THIÊN THỨ
MƯỜI BA (b)
NHỮNG
CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
-ooOoo-
CẮM THẮNG
TƯỢNG NÀLÀGIRÌ
NÀLÀGIRIM GAJAVARAM
ATIMATTABHÙTAM
DAVAGGICAKKAMASANIVA SUDARUNANTAM
METTAMBUSEKAVIDHINÀ JITAVA MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật đã
cảm thắng voi Nàlàgirì (Na la gi ri) đến cơn hung ác, dữ tợn
như lửa rừng, như sấm sét, nhờ rải lòng Từ bi mà đức
Chánh Biến Tri cảm hóa được voi ấy. Do nhờ Phật lực nầy,
xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.
Chuyện nầy tôi đã
có tường thuật trong Thiên thứ tư nhưng chỉ tóm tắt sơ
lược thôi. Nên nơi đây tôi xin giải rõ thêm cho đủ tám
điều thắng hóa của đức Thế Tôn mà các bực Thánh nhơn
khi xưa hằng ca tụng.
Ðệ tử Phật là ông
Ðề Bà Ðạt Ða muốn thay Phật để dạy dỗ chư Tăng,
nhưng đức Phật không nhận lời, tức giận tìm thế hại
Phật đủ điều nhứt là thả tượng Nàlàgirì ra giết Phật.
CHUYỆN TÍCH
Ðề Bà Ðạt Ða không
sao hại được đức Thế Tôn nên ông mới vào thăm đức
vua A Xà Thế xúi Ngài thả tượng Nàlàgirì là tượng trận
hung dữ nhất không tượng nào bằng, nhứt là khi được uống
tám tĩn rượu to. Khi thả tượng ra giết Phật, đức vua A
Xà Thế dạy quản tượng hãy cho tượng uống rượu gấp
đôi là mười sáu tĩn rượu to, còn Ðề Bà Ðạt Ða là người
trông nom sắp đặt việc làm cho chu đáo.
Tất cả tín đồ hay
biết tin ấy mới vào hầu Phật và bạch cho Ngài rõ chuyện
sắp xảy ra, yêu cầu Ngài đừng đi khất thực.
Ðức Thế Tôn liền
dùng Tuệ giác quan sát: Sáng ngày mai ta sẽ hóa độ tượng
và không cho tượng ấy còn hung ác nữa, mà cũng nhân cơ hội
nầy hóa độ rất nhiều người ngoại đạo hồi đầu hướng
thiện. Sau khi hóa độ tượng xong ta dẫn chư Tăng vào
thành Vương Xá khất thực.
Rạng đông sáng hôm
sau đức Thế Tôn dùng trí tuệ xem coi chúng sanh nào có
duyên với Ngài trong ngày ấy. Ngài thấy rằng: Nếu sáng
ngày, Ngài vào thành khất thực cảm hóa được tượng Nàlàgiri
thì Ngài sẽ độ được tám muôn bốn ngàn người.
Khi mặt trời mọc lên,
đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành khất thực, Ngài dạy
Ðại Ðức Ananda: Ngươi hãy cho chư Tăng trong mười tám
chùa tại thành Vương Xá tựu tại Kỳ Viên tịnh xá. Ðức
Ananda vâng lời cho chư Tăng hay. Khi chư Tăng tựu hội lại
đủ đức Thế Tôn dẫn vào thành Vương Xá khất thực.
Những người quản tượng
đã chuẩn bị sẵn là cho tượng uống rượu xong, khi trông
thấy đức Thế Tôn liền thả tượng ra để giết Phật.
Tất cả thiện nam tín
nữ, dân chúng và những người ngoại đạo kẻ leo lên nóc
nhà người leo lên cây, người thì ở trên lầu để xem coi
tượng làm gì Phật. Thiện tín thì tin rằng: Phật sẽ cảm
hóa tượng, còn ngoại đạo thì nghĩ tượng sẽ giết Phật,
dân chúng chỉ mong thấy kết quả thôi.
Tượng Nàlàgirì trông
thấy đức Thế Tôn từ xa ngự đến, tỏ vẻ rất hung
hăng chân dậm đất bụi bay mịt mù, miệng gầm thét thật
là kinh khủng. Khi tượng được thả ra lập tức nhắm hướng
đức Thế Tôn đang ngự đi chạy đến, coi hình như là nó
quyết giày đạp Ngài cho tan nát. Chư Tăng còn phàm thấy vậy
kinh sợ bỏ đứng vẹt ra một bên đường. Khi ấy Ðại Ðức
Xá Lợi Phất xin đức Thế Tôn để Ngài cảm hóa tượng dữ
ấy nhưng đức Thế Tôn không nhậm lời; tuần tự đến các
chư đại đệ tử nhưng không vị nào được phép. Trong khi
ấy tượng đã đến gần lắm rồi mà đức Thế Tôn vẫn
thản nhiên, làm cho Ðại Ðức Ananda nóng lòng, vì tất cả
chư đệ tử có thể nói là không ai thương Phật bằng Ðại
Ðức Ananda , vì Ngài còn là bực hữu học nghĩa là mới đắc
quả Tu-đà-hườn vẫn còn mến thương vạn vật. Ðại Ðức
Ananda thấy tượng đến gần Ngài liền ra đứng cản tượng
trước mặt Phật. Ðức Thế Tôn thấy Ðại Ðức Ananda
hành động như vậy. Ngài liền dạy rằng: Ananda , ngươi hãy
đứng dang ra, nhung Ngài vẫn không vâng lời. Ðức Thế Tôn
dùng lòng Từ Bi làm cho tượng kinh sợ chạy đi nơi khác.
Trong khi ấy, có một
người phụ nữ bồng con nhỏ thấy tượng chạy đến gần
mình nên kinh sợ bỏ con nằm trên đất chạy thoát lấy
thân. Khi tượng không rượt theo kịp cô ấy, liền trở lại
đi quanh bên đứa trẻ. Ðức Thế Tôn thấy vậy thương hại
đứa bé Ngài liền rải lòng từ bi đến tượng và gọi: Nầy
Nàlàgirì hãy dừng lại. Tiếng của Ngài rất thanh và rất
mềm dịu, vì lòng từ bi đánh thức trí giác của tượng.
Tượng liền quay lại ngó ngay vào Phật, trông thấy đức
Thế Tôn mặt đầy vẻ từ bi hào quang chiếu sáng, chung
quanh Ngài có chư Thánh nhơn giới đức trang nghiêm, thật
là một cảnh huy hoàng trang nghiêm và đầy từ ái. Tượng
phát tâm tín thành trong sạch với Phật bảo và Tăng bảo,
nhìn lại tội lỗi của bản thân lấy làm hổ thẹn, chất
rượu tiêu tan mất hết, từ từ tiến đến bên Phật và
quì xuống.
Ðức Thế Tôn liền dạy
rằng: Màkinjaranàgapara v.v... Sugati gamissasìti , nghĩa: Hỡi nầy
tượng Nàlàgirì, ngươi không nên si mê. Lẽ cố nhiên những
điều tội lỗi là ác pháp, hằng đưa đến sự thống khổ
trong lòng ngươi, hãy làm cho tâm ngươi trong sạch, không
nên để cho tâm nóng nảy bực bội vì tội lỗi nặng nề.
Nên tập cho tâm hiền từ lương thiện thêm càng nhiều
càng quí. Sau khi ngươi chết sẽ được sanh về cõi trời hưởng
an lạc.
Dứt lời dạy bảo của
đức Thế Tôn tâm tượng sanh hỉ lạc rất mạnh. Nếu tượng
là con người thì đã đắc Tu-đà-hườn trong khi ấy. Kể từ
giờ phút ấy trở đi tượng Nàlàgirì trở nên hiền từ
không khác con mèo con, nên lại đổi tên là DHÀNAPÀLA (có
nghĩa là người giữ lấy di sản quí).
Trong khi đức Thế Tôn
dạy tượng Nàlàgirì thì có tám muôn bốn ngàn người nghe
lời dạy bảo ấy mà đắc đạo quả, và có rất nhiều người
xin thọ Tam qui trì ngũ giới.
Ðến chiều chư Tỳ
khưu hội đến nơi đức Thế Tôn thường thuyết pháp bàn
với nhau về việc buổi ban sáng và chuyện Ðại Ðức
Ananda hy sinh cho Phật. Các vị ấy có vị nói: Thật ra Ðại
Ðức Ananda là vị đệ tử chí hiếu biết ân thầy dám đứng
ra chịu chết thế cho thầy, đây chuyện thế gian hi hữu vậy.
Khi đức Thế Tôn ngự
đ?n nghe và biết các thầy đang nói chuyện ban sáng. Ngài liền
dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, chẳng phải Ananda mới
hy sinh đời sống nầy cho ta trong kiếp nầy đâu. Kiếp quá
khứ cũng đã từng hy sinh cho Như Lai rồi.
Chư Tỳ khưu yêu cầu
đức Thế Tôn thuyết Túc Sanh truyện.
Ðức Thế Tôn dạy; Kiếp
quá khứ có đức vua tên SAGALABRAHMADATTA ngự trị tại xứ
Sàgala. Gần thành Sàgala có một người thợ săn ở tại làng
Nesàdagàma. Tại xứ Sàgala có một cái ao to đến mười hai
do tuần, trong ao ấy có nhiều thứ sen đủ màu thật đẹp.
Ðồng thời ấy có một bầy hạc chín muôn con; hạc chúa
tên là Dhatarattha và một hạc phó tên là Sumukha, bầy hạc
nầy thường ở tại núi tên Gittrakuta. Ngài nọ có ba con hạc
đến tắm chơi ở ao gần thành Sàgala. Khi trở về thuật lại
cho Hạc chúa nghe, và mô tả nơi ấy thật là đẹp có vật
thực, ao to, bông nhiều v.v...
Hạc chúa là một vị
Bồ Tát nên có nhiều trí tuệ, Ngài sợ có tai hại cho đoàn
nên Ngài cấm không cho hạc đến nơi ấy, nhưng ba con hạc
ấy cứ theo yêu cầu nhiều lượt. Ðức Bồ Tát mới dẫn
đoàn hạc đi đến nơi ấy chơi và tìm thức ăn. Vì vô ý
chân của đức Bồ Tát bị mắc vào bẫy của người thợ
săn. Ðức Bồ Tát không dám la, sợ kinh động bầy không
dám ăn no. Sau khi biết đoàn đã ăn no, Ngài liền hét to
lên, đoàn hạc nghe tiếng hét ấy kinh khủng bay hết. Chỉ
có hạc Sumukha nghĩ rằng: Tiếng hét của chúa ta bất thường,
chắc Ngài đã bị tai nạn chi đây. Nghĩ vậy lập tức bay
thật mau để kiểm điểm coi thiếu hạc nào trong đoàn. Khi
thấy thiếu hạc chúa, lập tức bay trở lại, thấy hạc
chúa đoàn đứng trên vũng bùn liền đến g?n hỏi rằng: Tâu
Ðại vương xin Ngài đừng kinh sợ, tôi là Sumukha sẽ chết
thay Ngài để đền lại công ơn của Ngài.
Nói xong liền đứng gần
bên hạc chúa.
Hạc chúa thấy Sumukha
hành động như vậy liền hỏi:
SUMUKHA ANUCINANTÀ
PAKKAMANTI VIHIMGAMÀ
GACCHA TVAMPI MAKANKHI
NATTHI PHANDHE SAHAYATA.
Nghĩa: Nầy Sumukha, đoàn
hạc chín muôn không có con hạc nào ngó đến ta, không thương
yêu quí mến ta nên bỏ đi vì sợ chết. Tại sao ngươi lại
trở lại lo cho ta làm gì? Người không nên ở nơi đây, vì
ta đã mắc bẫy rồi. Ngươi ở lại làm chi chỉ tốn công
vô ích.
Sumukha nói: Tâu Ðại vương,
tôi hằng hạnh đúng theo Chánh pháp. Tôi suy nghĩ và thấy
rõ rằng: Sự hành theo thiện pháp sẽ đem sự lợi ích đến,
hơn nữa trước nhứt phải diệt trừ tội lỗi giảm bớt
đi trong tâm. Do nhờ hành theo thiện pháp ấy nên tôi phải
trở lại với Ngài, dầu cho tôi có bị giết tôi cũng không
thể trốn tránh. Tôi nguyện hy sinh vì Ngài và chống lại tất
cả mọi việc trở ngại. Ðại vương ơi, không bao giờ
tôi biết kinh sợ tên thợ săn ấy.
Trong khi đức Bồ Tát
và Sumukha đang nói chuyện với nhau, tên thợ săn cũng vừa
đến và thấy hạc mắc vào bẫy, nên nhè nhẹ lần đến.
Hai hạc trông thấy người thợ săn đi đến nhưng không bao
giờ biết sợ. Người thợ săn thấy vậy lấy làm lạ nên
hỏi. Khi ấy người thợ săn mới biết rằng: Ðây là hai hạc
chúa tôi, Sumukha quyết lòng hy sinh cho chúa. Người thợ săn
nghe xong phát tâm trong sạch vì tấm lòng trung nghĩa của hạc
Sumukha nên tình nguyện thả cả hai hạc chúa tôi. Nên đến
gần mở bẫy, lấy nước rửa chân hạc cho thật sạch.
Sau khi được trả tự
do hạc chúa mới bàn với Sumukha rằng: Người thợ săn nầy
thật là có ơn với ta, ta phải đền đáp cho xứng đáng.
Hạc chúa liền nói với
người thợ săn rằng: Người ơi, người đem hai chúng tôi
đến nạp cho đức vua thì chắc chắn người sẽ được trọng
thưởng.
Người thợ săn từ chối
không bằng lòng vì không tham lợi, nên hai hạc giải thích
nhiều lần, và yêu cầu hai hạc hãy bay về rừng. Trái lại,
hạc chúa và Sumukha không chịu về và nhứt định yêu cầu
người thợ săn phải đem hai hạc đi. Khi đến nội thành
xin vào chầu vua và dâng hai hạc quí.
Khi đức vua trông thấy
hai hạc Ngài lấy làm hài lòng ban thưởng trọng hậu cho
người thợ săn... Khi ấy, hạc chúa mới dùng tiếng người
nói chuyện với đức vua. Nhà vua lấy làm trong sạch với hạc
chúa. Rồi xin hạc chúa dạy đạo làm vua thế nào cho hợp
pháp.
Hạc chúa dạy nhà vua
trì ngũ giới và hành theo mười pháp của một vị minh
quân hằng hành theo. Ðức vua trong sạch với Pháp bảo của
hạc chúa, sau khi nhiều lần yêu cầu hạc chúa ở lại
trong thành nội để dạy đạo và nhường ngôi cho hạc
chúa. Hạc chúa và Sumukha liền từ tạ đức vua mà bay về
rừng.
Sau khi thuyết xong Túc Sanh truyện ấy, đức Thế
Tôn mới dạy rằng:
- Người thợ săn ấy
chính là Xa Nặc, đức vua Sàgala khi ấy là tiền thân của
Xá Lợi Phất hiện nay. Hạc Sumukha ấy chính là Ananda , còn
Như Lai hôm nay chính là hạc chúa vậy.
HÓA ÐỘ
VÔ NÃO
UKKHITTAKHAGGAMATÌHATTHASUDDÀRUNANTAM.
DHÀVANTIYOJANAPATHANGULIMÀLAVANTAM
IDDHÌBHI SANKHATAMÀNO JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật dụng
phép thần thông cảm thắng ANGULIMÀLA (An Gu Li Ma La), kẻ cướp
sát nhơn, cắt ngón tay người làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo,
nhưng rất tinh nhuệ, cầm gươm rượt đức Chánh Biến Tri,
xa ba do tuần. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc
phát sanh đến người.
CHUYỆN TÍCH
Nơi rừng thẳm xứ Ma
Kiệt Ðà có một tướng cướp hung ác phi thường nhưng tài
cao sức mạnh muôn người khó chống nổi. Tướng cướp ấy
được người đặt tên là ANGULIMÀLA có nghĩa là: Người
đeo tràng chuỗi bằng lóng tay người. Tướng cướp nầy
ngang tàn không hề biết sợ một nhân vật nào dầu là vua
chúa, mà cũng chẳng tha ai khi mà gặp. Vì vậy nên đức Thế
Tôn mới ngự đi độ tên tướng cướp ấy.
Trước kia tướng cướp
Angulimàla là con của một vị Quân sư xứ Ma Kiệt Ðà cha mẹ
dòng Bà la môn, mẹ tên là Mantànì. Ngày sanh ông ra có điềm
là tất cả vũ khí trong kho hoàng gia đều phát ánh sáng ngời.
Cha của Angulimàla là vị Quân sư nên rất giỏi về thiên văn.
Ông liền vào chầu tâu rằng: Tâu Hoàng thượng, Ngài thấy
có điềm gì lạ chăng?
Ðức vua Ba Tư Nặc đáp:
Trẫm trông thấy ánh sáng chiếu sáng ngời r?c rỡ như là
phát hỏa trong kho khí giới của Hoàng gia, không biết lành
dữ thế nào, xin Quân sư cho trẫm biết.
- Tâu Ðại vương, xin
Ðại vương đừng lo chuyện ấy là do nơi việc gia đình của
hạ thần. Vì con của hạ thần sanh vào nhằm vì sao tướng
cướp, nhưng không phải là cướp ngai vàng, nhưng là một
tên cướp sát nhơn hung ác phi thường nó sẽ giết người
không gớm tay. Xin Hoàng thượng xuống lịnh xử tử đứa bé
ấy từ bây giờ, để trừ hậu hoạn.
- Quân sư, trẫm không
thể làm chuyện vô nhân đạo như thế được, vì hiện nay
đứa bé ấy là đứa trẻ vô tội. Vậy xin Quân sư hãy lo
nuôi dưỡng và trông nom chỉ dạy mong rằng: Ngày sau không
làm những điều như đã có điềm báo trước.
Quân sư lạy tạ lòng
từ bi và công bằng của đức vua ra về và đặt tên đứa
bé ấy là AHIMSAKA có nghĩa là không làm hại kẻ khác. (Tàu
dịch là Vô Não). Từ đây tôi xin dùng tiếng Vô Não chỉ tướng
cướp để tiện quí vị dễ nhớ và dễ nói.
Cha mẹ ông Vô Não hết
lòng lo dạy dỗ con, ngừa không cho con làm việc ác, và
luôn luôn nhắc con nhớ tên VÔ NÃO có ý là không làm cho kẻ
khác khổ não. Ông Vô Não là người con chí hiếu thương yêu
kính trọng cha mẹ, và nhứt là rất thông minh lại có một
sức mạnh phi thường. Ðến lớn học văn chương xong; cha mẹ
ông cho đi học võ với một vị giáo sư có tên tuổi nhứt
trong thời kỳ ấy tên là Disàpàmokkha ở xứ Takkàsìlà .
Khi vào trường học,
ông Vô Não là người học trò rất tốt, hạnh kiểm đoan
trang, tính tình nhu hòa, học ít biết nhiều thông minh nhứt,
mà vị giáo sư ấy chưa từng thấy có một người học trò
như thế nầy bao giờ. Sức mạnh hơn người, tài chạy của
ông chiến mã hay nhứt trong thời kỳ ấy không qua ông được.
Vì tài giỏi hạnh kiểm tốt, nến thầy thương yêu giao
trách nhiệm dạy lại những học trò mới nhập môn và
trông nom các bạn.
Những bạn học trước
hay đồng niên đều phải nghe lời ông chỉ bảo, rất được
lòng thầy, nhưng không được lòng bạn mặc dầu ông là ngưới
rất tốt, vì lẽ tánh đố kỵ của bọn học trò cũ và mới.
Những người ấy liền hội nhau lại tìm phương thế làm
sao hại ông Vô Não. Nhưng vì ông là người rất hoàn toàn
tốt nên không tìm thấy lỗi của ông dầu rất nhỏ. Ðến
cùng chỉ còn phương thế là phao du cho ông thôi. Khi ấy bọn
học trò chia ra làm ba nhóm, mỗi nhóm vào hầu thầy phải
tìm cho ra chuyện dối thầy cách nào cũng được, miễn là
thầy ghét bỏ ông Vô Não là được. Bọn ấy cứ nói mãi
nhưng thầy không tin bằng thật. Ngài kia bọn chúng mới
nói: Vô Não có tài cao, thường nói rằng hơn cả thầy, ngày
nào đây sẽ chiếm lấy địa vị là vị giáo sư Disàpàmokkha
của thầy.
Vì nhiều người nói một
việc và nói đã nhiều lần, ông thầy thấy đáng nghi và
tin như vậy. Ông cũng muốn giết ông Vô Não nhưng không biết
giết bằng cách nào, vì nếu giết bằng cách nào cũng sợ
người đời biết dị nghị ông sẽ mang tiếng giết học
trò. Ông nghĩ ra được một chuyện là nhờ tay kẻ khác giết
là yên. Ông liền cho gọi Vô Não vào và bảo rằng: Tài học
của ông thật giỏi nhưng muốn thành tài thì phải giết
được nhiều người khi ấy làm phép xong tài ấy mới hoàn
toàn, kết quả mỹ mãn. Thâm tâm ông thầy nghĩ Vô Não giết
nhiều người có ngày bị người ta giết, không vậy cũng mắc
tội sát sanh đức vua cũng không tha.
Ông Vô Não sanh vào
dòng Bà la môn là dòng tu hành và hành phạm hạnh cao quí cử
sát sanh, không hề làm khổ kẻ khác. Khi ông nghe thầy dạy
như vậy, ông thấy sai với phong tục và phạm hạnh của
gia đình ông, nhất là cha mẹ thường dạy không nên làm tội
lỗi. Nhưng vì sự khuyên nhủ của thầy và cũng muốn trở
nên người giỏi nhứt trên đời nầy nên ông liền thi
hành theo.
Ông chuẩn bị gọn
gàng, nào là mang tên đeo cung kiếm vào rừng đón giết người
qua lại. Mặc dầu ông giết người nhưng thâm tâm ông
không nghĩ gì thù oán mà giết hay giận hờn mà giết, thật
là giết không có một ý định chính xác, cái ý ông là muốn
luyện phép mầu cho mau thành tài thôi. Khi ông đã giết nhiều
người rồi nhưng không nhớ là bao nhiều để về trình lại
với thầy hầu là cho xong phép. Nên ông bắt đầu giết
người nào cắt một ngón tay xỏ lại đeo vào cổ để không
thất lạc lại dễ nhớ. Vì lẽ ấy mà ông được tên là
Angulimàla, nghĩa là người đeo xâu chuỗi bằng lóng tay người.
Kể từ ngày bắt đầu
giết người thì không ai dám vào rừng đốn hoặc lượm củi
khô, người muốn đi ngang qua rừng ấy, phải đợi nhau lại
cùng mấy mươi người mới dám, nhưng nếu gặp ông Vô Não
thì bao nhiêu người cũng không khỏi tay ông cả. Người ở
gần đấy cũng bị ông giết hại không thể ở được,
đem gia đình đi ở nơi khác hay về thành ở. Khi đến thành
mới hội nhau bàn về tên tướng cướp sát nhơn hung tàn
ấy. Việc làm ác ôn ấy thấu đến tai đức vua Ba Tư Nặc,
Ngài nhứt định phải dẹp yên. Ngài liền truyền đem tứ
đội hùng binh vây khu rừng ấy bắt hay là giết cho được
tên tướng cướp hung ác ấy.
Vị Quân sư nghe tin ấy
ông biết chắc rằng con ông, và ông cũng biết rằng: Ðức
vua sắp đem binh trừ tên tướng cướp ấy. Ông liền về
nhà cho bà hay chuyện ấy. Bà yêu cầu van xin ông hãy đi
đem con về. Ông bảo ông không thể làm vậy được. Lòng mẹ
thương con to rộng không chi sánh bằng hay đo lường được,
mặc dầu đường xa và đã già nhưng bà không quản bao cực
nhọc, lập tức ra đi tìm con để báo tin không lành và bảo
con phải về hay trốn nhà vua.
Ðồng thời bà mẹ đi
tìm ông Vô Não thì đức Thế Tôn cũng dùng Tuệ giác coi
chúng sanh nào có duyên lành với Ngài trong ngày ấy. Ngài
trông thấy ông Vô Não có duyên với Ngài. Nếu Ngài không kịp
thời tế độ thì ông sẽ giết mẹ vì ông đã trở nên người
cuồng loạn không nhận định biết mẹ cha. Khi ông đã phạm
vào tội Ngũ nghịch đại tội thì không ai cứu được.
Ðức Thế Tôn đắp y
mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ thực xong Ngài đi
thẳng vào nơi ông Vô Não ở. Trong khi ấy ông Vô Não đã mất
hết lương tri vì ông ăn đồ sống giết hại nhiều người,
trong tâm ông không còn biết gì hơn là giết. Ông ngồi đếm
lóng tay người như nggười đếm hạt kim cương. Ông đếm
được chín trăm chín mươi chín ngón tay, chỉ còn một
ngón nữa là đủ một ngàn đặng đem về cho thầy làm
phép. Ông nóng lòng muốn tìm người để giết thì ông lại
trông thấy một bà già và một vị Sa môn. Ông liền nghĩ:
Trong hai người nầy ta giết người nào? Ông nghĩ nên giết
ông Sa môn. Nhờ vậy mà bà mẹ ông khỏi chết. Ông liền
xách gươm rượt theo vị Sa môn tức là đức Thế Tôn.
Ông Vô Não là người
có tài chạy hay hơn chiến mã. Nhưng khi ông rượt Phật
ông vận dụng hết tài của ông mà cũng không đuổi theo kịp
Phật, trái lại đức Thế Tôn vẫn ung dung đi một cách
nhàn nhã không hề thấy có thái độ lo lắng hay kinh sợ hoặc
hấp tấp. Ông cố hết sức rượt theo Phật cả ba do tuần
(mỗi do tuần là mười sáu cây số ngàn) mà vẫn không bắt
kịp. Ông lấy làm tức giận gọi to lên rằng: Nầy ông Sa
môn kia! Hãy dừng lại.
Ðức Thế Tôn đáp:
Angulimàla ! Như Lai đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi
chưa ngừng lại thôi. Tuy nói vậy nhưng đức Thế Tôn vẫn
ung dung bước đi từng bước một như người dạo mát.
Ông Vô Não nghe đức
Phật nói vậy lấy làm trái tai mới hỏi: Ông Sa môn! Ông
nói dối, ông vẫn đi mà bảo là đã ngừng.
Ðức Thế Tôn đáp: Như
Lai đã ngừng sự làm tội lỗi là nhân đưa sự đau khổ
trong luân hồi từ lâu rồi, chỉ có ngươi không dừng sự
sát hại nhân loại. Nếu ngươi còn cố làm những tội ác
như vậy nữa thì ngươi sẽ bị luân hồi trong biển khổ nầy
không biết thời gian là hạn định phải bao lâu, luân hồi
ấy không bao giờ ngừng nghỉ hay dừng lại.
Khi ông nghe lời Phật
dạy cảm thấy như người vừa tỉnh lại trong cơn ác mộng,
tâm ông trở nên sáng suốt và yên tĩnh nhớ lại được mọi
sự việc từ khi còn trong gia đình phạm hạnh thanh cao cho tới
khi đi học, và cha mẹ thường nhắc nhở cái tên Vô Não
nghĩa là người không gây sự khổ não cho ai cả. Ông liền
nghĩ cha mẹ ta đặt ta tên Vô Não thâm tâm hai người nhắc
ta không nên làm tội ác. Hơn nữa, trong đời nầy có pháp
mầu nào phải dùng tới sanh mạng con người để được kết
quả cao thượng. Khi ấy ông cảm thấy ông đã đi lạc đường,
con đường đi của ông là tà đạo. Ông lấy làm hổ thẹn
cởi bỏ xâu chuỗi kỳ quái ấy và đao kiếm cung tên, liền
đến gần Phật đảnh lễ Ngài xong xin Ngài cho phép xuất
gia.
Ðức Thế Tôn liền
cho phép ông xuất gia theo thể thức EHI-BHIKKHU nghĩa là ngươi
hãy trở thành vị Tỳ khưu. Tức nhiên thành vị Tỳ khưu có
đủ y bát. Ðức Thế Tôn dẫn ông trở vào thành Thất La
Phiệt.
Sáng ngày, đức Thế Tôn
ngự vào thành khất thực với chư Tỳ khưu. Trong số Tỳ
khưu có một vị mới xuất gia là ông Vô Não. Dân chúng thấy
ông lấy làm kinh sợ bỏ chạy thật là một cảnh náo loạn
họ bảo nhau rằng: Angulimàla giả dạng làm Tỳ khưu để vào
thành giết người, cũng có người nói: Angulimàla giả làm
Tỳ khưu để tránh sự truy nã của đức vua v.v... Trong ngày
ấy ông Vô Não không có được một hột cơm, ông chịu cảnh
đói ấy ít lâu vì nơi nào mà ông đến thì người người
đều kinh sợ trốn hết, không vậy cũng vào nhà đóng kín
cửa không dám ra.
Ngày nọ có một người
phụ nữ có thai gần ngày sanh, khi trông thấy ông Vô Não
kinh sợ chạy trốn, cô ta chun hàng rào cho mau, nhưng vì bụng
lớn quá chun không lọt, trái lại còn kẹt ở hàng rào
không làm sao ra được, mà trong lúc ấy thai nhi lại động
mà cũng không sanh được. Quyến thuộc của cô không biết
làm sao mới bàn với nhau. Có một người thanh niên lạ mặt
bảo: Theo tôi thì mời Ngài Ðại Ðức ấy đến và Ngài
phát nguyện sự tu hành chân chánh của Ngài và cầu chúc
cho cô thì cô ấy sẽ sanh được. Vì cùng quá không biết
làm sao, quyến thuộc cô ta làm theo lời của người thanh niên
ấy. Ðem gai lại rào quanh chỗ cô ấy và đến thỉnh cầu
ông Vô Não. Ông liền đến bạch hỏi Phật coi phải xử trí
thế nào. Ðức Thế Tôn dạy ông phát nguyện Ba La Mật.
Ông liền đến nơi ấy
đứng bên ngoài hàng rào gai phát nguyện rằng:
- Yato ham bhaginì
ariyaya jatiyajato nabhijanami sancicca pànam voropeta tena saccena
sotthi te hotu sotthi gambhassa.
Nghĩa: Nầy cô em
gái, kể từ khi ta sanh trong dòng Ariya, ta không làm chủ
nhân được ta nên đã sát sanh. Do nơi lời nói chân thật nầy
xin cho sự an lành có đến nàng và thai bào của nàng.
Dứt lời nguyện, cô
ấy sanh được dễ dàng, cả mẹ lẫn con bình an. Kể từ
ngày ấy đi người mới tin tưởng nơi ông và biết chắc rằng:
Ông là người từ bỏ điều ác. Nhứt là tính oai đức của
ông nên đến đổi chỗ ngồi của ông cũng có giá trị. Người
thường rửa lấy chỗ ngồi của ông tắm cho những đứa
trẻ sơ sanh, thú không sanh được lấy nước ấy cho uống
sanh được liền.
Những ngày khổ cực của
ông đã qua, dân chúng hết sợ và cúng dường cho ông đầy
đủ như những vị khác. Ông lo hành đạo không hề giải
đãi, nhưng không thể làm cho tâm được yên tỉnh vì những
cảnh sát hại người khi xưa hằng đến với ông khi ông
tham thiền.
Ngày nọ, ông tham thiền
trong rừng, nơi mà ông thường đuổi giết người, khi ấy
ông nghe tiếng những oan hồn đến đòi mạng, ông lấy làm
kinh sợ. Ðồng thời đức Thế Tôn hiểu rõ tâm trạng của
ông bằng Tuệ giác của Ngài. Ngài liền ngự đến nơi ấy
dạy ông Vô Não hãy dứt bỏ câu chuyện quá khứ; và cố
giữ tâm cho an tịnh trong đề mục thiền định và nên hồi
hướng phước báu đã tạo ra từ vô số kiếp đến những
người bị giết xin giải oan trái oán thù.
Ông vâng lời hành theo
và không bao lâu đắc A-la-hán quả cả Tam Minh. Từ ấy
Ngài là một trong tám mươi vị đại đệ tử Phật. Ðức
vua Ba Tư Nặc hay tin ấy liền vào hầu Phật lễ bái xong,
Ngài mới bạch hỏi Phật qua câu chuyện của Ngài Vô Não,
khi biết rằng: Ngài đã xuất gia theo chánh pháp trở nên vị
đại đệ tử nên đức vua lấy làm trong sạch, ca tụng
công đức Phật bảo rằng: Chỉ có đấng Giác Ngộ mới
thu phục được những người hung ác bạo tàn và chỉ có
Phật mới hy sinh không nài khổ cực cứu độ chúng sanh. Người
như Ngài Vô Não không hề kinh sợ quan quân mà lại qui phục
đức Từ Bi thật là chuyện hy hữu vậy.
THẮNG
NÀNG CINCÀ
KATVÀNA KATTHAMUDARAM IVA
GABBHINÌYÀ
CINCÀYA DUTTHAVACANAM JANAKÀYAMAJJHE
SANTENASONAVIDHINAJITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMAÍGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật đã
khử trừ lời dữ của nàng CINCÀ (Chinh Cha), nàng dùng cây
tròn giống dạng đứa bé trong thai; giả làm phụ nữ mang
thai. Nhờ dùng phép Chánh định mà đức Chánh Biến Tri cả
thắng nàng giữa chốn đông người. Do nhờ Phật lực nầy,
xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.
CHUYỆN TÍCH
Sau khi đắc quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, đức Thế Tôn hằng đi truyền đạo
khắp mọi nơi nên Phật giáo thạnh hành rất mau chóng, những
người tà kiến ngoại đạo đều hồi đầu hướng thiện,
vì vậy nên lợi lộc của những ông Tổ sư ngoại đạo bị
giảm đi rất nhiều.
Những ông Tổ sư ấy
mới hội nhau lại để bàn tính phương pháp nào làm giảm
uy tín của Phật giáo. Khi ấy có một người có ý kiến phải
làm như thế nầy thế nầy mới làm giảm uy tín của ông
Sa môn Cồ Ðàm. Khi đồng cùng nhau thực hành theo kế ấy.
Các ông liền đưa đại diện đến nhà cô CINCÀ (xin đọc
là CHINH CHA) yêu cầu cô thực hành theo kế ấy. Sau khi hoàn
thành cô sẽ được nhiều ân huệ, cô nhận lời thi hành kế
ấy.
Thật cô Cincà không hổ
là người khôn ngoan xảo trá. Kể từ ngày cô lãnh nhiệm vụ
cô trang điểm thật đẹp và đợi khi nào tín đồ vào
chùa nghe pháp buổi chiều cô cũng đi vào chùa. Có người
biết cô là kẻ ngoại đạo nên hỏi cô đi đâu.
Cô đáp: Tôi vào hầu
ông Sa môn Cồ Ðàm.
Cô vào chùa cửa trước
khi cô đợi coi người không để ý đến cô, cô liền lén
ra cửa khác mà về ngủ ở chùa bọn ngoại đạo gần bên
ấy. Ðến sáng ngày, cô đợi cho khi tín đồ vào chùa lễ
Phật cô lại trong chùa đi ra.
Có nhiều người thấy
vậy lấy làm lạ mới hỏi cô rằng: Cô đi đâu về sớm vậy?
- Tôi ở Kỳ Viên tịnh
xá về.
Ðộ chừng đôi ba
tháng sau có người hỏi cô đi đâu về sớm. Cô liền nói:
Ta ở chung một tư thất với ông Sa môn Cồ Ðàm trong Kỳ
Viên tịnh xá về đây.
Chuyện nầy làm cho nhiều
người còn phàm sanh lòng phân vân tự hỏi: Chuyện nầy
làm sao vầy? Thật cô nầy ở chung một tư thất với Phật
chăng? Ðến độ chừng bốn hay năm tháng sau cô liền độn
bụng hơi lớn lên như người có thai bốn hay năm tháng,
làm cho người để ý đến cô càng ngày càng nhiều.
Ðến tám hay chín
tháng cô liền dùng khúc cây tròn giống hình thai thật độn
bụng ra lấy vải quấn bụng thật kỹ, dùng cây tròn đập
trên lưng bàn tay và bàn chân cho hơi sưng lên làm cho ra vẻ
người đã mang thai gần ngày sanh.
Buổi chiều nọ, trong
khi đức Thế Tôn đang thuyết pháp giữa hàng đại chúng,
cô Cincà liền đến nơi ấy đứng trước mặt đức Thế Tôn
chỉ mặt Ngài mà nói: Nầy ông Sa môn Cồ Ðàm, tiếng ông
thanh tao nghe thật hay, răng ông đều đặn trắng trẻo đẹp,
lời nói văn hoa nghe rất bùi tai. Nhưng trái lại thân tôi cũng
vì ông mà ra nông nỗi nầy. Hiện nay cái bào thai do, ông
là tác giả đã đến ngày rồi, ông không biết sao? Tại
sao ông không tìm nhà nào để cho tôi tạm bợ ở đậu để
sanh, ông không biết lo những vật như than, củi v.v... cho
người sắp sanh như tôi dùng chăng? Nếu ông không tự làm
lấy được thì ông cũng nên bảo tín đồ trung thành với
ông như là Visàkha hay đức vua Ba Tư Nặc lo cho tôi. Nói
xong bà liền mắng chửi Phật đủ điều nào là người đểu
giả v.v... không hề nể nang giữa hàng tín đồ.
Ðức Thế Tôn ngồi
yên không nói nửa lời với cô. Ngài điềm nhiên thuyết
pháp khi thuyết xong Ngài mới nói rằng:
- Nầy cô Cincà chuyện
nầy chỉ có Như Lai và ngươi biết mà thôi.
- Nầy ông Sa môn, sự
thật là vậy.
Trong khi ấy, ngai vàng
của Thiên Vương Ðế Thích trở nên nóng như sắp bị chảy
ra, hay như ngồi trên hỏa diệm sơn. Ðức Ðế Thích lấy
làm lạ và rất kinh sợ, nên Ngài dùng thần thông xem coi
vì nguyên nhân nào? Ngài thấy do nơi cô Cincà phao vu đức
Ðại Giác. Ngài nghĩ: Thế ra vì cô nầy, thôi để ta giải
quyết cho êm, và làm cho rõ sự trong sạch của đức Thế Tôn.
Ngài truyền gọi bốn
vị chư Thiên đến dạy rằng:
- Các người hãy hóa
ra bốn con chuột con vào cắn dây cột bụng của cô Cincà
làm cho khúc cây rơi xuống trên lưng bàn chân của cô ta.
Bốn vị vâng lời thi
hành theo sứ mạng. Khi khúc cây rớt xuống đúng ngay vào
hai bàn chân cô, và hai bàn chân ấy bị đứt tiện như người
dùng dao bén chém đứt vậy.
Những tín đồ còn
phàm có mặt nơi ấy lấy làm tức giận bảo: Con khốn kia,
ngươi đến đây để phao vu cho đức Ðại Từ Bi bằng những
lời đê tiện như vầy chăng? Nói xong kẻ phun nước miếng
vào mặt, người khạc nhổ những vật không sạch vào mặt
cô, có người vì tức giận quá không chịu được lấy đá
gạch liệng vào người cô, có người kéo cô ra khỏi Kỳ
Viên tịnh xá. Thương hại cô khi vừa ra khuất mắt đức
Thế Tôn cô liền bị đất sụp chết. Cô bị đọa vào A tỳ
địa ngục.
Ngày hôm sau, chư Tỳ
khưu hội nơi thuyết pháp bàn về vấn đề cô Cincà rằng:
Cô Cincà dám vu oan cho bậc Ðại Giác Ðại Từ Bi như đức
Thế Tôn là đấng đáng thọ lãnh cúng dường của chư Thiên,
Phạm Thiên và nhân loại thật là chuyện phi thường vậy.
Ðức Thế Tôn cũng vừa
đến và hỏi câu chuyện gì? Chư Tăng bạch Phật những
chuyện đã nói.
Ðức Thế Tôn dạy:
- Nầy các thầy Tỳ khưu,
chẳng phải cô Cincà mới phao vu cho ta trong kiếp nầy, mà cũng
đã từng phao vu cho ta nhiều lần trong kiếp quá khứ.
Chư Tỳ khưu liền thỉnh
cầu đức Thế Tôn thuyết Túc Sanh Truyện.
Ðức Thế Tôn dạy:
Lúc quá khứ cô Cincà được sanh làm Thứ hậu xứ
Bàrànasì , còn mẹ của đức Bồ Tát là Hoàng hậu. Khi ấy
đức Bồ Tát đã lớn lại là một thanh niên anh tuấn. Bà
Thứ phi thấy Thái tử đẹp nên rất yêu, nên phát tà tâm,
nên tìm trăm mưu ngàn kế để đuợc gặp Thái tử. Ngày gặp
được Thái tử bà liền dùng lời yêu đương khuyến dụ
Ngài. Nhưng không làm sao rung động lòng son sắt của Thái tử,
nên bà oán ghét. Bà liền giả vờ bịnh, đức vua mới hạ
lời phán hỏi: Tại sao bà cứ nằm hoài không vui như trước.
Bà liền tâu: Tâu Ðại
vương vui làm sao được mà vui. Thần thiếp đã bị Ðông
cung Thái tử cưỡng bách phá hại đời thần thiếp. Thần
thiếp không bằng lòng bị Ðông cung đánh đập thân thể
ra nông nỗi nầy.
Vì nhẹ lòng tin nơi bà
Thứ phi trẻ đẹp. Ðức vua liền hạ lệnh đem Thái tử
xô xuống hố sâu, nơi để xô những tử tội.
Nơi hố ấy có vị Thọ
thần nghĩ rằng: Vị Thái tử nầy là một vị đại Bồ Tát
ta không thể để Ngài chết một cách thê thảm như thế nầy
được. Ông liền đỡ lấy đức đại Bồ Tát đưa đến
ở với Long vương. Thái tử ở Long cung được một năm, lòng
Ngài không thích nơi lầu vàng điện ngọc nên muốn về ở
nơi rừng Tuyết Lãnh xuất gia làm đạo sĩ. Long vương liền
đưa Ngài về. Sau khi xuất gia Ngài trì chí tu hành đắc
được Tứ thiền và có thần thông.
Ngày nọ, có một người
thợ săn đi sâu vào rừng Tuyết Lãnh gặp đức Bồ Tát và
nhớ rõ rằng: Ðây là Ðông cung Thái tử. Khi về đến kinh
thành vào chầu và tâu cho đức vua biết Thái tử vẫn còn
sống và đang xuất gia tu hành nơi rừng Tuyết Lãnh. Sau
ngày hạ lịnh xô con xuống núi đức vua thấy ăn năn hối
hận và nghĩ rằng chắc con ta là người đức hạnh không
ai bì, bao giờ lại làm tội ghê tởm như thế.
Khi nghe tin con Ngài liền
truyền cho sắm sẵn mọi việc nhứt là xa giá trang nghiêm
để đi nghinh đón Thái tử về thành. Chính Ngài ngự đi đến
nơi tư thất của Thái tử. Khi đến nơi đức vua hỏi qua
chuyện cũ. Ðức Bồ Tát trình bày rõ mọi việc. Ðức vua
lấy làm thương con bị hàm oan. Ngài yêu cầu Thái tử trở
về triều thay Ngài trị vì thiên hạ. Ðức Bồ Tát từ chối
và dạy đức vua khi về nên thực hành theo mười pháp của
một vị minh quân, không nên thiên vị.
Ðức vua vâng lời xa
giá ra về. Khi về nửa đường đức vua mới hỏi vì cớ
nào con ta lại xuất gia?
Các quan tâu vì lẽ bà
Thứ hậu bất chánh. Ðức vua truyền đem bà xô xuống hồ
xô Thái tử khi xưa.
Ðức Thế Tôn thuyết
xong Ngài liền dạy rằng: Thái tử khi xưa chính là Như Lai
hiện tại vậy. Còn bà Thứ hậu ấy chính là cô Cincà. Ðức
vua khi ấy là Ananda hiện tại.
Ðức Thế Tôn dạy tiếp:
Nầy các thầy Tỳ khưu, người mà không có sự thành thật
nói dối vì lòng xấu xa mờ tối bị si mê; người ấy chắc
chắn sanh vào địa ngục, con đường tiến hóa là Người,
Trời và Niết bàn bị đóng chặt. Khi mãn hạn nơi địa ngụ
sanh lại kiếp sau, sau vì quả ác nghiệp nên hằng gặp những
tai nạn như bị vu khống v.v... do nơi tội đã tạo.
Sau khi dứt thời pháp
có nhiều vị giác ngộ.
Ðức Thế Tôn thắng
cô Chinh Cha do nơi pháp Chánh định của Ngài.
-ooOoo-
Trang
trước | Ðầu trang | Mục
lục | Trang kế |