| 
         THIÊN THỨ 
        MƯỜI BA (a) 
        NHỮNG 
        CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM  
        TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM
        -ooOoo- 
        Trong 
        bốn mươi lăm năm truyền đạo đức Thế Tôn ngự cả thảy 
        mười chín nơi. Và cũng có lắm chuyện xảy ra, nhưng trong 
        lịch sử không ghi chép ngày tháng năm thật rõ. Nhứt là 
        có những chuyện lạ khó đem lại trình bày đầy đủ trong 
        phạm vi của một quyển sách nhỏ này. Nơi đây tôi (soạn 
        giả) cố gắng sưu tầm những gì tôi có thể sưu tầm được. 
        
        Mười chín nơi của đức Thế Tôn ngự trong bốn 
        mươi lăm hạ. 
        
        1) Hạ thứ nhứt, đức 
        Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giã gần thành BÀRÀNASÌ độ 
        năm vị Ðại Ðức Kiều Trần Như. 
        2) Hạ thứ nhì, thứ 
        ba và thứ tư, ngự tại VELUNANA (Tàu dịch là Trúc Lâm tịnh 
        xá) độ đức Bình Sa Vương và chúng sanh. 
        3) Hạ thứ năm, ngự tại 
        KUTÀGÀRASÀLÀ ở rừng MAHÀVANA gần thành Vesàlì. 
        4) Hạ thứ sáu, ngự tại 
        núi MAKUTA gần thành MAGADHA (Tàu âm là Ma Kiệt Ðà). 
        5) Hạ thứ bảy, Ngài 
        ngự tại cõi trời Ðạo Lợi thuyết bộ Vi Diệu Pháp bốn 
        muôn hai ngàn pháp môn độ Phật mẫu. 
        6) Hạ thứ tám, Ngài 
        ngự tại BHESAKALAVANA tại xứ SUMÀRADÌRA . 
        7) Hạ thứ chín, Ngài 
        ngự tại chùa GHOSITÀRÀMA gần thành KOSAMBI ở nơi bờ sông 
        YAMUNA . 
        8) Hạ thứ mười, Ngài 
        ngự tại rừng Parileyyaka gần thành Kosambi độ bạch tượng 
        và khỉ. Sở dĩ mà Ngài ngự tại rừng này vì Ngài khuyên 
        chư Tăng đừng gây nhau, nhưng chư Tăng không nghe lời Ngài. 
        9) Hạ thứ mười một, 
        Ngài ngự tại làng Bà la môn tên Nàraya gần xứ Narà . 
        10) Hạ thứ mười hai, 
        Ngài ngự tại cội cây Sầu Ðông gần xứ Veranjarà vì ông 
        Bà la môn tên VERANJARÀ thỉnh cầu. 
        11) Hạ thứ mười ba, 
        Ngài ngự tại núi Càliya . 
        12) Hạ thứ mười bốn, 
        Ngài ngự tại JETAVANAVIHÀRA (Kỳ Viên tịnh xá của Trưởng 
        giả Cấp Cô Ðộc gần thành SAVATTHÌ (Thất La Phiệt). 
        13) Hạ thứ mười 
        lăm, Ngài ngự tại chùa NIGRODHA thành Ca Tỳ La Vệ của quyến 
        thuộc Ngài dâng cúng. 
        14) Hạ thứ mười sáu, 
        Ngài ngự tại chùa AGALAVA xứ Alavì, độ Dạ xoa ALAVAKA . 
        15) Hạ thứ mười bảy, 
        ngự tại Trúc Lâm tịnh xá thành Vương Xá ( Ràjagaha ). 
        16) Hạ thứ mười tám 
        và mười chín, Ngài ngự tại núi Càla . 
        17) Hạ thứ hai mươi, 
        Ngài ngự tại Trúc Lâm tịnh xá ở thành Vương Xá. 
        18) Từ hạ thứ hai mươi 
        mốt tới bốn mươi bốn, Ngài ngự tại Kỳ Viên tịnh xá 
        thành Sàvathi (Thất La Phiệt). Trong thời gian này đức Thế 
        Tôn đi thuyết pháp độ đời mọi nơi nhưng khi nhập hạ 
        Ngài về ngự tại Kỳ Viên tịnh xá. 
        19) Hạ thứ bốn mươi 
        lăm, Ngài ngự tại làng Veluvagàmakhetta xứ Vesàlì và nhập 
        diệt tại thành Vesàlì . 
        Trước hết nơi đây 
        tôi xin giải tám điều gọi là BUDDHAJA YAMAN GALAGATHA nghĩa là: 
        Kệ kể lại sự cảm hóa tám nhân vật bằng tám oai đức 
        của đức Thế Tôn. Bài kinh này Ðại Ðức Hộ Tông có dịch 
        và ấn tống trong Kinh Tụng. Nhưng Ngài chỉ dịch theo lời 
        kinh thôi, riêng tôi viết nguyên một tích. Mỗi câu kệ là 
        mỗi chuyện tích để quí vị dễ thông hiểu. Theo lời dạy 
        thì người nên cố tụng niệm tám câu kệ ấy sẽ được 
        an lành trong gia đình. 
        
        THẮNG MA 
        VƯƠNG 
        
        Nguyên văn bằng Phạn 
        ngữ 
        BÀHUM 
        SAHASSAMABHINIMMITASÀVU- DHANTAM. 
        GRÌMEKHALAM UDITAGHORASASENÀMÀRAM. 
        DÀNÀDIGHAMMAVIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO. 
        TANTEJASA BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI 
        Nghĩa: Ðức Phật cao 
        thượng hơn các bực trí tuệ, Ngài đã cảm thắng Ma vương, 
        Ma vương biến ngàn cánh tay cầm khí giới, cỡi Grimekhala 
        (Cri-mê-khá-lá) đủ cả binh ma, tiếng hét la vang rền. Nhờ 
        phép Thập độ nhứt là phép bố thí mà đức Phật cảm thắng 
        được Ma vương. Do nhờ Phật lực này, xin cho hạnh phúc 
        phát sanh đến người. 
        Lẽ ra tôi không viết 
        đoạn này vào đây vì đã có viết trong lịch sử đức Thái 
        tử Sĩ Ðạt Ta, hơn nữa đoạn này còn trong khi là vị Bồ 
        Tát dưới cội Bồ đề. Nhưng vì viết theo bài kinh gọi 
        là Tám điều của đức Thế Tôn thắng tám nhơn vật phi 
        thường nên tôi viết theo đây để không thiếu tám điều 
        trong tám câu kệ. 
        SƠ LƯỢC CỐT TRUYỆN 
        Sau khi đức Bồ Tát thọ 
        lãnh lấy cơm đề hồ của cô Sujàtà. Ngài liền đi thẳng 
        đến con sông Neranjarà (Ni Liên Hà) tắm, khi tắm rồi vắt 
        cơm là bốn mươi chín vắt, thọ thực xong, Ngài liền bưng 
        mâm vàng lên phát nguyện rằng: Nếu ta đắc được quả Vô 
        thượng Chánh đẳng Chánh giác thì xin cho mâm nầy trôi ngược 
        dòng sông, bằng không thì xin cho mâm nầy chìm ngay nơi nầy. 
        Ngài liền để mâm xuống, lạ thay mâm liền trôi ngược dòng. 
        Khi Ngài thấy mâm trôi 
        ngược dòng sông thì Ngài biết chắc rằng: Ngài sẽ đắc 
        quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài liền trở vào 
        rừng, khi ấy có thầy Bà la môn tên Sotthiya dâng đến Ngài 
        tám bó tranh, Ngài cầm lấy tám bó tranh ấy, đi thẳng đến 
        cây Bồ Ðề; trải tranh dưới cội Bồ đề, ngồi day mặt 
        về hướng Ðông, và phát nguyện rằng: Nếu thật là ta đắc 
        quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hôm nay xin cho nơi nầy 
        hóa thành một bảo tọa cho ta ngự. 
        Liền khi ấy, một bảo 
        tọa màu xanh cao mười bốn hắc tay, từ dưới đất nổi lên. 
        Ngài liền ngự lên bảo tọa và phát nguyện rằng: Bao giờ 
        lòng ta chưa hết thụy miên phiền não, dẩu cho thịt ta có 
        khô, da ta có héo ta cũng không rời khỏi bảo tọa này. Khi 
        ấy có tất cả chư Thiên, Phạm Thiên trong Sa bà thế giới 
        đều hội nơi ấy. 
        Ðồng thời Ma vương 
        đi theo bên Ngài kể từ khi Ngài bỏ Hoàng cung ra đi, thâm 
        tâm Ma vương dò xét coi đức đại Bồ Tát có khi nào mong 
        muốn việc trần là xâm nhập đưa trở lại nẻo luân hồi, 
        nhưng không hề thấy một lỗi lầm nào. Ðến khi thấy đức 
        đại Bồ Tát ngự trên bảo tọa dưới cội Bồ đề, tức 
        giận mới nghĩ rằng: Thật Thái tử Sĩ Ðạt Ta cố giải 
        thoát ra ngoài vòng thống trị của ta, đối với chúng sanh 
        ta sẽ mất cả uy quyền, vì Thái tử Sĩ Ðạt Ta đắc thành 
        quả. Vậy ta phải làm trở ngại đường giải thoát của 
        Thái tử Sĩ Ðạt Ta. 
        Khi ấy có ba người 
        con gái của Ma vương đến nói: Phụ vương đừng bận tâm, 
        khi mà phụ vương có những đứa con như chúng con thì khỏi 
        nhọc lòng lo về chuyện Thái tử Sĩ Ðạt Ta. Chúng con có 
        phương pháp đưa chàng ta vào lưới. Ma vương lấy làm hài 
        lòng nên để cho ba nàng đến trêu ghẹo đức đại Bồ Tát. 
        Ba cô mới bàn với 
        nhau rằng: Phàm người đàn ông có sở thích khác nhau, có 
        người thích cô gái thơ ngây, người thì ưa người vừa lớn 
        tuổi, có kẻ yêu gái lỡ thời. Vậy chị em mình chia ra mỗi 
        người hóa thành một nhóm để cám dỗ Thái tử Sĩ Ðạt 
        Ta. 
        Cô Tanhà (Ái Dục) 
        lãnh sứ mạng đến trước; khi đến nơi đức đại Bồ Tát 
        ngự, múa hát và nói: Tôi tên là Tanhà (Ái dục) vì tôi có 
        thể trói chúng sanh được, và làm cho chúng sanh quên mình 
        chạy theo ý định của tôi. 
        Ðức Bồ Tát liền dạy 
        rằng: 
        MULHO ÀTTHAM NA JANATI 
        MULHODHAMMAM NA JANATI 
        ANDHATAMAM TADA HOTI 
        YAM MOHO SAHATE NARAM 
        TASMA ARAHATAM NIHARISSAMÌTI 
        Nghĩa: Nầy cô Tanhà 
        (Ái dục), ngươi là kẻ si mê không có trí tuệ, không hiểu 
        pháp nào là pháp hữu ích, pháp nào là pháp đê tiện; si 
        mê hằng dày vò chúng sanh quên mình vì Ái dục (nên luân hồi). 
        Như ta đây đã xuất gia tu hành hầu tiêu diệt các ác pháp 
        là Ái dục không hề để Ái dục sống được trong tâm ta. 
        Nầy nàng Tanhà (Ái dục) vậy ngươi nên mau mau tìm đường 
        trốn khỏi nơi nầy. 
        Khi đức đại Bồ Tát 
        nói vậy cô Ái dục không thể nào ở lại được vì nóng 
        nảy bởi oai đức của bực sắp giác ngộ. Cô lật đật 
        lui ra. 
        Cô Ràga (Tham ái) liền 
        tiến vào gần đức đại Bồ Tát múa hát trêu ghẹo Ngài. 
        Ðức đại Bồ Tát hỏi: 
        - Cô tên chi? 
        - Tôi tên là Ràga (Tham 
        ái) vì tôi là người có uy quyền cực cao, tôi có thể 
        trói chúng sanh trong tam giới và bắt buộc chúng sanh phải 
        tuân theo mạng lịnh của tôi bằng Tham ái. 
        Ðức đại Bồ Tát liền 
        nói: 
        RATTO ATTHAM NA JÀNÀTI 
        RATO DHAMMAM NA PASSATI 
        ANDHATAMAM TAMÀ HOTI 
        YAM RÀGAM MAHATE NARAM 
        AHAM RÀGAVIRÀGÀYA 
        VÀYAVISSÀMIHÀGOTOTI . 
        Nghĩa: Nầy cô Ràga 
        (Tham ái) người nào có tâm ưa mến Tham ái; ưa thích ngũ trần, 
        người ấy không biết làm lợi ích cũng không có trí tuệ 
        để suy nghĩ thấy và thấu hiểu pháp. Những nguyên nhân 
        ấy cũng do nơi lòng Tham ái mà ra. Lẽ cố nhiên Tham ái hằng 
        làm hại chúng sanh, nhưng ta là người ly gia cắt ái làm vị 
        Sa môn, cố gắng tinh tấn hầu diệt trừ tất cả các ác 
        pháp ngủ ngầm trong tâm. Nầy cô Tham ái kia, cô không nên 
        duy trì ở nơi này, nên mau mau tránh khỏi nơi đây. 
        Cô Tham ái không thể 
        ở được vì bị đức đại Bồ Tát đuổi, cô lật đật 
        ra đi. 
        Người con thứ ba của 
        Ma vương là cô Arati (Tật đố) liền đến nơi Ngài múa 
        hát với những lời hoa tình trêu ghẹo cố cám dỗ vị đại 
        Bồ Tát. 
        Ðức đại Bồ Tát hỏi: 
        - Cô là ai? Ðến đây 
        để làm gì? 
        - Tôi tên là Arati (Tật 
        đố), tôi là người có uy quyền to lớn giam cầm chúng sanh 
        trong vòng luân hồi bằng sự tức giận ganh ghét nên tôi 
        có tên là Tật đố. 
        Ðức đại Bồ Tát liền 
        nói câu kệ đuổi cô đi rằng: 
        DUTTHO ATTHAM NA JANÀTI 
        DUTTHO DHAMMAM NA PASSATI 
        ANDHATAMAM TADÀ HOTI 
        YAM DOSO PAHATE NARAM 
        TVASI NIHATO NAYÀTI 
        Nghĩa: Nầy cô Tật đố, 
        người nào còn ở dưới quyền sân hận, khi sân hận phát 
        sanh trong tâm người ấy làm cho người ấy nóng nảy, bực 
        bội phóng túng, và tối tăm. Người ấy không bao giờ nhận 
        định thấy pháp đem lợi ích đến, mà cũng không nhận thấy 
        tai hại và tội phước nữa, đây là do nơi lòng sân hận 
        che án mất làm cho người không trông thấy ba tướng (Vô thường, 
        khổ não, vô ngã). Thật ra sân hận là một tội lỗi vĩ đại 
        hằng làm hại chúng sanh. Ta đã cố công bồi phước lành 
        là thiện pháp để diệt trừ ác pháp là sân hận cho hết 
        sạch trong tâm ta. 
        Nầy cô Tật đố, vậy 
        cô hãy mau mau xa lánh nơi nầy lập tức. 
        Khi ba cô ra khỏi nơi 
        đức đại Bồ Tát ngự thì ba cô trở nên những bà già xấu 
        xí, các cô không còn hãnh diện như xưa nên trở về nơi Ma 
        vương và khóc lóc than van. 
        Theo chú giải có dạy 
        rằng: Ðây không phải là có thật ba nàng nữ Ma vương nầy, 
        nhưng đó là ba điều phiền não hằng nằm trong thâm tâm của 
        chúng sanh, hiện ra để làm trở ngại sự giải thoát thôi. 
        Ma vương thấy con trở 
        về với bộ mặt già nua đáng thương hại kia, sự tức giận 
        càng tăng thêm lên vô số. Liền hội cả binh ma tướng quỉ 
        đến. Những binh tướng nầy dị hình dị tướng ai trông 
        thấy cũng kinh hồn tán đởm. Khi đến đủ Ma vương liền 
        dẫn nhau đến cội Bồ đề để vấn tội đức đại Bồ 
        Tát và dành lấy bảo tọa. 
        Khi đức đại Bồ Tát 
        thấy Ma vương xua binh tướng mặt mày thật là hung ác đến 
        trùng trùng điệp điệp, Ngài mới nghĩ rằng: 
        Khi ta từ thành Ca Tỳ 
        La Vệ ra đi, thì có rất nhiều chư Thiên là bạn đưa ta 
        đi và cùng ở với ta trong khi ta khổ hạnh đến lúc ta ngự 
        lên bảo tọa nầy. Nhưng giờ đây các chư Thiên ấy đều 
        kinh sợ oai lực của Ma vương bỏ ta ra đi nơi khác; giờ đây 
        không ai giúp đỡ ta. Ta chỉ còn trông nhờ nơi oai đức của 
        Ba la mật mà thôi, Ngài nghĩ vậy liền gọi ba mươi phép Ba 
        la mật bằng câu kệ rằng: 
        AYANTU BHONTO 
        IDHA DANASÌLA 
        NEKKHAMMA PANNA 
        SAHA VIRIYA KHANTI 
        SACCADITTHANASAMETTUPEKKHA 
        YUDDHAYA VO GANHATHA AVUDHANITI. 
        Nghĩa: Hởi nầy các Ba 
        la mật ơi, ta đã cố công đào tạo các người là Bố 
        thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, 
        Chân thật, Nguyện vọng, Từ và Xả. Tổng cộng là ba mươi 
        pháp chia ra làm Ba la mật đến bờ bên có mười, Ba la mật 
        đến bờ trên có mười và Ba la mật đến bờ cao thượng 
        có mười. Vậy tất cả Ba la mật xin hãy đến đây cầm lấy 
        khí cụ giúp ta đừng để Ma vương vi phạm đến ta. 
        Liền trong khi ấy dường 
        như có bảy đạo binh rất dũng mãnh có nhiều thần thông 
        hiện ra đứng giữ quanh bồ đoàn và hình như nói với 
        Ngài rằng: Thưa đấng Ðại Giác xin Ngài an lòng, có chúng 
        tôi là người mà Ngài đã nuôi dưỡng từ vô số kiếp. 
        Ngài hãy xem chúng tôi chống với quân ma. 
        Những vị tướng lãnh 
        điều khiển những đạo binh ấy rất oai; thân hình cao lớn 
        ấy là Tín Lực; cầm lấy gươm báu hào quang chiếu ngời 
        là Tuệ Lực; Tấn Lực và Niệm Lực là khiên đỡ tên đạn 
        và Ðịnh Lực là tâm không kinh sợ quân ma. 
        Ðức đại Bồ Tát ngự 
        trên bảo tọa trông thấy binh tướng của mình oai hùng mạnh 
        mẽ thì Ngài không chút chi lo ngại oai lực của quân tướng 
        Ma vương. Ngài ngồi Từ Bi, tham thiền như không có chuyện 
        chi cả. Ngài coi bọn Ma vương không vào đâu. 
        Sự tự tại của đức 
        đại Bồ Tát làm cho Ma vương càng căm tức xua binh đến gần 
        quyết giết cho được Ngài, nhưng binh ma không dám léo đến 
        gần vì bị binh tướng của Ngài chận lại. 
        Ma vương tận dụng tất 
        cả tài năng và phép tắc của mình đã có, nhưng không có 
        món phép nào làm hại đức đại Bồ Tát được, trái lại 
        những món ấy hóa thành hoa đẹp mùi thơm bay ra rất xa để 
        cúng dường cho vị sắp Giác Ngộ thôi. Ma vương thấy không 
        làm chi đức đại Bồ Tát được nên đến gần đức Bồ 
        Tát mắng nhiếc Ngài đủ điều nhưng Ngài không lấy đó 
        mà tức giận, trái lại Ngài thương hại Ma vương như người 
        cha thương con và nói: 
        - Nầy Ma vương ngươi 
        đem hết lực lượng và thần thông của ngươi đến để 
        đánh đuổi ta; nhưng ta không hề kinh sợ, ta có đủ Ba la mật 
        đã đào tạo ra đã đến bốn A-tăng-kỳ và trăm ngàn đại 
        kiếp. Những Ba la mật ấy là chiến tướng của ta, vì vậy 
        nên ta không hề kinh sợ ngươi. 
        Ma vương nghe đức đại 
        Bồ Tát nói vậy càng tức giận hơn liền lấy pháp bảo 
        quí nhứt của mình là một cái vòng có răng rất bén và rất 
        là lợi hại liệng ra để giết Ngài. Nhưng khi bửu vật đến 
        gần đức đại Bồ Tát thì trở thành tràng hoa để cúng dường 
        đức đại Bồ Tát. Ma vương tức giận, đến gần hét to 
        lên rằng: 
        - Nầy Sĩ Ðạt Ta! Tại 
        sao ngươi vẫn ngồi lỳ nơi đây, sao không đi nơi khác? Bảo 
        tọa nầy không phải của ngươi, là của ta, ngươi không 
        có binh tướng và uy quyền tối cao như ta. Bảo tọa nầy 
        sanh lên nơi đây là của ta không phải do nơi oai đức của 
        ngươi. 
        - Nầy Ma vương, lời của 
        ngươi nói ấy có thật hay chăng? Nếu thật vậy thì ai là 
        người chứng của ngươi? 
        - Lời ấy thật như vậy, 
        ta có quan quân binh tướng của ta làm chứng cho ta? 
        Khi đức đại Bồ Tát 
        nghe Ma vương phân chứng như vậy, Ngài mới hỏi: 
        - Nầy ma vương, ta xin 
        hỏi ngươi vậy bảo tọa đã có từ trước hay thế nào? 
        - Bảo tọa ấy không 
        phải đã có từ trước. 
        - Nếu không phải có từ 
        trước thì ngươi bảo là của người thế nào được? Sở 
        dĩ mà có bảo tọa nầy là do nơi Ba la mật của ta đã đào 
        tạo vun trồng. Vì vậy không bao giờ ta rời khỏi nơi nầy. 
        Ma vương nghe nói vậy, 
        tức giận liền hỏi Ngài rằng: 
        - Nầy Sĩ Ðạt Ta! Ngươi 
        đừng khoe khoang, ta vẫn còn rất nhiều phép mầu nhiệm để 
        đánh bại ngươi, tại sao ngươi không kinh sợ? Mà còn 
        khoác lác như vậy. 
        - Nầy Ma vương, ngươi 
        mới thật là người hung ác không có chút trí tuệ, không 
        hiểu rõ nổi công đức của ta. Ta có ba mươi pháp Ba la mật 
        mà ta đã đào tạo từ lâu. Ta có tướng tài quân giỏi là 
        Tín Lực, có Trí Tuệ là khí cụ tối tân. Vì vậy nên ta 
        không kinh sợ chi ngươi. 
        Ma vương liền truyền 
        cho quân binh tràn vào đánh bắt đức đại Bồ Tát, nhưng vì 
        oai lực của Ba la mật nên quân ma không dám đến gần. 
        Chư Thiên ở mọi nơi 
        thấy vậy đồng hoan hô đức đại Bồ Tát rằng: Lành 
        thay! Thiện thay! 
        
        Ma vương hỏi đức đại Bồ Tát rằng: 
        
        - Nầy Sĩ Ðạt Ta! Ngươi 
        bảo rằng: Bảo tọa nầy của ngươi; vậy ai làm chứng cho 
        ngươi là của ngươi? 
        Khi ấy đức đại Bồ 
        Tát nghĩ: Ta không tìm thấy bên ta đây có ai làm chứng cho 
        ta, ta chỉ thấy có quả địa cầu nầy mới có thể làm chứng 
        cho ta được. Ngài liền phát nguyện rằng: 
        - Nầy quả địa cầu, 
        chính ta đã tạo ba mươi pháp Ba la mật từ vô số kiếp đến 
        kiếp chót sanh làm Vesantara bố thí cả châu ngọc vợ con đó 
        là đại thí mà hẳn không có một vị Sa môn hay Bà la môn 
        nào thực hành nổi. Hỡi nầy địa cầu, tại sao ngươi yên 
        lặng không làm chứng cho ta? 
        Quả địa cầu là vật 
        vô tri giác, nhưng cũng dường như cảm thông lòng thành thật 
        và biết rõ sự đào tạo Ba la mật của công đức vị đại 
        Bồ tát. Mặt đất liền rung chuyển rồi nứt ra hiện ra một 
        người phụ nữ rất đẹp đứng ngay trước mặt đức đại 
        Bồ Tát và nói rằng: 
        - Thưa Ngài, chỉ có 
        tôi là người chứng chắc công đức của Ngài, tất cả việc 
        làm của Ngài đều ghi vào đầu tôi đây, vì tôi thường 
        được hưởng lấy sự hồi hướng phước báu của Ngài 
        cho, tôi sẽ vuốt tóc của tôi và nước sẽ chảy ra để 
        chứng chắc rằng: Ngài có đào tạo ra rất nhiều công đức 
        từ vô số kiếp. 
        Nói xong bà liền vuốt 
        tóc thì bỗng dưng nước trong tóc chảy ra xối xả trôi cả 
        binh ma tướng quỉ của Ma vương. Tượng Grimekhala Ma vương 
        cỡi là tượng có thần thông nhưng vẫn kinh sợ trước sức 
        mạnh của nước ấy. 
        Ma vương thấy vậy càng 
        kinh sợ nên chấp tay lễ bái và nói câu kệ rằng: 
        NAMO TE PURISUTTAMA 
        SADEVAKASMIN LOKASMIN 
        NATTHI TE PATIPUGGALO 
        TVAM BUDDHO TVAM SATTHÀ 
        TVAM MÀRÀBHIPHÙ MUNI 
        TVAM ANUSAYA CHEKO 
        TINNO TÀRESI MAM MAJJANTI 
        Nghĩa: Bạch Ngài, Ngài 
        là đấng có nhiều uy quyền có nhiều đặc ân cao thượng 
        rõ ràng ví như ngựa AJANEYYA. Ngài có tâm trong sạch bởi bốn 
        đức là Từ, Bi, Hỉ, Xả. Tôi xin đảnh lễ Ngài, xin cho 
        Ngài trở nên vị Thiên Nhơn Sư, Ngài là đấng diệt trừ 
        được tất cả các pháp trong tâm. Khi nào Ngài đắc quả Vô 
        thượng Chánh đẳng Chánh giác xin Ngài mở lòng từ bi tế 
        độ tôi là chúng sanh còn mê muội. 
        
        Nói xong liền lễ bái rồi ra đi. 
        
        Vì uất hận nên Ma vương 
        ngồi bên vệ đường lấy tay gạch xuống đất mười sáu 
        lần và tính rằng: Vì ta không Bố thí Ba la mật bằng Thái 
        tử Sĩ Ðạt Ta nên ta không thành Phật như Thái tử. Ta 
        không Trì giới Ba la mật. Ta không có Tinh tấn Ba la mật. Ta 
        không có Nhẫn nại Ba la mật. Ta không có Chân thật Ba la mật. 
        Ta không có phát nguyện Ba la mật. Ta không có Từ Ba la mật. 
        Ta không có Xả Ba la mật nên ta không thành Phật được 
        như Sĩ Ðạt Ta. Mỗi lần tính, Ma vương gạch luôn mười lằn. 
        Rồi mới tính thêm nữa rằng ta còn chưa hành thêm sáu điều 
        gọi là ASÀDHÀRANÀĨÀNA (Nghĩa là tuệ đặc biệt riêng của 
        vị Chánh đẳng Chánh giác). 
        Sáu điều ấy là: 
        1) 
        INDRIYÀPAROPARIYATTÌNÀNA. Nghĩa là trí tuệ thấy rõ Ngũ căn. 
        2) ÀSÀYANUSAYANÀNA. Nghĩa 
        là trí tuệ thấy rõ Thụy miên phiền não, tánh tình của mỗi 
        chúng sanh, và sự giải thoát, nghĩa là biết chúng sanh nào 
        còn ham mê ngũ trần, người nào còn say đắm trong ngũ trần. 
        3) YAMAKAPATIHARIYANÀNA. 
        Trí tuệ thông hiểu cách dùng thần thông gọi là YAMAKA. (Thần 
        thông nầy đức Thế Tôn dùng khi thắng ngoại đạo). 
        4) MAHAKARUNANÀNA. Trí tuệ 
        của bực hành theo Ðại Bi. 
        5) SABBANNÙTANÀNA. Trí 
        tuệ của bực Toàn giác hiểu rõ tất cả các pháp hành. 
        6) ANAVARANÀNA. Trí tuệ 
        của các bậc hiểu thông mọi việc không có vật chi ngăn cản. 
        Vì ta thiếu mười sáu 
        điều nầy nên ta không sánh bằng Thái tử Sĩ Ðạt Ta. 
        Tóm lại đức đại Bồ 
        Tát thắng Ma vương do nơi oai lực của sự bố thí. Vậy 
        chúng ta muốn thắng hóa mọi nơi nên noi theo gương bố thí 
        của Ngài. 
        
        CẢM HÓA 
        DẠ XOA ALAVAKA 
        
        MARÀ TIREKAMABHIYUJJITA 
        SABBARATTIM 
        GHORAMPANÀLAVAKAMAKKHAMATHADDHA- YAKKHAM 
        KHANTISUDANTAVIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO 
        TANTEJASÀ BHAVATUTE JAYAMANGALANI. 
        Nghĩa: Ðức Phật đã 
        cảm thắng Dạ xoa Alavaka(A La Quá Cá) rất can ngạnh không 
        lòng nhẫn nhục, khoe tài trọn đêm cùng Phật. Dạ xoa rất 
        hung ác, cảm dõng hơn Ma vương, đã bị đức Chánh Biến 
        Tri dùng phép nhẫn nhục thâu phục rồi. Do nhờ Phật lực 
        nầy, xin cho hạnh phúc phát sanh đến người. 
        Ðức Thế Tôn ngự tại 
        chùa Agàlava xứ Alavì , theo thường lệ của vị Chánh đẳng 
        Chánh giác đến gần sáng, thường dùng trí tuệ xem coi 
        chúng sanh nào có duyên với Ngài trong ngày ấy sẽ đắc 
        được Thánh quả. Ngày ấy đức Thế Tôn thấy Thái tử 
        con vua Alavì sẽ đắc A na hàm quả, nên Ngài lập tức đi 
        độ, mặc dầu Ngài biết rằng: Ngài phải bị Dạ xoa 
        Alavaka hung ác dùng thần thông chiến đấu với Ngài và vấn 
        đạo Ngài, nhưng Ngài vẫn không hề chồn chân thôi bước. 
        CHUYỆN TÍCH 
        Ðức vua trị vì tại 
        xứ Alavì tên là Alavì. Ngài có tính thích đi săn bắn. Ngày 
        nọ, đức vua truyền chuẩn bị đi săn. Quan quân phải đặt 
        bẫy và vây một khu rừng để đuổi thú ra cho Ngài bắn. 
        Ðồng thời, ngai vàng 
        của đức Ðế Thích bỗng dưng cứng rắn lại không còn cảm 
        giác mềm dịu như trước. Thiên vương Ðế Thích lấy làm 
        lạ nên Ngài liền dùng Thiên nhãn xem coi. Vì sao? Khi Ngài biết 
        rõ nguyên nhân, Ngài liền hiện ra một con nai lông vàng thật 
        là to và rất đẹp ở trong vòng lưới và chạy ngang qua mặt 
        của đức vua. 
        Khi đức vua trông thấy 
        nai vàng, Ngài lấy làm ưa thích nai ấy, liền truyền rằng: 
        Nai nầy mà thoát ra khỏi nơi đây trước mặt vị nào thì 
        vị ấy phải bị xử trảm. Các người nên thận trọng bắt 
        cho được nai ấy cho trẫm. 
        Tất cả quan quân theo 
        cuộc săn ấy lấy làm lo sợ cho mình nên sự canh chừng thật 
        cẩn mật, càng lúc càng siết chặt vòng vây. Nai vàng không 
        còn thấy chỗ nào khả dĩ thoát khỏi ngoài ra chỗ của đức 
        vua, nên nai vàng liền chạy đến trước mặt đức vua và cũng 
        nhờ nơi ấy mà thoát ra được. 
        Vì đã hạ lịnh rồi 
        mà chính mình để nai vàng chạy thoát đức vua lấy làm cả 
        thẹn nên giục ngựa đuổi theo rất gấp. Nai vàng chạy thật 
        mau nhưng ngựa chạy cũng chẳng kém, còn quan quân ngựa 
        không hay không làm sao theo kịp. Ðức vua cố gắng hết sức 
        mình đuổi theo, nhưng dường như bị nai trêu tức khi vừa 
        muốn nghỉ là nai vàng lại ngừng lại như đợi đức vua 
        theo. Ðến nơi rừng rậm thì nai vàng biến mất. Khi ấy trời 
        cũng vừa xế chiều, người mệt ngựa mỏi, Ngài cố hết 
        sức tìm đường ra về. 
        Khi ấy Ngài thấy có một 
        cội cây dừng thật to và rất đẹp lạ thường; Ngài liền 
        ngồi nghỉ nơi ấy. Ngài đâu biết rằng: Trên cây ấy có 
        một con Dạ xoa hung ác khác thường, khi Dạ xoa thấy đức 
        vua ngự vào dưới cội cây của mình, liền hiện ra hình 
        dung thật là hung ác phi thường, hét to lên rằng: Ngươi từ 
        đâu đến? Tại sao lại vào ngồi dưới cội cây của ta? 
        Hôm nay ngươi là vật thực của ta. 
        Ðức vua nghe Dạ xoa 
        nói vậy lấy làm kinh sợ. Nhưng dầu sao sự ngã mạn của 
        một nhà vua không tỏ vẻ kinh sợ, Ngài liền phán hỏi Dạ 
        xoa rằng 
        - Nầy Dạ xoa, trẫm, 
        có làm gì sai luật nên ngươi lại đòi ăn thịt trẫm? 
        - Tâu Ðại vương, tôi 
        đã ở trên cây nầy mười hai năm nay rồi, nhân vì trước 
        kia tôi có hầu vị Thiên vương, nên Ngài ban cho tôi cây nầy 
        và có dạy rằng: Ngươi có quyền ăn bất cứ nhân vật 
        nào vào dưới cội cây của ngươi. Vì vậy tôi có quyền 
        ăn thịt Ngài khi Ngài ở dưới cội cây của tôi. 
        
        - Nầy Dạ xoa, thật ra trẫm không được biết 
        rằng: Cội cây nầy dưới quyền của ngươi. 
        
        - Ðại vương, tôi 
        không cần biết rằng: Ai biết cội cây của tôi hay không? 
        Tôi chỉ cần biết là ai vào cội cây nầy là vật thực của 
        tôi thôi. 
        Ðức vua nghe như vậy 
        càng lấy làm kinh sợ, mới nghĩ rằng: Hôm nay là ngày tới 
        số của ta rồi. Ngài liền nói với Dạ xoa rằng: 
        - Nầy Dạ xoa, ngươi là 
        bực có nhiều thần thông, nếu ngươi có lòng từ bi để 
        cho ta về đến hoàng thành, ta sẽ cho người đưa tù nhân 
        đến cho ngươi ăn. Nếu hôm nay ngươi ăn ta thì ngươi chỉ 
        ăn được một bữa nay thôi, ngươi không ăn được hằng 
        ngày. 
        Dạ xoa nghe đức vua hứa 
        như vậy rất hài lòng, bằng lòng cho đức vua ra về. 
        Sau khi được Dạ xoa 
        cho ra về tìm đường về thành. Khi về đến thành thuật 
        chuyện ấy lại cho quần thần nghe cũng nói rõ là sẽ hứa 
        đem tù nhân cho Dạ xoa ăn mỗi ngày. 
        Các quan không biết 
        làm sao, nên đành phải đưa mỗi ngày một tù nhân đến 
        cho Dạ xoa. Lâu ngày tù nhân hết, và người nghe đức vua 
        đem tù nhân cho Dạ xoa ăn, nên người trong xứ không hề 
        dám phạm dầu là một tội rất nhỏ. Sau hết tội nhân, 
        không biết làm sao nên hội quần thần lại tính bắt những 
        người già cho Dạ xoa ăn nhưng quần thần không bằng lòng, 
        vì người còn có con cháu sợ e nó loạn, nên kết cuộc lại 
        bắt trẻ con vì nó chưa làm lợi ích gì và người đời còn 
        đẻ được nhiều con nữa. 
        Người trong xứ nghe đức 
        vua truyền bắt trẻ con cho Dạ xoa ăn, nên những người có 
        con đều đem giấu hay dọn nhà đi xứ khác. Ðến ngày kia 
        quan hầu vào tâu vua rằng: Không còn tìm ra trẻ con nữa. Ðức 
        vua lấy làm lo sợ, nghĩ không ra, Ngài nhớ đến Thái tử 
        tên Àlavì truyền quan hầu bắt Thái tử đem cho Dạ xoa ăn. 
        Các quan lấy làm bất 
        bình nhưng không dám tâu rổi một lời nào, buộc lòng phải 
        vào hoàng cung nói với Hoàng hậu rằng: Tâu Hoàng hậu, Ðại 
        vương đã chiếu chỉ cho chúng thần đến đem Thái tử đi 
        cho Dạ xoa ăn; xin lịnh bà tha tội ấy. 
        Hoàng hậu lấy làm 
        kinh khủng, nhưng cũng chẳng biết làm sao giữ con lại chỉ 
        biết than khóc thôi. 
        Sáng ngày hôm sau các 
        quan đem Thái tử đến nạp cho Dạ xoa ăn. Ðức Thế Tôn đã 
        ngự đến nơi cội cây Dạ xoa chiều hôm trước. Khi đến 
        nơi, đức Thế Tôn ngự vào ngay cửa toà lâu đài của Dạ 
        xoa Alavaka. Ngày ấy nhằm ngày đại hội của Dạ xoa, nên 
        Alavaka Dạ xoa phải đi hầu Thiên vương. 
        Khi ấy Dạ xoa người 
        giữ lâu đài của Dạ xoa Alavaka tên là Gandhabba thấy đức 
        Thế Tôn ngự đến, ra tiếp rước đảnh lễ và hỏi rằng: 
        Bạch đức Thế Tôn, Ngài ngự đến nơi rừng nầy có chuyện 
        chi quan trọng chăng? 
        - Nầy Gandhabba , thật 
        ra có chuyện cần và quan trọng nên Như Lai mới ngự đến 
        đây. 
        - Vậy xin thỉnh đức 
        Thế Tôn ngự vào nghỉ trong tòa lầu của Dạ xoa Alavaka . 
        Ðức Thế Tôn lặng 
        thinh ngự vào trong tòa lầu và ngự trên ngai của Dạ xoa 
        Alavaka ngồi hằng ngày. 
        Dạ xoa Gandhabba biết 
        ý Dạ xoa Alavaka là người có tánh nóng nãy và hung ác phi 
        thường, mặc dầu là cha mẹ cũng chẳng kính nể nên bạch 
        với đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế 
        Tôn cho phép tôi đến cho Dạ xoa Alavaka hay biết rằng: Ðức 
        Thế Tôn ngự nơi đây. Ðức Thế Tôn nhận lời. 
        Dạ xoa Gandhabba liền 
        đến nơi hội nói với Dạ xoa Alavaka rằng: Hiện giờ có 
        đức Chánh đẳng Chánh giác đang ngự ở tại lâu đài của 
        ông. 
        Tất cả Dạ xoa nào 
        chánh kiến có mặt nơi ấy đồng nói với Alavaka rằng: Thật 
        ngươi là người đại phước nên đấng Ðại Từ Bi ngự 
        đến lâu đài của ngươi. 
        Dạ xoa Alavaka nghe vậy 
        lòng hiếu thắng càng mạnh và vì vậy sự tức giận càng 
        nhiều, nên nói: 
        - Thôi các ngươi hãy 
        im đi, để thầy Sa môn ấy sẽ thấy oai ta, ta sẽ vò xé y 
        ra từng mảnh, tại sao y dám vào lâu đài của ta khi ta vắng 
        mặt. 
        Khi ấy có nhiều Dạ 
        xoa đi hội phải bay ngang qua lâu đài của Dạ xoa Alavaka , 
        nhưng khi bay đến nơi ấy không thể nào bay ngang qua được. 
        Vì oai đức của vị Chánh Ðẳng Chánh giác khi ngự nơi nào 
        trên chỗ Ngài ngự không có một vị nào có oai lực bay qua 
        được. Các Dạ xoa lấy làm lạ mới vào coi tòa lâu đài nầy 
        có những gì mà phi thường như vậy. Khi thấy đức Thế Tôn 
        ngự trong ấy, các Dạ xoa đảnh lễ Phật rồi lật đật 
        đến nơi hội. Khi gặp Alavaka mới nói rằng: 
        - Nầy hiền hữu, ngươi 
        thật là người đại phước nên chi đấng Thiên Nhơn Sư ngự 
        đến ở tại lâu đài của ngươi. 
        Dạ xoa Alavaka nghe vậy 
        không khác nào đổ thêm dầu vào lửa, y gầm thét vang trời 
        và bảo rằng: 
        - Xin hãy êm lập tức, 
        các ngươi sẽ thấy ta và thầy Sa môn Cồ Ðàm ai hơn. 
        Ðức Thế Tôn ngự tại 
        lầu đài của Alavaka hiện ra hào quang sáng chói. Các cung 
        phi mỹ nữ của Dạ xoa Alavaka đều đến hầu Ngài nghe 
        pháp. Tất cả Thọ thần cùng chư Thiên biết có đức Thế 
        Tôn ngự đến nơi ấy liền rủ nhau đến hầu Phật và 
        nghe pháp, làm cho tòa lâu đài của Alavaka càng náo nhiệt tưng 
        bừng. Có vị chư Thiên hay Dạ xoa nào không biết có chuyện 
        chi nên hỏi: 
        - Nhân vật nào ở 
        trong lâu đài ấy, mà hào quang sáng không chi sánh bằng vậy? 
        Có vị biết chuyện 
        ấy nên đáp: Vị ngự trong lâu đài ấy là đấng cao siêu 
        hơn hết trong tam giới, là đấng Ðại Giác hôm nay chúng ta 
        có duyên lành lắm mới gặp được Ngài. Ngày thường thì 
        các vị ấy không khi nào đến tòa lâu đài của Alavaka vì 
        ghét người hung bạo cũng có và vì sợ cũng có. Hôm ấy họ 
        bất cần cứ vào đại vì ỷ lại có đấng tối cao của 
        chúng sanh ngự trong ấy. 
        Khi đức Thế Tôn thấy 
        có nhiều chư Thiên, Càn thát bà và Thọ thần đến hầu Ngài, 
        nên Ngài dạy rằng: Vì trước kia nhờ có Bố thí, Trì giới, 
        Tham thiền, Cúng dường đến Tam bảo, nên hôm nay các người 
        mới được hưởng quả lành như thế nầy. Vậy từ đây 
        trở đi các ngươi không bỏn xẻn; năng làm việc bố thí 
        thì phước thiện đó là vật thực của các ngươi có thể 
        đem về ngày vị lai được. 
        Sau khi dứt thời pháp, 
        có hai Dạ xoa là Sàtàgiri và Dạ xoa Hemavata mỗi người có 
        năm trăm tùng nhơn theo hầu dẫn nhau đến Kỳ Viên tịnh 
        xá hầu Phật, nhưng không gặp Phật trở về khi bay ngang 
        qua lầu đài của Alavaka bị rớt xuống lấy làm lạ mới 
        vào hầu Phật rồi đi đến nơi hội. Khi gặp Dạ xoa 
        Alavaka liền bảo rằng: 
        - Nầy hiền hữu, 
        ngươi là người được thoát khổ, nên trong lầu đài của 
        ngươi có một viên ngọc Ma ni bửu châu quí vô lượng vô 
        biên, ngọc ấy sẽ làm cho người mong mỏi vật gì cũng 
        được kết quả mỹ mãn. Vậy bạn nên gấp về lập tức 
        để mau được gặp Ngài. 
        Alavaka nghe vậy lập tức 
        đứng dậy ra về, khi về đến lầu đài thấy vợ và phi tần 
        của mình cùng chư Thiên và Thọ thần cùng Càn thát bà 
        đang ngồi hầu Phật, đức Phật lại ngự ngay trên chỗ 
        mình hằng ngồi thì càng lấy làm tức giận, liền làm cho 
        mưa đá, mưa cát, mưa lửa, mưa dầu sôi v.v... để giết Phật. 
        Mặc dầu những thứ mưa ấy thật là hung dữ nhưng khi đến 
        gần Phật, mưa đá, mưa gươm đao v.v... đều trở thành hoa 
        thơm cúng dường, còn mưa cát, mưa dầu sôi lửa đỏ đều 
        trở thành những phấn thơm và nước hoa cúng dường dưới 
        chân đức Thế Tôn, những trận gió lớn ấy không làm rung 
        động chéo y của Ngài. 
        Dạ xoa Alavaka thấy hiện 
        tượng lạ lùng như vậy càng giận dữ truyền binh tướng 
        của mình hãy vào bắt cho được đức Thế Tôn. Nhưng những 
        binh tướng ấy không ai dám đến gần, vì sợ oai lực đức 
        Từ Bi của Ngài. 
        Dạ xoa Alavaka mới nghĩ: 
        Ta làm sao thắng thầy Sa môn nầy? Vì các pháp mầu của ta 
        từ xưa nay oai danh lừng lẫy hôm nay không còn linh nghiệm nữa. 
        Ta chỉ còn có cái khăn bịt đầu nầy thôi. Ta chỉ hy vọng 
        cái khăn nầy có oai lực vô lượng vô biên sẽ thắng thầy 
        Cồ Ðàm. Nghĩ xong mở khăn bịt đầu xuống và liệng ngay 
        vào mình đức Thế Tôn. Sự thật cái khăn ấy thuộc về hạng 
        thần thông mầu nhiệm bằng cái bánh xe của đức Ðế 
        Thích và Ma vương. Ít có vật nào cao quí bằng. Nhưng khi 
        khăn ấy vừa đến gần đức Thế Tôn trở thành vật cúng 
        dường. Khăn ấy có mãnh lực sánh còn hơn Ma vương là 
        khác. 
        Tất cả chư Thiên, Thọ 
        Thần, Càn thát bà có mặt nơi ấy đồng thanh hoan hô đức 
        Thế Tôn rằng: Thiện thay, lành thay! 
        Dạ xoa Alavaka càng tức 
        giận vì thấy cái khăn của mình liệt vào hàng bảo vật hạng 
        nhất mà trở thành vô dụng, càng lấy làm kinh ngạc hơn 
        khăn ấy lại trở thành tràng hoa cúng dường cho Phật, liền 
        nghĩ rằng: Thôi, ta không thể chiến đấu và thắng thầy 
        Sa môn Cồ Ðàm bằng pháp mầu được, ta sẽ tìm thế thắng 
        y bằng cách khác rồi giết y sau. Nghĩ xong Dạ xoa hỏi đức 
        Thế Tôn rằng: 
        - Nầy thầy Sa môn, tại 
        sao thầy lại vào ngồi trong lầu đài của ta khi chưa được 
        phép ta? 
        Ðức Thế Tôn nghĩ Dạ 
        xoa Alavaka hung ác và rất dũng cảm hơn cả Ma vương, nếu 
        ta dùng thần thông để cảm hóa thì trở thành trận giặc. 
        Sự thật người hung ác thì lại thích sự hiền từ nhã nhặn, 
        ta phải thắng ý bằng pháp Nhẫn nại, nghĩ xong đức Thế 
        Tôn liền đứng dậy ra đi, không nói một lời nào. 
        Dạ xoa thấy đức Phật 
        đứng dậy ra đi không cãi một lời nào nên nghĩ: Thầy Sa 
        môn nầy thật là hiền từ dễ dạy, biểu ra đi một tiếng 
        thì ra đi, không tỏ vẻ bất bình giận hờn gì cả, chắc 
        đây là hạnh của các bực Sa môn. Thôi ta hãy thử một lần 
        nữa. Alavaka liền gọi: Nầy Ông Sa môn thôi ông hãy trở 
        vào. 
        Ðức Thế Tôn lại trở 
        vào cũng chẳng nói một lời nào. 
        Dạ xoa Alavaka thấy vậy 
        thì càng tin chắc rằng: Thầy sa môn nầy dễ dạy thật. 
        Nên mới thử nữa, nên lại bảo: Ðức Thế Tôn hãy trở 
        ra một lần nữa. 
        
        Khi ấy đức Thế Tôn mới dạy rằng: 
        
        - Nầy Dạ xoa Alavaka ngươi 
        muốn hành hạ Như Lai như thế nào thì cứ tùy tiện, ngươi 
        không nên bảo Như Lai đi ra đi vào như thế nầy, giờ đây 
        Như Lai không đi ra nữa. 
        Dạ xoa Alavaka nghe vậy 
        nổi giận nên dùng lời bất nhã nói với đức Thế Tôn. 
        Nhưng đức Thế Tôn cũng vẫn thản nhiên, Dạ xoa không biết 
        làm sao nên nói: 
        - Nầy thầy Sa môn, giờ 
        đây ta hỏi ngươi vài vấn đề, ngươi hãy đáp cho ta, nếu 
        ngươi đáp không được ta sẽ bóp đầu ngươi nát như bột. 
        Ðức Thế Tôn đáp: Nầy 
        Dạ xoa Alavaka , mặc tình ngươi làm gì Như Lai, Như Lai cũng 
        không bao giờ biết kinh sợ, đừng nói chi là người dầu 
        cho Thiên vương Ðế Thích, Ma vương, Phạm Thiên và ai là người 
        có nhiều thần thông đến nơi nầy chiến đấu với Như 
        Lai thì cũng chẳng làm cho Như Lai rúng động. Hơn nữa hôm 
        nay dầu ngươi có hỏi bao nhiêu vấn đề thì cứ tùy tiện 
        hỏi, Như Lai sẽ giảng giải rõ ràng cho ngươi. Như Lai đã 
        biết rõ những câu hỏi của ngươi không phải do nơi trí 
        tuệ của ngươi phát ra. Như Lai sẽ bảo rõ cho ngươi biết 
        rằng: Ngày nọ, cha ngươi vào hầu thăm ông nội ngươi. 
        Ông nội ngươi mới dạy cha ngươi những câu hỏi ấy, ông 
        nội ngươi học câu hỏi ấy nơi đức Chánh đẳng Chánh 
        giác có hồng danh là CA DIẾP. Sau nầy cha ngươi truyền lại 
        cho ngươi. Vậy ngươi hãy hỏi đi, Như Lai giải cho ngươi 
        hiểu. (Câu hỏi nầy đã thất lạc câu trả lời nên làm 
        cho Dạ xoa Alavaka nghi ngờ từ xưa đến nay). 
        Dạ xoa Alavaka hỏi: 
        KIMSU VITTAM PURISASSA 
        SETTHAM . 
        KIMSU SUCINNO SUKHAMÀVAHÀTI . 
        KIMSU HAVE SÀDHUTARAM RASÀNAM . 
        KATHAM JIVÌ JIVITAMÀHUSETTHAM . 
        Nghĩa: Nầy ông Sa môn, 
        bảo vật nào trong vũ trụ nầy cao quí nhứt mà người nam 
        lẫn nữ đều yêu chuộng? Chúng ta dành để vật gì mới 
        được an vui? Vị nào cao quí hơn tất cả các vị? Ðời sống 
        thế nào mà ông gọi là đời sống cao thượng trong đời nầy? 
        Ðức Thế Tôn đáp: 
        SADDHÌDHA VITTAM PURISASSA 
        SETTHAM . 
        DHAMMO SUCCINO SUKHAMÀ VAHÀTI. 
        SACCAM HAVE SÀDHUTARAM RASÀNAM. 
        PANNÀJÌVÌ JIVITAMÀHU SETTHAM. 
        Nghĩa: Nầy Dạ xoa 
        Alavaka, đức tin là bảo vật cao quí nhứt trong vũ trụ nầy 
        mà người nam lẫn nữ đều yêu chuộng. Người đành để 
        thiện pháp thì hằng được sự an vui. Lời nói chân thật 
        là lời nói có vị cao quí hơn tất cả các vị. Ðời sống 
        bằng trí tuệ là đời sống cao quí nhất trong đời này. 
        Khi nghe lời giảng của 
        đức Thế Tôn làm cho tâm Dạ xoa Alavaka trở nên trong sạch. 
        Y nhìn thấy đời mình không có thiện pháp, không có chân 
        thật mà cũng không có sống bằng trí tuệ, cả đời chỉ 
        biết làm tội lỗi. 
        Dạ xoa Alavaka mới ca tụng 
        công đức của Phật rằng: AHO ACCHA RIYAM AHO ABHUTAM BHANTE. Bạch 
        đức Ðại Giác, chỉ có Ngài là vị đáp được câu hỏi 
        nầy thật là chuyện phi thường. Vậy tôi xin hỏi Ngài 
        thêm: 
        KATHAMSU TARATI OGHAM 
        KATHAMSU TARATI ANNAVAM 
        KATHAMSU DUKKAM ACCETI 
        KATHAM PARISUJJHATI. 
        Nghĩa: Bạch Ngài, người 
        trong tam giới nầy qua được bốn hầm bằng vật gì? Và sẽ 
        qua được đại dương là bể luân hồi bằng vật gì? Lại 
        nữa người giải thoát được khổ bằng phương pháp gì? 
        Và làm cho tâm được trong sạch bằng phương pháp nào? 
        Ðức Thế Tôn liền đáp: 
        SADDHAYA TARATI OGHAM 
        APPAMADENA ANNAVAM 
        VIRIYENA DUKKHA ACCETI 
        PANNÀYA PARISUJJHATÌ 
        Nghĩa: Này Dạ xoa 
        Alavaka, Người trong tam thế này qua được bốn hầm bằng 
        ÐỨC TIN. Và sẽ qua được đại dương là bể luân hồi 
        được bằng sự không dễ duôi, Lại nữa người giải thoát 
        khỏi sự thống khổ bằng phương pháp TINH TẤN. Làm cho 
        tâm được sạch bằng phương pháp dùng TRÍ TUỆ quan sát 
        cho thấy rõ ba tướng (là Vô thường, Khổ não và Vô ngã). 
        Khi đức Thế Tôn đáp 
        xong câu kệ thì Dạ xoa Alavaka cũng vừa đắc quả Tu-đà-hườn 
        trở nên bực Thánh nhơn trong Phật giáo. Liền cúi đảnh lễ 
        dưới chân đức Phật và xin đức Phật tha tội lỗi đã 
        phạm thượng và xin Ngài nhìn nhận là người thiện nam hay 
        một tín đồ của Phật giáo. Xin thọ Tam qui và Ngũ giới. 
        Trong khi Dạ xoa lễ Phật 
        xin thọ Tam qui và ngũ giới, thì các quan đưa Thái tử tới 
        noi, nghe chư Thiên hoan hô đức Thế Tôn nên lấy làm lạ. 
        Khi đến gần thấy đức Thế Tôn ngự trong lầu đài của 
        Dạ xoa, nên mới bàn với nhau rằng: Ðã có đức Thế Tôn 
        ngự nơi đây rồi, thì chắc chắn Ngài đã cảm hóa Dạ 
        xoa, ta hãy nhân cơ hội nầy đem Thái tử dâng đến tay Dạ 
        xoa. Nói xong liền đưa Thái tử đến cho Dạ xoa. 
        Dạ xoa Alavaka lấy làm 
        hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi của mình đã làm, liền ẵm 
        Thái tử Alavì đến cúng dường Phật bảo và bạch rằng: 
        - Bạch đức Thế Tôn, 
        đệ tử xin dâng Thái tử Alavì đến tay Ngài, xin đức Thế 
        Tôn mở lòng từ bi nhận lãnh. 
        Ðức Thế Tôn đưa tay 
        mặt ra nhận lãnh vật cúng dường kỳ lạ ấy. Ngài liền 
        cầu chúc cho Thái tử: Dighà Yuko Hoti Ayam Kumàro v.v... Nghĩa: 
        Xin cho Thái tử nầy được trường thọ, nầy Alavaka ngươi 
        cũng được an vui khỏi khổ và xin cho vị Thái tử nầy thọ 
        Tam qui. 
        Khi dạy xong đức Thế 
        Tôn liền trao Thái tử cho các vị quan đại thần; Các vị 
        bồng lấy Thái tử trở về thành. Người trong thành thấy 
        các vị đại thần đưa Thái tử về, mới hỏi vì mọi người 
        đều sợ Dạ xoa không chịu ăn trẻ con. Các vị đại thần 
        cho biết rằng: Dạ xoa đã phục thiện là nhờ đức Thế Tôn 
        đến hóa độ. 
        Khi đến hoàng cung, 
        các vị ấy để Thái tử lên tay đức vua, và tâu bày tự 
        sự. Ðức vua lấy làm cảm động và rất vui mừng. Hoàng hậu 
        hay được tin ấy sự vui mừng không biết tả sao cho đuợc, 
        lịnh bà lật đật đến nơi đức vua đang ngự ẵm Thái tử 
        vào lòng nựng nịu và bà ca tụng công đức Phật bảo không 
        tiếc lời. 
        Sau khi độ được Dạ 
        xoa Alavaka xong. Ðức Thế Tôn liền đắp y mang bát vào 
        thành có Dạ xoa theo hầu sau Ngài. Khi đến cửa thành, Dạ 
        xoa cảm thấy rất hổ thẹn tội lỗi của mình đã gieo 
        tang tóc cho dân chúng, nên không muốn vào thành. Ðức Thế 
        Tôn dùng lời an ủi Dạ xoa làm cho hết sự ăn năn hối tiếc 
        việc làm ấy. 
        Ðức Thế Tôn mới đến 
        ngự dưới cội cây gần cửa thành, Ngài liền dùng thần 
        thông làm cho hào quang sáu màu sáng rực cả một vùng. 
        Khi đức vua Àlavì nghe 
        tin đức Thế Tôn ngự tại cửa thành, Ngài lật đật xa giá 
        đến nơi ấy có cả các vật cúng dường. Khi đến nới lễ 
        bái đức Thế Tôn và cúng dường cùng ca tụng công đức của 
        Phật. Dân chúng trong thành hay tin ấy lần lượt rủ nhau đến 
        đảnh lễ Ngài đông vô số kể. 
        Ðức Thế Tôn liền 
        thuyết lại câu hỏi của Dạ xoa Alavaka. Ðức vua phát tâm 
        tín thành trong sạch và qui y Tam bảo. Riêng Dạ xoa dạy 
        Thái tử đạo đức và làm cho Thái tử trong sạch với Tam 
        bảo vào hầu Phật nghe pháp đắc A na hàm quả. 
        Ðức Thế Tôn thắng 
        được Dạ xoa bằng đức Nhẫn nại. 
        Vậy người muốn thắng 
        hóa mọi nơi xin đừng quên pháp Nhẫn nại. 
        -ooOoo- 
        Trang 
        trước | Ðầu trang | Mục 
        lục | Trang kế  |