BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện
Hòa thượng Piyadassi Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ, xuất bản, 1995. |
-18- NHỮNG BÀI VIẾT NGẮN Dân Chủ Và Phật Giáo N ếu hiểu dân chủ theo ý nghĩa sâu xa và rộng rãi nhất của danh từ thì nó phải bao hàm ý niệm tự do của tâm. Nơi đây vấn đề này được khảo sát, không phải với mục đích đề cập đến dân chủ trong mọi sắc thái của nó trong đó cái tâm là nền tảng, mà với ý định hạn chế là chỉ rõ rằng lý tưởng dân chủ và lý tưởng tự do suy tư chằng chịt liên hệ mật thiết với nhau trong cơ cấu của Phật Giáo.Nguyên tắc của dân chủ là gì? Một nền dân chủ thật sự phải có tự do ngôn luận; chánh quyền do dân làm chủ, một chánh phủ thay mặt dân, một quốc gia trong đó chánh quyền do dân bầu cử. Chánh thể dân chủ trong toà án tạo công lý bình đẳng cho tất cả mọi người: công minh, bình đẳng, quyền lợi, bằng nhau trên bình diện chánh trị. Danh từ "Democracy" (dân chủ) bắt nguồn từ chữ Greek (Hy Lạp): demos (dân) + krateein (cai trị), do đó là một hình thức chánh phủ trong đó người dân có quyền và được xử dụng quyền chánh trị. Như vậy, một người dân chủ là người chủ trương, hay binh vực, một hình thức chánh phủ như vậy. Theo Harry Emerson Fosdick: "Dân chủ đặt căn bản trên niềm tin chắc rằng bên trong người dân thường, có những khả năng phi thường." "Trong thế giới Tây Phương dân chủ bắt đầu tại Greece (Hy Lạp) khoảng năm 450 trước D.L., tức độ 2,500 năm trước đây, vào thời Ðức Phật đản sanh ... giờ đây, bởi vì chánh thể dân chủ được thảo luận trong thời xa xưa Hy Lạp, nhiều người lầm tưởng rằng chế độ dân chủ khởi phát từ Hy Lạp. Ðứng về mặt lịch sử, điều này không đúng. Ðó chỉ là những ý niệm trong hiến pháp của họ ... Những đại tư tưởng gia nòng cốt, Socrates, Plato và Aristotle, thảo luận về dân chủ, nhưng bác bỏ, xem đó là không thích hợp cho một chánh phủ. Những ý niệm tân thời về đại diện dân chủ được phổ biến tại vùng Tây Âu vào thế kỷ mười chín và hai mươi và chúng ta thấy nhiều chế độ dân chủ đã được phát triển tại Âu Châu trong thời kỳ gần đây hơn. Ðây không phải là một ghi chép rộng rãi lắm. Trên bình diện lịch sử, những người nghĩ rằng dân chủ đến từ Phương Tây đã sai lầm ... "Những chế độ dân chủ không-phải-Tây-Phương đã bắt đầu tại Ấn Ðộ, trong làng 'Panchayats' ở nhiều nơi xa cách nhau vào khoảng 2300, 2400 hay 2500 năm trước đây. Vài nơi được phát triển do ảnh hưởng của Phật Giáo. Nhưng trong một thời gian lâu dài, các quốc gia Á Ðông này do những nhà vua độc tài và chế độ thuộc địa cai trị cho đến thế kỷ hai mươi. Như vậy ta phải kết luận rằng nói rộng rãi về những hình thức chánh phủ, chế độ dân chủ có một lịch sử rất hạn hẹp bất cứ đâu trên thế giới, ở Á Ðông cũng vậy. ở Á Ðông có nhiều văn minh to lớn nhưng không có bao nhiêu dân chủ. "Dầu sao, ngày nay bỗng nhiên nổi lên một làn sóng dân chủ trong thế giới Tây Phương. Nền dân chủ đã phát khởi trong nhiều thành phần thuộc Thế Giới Thứ Ba của vùng Ðông Âu, và thời đại này đang trở thành thời đại dân chủ. "Ta có thể nhận thấy trong giáo huấn của Ðức Phật những điểm giống nhau giữa Phật Giáo và dân chủ. Ngài khuyên dạy lòng khoan dung đại lượng, ý niệm khơi dậy những cuộc thảo luận, quyền tự do lựa chọn rộng rãi, bình đẳng, bất bạo động, vô thường -- mỗi ý niệm ấy đều đi ngược dòng những tập tục thông thường vào thời của Ngài. Ðó là những khái niệm cách mạng mà Ðức Phật đưa vào từ 2,500 năm trước. Ðó là những cải tiến trí thức trọng đại ... Nhưng tất cả đều có tánh cách dân chủ, trong nội dung cũng như tác ý." (Trích từ một bài giảng của Giáo Sư Ralph Buultjens với đề tài "Buddhism and Democracy," được đăng trong Sunday Observer, ngày 15, tháng Bảy, năm 1990) Một cuộc đàm thoại hứng thú giữa Ðức Phật và vị thị giả Ànanda của Ngài được ghi trong Mahà Parinibbàna Sutta (Kinh Ðại Niết Bàn), Dìgha Nikàya (Trường A Hàm) ii. 74. Ðức Phật dạy người Vajjians bảy điều để ngăn ngừa quốc gia khỏi suy đồi. Ngỏ lời với Ðức Ànanda Ngài nói như sau: "Này Ànanda, con có nghe rằng người dân Vajjian thường xuyên và đều đặn gặp nhau trong những buổi họp mặt không?" "Vâng, Bạch Ðức Thế Tôn, con có nghe như vậy." "Này Ànanda, ngày nào người Vajjian còn đều đặn và thường gặp nhau trong những buổi họp mặt, thì họ sẽ còn hưng thạnh và không suy đồi. Con có nghe rằng những người Vajjian họp mặt và giải tán ôn hoà thuận thảo và làm tròn nhiệm vụ trong tinh thần đoàn kết không?" "Bạch Ðức Thế Tôn, con có nghe như vậy." "Này Ànanda, ngày nào mà người Vajjian họp mặt và giải tán ôn hòa thuận thảo và làm tròn nhiệm vụ trong tinh thần đoàn kết thì họ sẽ còn hưng thạnh, không suy đồi." (Ðể có thêm chi tiết, xin đọc Thus Have I Heard -- một bản dịch Dìgha Nikàya của Maurice Walshe, Wisdom Publication, London, trang 231 và Last Days of the Buddha, Kandy, BPS.) Ðây là tuyên ngôn xác định rõ ràng giá trị của một hình thức dân chủ mới mẻ trong những ngày cổ xưa. Xứ Ấn Ðộ có những nhà vua Phật Giáo xuất chúng: Ðại Ðế Asoka vào thế kỷ thứ ba trước D.L., Kanishka vào thế kỷ thứ hai trước D.L., Harsha (Shìlàditya) vào thế kỷ thứ tám. Có những hệ thống chánh phủ Phật Giáo và những văn minh Phật Giáo quan trọng được phát triển. Quả thật rõ ràng dân chủ có nghĩa là một hình thức chánh phủ trong đó mỗi tầng lớp dân chúng đều tham dự vào bằng cách chọn cử người đại diện; hoặc một quốc gia có loại chánh phủ tương tợ, đặc biệt là một xứ trong đó có tự do tư tưởng và tự do ngôn luận. Theo nghĩa phổ thông ngày nay dân chủ thường có nghĩa là một quốc gia xã hội trong đó tất cả mọi người đều có quyền như nhau. Như vậy, chế độ dân chủ hoàn toàn đối nghịch với chế độ độc đoán, vốn là một chánh phủ trong đó một người duy nhất nắm trọn quyền hành trong tay. Nói cách khác, là chuyên chế độc tài. Một chánh quyền chuyên chế độc tài bao hàm kiểm soát tất cả mọi sự việc dưới quyền mình và không cho phép đối nghịch. Trong quyển Why I am not a Christian, trang 135 Bertrand Russell viết: Nguyên tắc của nền dân chủ tự do đã gợi cảm cho những người sáng lập hiến pháp Hoa Kỳ là những vấn đề tranh chấp nên được giải quyết bằng cách biện luận thay vì bằng bạo lực. Những người dân chủ luôn luôn chủ trương rằng ý kiến phải được thâu nhận xuyên qua cuộc tranh biện không bị ngăn trở, chớ không phải chỉ một bên được phép phát biểu. Các chánh phủ độc tài, thời xưa cũng như trong thời hiện đại, thì hành động ngược lại ... Nếu tôi nắm quyền hành tôi không nên tìm cách ngăn cản, không cho tiếng nói của những người đối nghịch được nghe. Tôi phải tìm cách cung ứng mọi dễ dàng cho tất cả những ý kiến, và để cho hậu quả của cuộc thảo luận và tranh biện tự nó xảy diễn. Hai đặc tính quan trọng của thời đại chúng ta là khoa học và dân chủ. Hai đặc tính ấy lan tràn trong thế giới Tây Phương và hiện đang mạnh mẽ du nhập vào các quốc gia Á Châu. Nó đến, và sẽ ở đó. Không thể tống xuất. Dân chúng, nhất là thế hệ trẻ, lấy hai đặc tính ấy làm tiêu chuẩn để nhìn sự vật. Họ muốn biết sự vật thích hợp với khoa học và dân chủ đến mức độ nào. Chí đến tôn giáo, họ cũng nhìn với hai "con mắt" đó. Tôn giáo có khoa học không? Cơ cấu tôn giáo này có dân chủ không? Ðó là những vấn đề mà họ nêu lên. Trong một quốc gia dân chủ, nền giáo dục phải được mở rộng. Dầu sao, giáo dục không cần phải chỉ có tính cách lý thuyết không mà thôi. Dân chúng còn phải trau giồi tình thương, đức hạnh nhẫn nhục, chịu đựng, ngay thẳng và thanh liêm. Nói rằng trong tất cả tôn giáo, Phật Giáo đề cập nhiều nhất đến vấn đề tự do của tâm thì quả thật không quá đáng, bởi vì Phật Giáo đặt nặng phần tâm linh hơn tất cả các tôn giáo. Tâm lý học chiếm phần quan trọng trong Phật Giáo và Ðức Phật rất chú trọng đến tâm, trong chương trình thành tựu giải thoát của Ngài. Giải thoát cái tâm là toàn thể giáo huấn của đạo Phật. Ðức Phật dạy: "Như Lai hướng dẫn các con đến giải thoát; chân lý phải tự mình chứng ngộ. Chư Phật chỉ là những người soi sáng con đường" (Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 276). "Giáo lý này chỉ có một hương vị, đó là hương vị giải thoát." (Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, iv, 203). Khúc ca khải hoàn của chư vị đệ tử của Ðức Phật khi thành đạt tuyệt đỉnh thanh tịnh và thanh bình an lạc chỉ là: Tâm ta đã giải thoát; ta đã tháo gỡ các trói buộc" (cittam me vimucci, muttosmi bandhanà). Ðể thông hiểu đầy đủ lý tưởng tự do của tâm cần phải nhận định tầm quan trọng của tâm. Nếu không hiểu biết thích nghi tâm của con người trọng yếu như thế nào ắt không bao giờ có thể nhận định đúng mức tại sao cần phải gìn giữ tự do của tâm. Chính câu đầu của Dhammapada, Kinh Pháp Cú, nhấn mạnh đến tánh cách quan trọng này: "Tất cả các trạng thái tâm đều do tâm
dẫn đầu Ðức Phật không bao giờ lẫn xen vào tự do tư tưởng của người khác, vì tự do suy tư là quyền của mỗi cá nhân từ lúc ra đời. ép buộc người khác đi lệch ra khỏi lối sống thích hợp với tâm tánh, hiểu biết và khuynh hướng suy tư của họ là sai lầm. Cưỡng bách, lôi cuốn người ta ra khỏi bất luận gì cũng không tốt. Bắt buộc người ta phải nuốt vào những tín ngưỡng mà họ không thích quả thật là đen tối nhất; phương cách dồn ép cho ăn như thế không tốt cho bất cứ ai, bất luận ở nơi nào. Trong sự hiểu biết sự vật, đức tin và nỗi niềm lo sợ suông không có vai trò trong tư tưởng Phật Giáo. Mỗi người phải được phép trưởng thành theo phương cách mà sẽ đưa đến mình những gì tốt đẹp nhất. Bất luận cưỡng bách nào để ép buộc, khép tư tưởng của người khác vào khuôn khổ của mình là xen vào cuộc sống tinh thần thầm kín của người. Người Phật tử xem sự xen lẫn như vậy là loại cố chấp hẹp lượng tệ hại nhất. Cả hai, tự do của tâm và dân chủ là hai điều thân yêu nhất của người Phật tử, là những gì chúng ta yêu chuộng nhất. Ðàng khác, trói buộc, chuyên chế hay độc tài, là những gì mà người có mắt để thấy và có tâm để hiểu biết sẽ ghê tởm, chán ghét. Cũng như bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, United Nations Universal Declaration of Human Rights, viết: "Mỗi người đều có quyền tự do tư tưởng và ngôn luận." Ý Nghĩa Thật Sự Mặc dầu chữ "democracy", dân chủ, ngày nay được thông dụng ở nhiều nơi trên thế giới, ý nghĩa thật sự của danh từ không được nhận định đầy đủ. Dân chủ là một lối sống có nhiều ảnh hưởng đến dân bổn xứ bằng nhiều cách khác nhau. Chính năng lực tích cực đã vượt lên như một tiến trình. Một đại thi hào người Mỹ, Walt Whitman, nói: "Có phải chăng, này bạn, bạn cũng nghĩ rằng dân chủ chỉ là những cuộc bầu cử, những gì có tánh cách chánh trị và để đặt tên cho một chánh đảng? Tôi nói dân chủ chỉ ứng dụng thích nghi ở nơi nào mà nó có thể trao truyền và đi đến mức trổ hoa kết trái bằng nhiều cách, trong hình thức cao cả nhất của sự tương phản giữa người và người, và niềm tin của họ -- trong văn hóa tôn giáo, đại học và các trường học -- dân chủ trong tất cả đời công và đời tư ..." Khi con người sống trong chế độ thật sự dân chủ, họ biết điều đó, cảm nhận và hô hấp điều đó. Trong bức thơ cuối cùng của Thomas Jefferson, cố tổng thống Hoa Kỳ, ông viết: "Ðám đông nhân loại không phải được sanh ra với bộ yên ở phía sau, cũng không có đôi giày ống quen thuộc và đinh thúc ngựa gắn trong giày, sẵn sàng lên yên, với phước lành của Chúa." Trong không khí dân chủ chắc chắn không thể có chủ và tớ. Dân chủ là cứu tinh cho cá nhân mà cũng là cứu tinh cho quốc gia. Ðể thành tựu điều này phải thông hiểu giá trị và tầm quan trọng của tất cả mọi người, không phân biệt giai cấp, màu da, tín ngưỡng, nam nữ hay lối phân chia nào khác. Khi nói đến tình trạng tốt đẹp của xã hội, phải chăng ta muốn đề cập đến sự tốt đẹp của tất cả những cá nhân cấu tạo nên xã hội ấy? Chúng ta phải cho cá nhân chỗ đứng đúng của nó và nâng họ, từ thấp lên những tầng lớp cao hơn. Những người sống thiên về vật chất sẽ nói rằng có những vật cần thiết mà nếu không có chúng ta không thể sống. Rất đúng. Ðức Phật cũng chú trọng đến nhu cầu vật chất khi Ngài đề cập đến bốn món cần thiết cho đời sống của chư tỳ khưu, các đệ tử Ngài, tức: y, vật thực, chỗ ở và thuốc men. Trên căn bản, đó cũng là những nhu cầu chánh yếu của người tại gia cư sĩ. Mặc dầu Ðức Phật không đặc biệt chú trọng đến tiến bộ vật chất theo ý nghĩa mà hiện nay người ta hiểu, không chú trọng đến tình trạng an lành trần tục, Ngài cũng không hoàn toàn lờ hẳn, không lưu tâm đến, bởi vì đó là nền tảng của mọi tiến bộ, tinh thần và vật chất, của con người. Nếu không có bốn vật dụng cần thiết, những nhu cầu tối thiểu không thể không có, hoặc nếu thiếu kém, nhất là vật thực, thì tâm của ta cũng không an. Ta không thể và không nghĩ đến đời sống đạo đức, cũng không nghĩ đến phưong cách sinh sống như thế nào cho được thích hợp với chánh mạng. Con người là một thành phần của xã hội, phải hoạt động mạnh mẽ để sống và tăng trưởng tình trạng kinh tế và địa vị xã hội, nếu không sẽ trở thành gánh nặng cho mình và cho kẻ khác; nhưng đồng thời phải tránh lối nuôi mạng sai lầm và gian xảo, không lệch xa con đường trách nhiệm và ngay thẳng. Theo Phật Giáo, động cơ thúc đẩy đưa đến hành động và hậu quả của hành động, cả hai phải được cân nhắc thận trọng. Dầu động cơ xem có thể tốt như thế nào nhưng hậu quả sẽ không lành mạnh thì ta phải tự chế, kiêng cữ những hành động và lời nói trá hình ấy. Ta cũng nên thận trọng giữ mình, tránh khỏi phải sai lầm vì chỉ nhìn sắc thái vật chất của đời sống và quá thiên về nó trong khi nhiệt thành phục vụ kẻ khác. Phải thấy cả hai sắc thái của đời sống, vật chất và tinh thần đạo đức, nếu muốn giữ cho sự phát triển của ta được quân bình, không nên nghiêng hẳn về một bên. Dân chủ thật sự phải có căn bản thực tiễn, triết lý và tôn giáo. Những người hiểu biết, những người trí não sáng suốt, sẽ nhận thức rằng trong khi có vài vật cần thiết mà nếu không có ta không thể sống, cũng có những giá trị tinh thần và đạo đức mà nếu không có ta không cần sống. Nhiệm Vụ Của Một Ông Vua Có sự giống nhau rất gần giữa Phật Giáo và Dân chủ. Ðức Phật thị hiện vào thời mà chế độ chuyên chế độc tài rất thạnh hành tại Ấn Ðộ. Phần lớn các quốc gia là phong kiến, nằm trọn dưới quyền cai trị của một vị ràjà, (vua), như trường hợp dòng Sakyans (Thích Ca) của Ðức Phật. Cũng có những nước cộng hòa như Licchavi, của người dân Vajjian, do một Thượng Nghị Viện gồm những Trưởng Lão cai trị. Trong các vương quốc, vị ràjà (vua) là người trị dân mà mọi người khép nép vâng lịnh và hết dạ trung thành. Ðời sống hình như yên tĩnh, so với nhiều lãnh thổ ngày nay. Tuy nhiên giáo huấn của Ðức Phật có phần là một đe dọa cho những chế độ chuyên chế trong nước. Ðức Phật không xen vào chánh trị và chánh quyền trong xứ, vì Ngài không bao giờ thích xen vào chuyện của người khác khi mà làm như vậy không ích lợi gì. Dầu sao, điều này không ngăn cản Ngài nói lên tiếng nói của những tư tưởng và quan kiến dân chủ của mình. Trong kinh điển Phật Giáo có những bài giảng chỉ rõ một nhà trị dân phải như thế nào để lãnh đạo quần chúng. Kể ra sau đây là Mười Bổn Phận hay Nguyên Tắc chỉ đạo cho một vị Vua (dasa-ràjà-dhamma): Rộng lượng bố thí, giới đức, hy sinh hay không vị kỷ, thanh liêm, hiền hòa, không xa hoa phung phí, sống tự chế, không nóng giận, không hung bạo, nhẫn nại và dễ mến (Jàtaka, Túc Sanh Truyện I. 260). Nên đặc biệt chú trọng đến danh từ "dễ mến" vì nó chỉ rằng nhà vua phải tôn trọng ý muốn của dân. Như Ðức Phật chỉ dạy, nhà cầm quyền trị dân phải tự mình củng cố trong Giáo Pháp, trong nhiệt tâm sùng đạo và trong đức hạnh chánh trực, cố tránh những thói hư tật xấu, và như vậy làm gương lành để dẫn dắt dân chúng. Vua Asoka Về điểm này Ðại Ðế Asoka của Ấn Ðộ được xem là nhà trị dân công minh, sáng suốt và hiền hòa hơn tất cả trong các thời đại. Ðiều này được sáng tỏ trong những sắc lịnh của ông: "Tất cả thần dân là con của tôi." "Cũng giống như tôi ước muốn cho con cái của chính tôi được hưởng mọi sở hữu và hạnh phúc trong đời này và trong kiếp sống tới, cùng thế ấy tôi ước muốn cho mọi người." "Tôi phải là niềm an ủi cho thế gian. Nơi tôi thế gian phải cảm nhận hạnh phúc, không phải sầu muộn." (Sắc lịnh I) "Không có nhiệm vụ nào cao cả hơn là nhiệm vụ tạo hạnh phúc cho toàn thể thế gian." "Tôi phải hoạt động vì sự tốt đẹp của toàn thể thế gian." (Sắc lịnh II) Ta có thể nói mà không chút hoài nghi, rằng Vua Asoka (A Dục) đã hành đúng theo lời khuyên dạy của Ðức Phật, luôn luôn giữ mình công minh chánh trực trong việc trị nước an dân, là một nhà trị dân gương mẫu, và như H.G. Wells viết: "Giữa hằng chục ngàn những vua chúa ... choán đầy những cột trang lịch sử, tên của Asoka rực rỡ sáng ngời hầu như đơn độc, một ngôi sao." (The Outline of History, London: Cassel & Co, 1934, trang 402). Trong khi ngỏ lời với Quốc Hội Ấn Ðộ Jawaharlal Nehru, vị cố thủ tướng xứ Ấn Ðộ, có lần nói: "Tôi có đủ đức tin để khấu đầu đảnh lễ khi được nhắc đến tên Ðức Phật. Con đường mà Ðức Phật và Asoka đã chỉ vạch không thể bị bỏ quên, và bề nào cũng còn lưu lại trong những tâm hồn của xứ Ấn Ðộ. Trong thời của chúng ta Mahatma Gandhi cũng noi theo con đường ấy, và noi theo con đường ấy, uy tín và sức mạnh của quốc gia tăng trưởng. Nếu có vấn đề cần phải được xem xét, ta phải xem xét một cách ôn hòa và dân chủ, theo đường lối mà Ðức Phật dạy." Những Tư Tưởng Dân Chủ Những lời dạy của Ðức Phật khẳng quyết khuyến khích những tư tưởng và tổ chức dân chủ. Ngài sáng tạo Sangha (Giáo Hội Tăng Già), cộng đồng của những nhà sư, một cơ cấu tuyệt đối dân chủ. Hầu Tước của Zetland, một Phó Vương xứ Ấn Ðộ, viết trong phần nhập đề của quyển The Legacy of India: Có thể khuynh hướng thiên về chánh phủ tự trị, hiển lộ trong những hình thức khác nhau của sinh hoạt hiệp hội, đã tiếp nhận một sự thúc đẩy mới mẻ từ sự bác bỏ chế độ chuyên chế trong đời sống các nhà sư và hơn nữa, từ giáo lý bình đẳng, được thể hiện qua sự kiện cự tuyệt không chấp nhận giai cấp. Quả thật vậy, ta phải dở ra những trang sách Phật Giáo để tìm hiểu phương cách mà các cơ quan đại dhện chánh quyền tự trị trong thời xa xưa ấy giải quyết vấn đề. Và nhiều người có thể ngạc nhiên, biết rằng hơn hai ngàn năm trăm năm về trước hội nghị của những người Phật tử có đủ những thủ tục, những nghi thức thực hành, chánh yếu cho quốc hội của chúng ta ngày nay. Phẩm giá của Quốc Hội được bảo tồn do sự chỉ định một viên chức đặc biệt -- thai bào mà ngày nay nở sanh ra vị 'Chủ Tịch' Quốc Hội (Mr. Speaker) của chúng ta. Một viên chức thứ nhì được đề cử có nhiệm vụ là trông chừng giữ mức định số tối thiểu khi cần -- theo kiểu mẫu vị 'Chief Whip' của Quốc Hội trong hệ thống của chúng ta. Một hội viên đề khởi chương trình nghị sự dưới hình thức kiến nghị rồi mở cuộc thảo luận. Trong vài trường hợp, điều này chỉ làm một lần, trong những trường hợp khác phải lặp lại ba lần, như vậy đã đi trước thủ tục của Quốc Hội, buộc phải đọc quyết nghị ba lần mới trở thành luật. Nếu cuộc thảo luận cho thấy có những quan điểm bất đồng, vấn đề phải được quyết định bằng cách bỏ phiếu, thiểu số phục tùng đa số. Chí đến quan niệm thủ tục về "người vắng mặt ủy quyền cho một người khác bỏ thăm" cũng có trong giới luật, Vinaya, mà Ðức Phật ban hành. Khi ban truyền lời dạy này cho các đệ tử, Ðức Phật không có bất luận sự phân biệt nào giữa hàng môn đệ, vì không có những đệ tử ưu tú được đặc biệt chọn lựa. Ðức Phật không bao giờ ban cho ai ưu quyền hay ưu thế. Như Ngài Upali chẳng hạn, sanh trưởng từ một gia đình thợ cạo, được chọn làm tăng trưởng trong những vấn đề giới luật, trong khi ấy có nhiều vị xuất thân từ giai cấp quý phái và chiến sĩ. Ðây thật sự là dân chủ, xứng với ý nghĩa của danh từ. Không có dấu hiệu nào cho thấy rằng trước khi nhập diệt Ðức Phật giao quyền lãnh đạo cơ bản Phật sự lại cho vị nào. Ngài không đề cử người kế vị. Về điểm này chúng ta có thể hứng thú ghi nhận rằng trước khi nhập diệt Ðức Phật minh bạch nói rõ rằng không bao giờ Ngài có ý kiểm soát Giáo Hội. Ngỏ lời với chư Tăng, Ngài dạy: "Giáo Pháp và Giới Luật (Dhamma-Vinaya) mà Như Lai trao truyền cho các con, hãy lấy đó làm thầy khi Như Lai nhập diệt." Ngài công bố giáo lý một cách tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người. Ngài không giữ lại gì. Ngài không có cái chi giống như "bàn tay nắm lại" để giấu đệ tử một vài kiến thức chánh yếu; và Ngài không bao giờ vắt ép các đệ tử để lấy ra một đức tin mù quáng, luôn luôn phải vâng dạ phục tùng Ngài hay giáo lý của Ngài. Ngài nhấn mạnh đến sự khảo sát sáng suốt và phân biện. Bằng những ngôn từ khẳng quyết Ngài khuyến khích công trình khảo sát với tâm trí phê bình sáng suốt khi ngỏ lời với người Kàlàma muốn tìm hiểu, trong bài kinh được gọi rất đúng là hiến chương tự do khảo sát (xem phần trên, trang 148). Ðiểm Chủ Yếu Ðiểm chủ yếu của Phật Giáo là tình trạng châu toàn tối thượng. Nhắm đến mục tiêu cứu cánh ấy Ðức Phật dạy nhân loại giá trị của tự do tư tưởng. Ngày nào mà con người còn bị ràng buộc dính kẹt trong những quan kiến, tư tưởng và ý thức hệ thì tâm không thể trưởng thành to lớn và mạnh mẽ. Như vậy, ta có thể nói, chế độ dân chủ có ảnh hưởng san bằng giá trị trong những phân hạng và những giai cấp khác nhau trong xã hội. Người nam phải được tôn trọng vì là người nam. Người nữ phải được tôn trọng vì là người nữ. Những hàng rào chia cách giai cấp, màu da, chủng tộc, hàng rào tài sản và uy tín gia đình, những hàng rào quyền thế và địa vị, đều bị phá vỡ và giá trị cố hữu của người nam là người nam, hay của người nữ là người nữ, phải được thừa nhận. Ðúng quan điểm của Phật Giáo là vậy. Những điều kiện xã hội tại Ấn Ðộ trước thời kỳ Phật Giáo thật rất nhơ bẩn và uế trược vì quá chú trọng đến sự phân chia giai cấp và chủng tộc. Một vị Bà La Môn mà được xã hội xem là thuộc giai cấp cao sẽ nhìn xuống với cặp mắt khinh rẻ một người không-phải-Bà La Môn. Chính Ðức Phật đã bác bỏ ưu thế tối cao của giai cấp Bà La Môn. Những bài giảng như kinh Vasala (Sutta Nipàta trang 21) v.v... minh bạch chỉ rằng Ðức Phật phải trải qua nhiều công phu để giảng dạy tình trạng bình đẳng giữa con người. Nếu có chi làm cho người này cao hơn hay thấp hơn người kia, đó là hành động của người ấy. Cũng trong bài kinh trên Ðức Bổn Sư dạy: "Bằng hành động ta trở thành Bà La Môn; bằng hành động ta trở thành cùng đinh." Trong một xã hội tự do dân chủ điều cần phải có là tình trạng hợp hòa thuận thảo, không phải phân tranh, cãi lẫy và thù hằn. Dân chủ là hòa bình và đoàn kết, không phải chiến tranh và chia rẽ. Toàn thể thế gian hình như đang trải qua những thời điểm khó khăn. Có quá nhiều xung đột, ác ý và ngờ vực lẫn nhau trong bầu không khí của thế gian. Trong tình trạng căng thẳng và tranh chấp tâm ta phải hướng về thông điệp tình thương và thông cảm nhau của Ðức Phật. Vấn đề là bằng cách nào thế gian có thể sống chung hòa bình. Thế gian đã tiến bộ nhiều trong việc sáng tạo vũ khí có tánh cách tiêu diệt, nhưng con người vẫn chưa có thể kiểm soát đầy đủ tâm mình. Nhu cầu khẩn thiết nhất là đào luyện tâm tánh con người. Nếu muốn cứu vãn văn hóa của ta, phải biến cải bản chất của ta. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc chỉ vang âm những lời của Ðức Phật khi vạch tỏ rằng tất cả những tranh chấp, xung đột và chiến tranh đều bắt nguồn từ trong tâm của con người, và chính tại nơi đó mà ta phải ngăn ngừa. Nghiên cứu lịch sử, ta thấy rằng tất cả những tàn phá trên thế gian đều do những người không có tập luyện để giữ tâm yên lặng, quân bình và trầm tĩnh. Tâm trạng yếu kém ấy là do sự bộc phát những cơn cuồng điên giận dữ, cố chấp, thiếu lượng khoan hồng và bạo động, và tâm tính hung bạo có thể gây án mạng giữa người và người. Chí đến nay ta còn thấy tình trạng thù ghét lẫn nhau, cố chấp, chia rẽ và căng thẳng ngày càng tăng trưởng mà không được kiểm soát. Người ta bị danh, lợi, tài sản, quyền thế và dục vọng đầu độc. Kỷ Luật Vài chánh phủ khai thác tính lo sợ phức tạp cố hữu dính liền với con người để thiết lập tình trạng thanh bình và ổn định, nhưng người sáng suốt đã tin chắc vào giá trị sâu xa của chế độ dân chủ không thể chấp nhận lối chữa trị như vậy. Không quốc gia nào có thể tiến hóa nếu không có kỷ luật, và kỷ luật phải được trau giồi từ bên trong, không thể từ bên ngoài áp đặt vào. Không thể dùng thế lực ép buộc và cưỡng bách thiết lập kỷ luật, dầu bằng khoa học cũng không nên, mà chỉ bằng cách thành thật theo chân một tôn giáo binh vực hoà bình, chủ trương trạng thái trong sạch và hạnh phúc. Một quan điểm đạo đức về đời sống rất cần thiết để kiến tạo tình trạng thuận thảo hòa hợp và an lành. Ngày nay, hơn bất cứ lúc nào, chúng ta cần ánh sáng của Giáo Pháp (Dhamma), chân lý và tánh thanh liêm chánh trực, tình thương và sự thông cảm lẫn nhau. Phải nhận thức rằng chúng ta sống ở đây không phải để chỉ lo cho chính mình, mà phải thương yêu và phục vụ người khác bất cứ chủng tộc, giai cấp, màu da và tín ngưỡng nào. Không ai có thể sống lẻ loi một mình. Chúng ta tùy thuộc lẫn nhau. Chúng ta phải sống chung với nhau, phải nhìn nhau với cặp mắt hiền hòa và từ ái bi mẫn, thay vì lạnh lẽo lãnh đạm và hung dữ trừng mắt nhìn nhau với tâm bất thân thiện. Dân chúng cần phải hội họp, gặp nhau thường xuyên, để gieo thiện tâm và cảm tưởng tốt đẹp đến nhau. Ðiều này được Ðức Phật chú trọng nhắc nhở người Vajjian như có ghi trong kinh Mahà Parinibbàna Sutta (Ðại Niết Bàn). Nói đến chế độ dân chủ, Tổng Thống xứ Sri Lanka, Ranasinha Premadasa, ghi nhận: "... Dân chủ là dân chúng. Dân chúng phải có quyền vào những cơ sở lập pháp và hành pháp". "Và nói dân chúng, không phải tôi chỉ muốn đề cập đến những vị nghị viên được dân cử, năm hay sáu năm một lần. Dân chúng, tôi muốn nói là người dân nặc danh thông thường, sống trong thành phố hay ở đồng quê. Tôi muốn nói đám đông thầm lặng. Họ phải được có cơ hội tham gia chánh phủ." "Phần lớn văn hóa và những giá trị mà tôi thừa hưởng là di sản chung với Ấn Ðộ. Vua Dharmasoka (A Dục), vị Sơ Tổ của triều đại Mauryan đã cho tôi nguồn cảm hứng lớn lao. Như vậy, nói tôi là người chống Ấn Ðộ có thể là nghĩa gì?" -- (A Charter for Democracy in Sri Lanka) "Khẩn thiết kêu gọi giới trẻ chiến đấu chống chế độ kỳ thị người da đen ở South Africa (Nam Phi), Ðức Giám Mục Anh Giáo người da đen, Desmond Tutu nói với đám đông im lặng lắng nghe: 'Thượng Ðế đúc khuôn con người bằng đất sét, đặt cái lố đầu vào lò rồi đi làm công việc khác. Ðến lúc nhớ lại, Ngài dở lò ra thì khuôn đất sét đã bị nướng quá mức -- sậm màu và đen. Ðó là dân của chúng ta.' Ðức Giám Mục ngưng một lúc. Rồi người kể chuyện trứ danh, người sáng suốt lanh trí và khôi hài, giữa đám đông nhân viên cảnh sát giữ an ninh, Ðức Giám Mục, nói tiếp 'Lần thứ nhì Thượng Ðế không dám bỏ liều. Sợ e lỡ quên, Ngài sớm sủa lấy khuôn đất ra và thấy "đất chưa đủ chín. Ðó là những người da trắng,' Ngài nói trước một cử tọa vổ tay như sấm. Ðức Giám Mục Tutu, vị lãnh đạo của hai triệu người Anh Giáo Nam Phi, và Ðệ Nhất Tổng Thơ Ký của Nhà Thờ Nam Phi, nhấn mạnh đến tự do, nói với những thính giả trẻ tuổi của Ngài rằng thà Chúa để cho con người tự do đi địa ngục, còn hơn là ép buộc họ lên thiên đàng ... 'Quý vị đã đi đến tự do, đã hát bài ca tự do, đã đứng lên và binh vực tự do và quý vị đã đem lại niềm hy vọng kỳ diệu trong quả tim của nhiều người." (Among My Souvenirs, Kirthie Abeysekera, trang 377, 379, 380). Ngày nay có những hoạt động không ngừng ở mọi phương trời để cải thiện thế gian. Những nhà khoa học không ngừng thí nghiệm và nghiên cứu những phương pháp khoa học một cách cương quyết, với lòng hăng say không thối chuyển, và nhiệt tâm bền chắc. Những phương tiện truyền thông và tiếp xúc hiện tại đã thành tựu nhiều kết quả phi thường; tiến bộ khoa học đã đem lại nhiều tốt đẹp cho nhân loại. Tất cả những cải tiến ấy -- mặc dầu có những lợi ích và những phần thưởng -- hoàn toàn vật chất và ở bên ngoài. Tình Trạng Hạn Ðịnh Của Chế Ðộ Dân Chủ Mặc dầu có những phát triển và cải thiện vật chất và ở bên ngoài, phần lớn dân chúng vẫn không châu toàn. Họ luôn luôn bị những tai ương và nạn tiêu diệt đe dọa. Người dân trên thế giới ngày nay sống không yên ổn, chán ngán mệt nhọc, luôn luôn lo sợ và bất mãn, và ta phải yên lòng với niềm hy vọng rằng ngày nào đây một chiếc đủa thần sẽ làm cho mọi việc trở lại ngay ngắn bình thường. Nếu thế gian phải vượt qua tình trạng khuấy động hiện tại, không những chúng ta chỉ cần đến các khoa học gia, mà cũng cần những người chú trọng mạnh mẽ đến, và lo lắng cho, tình trạng an lành, giá trị và phẩm giá con người. Nếu chỉ có tiếng đập nhảy của tâm từ và tâm bi xuyên qua những lời dạy của bậc Toàn Giác từ thời xa xưa làm khuôn vàng thước ngọc cho hành động của con người ngày nay, ắt chúng ta không sống trong bầu không khí ngờ vực, lo sợ, ganh tỵ, tham vọng, thù hận và si mê. Nếu dân chủ là đại diện của lòng dân, ý muốn không bị trở ngại và không bị ràng buộc của người dân có đủ tự do tư tưởng, thì còn gì để bảo đảm rằng ý muốn của dân là chánh đáng? Còn gì để bảo đảm rằng những gì họ mong muốn là điều chân chánh để muốn? Và đó là những gì tốt đẹp nhất cho họ. Tự do của tâm là tốt, nhưng tâm có thể chạy loạn. Cần phải có vài giới hạn cho dân chủ. Là một chế độ do con người tạo ra, chế độ dân chủ phải chia sẻ với con người tánh cách giới hạn và tình trạng hữu hạn của tâm. Phật Giáo không đặt tự do của tâm là mục tiêu tối thượng. Phật Giáo trèo lên cao hơn. Phật Giáo nhắm đến mục tiêu vượt lên khỏi tình trạng tự do của sự vật, nhắm đến tự do ngoài cái tâm nữa. Lẽ dĩ nhiên, đó là cái gì ngoài quan điểm tại thế. -ooOoo- Phật Giáo Và Hòa Bình Thế Giới C ách nay hơn chín mươi năm, Tướng Sherman nói, "Tôi đã mệt mỏi và chán ngán chiến tranh. Vinh quang của nó chỉ như ánh mặt trăng ... Chiến Tranh là địa ngục." Hơn một trăm năm trước đó, Benjamin Franklin đã nói: "Không bao giờ có một chiến tranh tốt hay một hoà bình xấu."Một trăm năm trước, john Milton tuyên bố: "Chiến tranh có thể sanh ra gì, nếu không phải là chiến tranh vô tận." Hai ngàn năm trước Milton, Thucidides, sử gia người Hy Lạp, trong quyển History, thấy rằng "chiến tranh là một điều xấu, là cái gì mà tất cả chúng ta đều biết, và liệt kê tất cả những tệ hại dính liền với nó là vô ích." Và hai trăm năm trước đó nữa, cách nay gần hai mươi sáu thế kỷ, Ðức Phật Siddhattha Gotama, Vua Hòa Bình (Santiràjà), đã thuyết giảng nhiều lần để chỉ rõ tệ hại của chiến tranh. Huấn lịnh mà Ngài ban truyền cho những vị đệ tử kế cận chứa đựng ý niệm hòa bình: Hãy đi đó đây, này chư đệ tử, vì tình trạng an lành và hạnh phúc của chư thiên và nhân loại. Hãy ban rải bức thông điệp đượm nhuần ý niệm hòa bình của Giáo Pháp" (Vinaya Mahàvagga, phẩm Mahàvagga của Tạng Luật). Chiến tranh mà có một thời nào là phương tiện để giành thị trường, ngày nay chính nó là cuộc giao dịch có lợi. Kỷ nghệ chế tạo vũ khí giết người và chất độc đem lại những mối lợi khổng lồ, và một phần các mối lợi này được xử dụng để mua chuộc những người ủng hộ "chiến tranh vì lẽ này, hay chiến tranh vì điều kia", luôn luôn có lý do biện giải mới mẻ và một loại ma quỷ mới để làm cho người phản đối nhút nhát phải rụt rè kinh sợ. Có một thời nhiều quốc gia tin tưởng nơi toa thuốc cho rằng nếu anh muốn hoà bình anh phải chuẩn bị chiến tranh, nhưng một cuộc quan sát tình hình quốc tế trong vài thập niên qua cho thấy rằng toa thuốc ấy không công hiệu. Một toa thuốc chắc chắn công hiệu hơn nằm trong ánh sáng của những gì Ðức Phật Gotama công bố 2,500 năm về trước: "Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm suy giảm hận thù, chỉ có tình thương mới làm giảm bớt lòng thù hận. Ðó là nguyên tắc từ ngàn xưa." (Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 5). Liên Hiệp Quốc được ủy thác gìn giữ hòa bình trên thế giới và đại diện cho niềm hy vọng của nhân loại. Liên hiệp này được sáng lập với mục đích chánh là duy trì và thiết lập hòa bình. Tổ chức này đặc biệt có nhiều ý nghĩa trong những lúc căng thẳng và khủng hoảng. Ngày nay toàn thể thế gian đang trải qua những thời kỳ khó khăn. Thế gian của chúng ta bị phủ vây tứ bề giữa những vấn đề khó khăn đang làm hao mòn nền tảng hòa bình và thiện ý của mọi người. Có tệ nạn ghiền ma túy và ô nhiễm xã hội ngày càng tăng trưởng trong giới trẻ mà không có dấu hiệu nào chận đứng tình trạng phá sản này. Người ta càng ngày càng ý thức hơn và quan tâm đến ô nhiễm biển cả, ô nhiễm không gian và ô nhiễm đất đai. Nhưng con người có hay biết đến nạn ô nhiễm đạo lý đang tràn ngập thế gian ngày nay không? Thay vì tiến bộ khoa học và kỹ thuật, mục tiêu của một nền văn hóa thanh bình và công lý vẫn còn lẫn tránh, và liều thuốc vạn ứng do con người vật chất sáng tạo vẫn không đem lại thỏa mãn. Các chuyên viên nói với ta rằng kiến thức về khoa học và kỹ thuật đã tăng trưởng gắp đôi trong vài thập niên qua, nhưng những vấn đề khó khăn của thế gian cũng tăng gắp đôi. Tại sao? Hiển nhiên là kiến thức khoa học và kiến thức kỹ thuật không đem con người lại gần hơn giải đáp cho những vấn đề khó khăn của thế gian. Loại kiến thức ấy chỉ dẫn đến tình trạng sanh sôi nảy nở vấn đề càng nhanh chóng hơn và dẫn nhân loại đến cạnh vực thẩm của nạn tự hủy diệt với khí giới hạt nhân. Vị cố Tổng Thống Hoa Kỳ, Dwight D. Eisenhower, nói: "Khoa học hình như sẵn sàng ban bố cho ta món quà cuối cùng của nó, năng lực bôi bỏ đời sống của con người trên hành tinh này." Nhưng làm sao tránh cho thế gian sự tàn phá khủng khiếp ấy? Giải đáp cho cuộc chạy đua trang bị vũ khí hạt nhân đến Armageddon (nơi mà cuộc giao tranh giữa hai lực lượng, thiện và ác, cuối cùng kết thúc) là thế nào? Vài lý thuyết chánh trị của thế kỷ hiện tại tuyên bố rằng phát triển kinh tế là "tất cả" và "chấm dứt tất cả", và nếu dân chúng được khá giả về mặt kinh tế thì tất cả đều tốt đẹp. Ðó là tư tưởng sai lầm chủ trương rằng những giá trị tinh thần hay giá trị của tâm là không cần thiết nếu có giá trị khoa học. Ðó là nhược điểm của nền văn minh thế giới ngày nay: không biết đến giá trị tinh thần. Ðể kiểm soát những động lực vị kỷ ta cần phải cố gắng và tôn trọng kỷ luật. Ðó là những điều đến với ta, không phải bằng con đường của khoa học, mà từ kỷ luật của một tôn giáo. Như một vị thầy thực tế có lòng bi mẫn và hiểu biết vô lượng, Ðức Phật luôn luôn chú tâm đến tình trạng xã hội và kinh tế an lành của đám đông, và lúc nào cũng muốn làm vơi nỗi khổ của dân chúng bằng những lời khuyên dạy, và thấy họ sống mà không có quá nhiều bất hạnh. Lẽ dĩ nhiên là nếu không có tình trạng an ninh vật chất và kinh tế ổn định đến một mức độ nào, không thể có tiến bộ tinh thần và đạo đức. Theo giáo huấn của Ðức Phật, an ninh kinh tế phải tay cầm tay cùng đi chung với những giá trị tinh thần. Con người không nên đi lệch ra khỏi con đường nhiệm vụ. ngay thẳng và thanh liêm chánh trực, nhưng phải cố gắng tìm mức quân bình giữa những giá trị vật chất và tinh thần. Với mức độ tiến hóa của khoa học hiện đại rất nhiều chuyển biến đã xảy diễn, và những cải tiến và biến đổi ấy, vốn dĩ là vật chất và ở bên ngoài, có chiều hướng làm cho con người hiện đại ngày càng thiên về thế gian và những dục vọng trần gian, kết quả là họ lãng quên, không quan tâm đến, hay cố ý bỏ lơ, những đức tánh của tâm và trở thành vị kỷ và chai đá. Những làn sóng vật chất hình như ảnh hưởng và đổi thay đường lối suy tư và sinh sống của nhân loại. Người ta bị ràng buộc quá nhiều trong nhục dục ngũ trần, chỉ sống trong thế gian vật chất, đến độ không còn tiếp xúc với những gì tốt đẹp bên trong mình. Nếu những cường quốc chánh yếu không thay đổi đường lối của họ, chúng ta còn phải đối phó với thảm kịch trầm trọng nguy hại của nhân loại. Thế gian bị chiến tranh đe dọa. Chiến tranh ở đây có nghĩa là hoàn toàn diệt chủng, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt. Một cuộc đổi thay đường lối của những đại cường quốc là giải pháp duy nhất cho nền hòa bình thế giới. Tất cả những hội nghị hòa bình chân chánh và những buổi họp để nguyện cầu sẽ góp phần truyền bá bức thông điệp hòa bình thế giới cho người dân đang ở ngã rẻ của thời cuộc. Những quốc gia nhỏ gây chiến tranh vì các quốc gia hùng mạnh và giàu có hơn trợ giúp họ. Cuộc chiến để giành quyền lợi giữa những quốc gia cường thạnh này liên tục tiếp diễn -- quả bóng được vứt ra sân cho kẻ khác. Những phương sách chữa trị để ngăn ngừa một tai biến thế gian phải xuất phát từ đáy lòng. Ta còn nhớ một diễn biến đã xảy ra vào những năm đầu của thập niên sáu mươi, khi Thủ Tướng Chu-En-Lai (Châu Ân Lai) của Trung Quốc đến viếng Ấn Ðộ để thảo luận về biên giới Ðông Dương. Trong cuộc họp lịch sử ấy, vị Thủ Tướng Ấn Ðộ thời bấy giờ, Jawaharlal Nehru, đã trích dẫn một câu của Dhammapada, Kinh Pháp Cú: "Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù (nơi
người chiến bại); Vì lẽ chiến tranh bắt đầu từ trong tâm của con người, ta phải nhớ rằng ta chỉ sống trên một đớm nhỏ tí ti trong vũ trụ, được gọi là "quả địa cầu". Nhiều người nghĩ rằng trái đất đang tiến bộ. "Ngày nay chúng ta có đủ tất cả những gì ta cần," họ nói. Ðúng vậy, người ta còn lên đến tận mặt trăng nữa là khác. Họ đặt hầu như tất cả mọi sự vật dưới quyền chi phối của họ. Họ có tài sản vật chất, những phương tiện và những tiện nghi để thỏa mãn dục vọng. Chúng ta có những nhà trí thức, những văn hào trứ danh, những diễn giả, những chuyên viên y khoa, triết gia, tâm lý gia, kinh tế gia, luật sư và kỹ sư v.v... Dầu có đầy đủ những điều ấy, thế gian vẫn còn thiếu hòa bình, thiếu tinh thần hòa hợp, đoàn kết và thiếu tinh thần tương quan trách nhiệm. Như Ðức Phật dạy: "Hãy nhìn vào bên trong chúng ta." Tất cả những phương tiện cứu chữa phải xuất phát từ đáy lòng. Chúng ta phải thiết lập trạng thái thanh bình an lạc trong tâm của chính ta, trước khi quảng bá bức thông điệp hòa bình đến kẻ khác và đến thế gian. Ðiều mà ta cần làm ngày nay là tạo một chuyển biến trong tâm con người, hơn là thay đổi môi trường sinh sống. Bởi vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm con người, bởi vì xung đột là nguyên nhân của chiến tranh, trong cuộc mưu tìm hòa bình, ta phải dẹp bỏ những nguyên nhân xung đột. Lời mở đầu của Hiến Chương UNESCO nhắc nhở chúng ta rằng "Công cuộc phòng thủ hòa bình phải được xây dựng chính trong tâm của con người." Trước đây hai mươi lăm thế kỷ, Ðức Phật cũng tuyên ngôn tương tợ. Ngài còn đi xa hơn thế nhiều; Ngài tuyên bố rằng tất cả mọi sự vật, tốt hay xấu, đều xuất phát từ nơi tâm. Ðức Phật nói: "Ta phải thường suy niệm về tâm mình như thế này: 'Từ lâu rồi tâm này bị tham, sân và si làm ô nhiễm. Ô nhiễm tinh thần làm cho chúng sanh bợn nhơ, thanh lọc tinh thần làm chúng sanh trong sạch ...'" Chỉ quảng cáo suông bên ngoài và chỉ dùng những khẩu hiệu, không thể giải quyết vấn đề khẩn thiết của chiến tranh, vì nguyên nhân của nó nằm trong tâm. Mỗi người có một người tốt hơn nằm bên trong mình. Nếu chỉ có tình thương và tâm hiểu biết lẫn nhau nhịp nhảy xuyên qua giáo huấn mà bậc Toàn Giác của tất cả thời đại làm quy tắc hướng đạo cho hành động của con người, chúng ta sẽ khỏi phải sống trong bầu không khí ngờ vực, ganh tỵ, kiêu căng, tham lam, sân hận và si mê, đã làm cho thế gian ngày càng là một trại tù binh và dẫn đắt chúng ta một cách vững chắc đến bờ vực Armageddon. Hạnh phúc thật sự đồng nghĩa với hoà bình thật sự. Không thể có hạnh phúc mà không có hòa bình. Mục đích của Giáo Pháp là hòa bình, và trên tất cả, Giáo Pháp là con đường dẫn đến hòa bình. Hãy thành thật và thật sự cố gắng để nới rộng hòa bình, tình đoàn kết và tình huynh đệ giữa con người bằng Giáo Pháp, và dẹp bỏ mọi căng thẳng dưới danh nghĩa tôn giáo, giai cấp, màu da, và những thành phần chia rẽ và bất hòa khác. Khi nói đến hòa bình thế giới, các vị đại diện của những tôn giáo khác nhau đều có một vai trò quan trọng và mang nhiều ý nghĩa. Chúng ta hãy bắt đầu phong trào hòa bình này trong quốc gia của mình bằng cách thuyết giảng và viết bài về đề tài hòa bình. Cũng phải đi từ làng này qua làng khác và thị trấn nọ đến thành phố kia, nói chuyện với dân chúng về những phước lành của tình trạng đoàn kết và hòa bình và giảng dạy, làm cho họ thức tỉnh và hoan hỷ, như Ðức Phật ở Ấn Ðộ, hơn 2,500 năm về trước. Các quốc gia phải hoạt động để được an lành và phát triển, nhưng cùng lúc phải ghi nhận, không nên bỏ lơ mục tiêu rộng rãi hơn là hòa bình và an ninh của toàn thể thế gian. Tất cả mọi quốc gia, dầu là đệ tam hay gì khác, đều cần được hòa bình; bởi vì không có hòa bình sẽ không có tiến bộ, phát triển, hòa hợp, trong đời sống dân chúng. Khi có hòa bình dân chúng có thể hoạt động với lòng tự tin, và tự tin là nền tảng để phát triển. Hai mươi ba thế kỷ về trước, Hoàng Ðế Asoka (A Dục) có cho ghi tạc trên đá: "Samà vàyo eva sàdhu -- Hòa thuận, quả thật vậy, đáng được tán dương." Ðại Ðế Asoka bước theo dấu chân của Ðức Bổn Sư, người đã từng nói: "Samaggà hotha mà vivadatha -- Hãy đoàn kết, không nên cãi lẫy ồn ào." Ðây là những tuyên ngôn tích cực mà ngày nay chúng ta cần hơn bao giờ hết; bởi vì chúng ta đang sống trong một thời kỳ xung đột và chiến tranh, thù hận và bạo tàn, cùng khắp thế gian. Không bao giờ trước đây chúng ta cần hơn và tất cả chúng ta phải nhớ thông điệp khuyến thiện cao cả tuyệt luân của Ðức Sakyamuni Buddha (Ðức Phật Thích Ca) và Asoka. Hôm nay chúng ta nói về hòa bình. Ðúng vậy, hòa bình là quyền của chúng ta từ lúc mới sanh, và chúng ta phải đạt cho kỳ được, hòa bình căn cứ trên chân lý, từ bi, công lý và tự do. Nếu người ta công bình và ngay thẳng, gìn giữ lương tri và đương đầu với thời cuộc, dây thân ái và sự thông cảm lẫn nhau giữa những quốc gia, chủng tộc, cộng đồng và tôn giáo khác nhau sẽ được tăng cường vững chắc. Những nguyên tắc: quốc gia này không nên xen vào nội bộ của quốc gia khác và mỗi quốc gia đều được độc lập về mặt chánh trị, là điều kiện tất yếu để sống chung hòa bình. Tỉ mỉ tôn trọng tình trạng lãnh thổ nguyên vẹn và quyền tối thượng của một xứ, không xâm phạm nhau, bình đẳng, không chạm đến quyền lợi của nhau, và sống chung hòa bình, hòa hợp, trong thế gian, là những điều mà sẽ không có ai phủ nhận giá trị của nó. Tình thương không nằm trên sự gây gổ tranh chấp mà trên thiện cảm nể trọng nhau. Nguyên tắc tình thương phải được thấu rõ và áp đặt trong mọi lãnh vực hoạt động của con người để tăng trưởng hạnh phúc nhân loại và làm tốt đẹp hơn lối cư xử trong xã hội. Hòa bình không phải là một lời nói tiêu cực. Nó là cái gì thật sự rất tích cực. Nó bao gồm sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau, chung cùng hợp tác với nhau và tình thương. Trong không khí tương tợ chỉ có hoà bình thật sự khởi sanh. Hoà bình phải được thành đạt bằng cách nhiệt thành và thành thật tranh đấu. Không thể bằng cách chỉ nói suông. Ta phải suy tư hòa bình, nói hoà bình và hành động hoà bình. Ý niệm chánh nằm phía sau tất cả những tổ chức yêu chuộng hòa bình như Liên Hiệp Quốc là tất cả mọi người là anh chị em. Nếu đúng thật là vậy, tại sao sát hại lẫn nhau, hận thù lẫn nhau, chụp giựt lãnh thổ của nhau và bắt người ta làm nô lệ cho mình? Tại sao có thể cướp đoạt ưu quyền mà người ta đã có từ lúc mới ra đời? Ngày nay không có ai độc lập, không quốc gia nào thật sự là độc lập. Chúng ta phải tùy thuộc nơi những quốc gia khác để có những gì cần thiết cho đời sống, những nhu cầu căn bản như vật thực, quần áo, chỗ ở và thuốc men. Những phương tiện truyền thông và giao dịch đã thành tựu nhiều kết quả kinh ngạc. Ấn loát, truyền thanh, truyền hình, giáo dục hiện đại v.v... đã đem chúng ta xích lại gần với nhau hơn. Giao thông cho chúng ta cảm tưởng rằng toàn thể thế gian là một, và chúng ta là một thế gian. Một yếu tố góp phần trọng đại cho việc nới rộng hòa bình trong xã hội là chánh ngữ, lời nói chân chánh. Có câu tục ngữ: "Lời nói đã thốt ra, mũi tên đã bắn đi và cơ hội đã mất, không bao giờ có thể thâu hồi." Lời nói là một thiên tánh có nhiều giá trị quý báu bởi vì xuyên qua lời nói chúng ta có thể diễn đạt tư tưởng và quan kiến để chia sẻ với người khác. Nhưng nếu cái lưỡi, vốn không xương và mềm mại dễ uốn, không được khép vào khuôn khổ kỷ cương, ắt có thể gây nhiều tai hại. Có phải chăng nó là nguyên nhân gây nhiều cãi vã, tranh chấp và xáo trộn phiền lụy giữa những gia đình và chiến tranh giữa các quốc gia? Nếu con người có thể chỉ thuần hóa cái lưỡi của mình, có phải thế gian sẽ là một nơi tốt đẹp hơn để sống không? Như vậy người hành theo Con Ðường Chân Chánh "suy niệm tâm từ, suy niệm tâm bi, suy niệm tâm hỷ, và suy niệm tâm xả, ban rải theo một chiều hướng; cùng thế ấy rải về một hướng thứ nhì; hướng thứ ba; hướng thứ tư; rồi bên trên và phía dưói; người ấy thấm nhuần toàn thể thế gian, mọi nơi và đồng đều, bình đẳng, chân thành và tận tình, với tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, thâm sâu, rộng lớn, vô lượng, hoàn toàn không ẩn ý bất thân thiện và phiền muộn." Nếu ta có thể phát triển những phẩm hạnh đạo đức ấy, chí đến những ngôi sao sáng chói cũng không thể hơn ta. Hòa Bình Bằng Ngũ Giới Ðứng về quan điểm của người Phật tử, có một phương cách khác để tạo hòa bình là giữ gìn năm giới. Là Phật tử hay không phải Phật tử, bất luận ai nghiêm trì năm giới tối thiểu (pancasìla -- kiêng cữ sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ và dùng chất say) sẽ đem lại hòa bình và hòa hợp bất cứ ở đâu. Người ta không lo sợ hay hoài nghi người thọ trì và thực hành năm giới; bởi vì những người ấy không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không say sưa, mà là những người có lòng tốt, cố gắng mở rộng hòa bình, hòa hợp, tình huynh đệ và đoàn kết. Giờ đây ta hãy xem qua năm giới. Lòng rộng rãi bố thí không phải chỉ đối với chúng sanh trong cảnh người. Những người bạn đồng hành câm điếc và buồn thảm của chúng ta trong cảnh thú cũng phải được tâm quảng đại của chúng ta nghĩ đến. Tất cả những ai có thể thừa hưởng lợi ích của tâm bố thí phải được chia sẻ. Dầu sao những quà tặng vật chất và những lễ vật để bát, trai tăng chỉ đem lại chút ít phước báo. Nhưng người trau giồi phẩm hạnh là phước lành cho tất cả chúng sanh. Người ấy bố thí cho tất cả chúng sanh tình trạng không lo sợ, do đức hạnh trong sạch vô nhiễm của mình. Do đó Ðức Bổn Sư dạy: "Nơi đây, này chư tỳ khưu, một đệ tử từ bỏ sát sanh là kiêng cữ trong vấn đề sát sanh ... từ bỏ trộm cắp là kiêng cữ trong vấn đề trộm cắp ... từ bỏ tà hạnh là kiêng cữ trong vấn đề tà hạnh ... từ bỏ nói dối là kiêng cữ trong vấn đề ăn nói giả dối ... từ bỏ uống rượu mạnh là kiêng cữ trong vấn đề rượu chè, và như thế ấy ban bố cho những chúng sanh khác quà tặng an ninh, không thù hận, và không gây tổn hại. Loại tâm tánh mà đem lại hạnh phúc và thoải mái tâm hồn, không bao giờ có chỗ trống để tình trạng ăn năn hối hận phát khởi, dẫn đến tái sanh tốt đẹp và là nền tảng cho một kiếp sống tốt, nơi đây và trong hiện tại, (loại tâm tánh như vậy) được gọi là đức hạnh." 1. Sát Sanh Kiêng cữ không sát hại chúng sanh khác vì hiểu biết rằng chính ta quý trọng đời sống của ta đến mức nào, và suy bụng ta để hiểu rằng cũng dường thế ấy, người khác cũng quý mạng sống của họ ra sao. Tất cả hạnh phúc của con người trên thế gian đều tùy thuộc vào đời sống. Như vậy, đoạt mất của người cái mà chứa đựng tất cả những gì tốt đẹp nhất của họ, quả thật là hung bạo và nhẩn tâm đến mức cùng cực. Do đó ta hiểu tại sao người tiêu diệt mạng sống người khác chuốc lấy cho mình lòng thù hận và ác ý của người mình sát hại? Nhưng người giới đức trong sạch, kiêng cữ không sát hại chúng sanh, luôn luôn bảo vệ sanh linh, người biếu món quà an ninh cho chúng sanh khác, cũng tựa hồ như cội cây vững chắc, làm nơi ẩn náu và che mát cho người, cho chim chóc và thú vật, với tàng lá sum sê và bóng lớn mát mẻ của mình. Mặc dầu cuộc sống của họ đầy hiểm nguy và chết chóc và phải đương đầu với bao nhiêu khủng khiếp kinh hoàng, họ vẫn vững chắc quyết định cứu nguy cho tất cả những sanh linh hữu tri hữu giác. 2. Trộm cắp Những vật thuộc sở hữu của người khác, những vật mà người khác làm chủ, người đi theo con đường của Giáo Pháp (Dhamma) không bao giờ lầm lạc lấy làm của mình. Sai lạc lấy của người, bằng bạo lực, cưỡng bách hay lường gạt, là trái với mọi tiêu chuẩn phẩm hạnh đoan trang thanh nhã và hợp với lễ nghi. Sách của người thời xưa có ghi: "Sai lạc lấy của người khác trở thành nguyên nhân mất mát cho chính mình." Và lại nữa: "Cạm bẩy của tử thần không có cái nào tệ hại bằng trộm cắp." Bởi vì người trộm cắp và cướp giựt kẻ khác sẽ bị vua trừng phạt và dân chúng nhục mạ, phải chịu đau đớn và khổ tâm vô cùng tận. Do đó phải tránh hành động tội lỗi, sai lạc lấy vật sở hữu của người khác cũng như ta tránh độc dược, tránh lửa và rắn độc đáng sợ. Người nghiêm trì giới trộm cắp được an lành, bên trong và bên ngoài. Người ấy sống hạnh phúc, cho người khác hạnh phúc và sẽ nhắm mắt ra đi an lành. 3. Tà Hạnh Người trong sạch giữ giới tà hạnh được phước lành là tâm bao giờ cũng thanh bình an lạc và tĩnh lặng, thân luôn luôn khỏe mạnh và có nhiều nghị lực. Người ấy mạnh mẽ thăng tiến trên đường đời và trong những trạng thái tâm cao quý. Người sống thanh bạch trinh khiết được
sắc đẹp, sức mạnh, Nhưng số phận của người sống tà hạnh quả thật buồn thảm. Họ làm nhơ đụt luồng tâm của họ và của người khác. 4. Nói Dối Chân lý là tiếng nói của nội tâm trong sạch. Người giữ giới nói dối có uy tín, được nhiều người tin cậy, và được những người quen biết kỉnh mộ. Ðây là giới đức mà chư vị Bồ Tát, những người đang tìm trạng thái giác ngộ tuyệt đối, đặc biệt chú trọng thực hành. Các Ngài không bao giờ thốt ra một lời không thật, trong bất luận trường hợp nào. Người nói thật không sợ hải và run rẩy giữa đám đông. Người ấy luôn luôn can đảm và cương nghị, và dầu phải đương đầu với những hành vi thù nghịch nhất cũng không lay chuyển. Người ấy cứng cỏi với sức mạnh của một chủ nhân phi thường trang bị đầy đủ, bởi vì tâm của người ấy thanh khiết như thủy tinh, trong trẻo và không mang một đớm nhơ. Người ấy luôn luôn vui vẻ và hiền hòa, lễ độ và ưa giúp người, tự chế và kiên nhẫn, có lời nói làm cho người nghe thỏa thích và tĩnh lặng với sự hùng biện của sự thật, hồn nhiên, không cố gắng. Người như thế ấy có thể nói: Tâm ta trong sạch vì tất cả mọi suy tư
đều là sự thật; Người nói dối ở đâu cũng bị nghi ngờ. Người nói lời giả dối mà không biết hổ thẹn không có đức hạnh trong tâm. Không có điều sai lầm nào mà người cố tình nói dối không thể làm. Sách nói như vậy. Nếu người đã chọn lối sống không nhà cửa của bậc xuất gia mà nói dối, do chính sự thốt ra lời giả dối ấy tự nó, đã làm cho đời tu sĩ rỗng không. "Rỗng không này Ràhula, đời sống của nhà sư mà không biết hổ thẹn, nói lời giả dối," Ðức bổn Sư nói như vậy để khuyến dạy sa di Ràhula về tầm quan trọng của lời nói thật trong đời sống thánh thiện (Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 61). Hơn nữa, người nói dối sẽ mang nghiệp xấu trong tương lai. Người ấy trở thành khờ dại, ngu si, bị người ghê tởm lánh xa và lời nói mất hết năng lực. 5. Chất Say Ta kiêng cữ, không dùng những chất say để giữ cho tâm khỏi bị loạn động. Rượu mạnh và ma túy hủy hoại lối suy tư chân chánh, tức có những ý tưởng không-sân hận, không-hung bạo, và ý nghĩ từ khước. Người say sưa nóng giận, hung dữ, không tỉnh trí. Vì lẽ ấy những ai bước theo dấu chân của Ðức Phật, đã biết rõ những tệ hại của lối suy tư lầm lạc trong lúc say sưa, không để cho tâm trí bị ô nhiễm vì chất độc của rượu, vốn có khả năng đốt cháy năng lực mầm mống của những hạt giống tốt trong tâm. Về những tệ hại của thói quen say sưa, Àryasùra, trong Jàtakamàla nói: "Ôi, vị chúa tể của loài người, tại sao
Ngài có thể * * * Ðó là kho tàng phẩm hạnh mà người muốn được hạnh phúc phải tăng trưởng và bảo vệ. Ðó là những phương tiện thích nghi để thành đạt tất cả những gì tốt đẹp trong hiện đời và mai sau. Tất cả những gì quý giá trong nội tâm đều bắt nguồn từ giới hạnh. Cũng như trong một hầm mỏ phong phú có vô số kể những kim cương và châu báu, cùng thế ấy, đức hạnh cho người giới đức những thích thú vô cùng tận. Ðức hạnh là vùng đất mà từ đó ta có thể bay vọt lên các tầng cao của trạng thái tuyệt đối thánh thiện. Ðức hạnh là khí giới mầu nhiệm mà ta dùng để tiêu diệt dục vọng, là áo giáp để chống đở và đánh bại những cơn bão táp của Màra (Ma Vương, tử thần). Ðức hạnh làm cho đời sống vui tươi, đượm nhuần năng lực sáng tạo, sanh khí, và trạng thái mát mẻ dễ chịu. Ðức hạnh cũng giống như đám mưa mát mẻ, trong sạch, làm cho cây cối xanh tươi. Người có đức hạnh thành đạt trạng thái vinh quang rực rỡ của người danh thơm tiếng tốt, nhiều tiền của và được tôn trọng. Con người đức hạnh luôn luôn chú niệm và giác tỉnh. Ðến lúc lâm chung người ấy không suy tư rối loạn mà vắng lặng và trầm tĩnh. Vì những phước lành kể trên cùng đi chung với đức hạnh, ta dưỡng nuôi, giữ gìn và bảo vệ đức hạnh với lòng nhiệt thành của bà từ mẫu hết tình đùm bọc đứa con duy nhất, (như bảo bọc) con ngươi của bà. Ðức hạnh cho ta tình trạng không sợ sệt, an ninh, thanh bình và tâm bi mẫn đối với tất cả chúng sanh. Khái niệm Từ và Bi (mettà và karunà) của người Phật tử không có giới hạn. Theo nhân sinh quan của người Phật tử, không có chúng sanh nào được xem là ở ngoài vòng của tâm từ (mettà) và tâm bi (karunà). Hai phẩm hạnh từ và bi này không có sự phân biệt giữa người cao hay thấp, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, minh mẫn hay tối tăm, đen hay trắng, bà-la-môn hay chăn-đà-la, hay Thiên Chúa Giáo, Ấn Ðộ Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Phật Giáo v.v... Mettà và Karunà, Từ và Bi, là vô lượng vô biên và khi mà ta cố gắng sắp xếp người này phân biệt với người khác theo lối sắp xếp giả tạo kể trên, thì tức khắc cảm giác phân chia nhảy sổ vào và những đức tính vô lượng vô biên trở thành có giới hạn -- trái nghịch với lý tưởng cao siêu của những đức hạnh này. (Xin xem tiếp phần 18.b) -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01.a |
01.b |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 | |
Chân thành cám ơn Bác Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 10-2002)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 05-10-2002