THIÊN THỨ
MƯỜI BA (c)
NHỮNG
CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
-ooOoo-
THẮNG NGƯỜI
NGOẠI ÐẠO TÊN SUNDARÌ
Sau khi Thành đạo, Phật
giáo phổ biến trong nhân gian một cách mau chóng và sâu rộng,
tất cả các hạng người từ vua chúa, hàng quí phái, các bậc
Trưởng giả đến hạng cùng đinh đều hồi đầu hướng
thiện. Vì vậy mà làm cho bọn tà kiến ngoại đạo phải bị
lui lần vào nơi bị bế tắc vì không người sùng bái kính
nể như xưa.
Các vị Tổ sư của các
giáo phái trong thời kỳ ấy lấy làm căm tức Phật giáo nhứt
là đức Thế Tôn, nên hội lại nghiên cứu kế hoạch làm
cho mất uy tín của Phật. Những người có mặt tại hội
ấy có cô Sundarì (đọc là SUN ÐA RI) là người đẹp nhứt
và thông minh nhứt, nên được bọn ngoại đạo giao phó
trách nhiệm làm cho mất uy tín của Phật.
Cô lại đi theo dấu
chơn của cô Cincà. Nhưng bọn ngoại đạo đã bị nếm mùi
thất bại nên kỳ nầy khôn hơn là: thuê bọn côn đồ giết
cô Sundarì rồi đem thây vùi ở đống hoa của tín đồ cúng
dường bữa trước gần bên tư thất của Phật ngự. Khi cô
ra vào chùa bọn ngoại đ?o làm như không hay biết chi hết
đến khi bọn chúng giết cô Sundarì vùi vào đống hoa xong,
bọn chúng truy hô lên là mất cô Sundarì. Sau khi tìm thấy
trong đống hoa héo bọn chúng liền vào tâu cho đức vua xứ
Thất La Phiệt và xin đức vua trừng trị đức Phật.
Khi bọn ngoại đạo
đem tử thi vào thành và đem chuyện ấy truyền rao mọi nơi
để bêu xấu Ðức Phật rằng: Vì Ông Cồ Ðàm thầm vụng
yêu đương cô Sundarì , khi biết chuyện đổ bể ra nên giết
cô để diệt khẩu, nay đã tìm thấy nơi đống bông cũ gần
bên tư thất của thầy Cồ Ðàm.
Khi ấy đức vua nghe bọn
ngoại đạo đem chuyện ấy nói mọi nơi, Ngài liền cho mật
thám phải đi dò thăm cho ra sự thật. Người thành Thất La
Phiệt, ngoại trừ các bực Thánh nhơn thì ai ai cũng lấy làm
chán nản mất đức tin với đức Thế Tôn.
Còn chư Tỳ khưu còn
là phàm nhơn lấy làm bất bình vào bạch Phật chuyện ấy.
Ðức Thế Tôn liền dạy: Nầy chư Tỳ khưu, các thầy đừng
phiền trách hàng đại chúng, người nào nói xấu kẻ vô tội,
người ấy sẽ thọ lấy cái quả của mình đã làm. Rồi
Ngài dạy câu kệ:
ABHMTAVADINIRIYAM UPETI YO
PÀPAM KATVÀNA KAROMICCAHAM
UBHOPI TE PECCA SAMÀBHÀVANTI
NIHÌNAKAMMÀ MANUJA PURATTHATI.
Nghĩa: Người nói xấu
kẻ khác bằng lời nói dối khi nói không thật, người ấy
phải bị đọa vào địa ngục. Hơn nữa, người nào làm việc
chẳng lành, lại che giấu tội ấy bằng lời nói rằng:
Tôi không có làm tội lỗi đê hèn ấy, rồi cố che không
cho ai biết. Hai hạng người ấy sau khi từ bỏ cõi đời nầy
sẽ bị thọ khổ trong bốn đường ác đạo. Người không
làm việc ác, hằng ngày làm lợi ích cho người đời, người
ấy sẽ thoát khỏi ác đ?o và sẽ được hưởng quả cao
thượng trong đời nầy và vị lai.
Sau khi dứt câu kệ có rất nhiều vị đắc Thánh
quả.
Ðồng thời ấy, mật
thám của đức vua đã bắt gặp được bọn côn đồ giết
nàng Sundarì đang uống rượu say cãi nhau rằng: Bộ chỉ có
một mình ngươi là người giết cô Sundarì sao? Chúng ta đồng
làm chuyện ấy thì phải được hưởng đồng đều.
Mật thám liền bắt hết
bọn ấy đưa về thành để đức vua phán xét. Khi về đến
đức vua phán hỏi: Phải bọn ngươi giết cô Sundarì không?
Bọn côn đồ thú thật mọi việc. Ðức vua liền hạ chiếu
bắt hết bọn ngoại đạo đã chủ mưu chuyện ấy, tùy
theo tội nặng nhẹ mà xử.
Khi ấy đức Thế Tôn
mới thuyết cho chư Tỳ khưu nghe rằng: Nầy các thầy Tỳ
khưu, không phải chỉ có kiếp nầy nàng Sundarì nói dối
và nói xấu Như Lai mà thôi đâu. Cô ấy đã từng nói xấu
Như Lai kiếp quá khứ rồi.
Chư Tỳ khưu thỉnh cầu đức Thế Tôn dạy
Túc Sanh Truyện ấy.
Ðức Thế Tôn dạy:
Trong kiếp quá khứ có nhà vua tên Brahamadatta trị vì xứ
Bàrànasì. Khi ấy đức đại Bồ Tát sanh vào gia đình của
vị Ðại thần. Sau khi cha quá vãng đức Bồ Tát được
thay cha kế vị.
Khi ấy đức vua có một
bà Hoàng hậu, đức vua lấy làm yêu thương. Lúc nọ, có loạn
ở biên cương, quan quân không dẹp nổi, nên đức vua phải
thân chinh. Trước khi đi Ngài cho Hoàng hậu hay và bảo phải
ở lại xem việc trào chánh thay Ngài. Hoàng hậu nằn nằn
đòi theo, nhưng không được đức vua chấp thuận. Lịnh bà
liền yêu cầu đức vua phải cho quan hầu về cho tin luôn
luôn, đức vua nhận lời. Khi đi mỗi do tuần đều cho về
một vị quan hầu để cho bà hay nhà vua đã đi đến nơi nào
và bình yên.
Mỗi vị quan hầu về
cho tin, đều được lệnh bà chiếu cố một đêm với bà.
Từ kinh thành đến nơi nổi loạn xa ba mươi hai do tuần,
nghĩa là có ba mươi hai vị quan hầu về cho bà hay và bà đã
chiếu cố ba mươi hai vị.
Sau khi dẹp xong loạn
quân đức vua hồi trào. Cũng mỗi do tuần đều cho một vị
về cho Hoàng hậu biết tin. Ba mươi hai vị ấy cũng được
bà chiếu cố mỗi vị một đêm với bà. Tính cả thảy là
sáu mươi bốn vị gần với bà trong khi đức vua dẹp loạn.
Khi về đến thành đức
vua còn ở ngoài thành để cho quan hầu đưa tin vào cho vị
Ðại thần ở trào (là đức Bồ Tát) biết để lo chuẩn bị
tiếp đón Ngài. Ðức Bồ Tát liền vào hoàng cung báo tin
ấy cho Hoàng hậu hay.
Khi bà trông thấy vị
Ðại thần trẻ tuổi đẹp trai thì bà ưng ý, bà liền tỏ
vẻ yêu đương, nhưng đức Bồ Tát cương quyết phản đối
chuyện đê tiện ấy. Bà cho biết sáu mươi bốn vị quan
kia đã làm như lời bà, mặc dầu vậy đức Bồ Tát cực lực
phản đối. Bà lấy làm tức giận sanh oán thù. Bà liền
nghĩ ra kế là vu cáo Ngài. Bà liền xé y trang cào mặt mày
trầy.
Ðức vua ngự vào
thành đến hoàng cung thăm bà trước nhứt, thấy tình trạng
của bà như vậy phán hỏi, bà liền vu oan rằng: Ðã bị vị
Ðại thần ấy cưỡng dâm nhưng bà không bằng lòng nên bị
đánh đập như vậy. Ðức vua lấy làm tức giận truyền
đem Ðại thần ra xử tử.
Nhưng đã là đức Bồ
Tát thì trí tuệ hơn người nên Ngài liền thuật lại câu
chuyện Hoàng hậu hành động đê hèn như vậy có cả sáu mươi
bốn vị quan làm bằng. Ðức Bồ Tát liền dạy đức vua phải
hành động cho đúng là một vị minh quân, và phải có ngũ
giới nhứt là phải có pháp không tây vị.
Sau khi thuyết pháp xong
đức Bồ Tát xin xuất gia vào ở rừng Tuyết Lãnh.
Sau khi thuyết Túc Sanh
Truyện xong Ngài dạy rằng: Vị đại Bồ Tát trong ấy
chính là Như Lai hôm nay, bà Hoàng hậu trong khi ấy chính là
cô Sundarì trong kiếp nầy. Ananda đức vua trong kiếp ấy.
HÓA ÐỘ
NGOẠI ÐẠO SACCAKA
SÀCCAM VIHÀYA
MATISACCAKAVÀDAKETUM
VÀDÀBHIROPITAMANAM ATIANTABHMTAM
PANNAPAVÌPAJALITO JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật sáng
suốt nhờ ngọn đèn tuệ. Ngài đã cảm thắng ngoại đạo
tên Saccaka là kẻ không ngay thật. Chỉ ưa thích sự nâng
cao lời nói mình như người dựng cột phướn, kẻ rất si
mê, chẳng khác người mù. Do nhờ Phật lực nầy, xin cho sự
hạnh phúc phát sanh đến người.
CHUYỆN TÍCH
Khi đức Thế Tôn ngự
tại Kutagàrasàlà ở rừng Mahàvana gần thành Vesàlì. Trong
khi ấy có con của một người Nigraítha tên là Saccaka ở
trong thành Vesàlì. Saccaka là người rất có tài biện luận.
Khi đến vấn đạo một vị giáo chủ nào thì vị ấy
không sao trả lời câu hỏi của y được. Thật là một người
rất thông minh giỏi về việc vấn nạn người. Người thời
ấy đặt tên y là Ðại Trí Thức.
Saccaka thường tự hào
khoe khoang tài mình giữa nơi hội họp rằng: Ta chưa từng gặp
bậc Sa môn hay Bà la môn hoặc các vị Tổ sư của một đạo
giáo nào tự xưng là A-la-hán hiểu thông mọi sự việc để
ta được vấn nạn cho mãn nguyện.
Chỉ có những người
bị ta vấn nạn trước công chúng mồ hôi chảy ướt cả
châu thân vì thẹn là không trả lời được câu hỏi của
ta. Sự thật khi mà ta đã vấn nạn góc cột hoặc vật vô
tri giác nó cũng kinh sợ run rẩy lên.
Nhờ chút tài mọn chưa
gặp người đối đáp nên tên ngoại đạo Saccaka tự kiêu,
tự đắc, ngạo mạn càng ngày càng nặng, khinh khi tất cả
các bực trưởng lão và các bực xuất gia.
Khi ấy có nhiều vua
chúa, các quan cùng các nhà quí phái đưa con đến xin học với
y. Khi ấy y tự xưng cho mình là Giáo sư tên là Disàpamokkha
(có nghĩa là vị Giáo sư giỏi nhứt trong một châu).
Bịnh ngạo mạn tự
kiêu càng ngày càng nặng, nên ngày nọ y mới nghĩ rằng: Ta
là người học nhiều hiểu rộng, lão thông kinh sử, trên
đoạt thiên văn dưới thông địa lý. Sự hiểu biết của
ta càng ngày càng thêm nhiều, ngày nào đây bụng ta không
còn có chỗ chứa nổi nữa nó sẽ nổ tung ra. Vậy ta phải
làm một cái niền để niền cái bụng lại để cho nó khỏi
nổ tung ra. Tôi (soạn giả) dịch đến đây lấy làm lạ
cho bực gọi là Ðại trí thức mà nghĩ chuyện trẻ con như
vậy. Nhưng tôi không dám bỏ đoạn nầy vì trong kinh nói
sao tôi thuật y vậy.
Tất cả người trong
thời kỳ ấy lấy làm lạ và xôn xao bàn tính về cái bụng
niền bằng cái niền sắt của người ngoại đạo Saccaka
ấy. Tiếng đồn đại đến các lân quốc.
Tên tuổi của Saccaka
không ai không biết và không ai không ca tụng kính nể. Vì vậy
mà bịnh của y càng ngày càng trầm trọng. Nếu y nghe rằng:
Nơi nào có các vị trí thức là Sa môn hay Bà la môn hoặc
ai chẳng hạn, không nề đàng xa hay cực nhọc y thân hành
đến vấn nạn.
Ðồng thời ấy Hồng
danh của đức Ðại Giác cũng đang phổ biến sâu rộng
trong thế gian. Pháp bảo của Ngài chiếu ánh sáng huy hoàng
tất cả mọi nơi đều sùng bái và tu theo giáo lý của
Ngài nhiều không kể xiết. Hầu như thời kỳ ấy không một
ai không biết Phật là vị đại Sa môn Cồ Ðàm. Vị Chánh
đẳng Chánh giác, đấng Ðại Giác, đấng Ðại Từ Bi, đấng
Phổ độ những người bất kham v.v... Saccaka nghe tin ấy lấy
làm bất mãn vì y muốn rằng: Tiếng Ðại trí thức độc
quyền một mình y thôi. Nên y có ý định sẽ tìm Phật để
vấn nạn, làm cho Phật không còn thanh danh và mất hết uy
tín trong thế gian nầy.
Ngày nọ, Ðại Ðức
Assaji (vị Ðại Ðức mà Ngài Xá Lợi Phất gặp đầu tiên
và do Ngài thuyết pháp nên đắc Tu-đà-hườn) đang đi khất
thực trong thành Vesàlì. Saccaka trông thấy Ðại Ðức từ
xa đi đến gần Ngài và hỏi: Thưa thầy, ông Sa môn Cồ
Ðàm hằng giáo hóa hàng đệ tử những gì?
Ngài Ðại Ðức đáp:
Nầy Aggivesana , đức Thế Tôn hằng dạy chư đệ tử nhiều
pháp môn không sao kể hết được, nhưng có thể tóm lại
là: Sắc không thường. Thọ không thường. Tưởng không thường.
Hành không thường. Thức không thường. Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức không thường là không phải của ta gọi là Vô
Ngã. Ðây là lời giáo hóa của đức Bổn Sư.
Khi nghe xong trở về
nơi cư ngụ, gọi tất cả học trò lại đưa vấn đề đã
hỏi ngài Ðại Ðức ra bàn cãi nhau và mọi người nơi ấy
đều có quyền đưa ý kiến ra. Sở dĩ mà Saccaka làm như vậy
vì muốn tìm ra tất cả ý kiến mọi người cho thật chu đáo
đến vấn nạn Phật. Khi mọi người đều đưa ý kiến và
Saccaka đã thu lượm được rất nhiều ý kiến, y chắc rằng
đã chu đáo hoàn toàn rồi. Vì y đã chọn lọc những ý kiến
hay rồi.
Saccaka liền tìm đến
Ðại Ðức Assaji hỏi Ngài: Nầy ông Assaji , ông xuất gia đây
có lợi ích chi cho ông?
- Nầy Saccaka , bần đạo
xuất gia hầu được sự ích lợi là giải thoát.
- Nầy ông Assaji ơi, lời
nói đây thật là chuyện vô ích, mà việc làm của ông là
nhân đi đến nơi địa ngục, không phải là lối đi đến
nơi an lạc đâu. Từ kiếp này đến kiếp sau xin ông đừng
bao giờ nói đến tiếng nầy nữa, lời ấy thật là lời
không nên nói. Thật là lời đáng ghê tởm. Ông hãy nghe lời
ta đây, ông hãy về chỗ của ông Cồ Ðàm đang ở và ta cũng
dẫn năm trăm đệ tử ta đến nơi ấy.
Ông liền gọi năm
trăm đệ tử đắc ý của ông nhứt là năm trăm vị hoàng
thân vua Licchavì xứ Vesàlì , đến nơi Phật ngự.
Theo thường lệ của
đức Ðại Giác thì hằng ngày sáng sớm thường dùng tuệ
giác xem coi chúng sanh nào có duyên lành với Ngài để Ngài
đi tế độ. Sáng hôm ấy đức Thế Tôn thấy Saccaka đã
đi sâu vào lưới giác ngộ của Ngài, ông ấy sẽ bỏ lòng
tự cao tự đại, xuất gia theo Phật giáo. Sau khi thoát sanh
được sanh về cõi trời, sau khi Như Lai nhập diệt, ông nầy
sẽ là người đem Phật giáo truyền bá tại Tích Lan.
Saccaka sẽ sanh vào gia đình Bà la môn, là người có trí tuệ
không ai có gì đo lường được, có lòng trong sạch với Phật
giáo, xuất gia theo vị Ðại Ðức tên là Moggalliputta đắc
A-la-hán quả. Vậy Như Lai nên quá độ cho được Saccaka nầy.
Nên đến sáng ngày đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành
Vesàlì khất thực, sau khi khất thực xong đức Thế Tôn
không dẫn chư Tỳ khưu về chùa mà lại dẫn lại ngự dưới
một cội cây ở nơi rừng Mahàvana và thọ thực nơi ấy.
Saccaka cũng dẫn đệ tử
vào rừng Mahàvana gặp đức Thế Tôn đang ngự nơi ấy. Y
liền đến gần tính vấn nạn Phật nhưng khi đến gần lấy
làm kinh sợ nên tỏ vẻ kính trọng chớ không hách dịch như
gặp các vị khác. Ông ta liền hỏi:
- Nầy ông đại Sa môn,
thật là hân hạnh được gặp ông hôm nay. Tôi được nghe
danh tiếng của ông vang rền như cồn, vì vậy nên tôi cố
tìm ông hầu luận đàm pháp lý với ông.
- Nầy Saccaka , nếu ngươi
muốn hỏi ta bao nhiêu và những gì thì cứ hỏi tự tiện hỏi.
Như Lai rất vui lòng giải đáp những gì thắc mắc của ngươi.
- Nầy ông Cồ Ðàm,
ông hằng giáo hóa tín đồ những gì? Và những lời chỉ
giáo ấy phần nhiều là gì?
- Nầy Aggivesana , Như
Lai hằng dạy hàng đệ tử như vầy, những lời dạy c?a ta
phần nhiều là Sắc không thường, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
không thường. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không phải
là ta, không phải của ta. Các pháp đều không phải là ta,
không phải của ta. Như Lai hằng dạy hàng đệ tử như vậy.
- Nầy ông Sa môn Cồ
Ðàm, tất cả các thứ giống đều mọc lên tươi tốt đều
nhờ vào quả địa cầu, lớn lên cũng nhờ quả địa cầu.
Cũng ví như tất cả những hành vi và các việc làm của ta
cũng nhờ quả địa cầu, nghĩa là vì có quả địa cầu thì
ta mới có chỗ ở mà hành sự; điều nầy ta muốn đề cập
đến là vì nhờ có Sắc là của ta, Thọ là của ta, Tưởng
là của ta, Hành là của ta, Thức là của ta. Nhờ ta ở
trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức mới có hưởng được
tất cả mọi sự việc khoái lạc trong đời.
- Nầy Aggivesana ,
ngươi nói như vậy có phải ý ngươi muốn nói như vậy: Sắc
là của thân ta, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là của
thân ta có phải vậy không?
- Phải vậy, mà tất cả
những người có mặt nơi đây cũng đồng ý với ta như vậy.
- Nầy Aggivesana , nay
ngươi đến đây để đưa ra ý kiến chắc của ngươi là:
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chắc là của thân ta. Những
vật ấy đều ở dưới quyền sử dụng của bản thân ta.
Giờ đây nếu thật Sắc ấy là của bản thân ngươi thật.
Vậy ngươi hãy bảo Sắc của ngươi rằng: Sắc thân của
ta không được phép già. Nếu Sắc thân ấy vâng lời ngươi
thật nghĩa là không già. Khi ấy Như Lai xin tin theo ngươi rằng:
Sắc là của ta. Sẽ lo săn sóc và bồi bổ cho thân nầy,
mà cũng hết lòng thương mến nó. Ngươi nên bảo tóc của
ngươi rằng: Tóc hãy đen hoài đừng bạc. Răng hãy ở mãi
mãi với ta đừng rụng. Thử coi những vật ấy có vâng lời
ngươi chăng? Thật ra nếu ngươi có khẩn cầu van xin tới
đâu đi nữa, Sắc ấy cũng chẳng bao giờ vâng lời ngươi,
nó sẽ từ từ thay đổi theo thời gian và theo ý nó.
Vậy nay ta hỏi ngươi:
Sắc ấy có phải là của ta chăng? Vậy từ đây đi ngươi
hãy bỏ ý định: Các Sắc là của ta.
Saccaka không thể trả
lời được nên cảm thấy hổ thẹn vô cùng. Vì quá hổ thẹn
nên không đủ sáng suốt để đối đáp, nên ngồi lặng
thinh. Ðức Thế Tôn hỏi lần thứ nhì đến lần thứ ba mà
Saccaka cũng vẫn lặng thinh không trả lời được.
Phàm một vị Chánh đẳng
Chánh giác không bao giờ hỏi ai đến bốn lần, nếu đến
lần thứ tư thì người ấy sẽ bị chết liền tại chỗ.
Khi đức Thế Tôn hỏi đến lần thứ ba vài phút sau, có Dạ
xoa tên là Vajirapàni hiện ra tay cầm cây côn to, hào quang
cây côn ấy chiếu lòa cả mắt, đứng trên không trung hét
to lên rằng: Nầy Saccaka , nếu ngươi mà câu nệ và tự cao
không trả lời câu hỏi của đức Thế Tôn để làm cho ý
nghĩa đầy đủ, ta sẽ đập nát đầu ngươi ra. Vì đức
Ðại Giác không hề hỏi ai đến ba lần, mà nay đã hỏi ngươi
ba lần rồi, đến lần thứ tư ta không dung tha ngươi được.
Vì trước mặt đức Ðại Từ Bi nên ta đã dung cho ngươi
đến câu thứ ba rồi không còn dung câu thứ tư được.
Nơi ấy chỉ có đức
Thế Tôn trông thấy Dạ xoa bằng Thiên nhãn của Ngài, còn
Saccaka trông thấy vì Dạ xoa muốn cho Saccaka thấy. Saccaka thấy
hình dung kỳ dị hung ác của Dạ xoa đã kinh khủng lắm rồi
mà còn bị đe dọa rằng sẽ đập nát đầu nữa nên
Saccaka liền cuối lạy đức Thế Tôn và nói:
- Bạch đức Thế Tôn,
Ngài là nơi nương nhờ của tôi. Bạch Ngài, xin Ngài cứ hỏi
tôi xin đáp lời Ngài.
- Nầy Saccaka , ngươi là
kẻ ngoan cố, chấp rằng: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là của ta, là ta, là vật dưới quyền sở hữu của ta có
phải vậy chăng? Hay là không phải?
- Bạch Ngài, Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức thật không phải ta. Không phải của ta.
Không dưới quyền sở hữu của ta. Không thể rầy la nó
được.
Khi ấy đức Thế Tôn liền dạy rằng:
- Pháp nào không thường
là vật đem khổ não đến ta, nếu vật nào đem khổ não đến
thì vật ấy không phải của ta, mà cũng chẳng phải là ta,
ba pháp ấy gọi là Vô thường, Khổ não và Vô ngã. Ðức
Thế Tôn còn dạy nhiều pháp khác nữa.
Ðức Thế Tôn muốn nhắc
cho Saccaka có thêm trí nhớ và trí tuệ nên Ngài dạy rằng:
- Nầy Saccaka , người
trong thế gian nầy khó mà gặp được đấng Ðại Giác, có
khi người phải luân hồi hằng trăm ngàn đại kiếp cũng
không gặp được đức Chánh đẳng Chánh giác. Hiện nay ngươi
là người có đào tạo nhiều duyên lành để dành trong vô
số kiếp nên mới gặp được Như Lai.
Khi ấy, Saccaka cảm thấy
lòng trong sạch kính thành với Phật bảo. Ông mới nói: Bạch
Ngài Cồ Ðàm, chúng tôi những người có mặt nơi đây,
toàn là những kẻ si mê, tà kiến, cố ý đến để vấn nạn
Ngài, thâm tâm chúng tôi muốn vấn nạn Ngài, không cho Ngài
có lối thoát, bắt buộc Ngài phải kính phục chúng tôi.
Trái lại Ngài là đấng Ðại Từ Bi, dập tắt được tà
kiến của chúng tôi bằng Pháp bảo, ví như người bị rắn
độc cắn đang bị nộc hành thật là khổ sở, nhờ người
đem thuốc đến chữa cho lành mạnh; người cho thuốc ấy
chính là Ngài vậy. Hiện giờ tôi được sáng suốt cũng nhờ
Pháp bảo của Ngài soi đường, đã ra khỏi vòng tà kiến.
Tôi có thể làm cho tâm tôi được an vui. Ngài là vị đưa
sự an vui tiến hóa vĩnh viễn cho chúng tôi. Tôi xin thỉnh cầu
đức Thế Tôn và chư Tỳ khưu đến thọ thực nơi tư gia tôi
sáng mai nầy. Saccaka biết đức Thế Tôn nhận lời nên gọi
năm trăm đệ tử ra về và bảo rằng:
- Mai nầy các ngươi hãy
đến tư gia ta để làm lễ trai Tăng đấy nghe.
Sáng ngày, đức Thế Tôn
và chư Tăng đến thọ thực tại nhà của Saccaka. Saccaka lấy
làm vui mừng được đức Thế Tôn đến trai Tăng. Nên ông
lo lắng hết sức chu đáo. Khi trai Tăng xong ông liền bạch
Phật rằng:
- Bạch hoá đức Thế
Tôn, Ngài là người ban bố sự an vui và hạnh phúc cho tôi.
Xin Ngài nhận tôi là người tín đồ Phật giáo.
Ðức Thế Tôn dạy:
- Nầy Saccaka , ngươi làm
phước lần nầy gọi là làm phước vĩ đại đúng theo
pháp Ba la mật, kiếp sau ngươi sẽ diệt tận tham ái, sân hận,
si mê không đi vào ác đạo nữa.
THU PHỤC
LONG VƯƠNG NANDOPANANDA
NANDOPANANDABHUJÀGAM
VIBUDHAMMA- HIDDHIM
PUTTENA THERABHUJAGENA DAMÀPAYANTO.
IDDHMPADESAVIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMAÍGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật dạy
Ðại Ðức Mục Kiền Liên biến làm Long Vương để thu phục
rồng chúa Nanh Ðô Pá Nanh Ðá (NANDOPANANDA) là rồng tà kiến
có nhiều thần thông. Nhờ dạy Ðại Ðức Mục Kiền Liên
mà đức Chánh Biến Tri thâu phục được rồng chúa ấy. Do
nhờ Phật lực nầy, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến
người.
CHUYỆN TÍCH
Lúc nọ đức Thế Tôn
ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc
tại thành Thất La Phiệt. Khi ấy ông Trưởng giả vào thỉnh
cầu đức Thế Tôn và năm trăm vị Ðại Ðức đến thọ
thực nơi nhà của ông sáng hôm sau. Ðức Thế Tôn nhận lời
bằng cách lặng thinh.
Phận sự của đấng
Ðại Giác là đến canh chót Ngài dùng tuệ nhãn xem coi
chúng sanh nào có duyên với Ngài sáng hôm ấy để Ngài đi
hóa độ. Ngày ấy, Ngài trông thấy Long vương Nandopananda là
rồng rất hung ác nhưng lại có duyên lành với Ngài. Ðức
Thế Tôn nghĩ: Vậy trong hàng đệ tử vị nào là người có
thể hóa độ Long vương nầy thay Như Lai. Ðức Thế Tôn thấy
Ngài Ðại Ðức Mục Kiền Liên là người có duyên thâu phục
Long vương.
Sáng ngày, đức Thế Tôn
dạy Ðại Ðức Ananda cho năm trăm vị Ðại Ðức biết rằng:
Ðức Thế Tôn ngự lên cõi trời. Các vị liền tụ lại đông
đủ để cùng đi theo đức Thế Tôn.
Ðồng thời, Long vương
Nandopananda dẫn cung phi mỹ nữ ra nơi đồng trống, hiện ra
một tòa lầu thật nguy nga đồ sộ. Toà lầu ấy trang điểm
bằng các thứ ngọc quí thật là đẹp. Long vương truyền dọn
yến ăn uống vui chơi.
Ðức Thế Tôn dẫn chư
Ðại Ðức đến nhà ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc để thọ
thực, thay vì Ngài đi thẳng đến nhà ông Trưởng giả, trái
lại Ngài dẫn chư Tăng bay lên cõi trời Ðạo Lợi mà lại
bay qua lâu đài của Long vương đang ăn uống vui chơi. Trước
khi đi đức Thế Tôn dùng thần thông làm cho hào quang chiếu
sáng và Ngài phát nguyện rằng: Xin cho chư Thiên và nhân loại
cùng tất cả các loài có thức tánh đều trông thấy Như
Lai và chư Tăng ngự đi lên trên cõi trời. Khi phát nguyện
xong Ngài dẫn chư Tăng bay đi trên không như người đi trên
bộ, ai ai cũng trông thấy rõ ràng.
Trong khi đức Phật và
chư Tăng đang bay đi, Long vương lại trông thấy, lấy làm tức
giận và rất ghét, nghĩ rằng: Bọn Sa môn nầy thật là dại
dột, không biết kính nể oai thần, không biết khiếp sợ
ta. Nếu họ muốn đi đến cõi Ðạo Lợi thì cứ đi, nhưng
xin đừng bay ngang qua đầu ta, nếu bay ngang qua đầu ta, thì
ta sẽ gây sự với bọn ấy liền. Chắc chắn rằng: Khi bọn
ấy bay ngang qua đầu ta thì cát bụi dưới chân bọn ấy sẽ
rớt lên đầu ta và vật thực của ta. Vậy trước hết ta
phải đón đường chúng không cho chúng đi ngang qua đây.
Nghĩ xong, Long vương liền
dùng mình quấn lấy núi Tu Di cao tám muôn bốn ngàn do tuần,
rộng một muôn do tuần bằng cái đuôi, còn đầu thì che mất
cõi Ðạo Lợi ngoài ra Long vương còn làm cho mây bay khói tỏa
mịt mù tối đen làm cho không thấy đường đi.
Ðại Ðức Ratthapàla
thấy bỗng dưng thiên ám địa hôn như vậy, nên đến gần
Phật và bạch hỏi.
Ðức Thế Tôn đáp:
Có chuyện lạ như vậy là do nơi Long vương tên Nandopananda
đang giận dữ muốn làm hại Như Lai và đang nguyền rủa
Như Lai thậm tệ, đang dùng đuôi quấn núi Tu Di và đầu
che án cõi Ðạo Lợi làm cho trời tối không thấy chi hết.
Ðại Ðức Ratthapàla
nghe vậy liền xin Ðức Thế Tôn cho phép Ngài dùng thần
thông để thâu phục Long vương tà kiến ấy. Ðức Thế
Tôn không nhậm lời. Lần lượt đến tám mươi vị đại
đệ tử đến xin kể có cả Ðại Ðức Xá Lợi Phất nhưng
không vị nào được Ngài ban cho đặc ân ấy. Sau cùng đến
Ngài Mục Kiền Liên, đức Thế Tôn mới nhậm lời.
Sau khi nhậm lời xong
Ngài liền dạy: Như Lai cho phép ngươi đi độ Long vương.
Như Lai cầu chúc ngươi thắng và thâu phục được Long
vương ấy. Ðức Thế Tôn ngồi trên hư không có chư Thánh
Tăng đứng hầu, để xem Ðại Ðức Mục Kiền Liên thâu phục
Long vương.
Ðại Ðức thấy Long vương
biến hình to như vậy Ngài nghĩ rằng: Long vương nghĩ rằng,
biến thân hình như vầy là to lớn lắm rồi, vì Tu Di sơn
vương là núi to nhất mà y còn quấn bảy lần. Y định rằng:
Không còn có nhân vật nào lớn bằng. Vì vậy nên dám cả
gan muốn giết đấng Ðại Giác. Ta phải làm cho Long vương
mất hết tâm thâm độc nầy, bỏ lòng tà kiến. Ngài liền
hóa ra Long vương lớn gấp đôi Long vương Nandopananda và quấn
bên trên mình của Long vương ấy và siết chặt vào làm cho
Long vương Nandopananda bị ép chặt vào núi Tu Di, còn đầu của
Ngài Ðại Ðức hóa Long vương to hơn đầu Long vương
Nandopananda hằng trăm lần. Thân hình Long vương mà Ðại Ðức
hóa ra quấn Long vương Nandopananda mười bốn lần. Long
vương Nandopananda lấy làm khổ sở vì bị một sức mạnh lớn
hơn hằng triệu lần quấn và ép vào Tu Di sơn, hình như
xương bị gãy ra từng đoạn; không thể thở được thì
làm sao cử động được.
Không còn chịu đựng
với sự khổ sở ấy nữa nên Long vương liền thu hết tàn
lực thổi ra một làn khói độc. Ðại Ðức biết rõ Long vương
nầy có một chất độc vô cùng tai hại, có thể làm chết
hết nhân loại và cỏ cây không thể sống được nếu không
bị cháy tiêu tức khắc. Ngài liền dùng thần thông thâu hết
chất độc đến đổi ngọn cỏ ở kề bên cũng không bị
rung động. Khi thấy đã dùng đến hơi độc vô cùng nguy hiểm
mà không làm gì được Ðại Ðức, Long vương liền hóa lửa
để đốt Ngài. Ðại Ðức liền dùng ngay thiền định về
chất lửa đẩy lui lửa của Long vương mà còn làm cho Long
vương bị nóng nảy không sao chịu nổi. Thân hình Long vương
bị lửa của bản thân mình hóa ra bao bọc coi như là một
cây lửa cao tám muôn bốn ngàn do tuần vậy.
Long vương Nandopananda mới
nghĩ rằng: Người nầy tên gì? Từ đâu đến? Thần thông
cao đệ nhứt, hơn cả ta. Vậy ta nên hỏi xem cho biết. Long
vương mới hỏi: Ông tên chi? Từ đâu đến? Xin ông cho tôi
biết.
- Bần đạo là đệ tử
chánh thức tay trái của đức Giác Ngộ tên là Mục Kiền
Liên.
- Bạch Ðại Ðức,
Ngài là vị Sa môn, tại sao Ngài lại nỡ hành hạ tôi như
thế nầy. Ðây thật là việc mà Ngài là bực Sa môn không
bao giờ nên làm.
- Nầy Long vương, chính
tâm bần Tăng không hề vì sân hận hay chút giận hờn gì
làm cho ngươi khổ, hay làm hại nhân vật. Nhưng bần đạo
đến đây vì tâm từ bi muốn giáo hoá Long vương đấy thôi,
thâm tâm bần Tăng chỉ muốn đưa Ðại vương ra khỏi nơi
tội lỗi tà kiến, để đi theo con đường chân chánh là
Bát chánh đạo. Vậy Ðại vương không nên phiền trách bần
đạo.
- Bạch Ðại Ðức,
Ngài muốn vậy và làm như thế nầy thật là bất phải,
vì Ngài làm khổ tôi. Vì vậy nên tôi cho rằng: Ngài không
có hạnh kiểm như chư vị Sa môn khác.
Ðại Ðức nghe Long vương
nói vậy Ngài liền hiện ra một vị Tỳ khưu, rồi Ngài dạy
rằng: Nầy Long vương Nandopananda , ngươi nên biết rằng: Mặc
dầu ngươi là Long vương nhưng vẫn còn trong hạng thú; ngươi
lại có sự dễ duôi quá đáng, không phân biệt tội phước
mà cũng chẳng hiểu tội phước, và lợi ích hiện tại và
vị lai gì hết. Ngươi không biết ân đức Tam bảo hơn cả
mẹ cha. Vậy ngươi có nên dùng lời đê tiện chưởi rủa
mắng nhiếc một bực Ðại Từ Bi như đức Chánh đẳng Chánh
giác hay không? Nầy Long vương, tâm ngươi thật là tâm si
mê tột độ. Nếu chân của đức Từ Bi mà chạm đến đầu
của ngươi là vạn hạnh cho ngươi lắm rồi. Ngươi có biết
tất cả chư Thiên, Phạm Thiên đều mong được có dịp để
đảnh lễ và cúng dường hay nghe lời giáo hóa của Ngài, cũng
mong được cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Ngài nhưng
vẫn còn khó có dịp may như vậy thay. Hơn nữa chúng sanh
trong tam giới khó mà gặp được đức Ðại Giác, có khi
sanh lại nhiều muôn ngàn kiếp cũng chưa có dịp may để gặp
bực Ðại Giác, dầu cho dấu chân của Ngài cũng khó trông
thấy. Còn ngươi là vị Long vương thuộc về một trong bốn
đường ác mà còn là con vật tà kiến lại dám chưởi mắng
vị Chánh đẳng Chánh giác, là vị Thiên Nhơn Sư, ngươi dễ
duôi khinh thường vị Chánh đẳng Chánh giác, đây cũng do
nơi nghiệp chướng của ngươi thật nặng nề.
Nói xong Ngài liền đi
kinh hành trong lỗ tai mặt của Long vương ra lỗ tai trái.
Ði vào lỗ mũi bên nầy ra mũi bên kia, Long vương bị Ngài
đi kinh hành như vậy lấy làm khó chịu liền nói: Ðại Ðức,
lẽ cố nhiên của một vị Sa môn hằng hành theo chánh pháp
là Từ Bi. Còn Ðại Ðức thì không có lòng từ bi thương hại
tôi. Ngài đã nói rằng: Ngài chẳng giận hờn phiền hà
tôi. Nhưng tại sao Ngài hành hạ tôi như thế nầy. Lời nói
và việc làm của Ngài không đi đôi nhau chăng? Nói xong Long
vương liền hả miệng ra.
Ðại Ðức Mục Kiền
Liên nghe vậy nghĩ rằng: Hôm nay ta đã nhứt định giáo
hóa Long vương nầy phải bỏ tà kiến, nên Ngài nói: Nầy
Long vương, chính ngươi không biết kính trọng các bực Sa
môn, Bà la môn là các bực hành chân chánh theo chánh pháp. Sở
dĩ bần Tăng phải hành ngươi như thế nầy vì ngươi có
tâm rất là hung ác sân hận, làm hại người. Giờ đây ngươi
lại còn có ý định nhai ta, nhưng trái lại ta không hề có
ý muốn làm hại ngươi. Vậy ngươi nên tỏ ra ngươi là kẻ
biết ân người như ta là người đến giáo hóa ngươi.
Ngươi nói rằng: Ta hành hạ ngươi, thật ra ta làm cho ngươi
khổ như vầy cũng chưa xứng tội ngươi. Ta có ý muốn gieo
duyên lành với ngươi, muốn cho ngươi trông thấy lợi ích
cao cả trong ngày vị lai. Nói xong, Ðại Ðức liền đi ngay
vào miệng Long vương đang hả răng bén như gươm đang sẵn
sàng để nhai Ngài. Long vương không thể nào nhai Ngài được
và để Ngài tự do đi kinh hành trong miệng, trong bụng.
Ðức Thế Tôn biết
rõ trong lòng Long vương đã kinh sợ Ðại Ðức lắm rồi.
Ngài liền gọi Ðại Ðức rằng: Mục Kiền Liên, con đừng
quên rằng: Long vương nầy có rất nhiều thần thông.
Ðại Ðức đáp: Bạch
đức Thế Tôn, đệ tử đã có công rèn luyện bốn phép
nguyện vọng pháp mầu, không thể dễ duôi lười biếng bỏ
qua công phu ấy thì đệ tử có sợ gì Long vương
Nandopananda nầy. Dầu cho có hằng muôn, ngàn Long vương như
thế nầy đệ tử cũng có thể thu phục để bỏ dữ về lành
được. Xin đức Ðại Từ Phụ đừng quan tâm chi.
Long vương nghĩ: Vị Sa
môn nầy đã nói rằng: Không hề có tí giận hờn nào về
ta, nếu Ngài không giận hờn gì ta thiệt thì xin Ngài hãy
ra; không nên đi kinh hành trong bụng ta như vầy.
Chỉ suy nghĩ thầm
trong tâm như vậy mà Ngài Ðại Ðức biết rõ, Ngài liền
hiện ra đứng ngay trước mặt của Long vương.
Long vương thấy Ngài
hiện ra trước mặt, liền nghĩ: Vị Sa môn nầy thần thông
cao thượng, hơi thở ta có thể tiêu tan một quả núi đá.
Vậy sao ta không dùng hơi thở ta mà giết ông ta cho rồi.
Nghĩ xong Long vương liền gom hết hơi lại thở một cái thật
mạnh ngay vào người của Ngài Ðại Ðức, sức gió ấy độc
và mạnh hơn cả bão tố, nếu không do nơi oai đức của Ngài
thì núi rừng nơi ấy đều tiêu hoại hết. Vì biết tâm
Long vương hung ác nên khi ấy Ngài Ðại Ðức đã dùng thần
thông chế ngự được hơi độc ấy, mặc dầu chéo y của
Ngài cũng chẳng hề rung động.
Long vương thấy hơi thở
của mình vô cùng dũng mãnh mà không làm gì Ngài Ðại Ðức
được thì lấy làm kinh sợ và nghĩ: Thật thầy Sa môn nầy
thần thông vô lượng vô biên; nếu ta cố tranh tài với
Ngài thì chắc lấy tai hại cho mình thôi. Vậy thượng kế
là trốn càng mau càng hay. Nghĩ xong liền bỏ chạy thật lẹ.
Ðại Ðức thấy Long vương
tháo ra bỏ chạy thật lẹ, Ngài liền biến ra một giống
chim rất là hung dữ thường bắt rồng ăn đó là chim đại
bàng Kim sí điểu; chim nầy to lớn khác thường, một cái
đập cánh bay xa hằng mấy chục do tuần. Tiếng đập cánh
của đại bàng Kim sí điểu như sấm nổ lưng trời làm cho
Long vương kinh sợ không cùng liền thu hình nhỏ lại để
chun vào kẹt đá cho dễ nhưng đại bàng khôn hơn vỗ cánh
quạt tảng đá bay ra rất xa. Làm Long vương không biết trốn
tránh nơi nào; liền hiện lại nguyên hình, rồi hoá ra một
thanh niên tuấn tú, quì xuống đảnh lễ Ngài Ðại Ðức
van xin Ngài rằng: Xin Ðại Ðức mở lòng từ bi tha tội lỗi;
Tôi xin phát nguyện qui y hướng thiện. Tôi là kẻ tà kiến
không hiểu Ngài là bực Thánh nhơn. Xin Ngài thương hại tôi
như cha mẹ thương con còn trẻ dại lầm lỗi. Xin Ngài tha
thứ cho.
Ðại Ðức liền đưa
Long vương đến nơi Phật ngự. Long vương thấy đức Thế
Tôn cùng chư Thánh Tăng ngự trên hư không rất lấy làm
kinh sợ, đảnh lễ xong rồi bạch Phật rằng: Bạch đức
đại Từ Bi Ngài là đấng Tế độ chúng sanh. Tôi là kẻ
tà kiến hung ác lầm đường tội ác không hiểu đâu chánh
đâu tà. Hiện giờ tâm tôi đã giác ngộ trông thấy rõ thiện,
ác. Từ hôm nay tôi xin cúng dường thân nầy đến Tam bảo.
Ðức Thế Tôn liền
truyền Tam qui và Ngũ giới cho Long vương, và dạy nên hành
thêm thiện pháp, giúp đỡ quyến thuộc, nhẫn nại từ bi
v.v...
Rồi đức Thế Tôn mới
dẫn chư Tăng đến nhà Trưởng giả Cấp Cô Ðộc thọ thực.
Sau khi thọ thực xong đức Thế Tôn thuật lại chuyện Ðại
Ðức Mục Kiền Liên dùng thần thông thu phục Long vương
Nandopananda. Trưởng giả nghe câu chuyện ấy lấy làm trong sạch
với chư Tăng; ông xin cúng dường bảy ngày liền cho năm
trăm vị Thánh Tăng.
Khi ấy đức Thế Tôn
mới dạy: Trong thế gian nầy không có vị đệ tử nào có
thần thông bằng Mục Kiền Liên.
Kể từ ngày ấy đi Ðại
Ðức được liệt vào hàng đại đệ tử giỏi nhứt về
thần thông.
-ooOoo-
Trang
trước | Ðầu trang | Mục
lục | Trang kế |