư xứ Ma Kiệt Ðà cha mẹ 
        dòng Bà la môn, mẹ tên là Mantànì. Ngày sanh ông ra có điềm 
        là tất cả vũ khí trong kho hoàng gia đều phát ánh sáng ngời. 
        Cha của Angulimàla là vị Quân sư nên rất giỏi về thiên văn. 
        Ông liền vào chầu tâu rằng: Tâu Hoàng thượng, Ngài thấy 
        có điềm gì lạ chăng? 
        Ðức vua Ba Tư Nặc đáp: 
        Trẫm trông thấy ánh sáng chiếu sáng ngời r?c rỡ như là 
        phát hỏa trong kho khí giới của Hoàng gia, không biết lành 
        dữ thế nào, xin Quân sư cho trẫm biết. 
        - Tâu Ðại vương, xin 
        Ðại vương đừng lo chuyện ấy là do nơi việc gia đình của 
        hạ thần. Vì con của hạ thần sanh vào nhằm vì sao tướng 
        cướp, nhưng không phải là cướp ngai vàng, nhưng là một 
        tên cướp sát nhơn hung ác phi thường nó sẽ giết người 
        không gớm tay. Xin Hoàng thượng xuống lịnh xử tử đứa bé 
        ấy từ bây giờ, để trừ hậu hoạn. 
        - Quân sư, trẫm không 
        thể làm chuyện vô nhân đạo như thế được, vì hiện nay 
        đứa bé ấy là đứa trẻ vô tội. Vậy xin Quân sư hãy lo 
        nuôi dưỡng và trông nom chỉ dạy mong rằng: Ngày sau không 
        làm những điều như đã có điềm báo trước. 
        Quân sư lạy tạ lòng 
        từ bi và công bằng của đức vua ra về và đặt tên đứa 
        bé ấy là AHIMSAKA có nghĩa là không làm hại kẻ khác. (Tàu 
        dịch là Vô Não). Từ đây tôi xin dùng tiếng Vô Não chỉ tướng 
        cướp để tiện quí vị dễ nhớ và dễ nói. 
        Cha mẹ ông Vô Não hết 
        lòng lo dạy dỗ con, ngừa không cho con làm việc ác, và 
        luôn luôn nhắc con nhớ tên VÔ NÃO có ý là không làm cho kẻ 
        khác khổ não. Ông Vô Não là người con chí hiếu thương yêu 
        kính trọng cha mẹ, và nhứt là rất thông minh lại có một 
        sức mạnh phi thường. Ðến lớn học văn chương xong; cha mẹ 
        ông cho đi học võ với một vị giáo sư có tên tuổi nhứt 
        trong thời kỳ ấy tên là Disàpàmokkha ở xứ Takkàsìlà . 
        Khi vào trường học, 
        ông Vô Não là người học trò rất tốt, hạnh kiểm đoan 
        trang, tính tình nhu hòa, học ít biết nhiều thông minh nhứt, 
        mà vị giáo sư ấy chưa từng thấy có một người học trò 
        như thế nầy bao giờ. Sức mạnh hơn người, tài chạy của 
        ông chiến mã hay nhứt trong thời kỳ ấy không qua ông được. 
        Vì tài giỏi hạnh kiểm tốt, nến thầy thương yêu giao 
        trách nhiệm dạy lại những học trò mới nhập môn và 
        trông nom các bạn. 
        Những bạn học trước 
        hay đồng niên đều phải nghe lời ông chỉ bảo, rất được 
        lòng thầy, nhưng không được lòng bạn mặc dầu ông là ngưới 
        rất tốt, vì lẽ tánh đố kỵ của bọn học trò cũ và mới. 
        Những người ấy liền hội nhau lại tìm phương thế làm 
        sao hại ông Vô Não. Nhưng vì ông là người rất hoàn toàn 
        tốt nên không tìm thấy lỗi của ông dầu rất nhỏ. Ðến 
        cùng chỉ còn phương thế là phao du cho ông thôi. Khi ấy bọn 
        học trò chia ra làm ba nhóm, mỗi nhóm vào hầu thầy phải 
        tìm cho ra chuyện dối thầy cách nào cũng được, miễn là 
        thầy ghét bỏ ông Vô Não là được. Bọn ấy cứ nói mãi 
        nhưng thầy không tin bằng thật. Ngài kia bọn chúng mới 
        nói: Vô Não có tài cao, thường nói rằng hơn cả thầy, ngày 
        nào đây sẽ chiếm lấy địa vị là vị giáo sư Disàpàmokkha 
        của thầy. 
        Vì nhiều người nói một 
        việc và nói đã nhiều lần, ông thầy thấy đáng nghi và 
        tin như vậy. Ông cũng muốn giết ông Vô Não nhưng không biết 
        giết bằng cách nào, vì nếu giết bằng cách nào cũng sợ 
        người đời biết dị nghị ông sẽ mang tiếng giết học 
        trò. Ông nghĩ ra được một chuyện là nhờ tay kẻ khác giết 
        là yên. Ông liền cho gọi Vô Não vào và bảo rằng: Tài học 
        của ông thật giỏi nhưng muốn thành tài thì phải giết 
        được nhiều người khi ấy làm phép xong tài ấy mới hoàn 
        toàn, kết quả mỹ mãn. Thâm tâm ông thầy nghĩ Vô Não giết 
        nhiều người có ngày bị người ta giết, không vậy cũng mắc 
        tội sát sanh đức vua cũng không tha. 
        Ông Vô Não sanh vào 
        dòng Bà la môn là dòng tu hành và hành phạm hạnh cao quí cử 
        sát sanh, không hề làm khổ kẻ khác. Khi ông nghe thầy dạy 
        như vậy, ông thấy sai với phong tục và phạm hạnh của 
        gia đình ông, nhất là cha mẹ thường dạy không nên làm tội 
        lỗi. Nhưng vì sự khuyên nhủ của thầy và cũng muốn trở 
        nên người giỏi nhứt trên đời nầy nên ông liền thi 
        hành theo. 
        Ông chuẩn bị gọn 
        gàng, nào là mang tên đeo cung kiếm vào rừng đón giết người 
        qua lại. Mặc dầu ông giết người nhưng thâm tâm ông 
        không nghĩ gì thù oán mà giết hay giận hờn mà giết, thật 
        là giết không có một ý định chính xác, cái ý ông là muốn 
        luyện phép mầu cho mau thành tài thôi. Khi ông đã giết nhiều 
        người rồi nhưng không nhớ là bao nhiều để về trình lại 
        với thầy hầu là cho xong phép. Nên ông bắt đầu giết 
        người nào cắt một ngón tay xỏ lại đeo vào cổ để không 
        thất lạc lại dễ nhớ. Vì lẽ ấy mà ông được tên là 
        Angulimàla, nghĩa là người đeo xâu chuỗi bằng lóng tay người. 
        Kể từ ngày bắt đầu 
        giết người thì không ai dám vào rừng đốn hoặc lượm củi 
        khô, người muốn đi ngang qua rừng ấy, phải đợi nhau lại 
        cùng mấy mươi người mới dám, nhưng nếu gặp ông Vô Não 
        thì bao nhiêu người cũng không khỏi tay ông cả. Người ở 
        gần đấy cũng bị ông giết hại không thể ở được, 
        đem gia đình đi ở nơi khác hay về thành ở. Khi đến thành 
        mới hội nhau bàn về tên tướng cướp sát nhơn hung tàn 
        ấy. Việc làm ác ôn ấy thấu đến tai đức vua Ba Tư Nặc, 
        Ngài nhứt định phải dẹp yên. Ngài liền truyền đem tứ 
        đội hùng binh vây khu rừng ấy bắt hay là giết cho được 
        tên tướng cướp hung ác ấy. 
        Vị Quân sư nghe tin ấy 
        ông biết chắc rằng con ông, và ông cũng biết rằng: Ðức 
        vua sắp đem binh trừ tên tướng cướp ấy. Ông liền về 
        nhà cho bà hay chuyện ấy. Bà yêu cầu van xin ông hãy đi 
        đem con về. Ông bảo ông không thể làm vậy được. Lòng mẹ 
        thương con to rộng không chi sánh bằng hay đo lường được, 
        mặc dầu đường xa và đã già nhưng bà không quản bao cực 
        nhọc, lập tức ra đi tìm con để báo tin không lành và bảo 
        con phải về hay trốn nhà vua. 
        Ðồng thời bà mẹ đi 
        tìm ông Vô Não thì đức Thế Tôn cũng dùng Tuệ giác coi 
        chúng sanh nào có duyên lành với Ngài trong ngày ấy. Ngài 
        trông thấy ông Vô Não có duyên với Ngài. Nếu Ngài không kịp 
        thời tế độ thì ông sẽ giết mẹ vì ông đã trở nên người 
        cuồng loạn không nhận định biết mẹ cha. Khi ông đã phạm 
        vào tội Ngũ nghịch đại tội thì không ai cứu được. 
        Ðức Thế Tôn đắp y 
        mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ thực xong Ngài đi 
        thẳng vào nơi ông Vô Não ở. Trong khi ấy ông Vô Não đã mất 
        hết lương tri vì ông ăn đồ sống giết hại nhiều người, 
        trong tâm ông không còn biết gì hơn là giết. Ông ngồi đếm 
        lóng tay người như nggười đếm hạt kim cương. Ông đếm 
        được chín trăm chín mươi chín ngón tay, chỉ còn một 
        ngón nữa là đủ một ngàn đặng đem về cho thầy làm 
        phép. Ông nóng lòng muốn tìm người để giết thì ông lại 
        trông thấy một bà già và một vị Sa môn. Ông liền nghĩ: 
        Trong hai người nầy ta giết người nào? Ông nghĩ nên giết 
        ông Sa môn. Nhờ vậy mà bà mẹ ông khỏi chết. Ông liền 
        xách gươm rượt theo vị Sa môn tức là đức Thế Tôn. 
        Ông Vô Não là người 
        có tài chạy hay hơn chiến mã. Nhưng khi ông rượt Phật 
        ông vận dụng hết tài của ông mà cũng không đuổi theo kịp 
        Phật, trái lại đức Thế Tôn vẫn ung dung đi một cách 
        nhàn nhã không hề thấy có thái độ lo lắng hay kinh sợ hoặc 
        hấp tấp. Ông cố hết sức rượt theo Phật cả ba do tuần 
        (mỗi do tuần là mười sáu cây số ngàn) mà vẫn không bắt 
        kịp. Ông lấy làm tức giận gọi to lên rằng: Nầy ông Sa 
        môn kia! Hãy dừng lại. 
        Ðức Thế Tôn đáp: 
        Angulimàla ! Như Lai đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi 
        chưa ngừng lại thôi. Tuy nói vậy nhưng đức Thế Tôn vẫn 
        ung dung bước đi từng bước một như người dạo mát. 
        Ông Vô Não nghe đức 
        Phật nói vậy lấy làm trái tai mới hỏi: Ông Sa môn! Ông 
        nói dối, ông vẫn đi mà bảo là đã ngừng. 
        Ðức Thế Tôn đáp: Như 
        Lai đã ngừng sự làm tội lỗi là nhân đưa sự đau khổ 
        trong luân hồi từ lâu rồi, chỉ có ngươi không dừng sự 
        sát hại nhân loại. Nếu ngươi còn cố làm những tội ác 
        như vậy nữa thì ngươi sẽ bị luân hồi trong biển khổ nầy 
        không biết thời gian là hạn định phải bao lâu, luân hồi 
        ấy không bao giờ ngừng nghỉ hay dừng lại. 
        Khi ông nghe lời Phật 
        dạy cảm thấy như người vừa tỉnh lại trong cơn ác mộng, 
        tâm ông trở nên sáng suốt và yên tĩnh nhớ lại được mọi 
        sự việc từ khi còn trong gia đình phạm hạnh thanh cao cho tới 
        khi đi học, và cha mẹ thường nhắc nhở cái tên Vô Não 
        nghĩa là người không gây sự khổ não cho ai cả. Ông liền 
        nghĩ cha mẹ ta đặt ta tên Vô Não thâm tâm hai người nhắc 
        ta không nên làm tội ác. Hơn nữa, trong đời nầy có pháp 
        mầu nào phải dùng tới sanh mạng con người để được kết 
        quả cao thượng. Khi ấy ông cảm thấy ông đã đi lạc đường, 
        con đường đi của ông là tà đạo. Ông lấy làm hổ thẹn 
        cởi bỏ xâu chuỗi kỳ quái ấy và đao kiếm cung tên, liền 
        đến gần Phật đảnh lễ Ngài xong xin Ngài cho phép xuất 
        gia. 
        Ðức Thế Tôn liền 
        cho phép ông xuất gia theo thể thức EHI-BHIKKHU nghĩa là ngươi 
        hãy trở thành vị Tỳ khưu. Tức nhiên thành vị Tỳ khưu có 
        đủ y bát. Ðức Thế Tôn dẫn ông trở vào thành Thất La 
        Phiệt. 
        Sáng ngày, đức Thế Tôn 
        ngự vào thành khất thực với chư Tỳ khưu. Trong số Tỳ 
        khưu có một vị mới xuất gia là ông Vô Não. Dân chúng thấy 
        ông lấy làm kinh sợ bỏ chạy thật là một cảnh náo loạn 
        họ bảo nhau rằng: Angulimàla giả dạng làm Tỳ khưu để vào 
        thành giết người, cũng có người nói: Angulimàla giả làm 
        Tỳ khưu để tránh sự truy nã của đức vua v.v... Trong ngày 
        ấy ông Vô Não không có được một hột cơm, ông chịu cảnh 
        đói ấy ít lâu vì nơi nào mà ông đến thì người người 
        đều kinh sợ trốn hết, không vậy cũng vào nhà đóng kín 
        cửa không dám ra. 
        Ngày nọ có một người 
        phụ nữ có thai gần ngày sanh, khi trông thấy ông Vô Não 
        kinh sợ chạy trốn, cô ta chun hàng rào cho mau, nhưng vì bụng 
        lớn quá chun không lọt, trái lại còn kẹt ở hàng rào 
        không làm sao ra được, mà trong lúc ấy thai nhi lại động 
        mà cũng không sanh được. Quyến thuộc của cô không biết 
        làm sao mới bàn với nhau. Có một người thanh niên lạ mặt 
        bảo: Theo tôi thì mời Ngài Ðại Ðức ấy đến và Ngài 
        phát nguyện sự tu hành chân chánh của Ngài và cầu chúc 
        cho cô thì cô ấy sẽ sanh được. Vì cùng quá không biết 
        làm sao, quyến thuộc cô ta làm theo lời của người thanh niên 
        ấy. Ðem gai lại rào quanh chỗ cô ấy và đến thỉnh cầu 
        ông Vô Não. Ông liền đến bạch hỏi Phật coi phải xử trí 
        thế nào. Ðức Thế Tôn dạy ông phát nguyện Ba La Mật. 
        Ông liền đến nơi ấy 
        đứng bên ngoài hàng rào gai phát nguyện rằng: 
        - Yato ham bhaginì 
        ariyaya jatiyajato nabhijanami sancicca pànam voropeta tena saccena 
        sotthi te hotu sotthi gambhassa. 
        
        Nghĩa: Nầy cô em 
        gái, kể từ khi ta sanh trong dòng Ariya, ta không làm chủ 
        nhân được ta nên đã sát sanh. Do nơi lời nói chân thật nầy 
        xin cho sự an lành có đến nàng và thai bào của nàng. 
        Dứt lời nguyện, cô 
        ấy sanh được dễ dàng, cả mẹ lẫn con bình an. Kể từ 
        ngày ấy đi người mới tin tưởng nơi ông và biết chắc rằng: 
        Ông là người từ bỏ điều ác. Nhứt là tính oai đức của 
        ông nên đến đổi chỗ ngồi của ông cũng có giá trị. Người 
        thường rửa lấy chỗ ngồi của ông tắm cho những đứa 
        trẻ sơ sanh, thú không sanh được lấy nước ấy cho uống 
        sanh được liền. 
        Những ngày khổ cực của 
        ông đã qua, dân chúng hết sợ và cúng dường cho ông đầy 
        đủ như những vị khác. Ông lo hành đạo không hề giải 
        đãi, nhưng không thể làm cho tâm được yên tỉnh vì những 
        cảnh sát hại người khi xưa hằng đến với ông khi ông 
        tham thiền. 
        Ngày nọ, ông tham thiền 
        trong rừng, nơi mà ông thường đuổi giết người, khi ấy 
        ông nghe tiếng những oan hồn đến đòi mạng, ông lấy làm 
        kinh sợ. Ðồng thời đức Thế Tôn hiểu rõ tâm trạng của 
        ông bằng Tuệ giác của Ngài. Ngài liền ngự đến nơi ấy 
        dạy ông Vô Não hãy dứt bỏ câu chuyện quá khứ; và cố 
        giữ tâm cho an tịnh trong đề mục thiền định và nên hồi 
        hướng phước báu đã tạo ra từ vô số kiếp đến những 
        người bị giết xin giải oan trái oán thù. 
        Ông vâng lời hành theo 
        và không bao lâu đắc A-la-hán quả cả Tam Minh. Từ ấy 
        Ngài là một trong tám mươi vị đại đệ tử Phật. Ðức 
        vua Ba Tư Nặc hay tin ấy liền vào hầu Phật lễ bái xong, 
        Ngài mới bạch hỏi Phật qua câu chuyện của Ngài Vô Não, 
        khi biết rằng: Ngài đã xuất gia theo chánh pháp trở nên vị 
        đại đệ tử nên đức vua lấy làm trong sạch, ca tụng 
        công đức Phật bảo rằng: Chỉ có đấng Giác Ngộ mới 
        thu phục được những người hung ác bạo tàn và chỉ có 
        Phật mới hy sinh không nài khổ cực cứu độ chúng sanh. Người 
        như Ngài Vô Não không hề kinh sợ quan quân mà lại qui phục 
        đức Từ Bi thật là chuyện hy hữu vậy. 
        
        THẮNG 
        NÀNG CINCÀ 
        
        KATVÀNA KATTHAMUDARAM IVA 
        GABBHINÌYÀ 
        CINCÀYA DUTTHAVACANAM JANAKÀYAMAJJHE 
        SANTENASONAVIDHINAJITAVÀ MUNINDO 
        TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMAÍGALÀNI. 
        Nghĩa: Ðức Phật đã 
        khử trừ lời dữ của nàng CINCÀ (Chinh Cha), nàng dùng cây 
        tròn giống dạng đứa bé trong thai; giả làm phụ nữ mang 
        thai. Nhờ dùng phép Chánh định mà đức Chánh Biến Tri cả 
        thắng nàng giữa chốn đông người. Do nhờ Phật lực nầy, 
        xin cho hạnh phúc phát sanh đến người. 
        CHUYỆN TÍCH 
        Sau khi đắc quả Vô thượng 
        Chánh đẳng Chánh giác, đức Thế Tôn hằng đi truyền đạo 
        khắp mọi nơi nên Phật giáo thạnh hành rất mau chóng, những 
        người tà kiến ngoại đạo đều hồi đầu hướng thiện, 
        vì vậy nên lợi lộc của những ông Tổ sư ngoại đạo bị 
        giảm đi rất nhiều. 
        Những ông Tổ sư ấy 
        mới hội nhau lại để bàn tính phương pháp nào làm giảm 
        uy tín của Phật giáo. Khi ấy có một người có ý kiến phải 
        làm như thế nầy thế nầy mới làm giảm uy tín của ông 
        Sa môn Cồ Ðàm. Khi đồng cùng nhau thực hành theo kế ấy. 
        Các ông liền đưa đại diện đến nhà cô CINCÀ (xin đọc 
        là CHINH CHA) yêu cầu cô thực hành theo kế ấy. Sau khi hoàn 
        thành cô sẽ được nhiều ân huệ, cô nhận lời thi hành kế 
        ấy. 
        Thật cô Cincà không hổ 
        là người khôn ngoan xảo trá. Kể từ ngày cô lãnh nhiệm vụ 
        cô trang điểm thật đẹp và đợi khi nào tín đồ vào 
        chùa nghe pháp buổi chiều cô cũng đi vào chùa. Có người 
        biết cô là kẻ ngoại đạo nên hỏi cô đi đâu. 
        Cô đáp: Tôi vào hầu 
        ông Sa môn Cồ Ðàm. 
        Cô vào chùa cửa trước 
        khi cô đợi coi người không để ý đến cô, cô liền lén 
        ra cửa khác mà về ngủ ở chùa bọn ngoại đạo gần bên 
        ấy. Ðến sáng ngày, cô đợi cho khi tín đồ vào chùa lễ 
        Phật cô lại trong chùa đi ra. 
        Có nhiều người thấy 
        vậy lấy làm lạ mới hỏi cô rằng: Cô đi đâu về sớm vậy? 
        - Tôi ở Kỳ Viên tịnh 
        xá về. 
        Ðộ chừng đôi ba 
        tháng sau có người hỏi cô đi đâu về sớm. Cô liền nói: 
        Ta ở chung một tư thất với ông Sa môn Cồ Ðàm trong Kỳ 
        Viên tịnh xá về đây. 
        Chuyện nầy làm cho nhiều 
        người còn phàm sanh lòng phân vân tự hỏi: Chuyện nầy 
        làm sao vầy? Thật cô nầy ở chung một tư thất với Phật 
        chăng? Ðến độ chừng bốn hay năm tháng sau cô liền độn 
        bụng hơi lớn lên như người có thai bốn hay năm tháng, 
        làm cho người để ý đến cô càng ngày càng nhiều. 
        Ðến tám hay chín 
        tháng cô liền dùng khúc cây tròn giống hình thai thật độn 
        bụng ra lấy vải quấn bụng thật kỹ, dùng cây tròn đập 
        trên lưng bàn tay và bàn chân cho hơi sưng lên làm cho ra vẻ 
        người đã mang thai gần ngày sanh. 
        Buổi chiều nọ, trong 
        khi đức Thế Tôn đang thuyết pháp giữa hàng đại chúng, 
        cô Cincà liền đến nơi ấy đứng trước mặt đức Thế Tôn 
        chỉ mặt Ngài mà nói: Nầy ông Sa môn Cồ Ðàm, tiếng ông 
        thanh tao nghe thật hay, răng ông đều đặn trắng trẻo đẹp, 
        lời nói văn hoa nghe rất bùi tai. Nhưng trái lại thân tôi cũng 
        vì ông mà ra nông nỗi nầy. Hiện nay cái bào thai do, ông 
        là tác giả đã đến ngày rồi, ông không biết sao? Tại 
        sao ông không tìm nhà nào để cho tôi tạm bợ ở đậu để 
        sanh, ông không biết lo những vật như than, củi v.v... cho 
        người sắp sanh như tôi dùng chăng? Nếu ông không tự làm 
        lấy được thì ông cũng nên bảo tín đồ trung thành với 
        ông như là Visàkha hay đức vua Ba Tư Nặc lo cho tôi. Nói 
        xong bà liền mắng chửi Phật đủ điều nào là người đểu 
        giả v.v... không hề nể nang giữa hàng tín đồ. 
        Ðức Thế Tôn ngồi 
        yên không nói nửa lời với cô. Ngài điềm nhiên thuyết 
        pháp khi thuyết xong Ngài mới nói rằng: 
        - Nầy cô Cincà chuyện 
        nầy chỉ có Như Lai và ngươi biết mà thôi. 
        - Nầy ông Sa môn, sự 
        thật là vậy. 
        Trong khi ấy, ngai vàng 
        của Thiên Vương Ðế Thích trở nên nóng như sắp bị chảy 
        ra, hay như ngồi trên hỏa diệm sơn. Ðức Ðế Thích lấy 
        làm lạ và rất kinh sợ, nên Ngài dùng thần thông xem coi 
        vì nguyên nhân nào? Ngài thấy do nơi cô Cincà phao vu đức 
        Ðại Giác. Ngài nghĩ: Thế ra vì cô nầy, thôi để ta giải 
        quyết cho êm, và làm cho rõ sự trong sạch của đức Thế Tôn. 
        Ngài truyền gọi bốn 
        vị chư Thiên đến dạy rằng: 
        - Các người hãy hóa 
        ra bốn con chuột con vào cắn dây cột bụng của cô Cincà 
        làm cho khúc cây rơi xuống trên lưng bàn chân của cô ta. 
        Bốn vị vâng lời thi 
        hành theo sứ mạng. Khi khúc cây rớt xuống đúng ngay vào 
        hai bàn chân cô, và hai bàn chân ấy bị đứt tiện như người 
        dùng dao bén chém đứt vậy. 
        Những tín đồ còn 
        phàm có mặt nơi ấy lấy làm tức giận bảo: Con khốn kia, 
        ngươi đến đây để phao vu cho đức Ðại Từ Bi bằng những 
        lời đê tiện như vầy chăng? Nói xong kẻ phun nước miếng 
        vào mặt, người khạc nhổ những vật không sạch vào mặt 
        cô, có người vì tức giận quá không chịu được lấy đá 
        gạch liệng vào người cô, có người kéo cô ra khỏi Kỳ 
        Viên tịnh xá. Thương hại cô khi vừa ra khuất mắt đức 
        Thế Tôn cô liền bị đất sụp chết. Cô bị đọa vào A tỳ 
        địa ngục. 
        Ngày hôm sau, chư Tỳ 
        khưu hội nơi thuyết pháp bàn về vấn đề cô Cincà rằng: 
        Cô Cincà dám vu oan cho bậc Ðại Giác Ðại Từ Bi như đức 
        Thế Tôn là đấng đáng thọ lãnh cúng dường của chư Thiên, 
        Phạm Thiên và nhân loại thật là chuyện phi thường vậy. 
        Ðức Thế Tôn cũng vừa 
        đến và hỏi câu chuyện gì? Chư Tăng bạch Phật những 
        chuyện đã nói. 
        Ðức Thế Tôn dạy: 
        - Nầy các thầy Tỳ khưu, 
        chẳng phải cô Cincà mới phao vu cho ta trong kiếp nầy, mà cũng 
        đã từng phao vu cho ta nhiều lần trong kiếp quá khứ. 
        Chư Tỳ khưu liền thỉnh 
        cầu đức Thế Tôn thuyết Túc Sanh Truyện. 
        Ðức Thế Tôn dạy: 
        Lúc quá khứ cô Cincà được sanh làm Thứ hậu xứ 
        Bàrànasì , còn mẹ của đức Bồ Tát là Hoàng hậu. Khi ấy 
        đức Bồ Tát đã lớn lại là một thanh niên anh tuấn. Bà 
        Thứ phi thấy Thái tử đẹp nên rất yêu, nên phát tà tâm, 
        nên tìm trăm mưu ngàn kế để đuợc gặp Thái tử. Ngày gặp 
        được Thái tử bà liền dùng lời yêu đương khuyến dụ 
        Ngài. Nhưng không làm sao rung động lòng son sắt của Thái tử, 
        nên bà oán ghét. Bà liền giả vờ bịnh, đức vua mới hạ 
        lời phán hỏi: Tại sao bà cứ nằm hoài không vui như trước. 
        Bà liền tâu: Tâu Ðại 
        vương vui làm sao được mà vui. Thần thiếp đã bị Ðông 
        cung Thái tử cưỡng bách phá hại đời thần thiếp. Thần 
        thiếp không bằng lòng bị Ðông cung đánh đập thân thể 
        ra nông nỗi nầy. 
        Vì nhẹ lòng tin nơi bà 
        Thứ phi trẻ đẹp. Ðức vua liền hạ lệnh đem Thái tử 
        xô xuống hố sâu, nơi để xô những tử tội. 
        Nơi hố ấy có vị Thọ 
        thần nghĩ rằng: Vị Thái tử nầy là một vị đại Bồ Tát 
        ta không thể để Ngài chết một cách thê thảm như thế nầy 
        được. Ông liền đỡ lấy đức đại Bồ Tát đưa đến 
        ở với Long vương. Thái tử ở Long cung được một năm, lòng 
        Ngài không thích nơi lầu vàng điện ngọc nên muốn về ở 
        nơi rừng Tuyết Lãnh xuất gia làm đạo sĩ. Long vương liền 
        đưa Ngài về. Sau khi xuất gia Ngài trì chí tu hành đắc 
        được Tứ thiền và có thần thông. 
        Ngày nọ, có một người 
        thợ săn đi sâu vào rừng Tuyết Lãnh gặp đức Bồ Tát và 
        nhớ rõ rằng: Ðây là Ðông cung Thái tử. Khi về đến kinh 
        thành vào chầu và tâu cho đức vua biết Thái tử vẫn còn 
        sống và đang xuất gia tu hành nơi rừng Tuyết Lãnh. Sau 
        ngày hạ lịnh xô con xuống núi đức vua thấy ăn năn hối 
        hận và nghĩ rằng chắc con ta là người đức hạnh không 
        ai bì, bao giờ lại làm tội ghê tởm như thế. 
        Khi nghe tin con Ngài liền 
        truyền cho sắm sẵn mọi việc nhứt là xa giá trang nghiêm 
        để đi nghinh đón Thái tử về thành. Chính Ngài ngự đi đến 
        nơi tư thất của Thái tử. Khi đến nơi đức vua hỏi qua 
        chuyện cũ. Ðức Bồ Tát trình bày rõ mọi việc. Ðức vua 
        lấy làm thương con bị hàm oan. Ngài yêu cầu Thái tử trở 
        về triều thay Ngài trị vì thiên hạ. Ðức Bồ Tát từ chối 
        và dạy đức vua khi về nên thực hành theo mười pháp của 
        một vị minh quân, không nên thiên vị. 
        Ðức vua vâng lời xa 
        giá ra về. Khi về nửa đường đức vua mới hỏi vì cớ 
        nào con ta lại xuất gia? 
        Các quan tâu vì lẽ bà 
        Thứ hậu bất chánh. Ðức vua truyền đem bà xô xuống hồ 
        xô Thái tử khi xưa. 
        Ðức Thế Tôn thuyết 
        xong Ngài liền dạy rằng: Thái tử khi xưa chính là Như Lai 
        hiện tại vậy. Còn bà Thứ hậu ấy chính là cô Cincà. Ðức 
        vua khi ấy là Ananda hiện tại. 
        Ðức Thế Tôn dạy tiếp: 
        Nầy các thầy Tỳ khưu, người mà không có sự thành thật 
        nói dối vì lòng xấu xa mờ tối bị si mê; người ấy chắc 
        chắn sanh vào địa ngục, con đường tiến hóa là Người, 
        Trời và Niết bàn bị đóng chặt. Khi mãn hạn nơi địa ngụ 
        sanh lại kiếp sau, sau vì quả ác nghiệp nên hằng gặp những 
        tai nạn như bị vu khống v.v... do nơi tội đã tạo. 
        Sau khi dứt thời pháp 
        có nhiều vị giác ngộ. 
        Ðức Thế Tôn thắng 
        cô Chinh Cha do nơi pháp Chánh định của Ngài. 
        -ooOoo- 
        Trang 
        trước | Ðầu trang | Mục 
        lục | Trang kế  |