III. 
              KUṆḌALAKESIVAGGO
              III. PHẨM 
              KUṆḌALAKESĪ:
              
              21. 
              Kuṇḍalakesāpadānaṃ 
              21. Ký Sự về Kuṇḍalakesā:
               
              
              639. Padamuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
              
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              640. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
              
              nānāratanapajjote mahāsukhasamappite. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ bởi vô số 
              loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.
               
              
              641. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ 
              dhammadesanaṃ, 
              tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ. 
              Tôi đã đi đến đấng Đại 
              Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín 
              sanh khởi, tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.
               
              
              642. Tadā mahākāruṇiko padumuttaranāmako, 
              khippābhiññānamaggatte ṭhapesi bhikkhuniṃ subhaṃ. 
              
              Khi ấy, đấng Đại Bi tên 
              Padumuttara đã thiết lập tỳ khưu ni Subhā vào vị thế tối thắng 
              trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén. 
               
              
              643. Taṃ sutvā muditā hutvā dānaṃ datvā 
              mahesino, 
              nipajja sirasā pāde taṃ ṭhānaṃ abhipatthayiṃ. 
              Sau khi nghe điều ấy, tôi 
              đã trở nên hoan hỷ và đã cúng dường vật thí đến bậc Đại Ẩn Sĩ, rồi 
              đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã phát nguyện vị thế ấy. 
              
               
              
              644. Anumodi mahāvīro bhadde yaṃ te 
              ’bhipatthitaṃ, 
              samijjhissati taṃ sabbaṃ sukhinī hohi nibbutā. 
              Đấng Đại Hùng đã nói lời 
              tùy hỷ rằng: “Này cô gái hiền thục, 
              điều nào đã được con ước nguyện toàn bộ điều ấy sẽ được thành tựu. 
              Hãy được an lạc, hãy được Niết Bàn.
               
              
              645. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              646. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              bhaddā kuṇḍakesāti hessasi satthusāvikā. 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ là 
              Bhaddā Kuṇḍakesā, nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp.”
              
               
              
              647. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              648. Tato cutā yāmamagā tato ’haṃ tusitaṃ gatā,
              
              tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato. 
              Từ nơi ấy chết đi, tôi đã 
              đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó 
              đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
               
              
              649. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa 
              vāhasā, 
              tattha tattheva rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Do tác động của nghiệp ấy, 
              ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi 
              chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
               
              
              650. Tato cutā manussesu rājūnaṃ vasavattinaṃ,
              
              maṇḍalīnañca rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Từ nơi ấy chết đi, ở giữa 
              loài người tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua 
              có quyền lực và của các vị vua có lãnh thổ.
               
              
              651. Sampattiṃ anubhotvāna devesu mānusesu ca,
              
              sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsariṃ. 
              Tôi đã thọ hưởng sự thành 
              công ở giữa chư thiên và nhân loại, tôi đã được an vui ở trong mọi 
              nơi, tôi đã luân hồi vô số (đại) kiếp.
               
              
              652. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu 
              mahāyaso, 
              kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo. 
              Ở vào kiếp Bhadda này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của 
              đấng Phạm Thiên.
               
              
              653. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
              
              kāsirājā kikī nāma bārāṇasi puruttame. 
              Khi ấy, có vị quân vương 
              là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ 
              độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
               
              
              654. Tassa dhītā catutth’ āsiṃ bhikkhudāsīti 
              vissutā, 
              dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ. 
              Tôi đã là người con gái 
              thứ tư của vị (vua) ấy được nổi danh là “Bhikkhudāsī.” 
              Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã 
              xin xuất gia. 
               
              
              655. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ, 
              vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā. 
              Cha đã không cho phép 
              chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó 
              trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi. 
               
              
              656. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
              
              buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro. 
              Là những người con gái của 
              đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của 
              người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong 
              việc hộ độ đức Phật.
               
              
              657. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī 
              bhikkhudāsikā, 
              dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā. 
              Samaṇī, Samaṇaguttā, 
              Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và 
              Saṅghadāsikā là thứ bảy.
               
              
              658. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ahaṃ tathā,
              
              kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī. 
              Khemā, Uppalavaṇṇā, 
              Paṭācārā, thêm vào tôi, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ 
              bảy (vào thời hiện tại). 
               
              
              659. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do các nghiệp ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ 
              thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              660. Pacchime ca bhave dāni giribbajapuruttame,
              
              jātā seṭṭhikule phīte yadā ’haṃ yobbane ṭhitā. 
              Và trong kiếp sống cuối 
              cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra tại kinh 
              thành Giribbaja, trong gia đình triệu 
              phú thịnh vượng. Rồi đến lúc tôi đã ở vào lứa tuổi thanh xuân.
              
               
              
              661. Coraṃ vadhatthaṃ nīyantaṃ disvā rattā 
              tahiṃ ahaṃ, 
              pitā me taṃ sahassena mocayitvā vadhā tato. 
              Sau khi nhìn thấy kẻ trộm 
              đang bị dẫn đi để xử tử, tôi đã bị luyến ái với gã. Do đó, cha của 
              tôi đã giải cứu gã ấy khỏi cái chết bằng ngàn đồng tiền.
               
              
              662. Adāsi tassa maṃ tāto viditvāna manaṃ mama,
              
              tassāhamāsiṃ vissatthā atīva dayitā hitā. 
              Sau khi biết được tâm ý 
              của tôi, cha đã ban gã ấy cho tôi. Tôi đã trở nên thân thiết, vô 
              cùng yêu thương, gắn bó đối với gã ấy. 
               
              
              663. So me bhūsanalobhena khalitajjhāsayo diso,
              
              corappapātaṃ netvāna pabbataṃ cetayī vadhaṃ. 
              Vì lòng tham đối với các 
              đồ trang sức của tôi, gã nghịch thù ấy có ý định gây tội đã đưa 
              (tôi) đến ngọn núi có vực thẳm Kẻ Trộm và đã nghĩ đến việc giết 
              hại. 
               
              
              664. Tadā ’haṃ paṇamitvāna bhattukaṃ 
              sukatañjalī, 
              rakkhantī attano pāṇaṃ idaṃ vacanamabraviṃ: 
              Khi ấy, trong lúc bảo vệ 
              mạng sống của mình, tôi đã cúi lạy, nghiêm chỉnh chắp tay lại với 
              người chồng, và đã nói lời nói này: 
               
              
              665. “Idaṃ suvaṇṇaṃ keyūraṃ muttā veḷuriyā 
              bahū, 
              sabbaṃ harassu bhaddante mañca dāsīti sāvaya.” 
              “Thưa 
              tướng công, vàng vòng ngọc trai ngọc bích này có nhiều, xin chàng 
              hãy tự mang đi tất cả. Và hãy thông báo rằng thiếp là ‘Nô tỳ.’”
               
              
              666. Oropayassu kalyāṇi mā bāḷhaṃ paridevasi,
              
              na cāhaṃ abhijānāmi ahantvā dhanamābhataṃ.” 
              “Này 
              người đẹp, nàng phải chết. Chớ than vãn nhiều quá. Và ta biết chắc 
              rằng không giết thì của cải không mang đi được.”
               
              
              667. “Yato sarāmi attānaṃ yato pattāsmi 
              viññutaṃ, 
              na cāhaṃ abhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā. 
              “Kể 
              từ khi thiếp ghi nhớ được bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự 
              hiểu biết, và thiếp biết chắc rằng không ai khác được yêu thương 
              hơn là chàng.
               
              
              668. Ehi taṃ upagūhissaṃ kassañca taṃ 
              padakkhiṇaṃ, 
              na ca dāni puno atthi mama tuyhañca saṅgamo. 
              
              Xin chàng hãy đến, thiếp sẽ ôm lấy chàng và sẽ 
              nhiễu quanh chàng. Và giờ đây không còn có sự gần gũi nào giữa 
              thiếp và chàng nữa.”
               
              
              669. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito,
              
              itthīpi paṇḍitā hoti tattha tattha vicakkhaṇā. 
              Không hẳn trong mọi trường 
              hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ có sự cẩn thật nhiều bề cũng 
              là khôn ngoan.
               
              
              670. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito,
              
              itthīpi paṇḍitā hoti lahuṃ atthavicintakā. 
              Không hẳn trong mọi trường 
              hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ cân nhắc điều lợi ích một 
              cách mau chóng cũng là khôn ngoan.
               
              
              671. Lahuñca vata khippañca nikiṭṭhe 
              samacetayiṃ, 
              migamuṇṇā yathā evaṃ tadā ’haṃ sattukaṃ vadhiṃ. 
              Quả nhiên, một cách nhẹ 
              nhàng và mau chóng tôi đã suy nghĩ mưu kế. Giống như bộ lông (giết 
              chết) con thú, khi ấy tôi đã giết chết gã Sattuka như thế.
               
              
              672. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ na 
              khippamanubujjhati, 
              so haññate mandamati corova girigabbhare. 
              Và người nào không mau 
              chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, người có trí kém cỏi ấy 
              sẽ bị giết như là kẻ trộm ở hẻm núi. 
               
              
              673. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva 
              nibodhati, 
              muccate sattusambādhā tadā ’haṃ sattukā yathā. 
              Và người nào thật mau 
              chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, (người ấy) thoát khỏi 
              sự quấy rối của kẻ thù giống như tôi và Sattuka vào khi ấy vậy.
               
              
              674. Tadā taṃ pātayitvāna giriduggamhi 
              sattukaṃ, 
              santikaṃ setavatthānaṃ upetvā pabbajiṃ ahaṃ. 
              Khi ấy, tôi đã quăng gã 
              Sattuka ấy vào hóc núi, rồi đã đi đến gặp những người (ngoại đạo) 
              mặc vải trắng, và đã xuất gia. 
               
              
              675. Saṇḍāsena ca kese me luñcitvā sabbaso 
              tadā, 
              pabbājetvā sasamayaṃ ācikkhiṃsu nirantaraṃ. 
              Và khi ấy, sau khi đã nhổ 
              lên toàn bộ những sợi tóc của tôi bằng nhíp,[1] 
              họ đã cho tôi xuất gia và đã chỉ dạy giáo lý không có gián đoạn.
               
              
              676. Tato taṃ uggahetvāna nisīditvāna ekikā,
              
              samayaṃ taṃ vicintesiṃ suvāno mānusaṃ karaṃ. 
              
              677. Chinnaṃ gayha samīpe me pātayitvā 
              apakkami, 
              disvā nimittamalabhiṃ hatthaṃ taṃ puḷavākulaṃ. 
              Tôi đã học xong (giáo lý) 
              ấy từ họ. Tôi đã ngồi xuống mỗi một mình và đã suy xét về (giáo 
              lý) ấy. Có con chó tha bàn tay của con người bị đứt lìa và đã nhả 
              ở cạnh tôi rồi đã bỏ chạy. Sau khi nhìn thấy dấu hiệu, tôi đã nhặt 
              lấy bàn tay có đầy dòi bọ ấy.
               
              
              678. Tato vuṭṭhāya saṃviggā apucchiṃ 
              sahadhammike, 
              te avocuṃ: “Vijānanti tamatthaṃ sakyabhikkhavo.” 
              
              Sau khi từ chỗ ấy đứng 
              dậy, bị chấn động tôi đã hỏi những người đồng đạo. Họ đã nói rằng: 
              “Những vị tỳ khưu dòng Sakya biết rõ ý 
              nghĩa ấy.”
               
              
              679. Sāhaṃ tamatthaṃ pucchissaṃ upetvā 
              buddhasāvake, 
              te mamādāya gacchiṃsu buddhaseṭṭhassa santikaṃ. 
              (Nghĩ rằng) “Ta 
              sẽ hỏi ý nghĩa ấy,” tôi đây đã đi đến các vị Thinh Văn của 
              đức Phật. Sau khi đón nhận tôi, các vị ấy đã đi đến bên đức Phật 
              Tối Thượng. 
               
              
              680. So me dhammamadesesi khandhāyatanadhātuyo,
              
              asubhāniccā dukkhāti anattā’ti ca nāyako. 
              Và đấng Lãnh Đạo ấy đã 
              thuyết Pháp cho tôi về: “Uẩn, xứ, giới, 
              đề mục bất mỹ, vô thường, khổ não, vô ngã.”
               
              
              681. Tassa dhammaṃ suṇitvā ’haṃ dhammacakkhuṃ 
              visodhayiṃ, 
              tato viññātasaddhammā pabbajjaṃ upasampadaṃ. 
              
              682. Āyāciṃ so tadā āha “ehi bhadde”ti nāyako,
              
              tadā ’haṃ upasampannā parittaṃ toyamaddasaṃ. 
              Sau khi lắng nghe Giáo 
              Pháp của vị ấy, tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó, 
              được hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã yêu cầu sự xuất gia và sự tu lên 
              bậc trên. Khi ấy, đấng Lãnh Đạo ấy đã nói rằng: “Này 
              cô gái hiền thục, hãy đến.” Khi ấy, được tu lên bậc trên, 
              tôi đã nhìn thấy một ít nước.
               
              
              683. Pādapakkhālanenāhaṃ ñatvā sa-udayaṃ vayaṃ,
              
              tathā sabbepi saṅkhārā iti saṃcintayiṃ tadā. 
              Với sự rửa sạch bàn chân, 
              tôi đã biết được là có sự tiêu hoại với nước. Khi ấy, tôi đã tự 
              suy xét rằng: “Tất cả các hành cũng là 
              tương tợ như thế.”
               
              
              684. Tato cittaṃ vimucci me anupādāya sabbaso,
              
              khippābhiññānamaggaṃ maṃ tadā paññāpayī jino. 
              Sau đó, tâm tôi đã được 
              giải thoát trọn vẹn không còn chấp thủ. Khi ấy, đấng Chiến Thắng 
              đã tuyên bố tôi là đứng đầu trong số các vị ni có thắng trí nhạy 
              bén.
               
              
              685. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
              
              paricittāni jānāmi satthusāsanakārikā. 
              Là người thực hành theo 
              lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về 
              thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác. 
               
              
              686. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              khepetvā āsave sabbe visuddh’ āsiṃ sunimmalā. 
              Tôi biết được đời sống 
              trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả 
              các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
              
               
              
              687. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa 
              sāsanaṃ, 
              ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā. 
              Bậc Đạo Sư đã được tôi 
              phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng 
              nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
               
              
              688. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
              
              so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo. 
              Vì mục đích nào tôi đã rời 
              khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy 
              tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
              
              
               
              
              689. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāṇe tatheva ca,
              
              ñāṇaṃ me vipulaṃ suddhaṃ buddhaseṭṭhassa sāsane. 
              
              Trí tuệ của tôi về ý 
              nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện 
              giải là bao la, trong sạch ở trong Giáo Pháp của đức Phật tối 
              thượng.
               
              
              690. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              691. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              692. Paṭisambhidā catasso ca vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Bhaddā Kuṇḍalakesā bhikkhunī imā 
              gāthāyo abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Bhaddā 
              Kuṇḍalakesā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
            
            Kuṇḍalakesātheriyāpadānaṃ paṭhamaṃ.
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Bhaddā Kuṇḍalakesā là phần thứ nhất.
            --ooOoo--
              
              22. Kisāgotamī 
              apādānaṃ
              22. Ký Sự về 
              Kisāgotamī:
               
              
              693. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
              
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              694. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā aññatare kule,
              
              upetvā taṃ naravaraṃ saraṇaṃ samupāgamiṃ. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra ở một gia đình nọ trong (thành) Haṃsavatī. Tôi đã đi đến và đã 
              nương nhờ vào bậc Quý Nhân ấy. 
               
              
              695. Dhammañca tassa assosiṃ 
              catusaccūpasaṃhitaṃ, 
              madhuraṃ paramassādaṃ vaṭṭasantisukhāvahaṃ. 
              Và tôi đã lắng nghe Giáo 
              Pháp ngọt ngào của vị ấy, bao gồm bốn Sự Thật, có phẩm vị tối 
              thắng, đưa đến sự an lạc và tịnh lặng của vòng luân hồi.
               
              
              696. Tadā ca bhikkhuniṃ vīro 
              lūkhacīvaradhāriniṃ, 
              ṭhapento etadaggamhi vaṇṇayī purisuttamo. 
              Và khi ấy, trong khi thiết 
              lập vị tỳ khưu ni mặc y thô vào vị thế tối thắng, bậc Anh Hùng, 
              đấng Tối Thượng Nhân đã khen ngợi. 
               
              
              697. Janetvānappakaṃ pītiṃ sutvā bhikkhuṇiyā 
              guṇaṃ, 
              kāraṃ katvāna buddhassa yathāsattī yathābalaṃ. 
              Sau khi đã làm sanh lên 
              niềm phỉ lạc không nhỏ nhoi, sau khi lắng nghe đức hạnh của vị tỳ 
              khưu ni, tôi đã làm công việc phục vụ đến đức Phật tùy theo khả 
              năng, tùy theo sức lực.
               
              
              698. Nipacca munivīraṃ taṃ taṃ 
              ṭhānamabhipatthayiṃ, 
              tadānumodi sambuddho ṭhānalābhāya nāyako. 
              Tôi đã cúi xuống ở bậc 
              Hiền Triết Anh Hùng ấy và đã ước nguyện vị thế ấy. Khi ấy, bậc 
              Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo đã nói lời tùy hỷ về sự lợi ích của vị 
              thế (ấy):
               
              
              699. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              “Vào 
              một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng 
              dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
              
               
              
              700. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              gotamī nāma nāmena hessasi satthusāvikā.” 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ trở 
              thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp, 
              có tên là Gotamī.”
              
               
              
              701. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā 
              jinaṃ, 
              mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ. 
              Nghe được điều ấy, tôi đã trở 
              nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến 
              Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
               
              
              702. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              703. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu 
              mahāyaso, 
              kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo. 
              Ở vào kiếp Bhadda này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của 
              đấng Phạm Thiên.
               
              
              704. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
              
              kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame. 
              Khi ấy, có vị quân vương 
              là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ 
              độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
               
              
              705. Pañcamī tassa dhīt’ āsiṃ dhammā nāmena 
              vissutā, 
              dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ. 
              Tôi đã là người con gái 
              thứ năm của vị (vua) ấy được nổi danh với tên là Dhammā. Sau khi 
              lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất 
              gia. 
               
              
              706. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ, 
              vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā. 
              Cha đã không cho phép 
              chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó 
              trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi. 
               
              
              707. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
              
              buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro. 
              Là những người con gái của 
              đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của 
              người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong 
              việc hộ độ đức Phật.
               
              
              708. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī 
              bhikkhudāsikā, 
              dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā. 
              Samaṇī, Samaṇaguttā, 
              Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và 
              Saṅghadāsikā là thứ bảy.
               
              
              709. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
              
              ahaṃ ceva dhammadinnā visākhā hoti sattamī. 
              Khemā, Uppalavaṇṇā, 
              Paṭācārā,  Kuṇḍalā, tôi, luôn cả Dhammadinnā, và Visākhā là thứ 
              bảy (vào thời hiện tại). 
               
              
              710. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ. 
              Do các nghiệp ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ 
              thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              711. Pacchime ca bhavedāni jātā seṭṭhikule 
              ahaṃ, 
              duggate adhane naṭṭhe gatā ca sadhanaṃ kulaṃ. 
              Và trong kiếp cuối cùng 
              hiện nay, tôi đã được sanh ra trong gia đình triệu phú bị lâm cảnh 
              khốn cùng, không tài sản, bị khánh tận, và tôi đã được gả vào gia 
              đình có tài sản. 
               
              
              712. Patiṃ ṭhapetvā sesā disanti adhanā iti,
              
              yadā ca sasutā āsiṃ sabbesaṃ dayitā tadā. 
              Ngoại trừ người chồng, 
              những người còn lại giễu là “Nữ nhân 
              không tài sản.” Và đến khi tôi đã có con trai, khi ấy tôi 
              đã được cảm tình của tất cả.
               
              
              713. Yadā so taruṇo bhadro komalaṅgo 
              sukhedhito, 
              sapāṇamiva kanto me tadā yamavasaṃ gato. 
              Vào lúc đứa bé trai hiền 
              hậu ấy, có cơ thể mềm mại, được nuôi dưỡng trong sung sướng, được 
              yêu quý như chính mạng sống của tôi đã đi đến cõi Dạ Ma.
               
              
              714. Sokaṭṭā dīnavadanā assunettā rudammukhā,
              
              mataṃ kuṇapamādāya vilapantī bhamāmahaṃ. 
              Bị dằn vặt bởi sầu muộn, 
              có vẻ mặt thê lương, mắt đẫm lệ, miệng khóc than, tôi đã bồng ẳm 
              thi thể đã chết, trong lúc than vãn tôi đã đi lang thang.
               
              
              715. Tadā ekena sandiṭṭhā upetvā bhisajuttamaṃ,
              
              avocaṃ “dehi bhesajjaṃ puttasañjīvananti bho.” 
              Khi ấy, nhận thức một 
              chiều, tôi đã đi đến vị Đệ Nhất Lương Y và đã nói rằng: “Thưa 
              ông, xin ông hãy cho thuổc đem lại sự sống cho con tôi.”
              
               
              
              716. “Na vijjante matā yasmiṃ gehe 
              siddhatthakaṃ tato, 
              āharā”ti jino āha vinayopāyakovido. 
              Đấng Chiến Thắng, bậc rành 
              rẽ về phương thức huấn luyện, đã nói rằng: “Những 
              người chết không được tìm thấy ở tại ngôi nhà nào thì nàng hãy 
              mang lại hạt cải từ nơi (ngôi nhà) ấy.”
               
              
              717. Tadā gamitvā sāvatthiyaṃ na labhiṃ tādisaṃ 
              gharaṃ, 
              kuto siddhatthakaṃ kasmā tato laddhā satiṃ ahaṃ. 
              
              Khi ấy, tôi đã đi ở trong 
              thành Sāvatthī, và đã không đạt được ngôi nhà như thế ấy. Do đó, 
              tôi đã đạt được trí nhớ rằng: “Hạt cải 
              ở đâu, từ nơi đâu?” 
               
              
              718. Kuṇapaṃ chaḍḍayitvāna upesiṃ lokanāyakaṃ,
              
              dūratova mamaṃ disvā avoca madhurassaro. 
              Sau khi đã quăng bỏ thây 
              chết, tôi đã đi đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Sau khi nhìn thấy tôi 
              từ rất xa, vị có âm giọng ngọt ngào đã nói rằng: 
               
              
              719. “Yo ca vassasataṃ jīve apassaṃ 
              udayabbayaṃ, 
              ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo passato udayabbayaṃ. 
              “Và 
              người nào đã sống trăm năm không nhìn thấy sự sanh diệt, cuộc sống 
              một ngày là tốt hơn đối với người đang nhìn thấy sự sanh diệt.[2]
               
              
              720. Na gāmadhammo no nigamassa dhammo 
              nacāpayaṃ ekakulassa dhammo, 
              sabbassa lokassa sadevakassa 
              esova dhammo yadidaṃ aniccatā.” 
              
              Không phải là quy luật thuộc về ngôi làng, 
              không phải là quy luật thuộc về phố chợ, quy luật này cũng không 
              phải thuộc về một gia đình, mà thuộc về tất cả thế gian luôn cả 
              chư thiên; quy luật ấy đấy tức là tính chất vô thường.”
               
              
              721. Sāhaṃ sutvānimā gāthā dhammacakkhuṃ 
              visodhayiṃ, 
              tato viññātasaddhammā pabbajiṃ anagāriyaṃ. 
              Sau khi lắng nghe lời kệ 
              này, tôi đây đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó, được 
              hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.
               
              
              722. Tathā pabbajitā santī yuñjantī jinasāsane,
              
              na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ. 
              Đã được xuất gia như thế, 
              có sự thanh tịnh, trong khi gắn bó vào Giáo Pháp của đấng Chiến 
              Thắng, Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị 
              A-la-hán. 
               
              
              723. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
              
              paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā. 
              Là người thực hành theo 
              lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về 
              thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác. 
               
              
              724. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhuṃ 
              visodhitaṃ, 
              khepetvā āsave sabbe visuddhāsiṃ sunimmalā. 
              Tôi biết được đời sống 
              trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả 
              các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
              
               
              
              725. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa 
              sāsanaṃ, 
              ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā. 
              Bậc Đạo Sư đã được tôi 
              phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng 
              nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
               
              
              726. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
              
              so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo. 
              Vì mục đích nào tôi đã rời 
              khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy 
              tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
               
              
              727. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāṇe tatheva ca,
              
              ñāṇaṃ me vimalaṃ suddhaṃ buddhaseṭṭhassa vāhasā. 
              
              Trí tuệ của tôi về ý 
              nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện 
              giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức 
              Phật tối thượng.
               
              
              728. Saṅkārakūṭā āhatvā susānā rathiyāpi ca,
              
              tato saṅghāṭikaṃ katvā lūkhaṃ dhāremi cīvaraṃ. 
              Sau khi mang về từ đống 
              rác, từ mộ địa, và thậm chí từ đường lộ, từ đó tôi đã thực hiện y 
              hai lớp và đã mặc y thô.
               
              
              729. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho 
              lūkhacīvaradhāraṇe, 
              ṭhapesi etadaggamhi parisāsu vināyako. 
              Hoan hỷ về đức hạnh ấy, 
              đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập 
              (tôi) vào vị thế tối thắng trong việc mặc y thô.
               
              
              730. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              731. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              732. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Kisāgotamī bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Kisāgotamī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Kisāgotamītheriyāpadānaṃ dutiyaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Kisāgotamī là phần thứ nhì.
              --ooOoo--
              
              23. 
              Dhammadinnāpadānaṃ
              23. Ký Sự về 
              Dhammadinnā:
                
              
              733. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
              
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
              
              
              
              734. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ kule aññatare ahuṃ,
              
              parakammakarī āsiṃ nipakā sīlasaṃvutā. 
              Khi ấy, tôi đã ở trong một 
              gia đình nọ tại thành Haṃsavatī. Tôi đã là người nữ làm thuê khéo 
              léo, gìn giữ tánh hạnh.
               
              
              735. Padumuttarabuddhassa sujāto aggasāvako,
              
              vihārā abhinikkhamma piṇḍapātāya gacchati. 
              Sujāta, vị Thinh Văn hàng 
              đầu của đức Phật Padumuttara, đã rời khỏi trú xá đi khất thực.
               
              
              736. Ghaṭaṃ gahetvā gacchantī tadā udakahārikā,
              
              taṃ disvā adadiṃ pūvaṃ pasannā sehi pāṇihi. 
              Là người nữ đội nước, khi 
              ấy trong lúc cầm lấy bầu nước đang đi, tôi đã nhìn thấy vị ấy, 
              được tịnh tín, tôi đã dâng (vị ấy) món bánh ngọt bằng hai bàn tay 
              của mình.
              
              737. Paṭiggahetvā tattheva nisinno paribhuñji 
              so, 
              tato netvāna taṃ gehaṃ adāsiṃ tassa bhojanaṃ. 
              Sau khi thọ lãnh, vị ấy đã 
              ngồi xuống ngay tại nơi ấy và đã thọ dụng. Sau đó, tôi đã đưa vị 
              ấy về nhà và đã dâng vật thực đến vị ấy. 
               
              
              738. Tato me ayyako tuṭṭho akarī suṇisaṃ sakaṃ,
              
              sassuyā saha gantvāna sambuddhaṃ abhivādayiṃ. 
              Do đó, người chủ của tôi 
              hoan hỷ đã nhận làm con dâu của mình. Tôi đã cùng với người mẹ 
              chồng đi đến và đã đảnh lễ bậc Toàn Giác. 
               
              
              739. Tadā so dhammakathikaṃ bhikkhuniṃ 
              parikittayaṃ, 
              ṭhapesi etadaggasmiṃ taṃ sutvā muditā ahaṃ. 
              Khi ấy, Ngài đã tán dương 
              và đã thiết lập vị tỳ khưu ni là vị thuyết giảng Giáo Pháp vào vị 
              thế tối thắng. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đã vui mừng. 
              
               
              
              740. Nimantayitvā sugataṃ sasaṅghaṃ 
              lokanāyakaṃ, 
              mahādānaṃ daditvāna taṃ ṭhānaṃ abhipatthayiṃ. 
              Tôi đã thỉnh mời đức Thiện 
              Thệ đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, rồi đã cúng dường 
              đại thí và đã ước nguyện vị thế ấy.
               
              
              741. Tato maṃ sugato āha ghananinnādasussaro,
              
              “Mamupaṭṭhānanirate sasaṅghaṃ parivesike. 
              
              742. Saddhammasavaṇe yutte guṇavaḍḍhitamānase,
              
              bhadde bhavassu muditā lacchase paṇidhīphalaṃ. 
              Do đó, với giọng có âm 
              điệu đều đều vang vang, đấng Thiện Thệ đã nói với tôi rằng: “Này 
              người thiếu nữ hiền thục, được vui thích trong việc hộ độ Ta cùng 
              với hội chúng, là người dâng vật thực, được gắn bó trong việc lắng 
              nghe Chánh Pháp, với tâm ý được tăng trưởng về đức hạnh, con hãy 
              vui mừng, con sẽ đạt được kết quả của điều nguyện ước.
               
              
              743. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              744. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              dhammadinnāti nāmena hessasi satthusāvikā.” 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ trở 
              thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp, 
              có tên là Dhammadinnā.”
               
              
              745. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ 
              mahāmuniṃ, 
              mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ. 
              Nghe được điều ấy, tôi đã trở 
              nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến 
              Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
               
              
              746. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
              
              747. Imasmiṃ bhaddake kappe 
              brahmabandhu mahāyaso, 
              kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo. 
              Ở vào kiếp Bhadda này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của 
              đấng Phạm Thiên.
               
              
              748. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
              
              kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame. 
              Khi ấy, có vị quân vương 
              là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ 
              độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
               
              
              749. Chaṭṭhā tassāsahaṃ dhītā sudhammā iti 
              vissutā, 
              dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ. 
              Tôi đã là người con gái 
              thứ sáu của vị (vua) ấy được nổi danh là Sudhammā. Sau khi lắng 
              nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
              
               
              
              750. Nānujānāsi maṃ tāto agāren’ ālayā mayaṃ,
              
              vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā. 
              Cha đã không cho phép 
              chúng tôi. Có sự ấp ủ về việc không gia đình, chúng tôi đã đi đây 
              đó trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi. 
               
              
              Bhāṇavāraṃ tatiyaṃ.
              
              Tụng Phẩm thứ ba.
               
              
              751. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
              
              buddhūpaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro. 
              Là những người con gái của 
              đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của 
              người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong 
              việc hộ độ đức Phật.
               
              
              752. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī 
              bhikkhudāsikā, 
              dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā. 
              Samaṇī, Samaṇaguttā, 
              Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và 
              Saṅghadāsikā là thứ bảy.
               
              
              753. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
              
              gotamī ca ahaṃ ceva visākhā hoti sattamī. 
              Khemā, Uppalavaṇṇā, 
              Paṭācārā, Kuṇḍalā, Gotamī, tôi, và luôn cả Visākhā là thứ bảy (vào 
              thời hiện tại).  
               
              
              754. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do các nghiệp ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ 
              thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              755. Pacchime ca bhavedāni giribbajapuruttame,
              
              jātā seṭṭhikule phīte sabbakāmasamiddhake. 
              Và vào kiếp sống cuối cùng 
              hiện nay, tôi đã được sanh ra ở kinh thành 
              Giribbaja, trong gia đình triệu phú, 
              thịnh vượng, có sự dồi dào về tất cả các 
              dục lạc.
               
              
              756. Yadā rūpaguṇopetā paṭhame yobbane ṭhitā,
              
              tadā parakulaṃ gantvā vasiṃ sukhasamappitā. 
              Vào lúc đạt đến sắc đẹp và 
              đức hạnh, ở vào thời đầu của tuổi thanh xuân, khi ấy tôi đã đi đến 
              gia tộc khác (làm vợ) và đã sống thọ hưởng lạc thú. 
               
              
              757. Upetvā lokasaraṇaṃ suṇitvā dhammadesanaṃ,
              
              anāgāmiphalaṃ patto sāmiko me subuddhimā. 
              Sau khi đi đến đấng Nương 
              Nhờ của thế gian và đã lắng nghe lời thuyết Pháp, chồng của tôi đã 
              đạt đến quả vị Bất Lai, có trí giác ngộ hoàn hảo. 
               
              
              758. Tadā taṃ anujānetvā pabbajiṃ anagāriyaṃ,
              
              na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ. 
              Khi ấy, tôi đã thuyết phục 
              vị ấy rồi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Trong thời 
              gian không bao lâu, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. 
               
              
              759. Tadā upāsako so maṃ upagantvā apucchatha,
              
              gambhīre nipuṇe paññe te sabbe vyākariṃ ahaṃ. 
              Khi ấy, vị nam cư sĩ ấy đã 
              đi đến tôi và đã hỏi về các tuệ thâm sâu và hoàn hảo. Tôi đã giảng 
              giải về tất cả các điều ấy.[3]
               
              
              760. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi 
              maṃ, 
              bhikkhuniṃ dhammakathikaṃ nāññaṃ passāmi edisaṃ. 
              
              Hoan hỷ về đức hạnh ấy, 
              đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng: “Ta 
              không nhìn thấy vị tỳ khưu ni nào khác là vị thuyết giảng Giáo 
              Pháp như là vị ni này.  
               
              
              761. Dhammadinnā yathā dhīrā evaṃ dhāretha 
              bhikkhavo, 
              evāhaṃ paṇḍitā jātā nāyakenānukampitā. 
              
              Này các tỳ khưu, Dhammadinnā là vị ni sáng trí 
              như thế nào thì các ngươi hãy ghi nhớ như thế.” 
              Được đấng Lãnh Đạo thương xót, tôi đã trở thành vị ni thông thái 
              như thế.
               
              
              762. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa 
              sāsanaṃ, 
              ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā. 
              Bậc Đạo Sư đã được tôi 
              phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng 
              nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
               
              
              763. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
              
              so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo. 
              Vì mục đích nào tôi đã rời 
              khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy 
              tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
              
               
              
              764. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
              
              paracittāni jānāmi satthu sāsanakārikā. 
              Là người thực hành theo 
              lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về 
              thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác. 
               
              
              765. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              khepetvā āsave sabbe visuddhāmhi sunimmalā. 
              Tôi biết được đời sống 
              trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả 
              các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm. 
              
               
              
              766. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              767. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              768. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Dhammadinnā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Dhammadinnā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Dhammadinnātheriyāpadānaṃ tatiyaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Dhammadinnā là phần thứ ba.
              --ooOoo--
              
              24. 
              Sakulāpadānaṃ 
              24. Ký Sự về 
              Sakulā:
               
              
              769. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
              
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              770. Hitāya sabbasattānaṃ sukhāya vadataṃ varo,
              
              atthāya purisājañño paṭipanno sadevake. 
              Vì sự tấn hóa, sự lợi ích, 
              ví sự an lạc của tất cả chúng sanh, đấng Siêu Nhân, bậc cao quý 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã sanh ra ở thế gian gồm cả 
              thiên giới.
               
              
              771. Yasaggappatto sirimā vaṇṇakittibhato jino,
              
              pūjito sabbalokassa disā sabbāsu vissuto. 
              Đấng Chiến Thắng, đã đạt 
              đến danh vọng cao tột, có sự vinh quang, có được sự tán dương ca 
              ngợi, được tôn vinh, được nổi danh ở tất cả các phương của toàn 
              thể thế gian.
               
              
              772. Uttiṇṇavicikiccho so vītivattakathaṃkatho,
              
              sampuṇṇamanasaṅkappo patto sambodhimuttamaṃ. 
              Ngài đã vượt lên trên sự 
              hoài nghi, đã vượt qua sự lưỡng lự, đã tròn đủ tâm tư, đã đạt đến 
              quả Toàn Giác tối thượng. 
               
              
              773. Anuppannassa maggassa uppādetā naruttamo,
              
              anakkhātañca akkhāsi asañjātañca sañjanī. 
              Đấng Tối Thượng Nhân là 
              người khai mở con đường chưa được khai mở, là vị đã nói về điều 
              chưa được nói đến, và đã nhận thức điều chưa được nhận thức.
              
               
              
              774. Maggaññū ca maggavidū maggakkhāyī 
              narāsabho, 
              maggassa kusalo satthā sārathīnaṃ varuttamo. 
              Đấng Nhân Ngưu là vị biết 
              được Đạo lộ, là vị rành mạch về Đạo lộ, là vị thuyết về Đạo lộ. 
              Được thiện xảo về Đạo lộ, đấng Đạo Sư là cao quý tối thượng trong 
              số các bậc điều ngự (người điều khiển xe).
               
              
              775. Mahākāruṇiko satthā dhammaṃ desesi nāyako,
              
              nimugge kāmapaṅkamhi samuddharati pāṇino. 
              Đấng Đại Bi, bậc Đạo Sư, 
              vị Lãnh Đạo đã thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài kéo lên những chúng 
              sanh (đang) bị đắm chìm trong đầm lầy ái dục. 
               
              
              776. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā 
              khattiyanandanā, 
              surūpā sadhanā cāsiṃ dayitā ca sirīmatī. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra ở tại Haṃsavatī, là niềm hoan hỷ của dòng Sát-đế-lỵ. Và tôi đã 
              có sắc đẹp tuyệt vời, có tài sản, được yêu quý, và có sự vẻ vang.
               
              
              777. Ānandassa mahārañño dhītā paramasobhanā,
              
              vemātu bhaginī cāpi padumuttaranāmino. 
              Là người con gái vô cùng 
              xinh đẹp của vị đại vương Ānanda, và cũng là người em gái khác mẹ 
              của vị (Phật) tên Padumuttara.
               
              
              778. Rājakaññāhi sahitā sabbābharaṇabhūsitā,
              
              upagamma mahāvīraṃ assosiṃ dhammadesanaṃ. 
              Được tháp tùng bởi các 
              người con gái của đức vua, được trang điểm với tất cả các đồ trang 
              sức, tôi đã đi đến đấng Đại Hùng và đã lắng nghe lời thuyết Pháp.
              
               
              
              779. Tadā hi so lokagaru bhikkhuniṃ 
              dibbacakkhukaṃ, 
              kittayaṃ parisāmajjhe aggaṭṭhāne ṭhapesi taṃ. 
              Chính vào khi ấy, bậc Thầy 
              của thế gian ấy ở giữa các chúng đã tán dương vị tỳ khưu ni có 
              thiên nhãn và đã thiết lập vị ni ấy vào vị thế tối thắng. 
              
               
              
              780. Suṇitvā tamahaṃ haṭṭhā dānaṃ datvāna 
              satthuno, 
              pūjetvāna ca sambuddhaṃ dibbacakkhuṃ apatthayiṃ. 
              
              Sau khi nghe điều ấy, được 
              mừng rỡ  tôi đã dâng vật thí đến bậc Đạo Sư. Và sau khi cúng 
              dường đến bậc Toàn Giác, tôi đã ước nguyện về thiên nhãn.
               
              
              781. Tato avoca maṃ satthā “nande lacchasi 
              patthitaṃ, 
              padīpadhammadānānaṃ phalametaṃ sunicchitaṃ. 
              Do đó, bậc Đạo Sư đã nói 
              với tôi rằng: “Này người thiếu nữ vui 
              vẻ, con sẽ đạt được điều đã ước nguyện. Điều đã khéo được mong 
              muốn này là quả báu của các việc cúng dường đèn và Giáo Pháp.
               
              
              782. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              783. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              sakulā nāma nāmena hessasi satthusāvikā.” 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ trở 
              thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp, 
              có tên là Sakulā.”
               
              
              784. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              785. Imamhi bhaddake kappe brahmabandhu 
              mahāyaso, 
              kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo. 
              Ở vào kiếp Bhadda này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của 
              đấng Phạm Thiên.
               
              
              786. Paribbājakinī āsiṃ tadā ’haṃ ekacārinī,
              
              bhikkhāya vicaritvāna alabhiṃ telamattakaṃ. 
              Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ 
              ngoại đạo có hạnh độc hành. Sau khi đi lang thang để khất thực tôi 
              đã nhận được một số lượng dầu thắp.
               
              
              787. Tena dīpaṃ padīpetvā upaṭṭhiṃ 
              sabbasaṃvariṃ, 
              cetiyaṃ dipadaggassa vippasannena cetasā. 
              Sau khi thắp sáng ngọn đèn 
              với số (dầu) đó, với tâm ý trong sạch tôi đã phục vụ ngôi bảo tháp 
              của đấng Tối Thượng Nhân trọn cả đêm.
               
              
              788. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              789. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa 
              vāhasā, 
              pajjalanti mahādīpā tattha tattha gatāya me. 
              Do tác động của nghiệp ấy, 
              ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, ở chính tại các nơi ấy có các ngọn 
              đèn lớn chiếu sáng khi tôi đi đến.
               
              
              790. Tirokuḍḍaṃ tiroselaṃ samatiggayha 
              pabbataṃ, 
              passām’ ahaṃ yadicchāmi dīpadānassidaṃ phalaṃ. 
              Nếu tôi muốn, tôi (có thể) 
              nhìn thấy ngọn núi sau khi đã vượt lên xuyên qua bức tường, xuyên 
              qua tảng đá; điều này là quả báu của việc cúng dường đèn. 
              
               
              
              791. Visuddhanayanā homi yasasā ca jalām’ ahaṃ,
              
              saddhāpaññāvatī ceva dīpadānassidaṃ phalaṃ. 
              Tôi có cặp mắt trong ngần, 
              và tôi chói sáng với danh vọng, lại còn có đức tin và trí tuệ nữa; 
              điều này là quả báu của việc cúng dường đèn. 
               
              
              792. Pacchime ca bhavedāni jātā vippakule ahaṃ,
              
              pahūtadhanadhaññamhi mudite rājapūjite. 
              Và trong kiếp sống cuối 
              cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình Bà-la-môn có nhiều 
              tài sản và lúa gạo, được hài lòng, được đức vua tôn trọng.
               
              
              793. Ahuṃ sabbaṅgasampannā sabbābharaṇabhūsitā,
              
              purappavese sugataṃ vātapāne ṭhitā ahaṃ. 
              Được phú cho toàn vẹn cơ 
              thể, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, đứng ở cửa sổ 
              tôi (đã nhìn thấy) đấng Thiện Thệ ở lối đi vào thành.  
              
               
              
              794. Disvā jalantaṃ yasasā devamānusasakkataṃ,
              
              anubyañjanasampannaṃ lakkhaṇehi vibhūsitaṃ. 
              Tôi đã nhìn thấy Ngài đang 
              chói sáng với danh vọng, được trọng vọng bởi chư thiên và nhân 
              loại, được hội đủ các tướng phụ, được điểm tô bằng những tướng 
              chính. 
               
              
              795. Udaggacittā sumanā pabbajjaṃ samarocayiṃ,
              
              na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ. 
              Với tâm phấn chấn, với 
              thiện ý, tôi đã xin xuất gia. Trong thời gian không bao lâu tôi đã 
              thành tựu phẩm vị A-la-hán. 
               
              
              796. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
              
              paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā. 
              Là người thực hành theo 
              lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về 
              thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác. 
               
              
              797. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              khepetvā āsave sabbe visuddhāsiṃ sunimmalā. 
              Tôi biết được đời sống 
              trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả 
              các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
              
               
              
              798. Pariciṇṇo mahā satthā kataṃ buddhassa 
              sāsanaṃ, 
              ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā. 
              Bậc Đạo Sư đã được tôi 
              phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng 
              nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
               
              
              799. Yassatthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
              
              so me attho anuppatto tibbasaṃyojanakkhayo. 
              Vì mục đích nào tôi đã rời 
              khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy 
              tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
              
               
              
              800. Tato mahākāruṇiko etadagge ṭhapesi maṃ,
              
              “Dibbacakkhukīnaṃ aggā sakulā”ti naruttamo. 
              Do đó, đấng Đại Bi, bậc 
              Tối Thượng Nhân đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng “Sakulā 
              là vị ni đứng đầu trong các vị ni có thiên nhãn.”
               
              
              801. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              802. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              803. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Sakulā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Sakulā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Sakulātheriyāpadānaṃ catutthaṃ.
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Sakulā là phần thứ tư.
              --ooOoo--
              
              25. 
              Nandājanapadakalyāṇī apadānaṃ
              25. Ký Sự về 
              Nandā - Mỹ Nhân của Xứ Sở:
               
              
              804. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
              
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              805. Ovādako viññāpako kārako sabbapāṇinaṃ, 
              desanākusalo buddho tāresi janataṃ bahuṃ. 
              Là vị giáo giới, vị làm 
              cho hiểu rõ, vị hành xử đối với tất cả chúng sanh, là thiện xảo 
              trong việc chỉ dạy, đức Phật đã giúp cho nhiều chúng sanh vượt 
              qua. 
               
              
              806. Anukampako kāruṇiko hitesī sabbapāṇinaṃ,
              
              sampatte titthiye sabbe pañcasīle patiṭṭhahi. 
              Là bậc Thương Tưởng, đấng 
              Bi Mẫn, vị Ẩn Sĩ hữu ích đối với tất cả chúng sanh, Ngài đã an trú 
              vào ngũ giới cho tất cả các ngoại đạo đã đi đến. 
               
              
              807. Evaṃ nirākulaṃ āsi suññakaṃ titthiyehi ca,
              
              vicittaṃ arahantehi vasībhūtehi tādihi. 
              Như thế, được tô điểm với 
              các vị A-la-hán có được năng lực như thế ấy, (thế gian) đã không 
              bị rối loạn và không có các ngoại đạo.
               
              
              808. Ratanānaṭṭhapaññāsaṃ uggato so mahāmuni,
              
              kañcanagghiyasaṅkāso battiṃsavaralakkhaṇo. 
              Bậc Đại Hiền Triết ấy có 
              ba mươi hai quý tướng, cao năm mươi tám 
              ratana (14.50 m) tợ như cây cột trụ bằng vàng. 
               
              
              809. Vassasatasahassāni āyu vijjati tāvade, 
              tāvatā tiṭṭhamāno so tāresi janataṃ bahuṃ. 
              Cho đến khi ấy, tuổi thọ 
              được biết là một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại như thế, Ngài đã 
              giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua. 
               
              
              810. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule 
              ahuṃ, 
              nānāratanapajjote mahāsukhasamappite. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô 
              số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.
               
              
              811. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ 
              dhammadesanaṃ, 
              amataṃ paramassādaṃ paramatthanivedakaṃ. 
              Tôi đã đi đến đấng Đại 
              Hùng ấy và đã lắng nghe lời thuyết giảng Giáo Pháp Bất Tử, có phẩm 
              vị tối thắng, làm rõ về chân lý tuyệt đối. 
               
              
              812. Tadā nimantayitvāna sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ,
              
              datvā tassa mahādānaṃ pasannā sehi pāṇihi. 
              Khi ấy, được tịnh tín tôi 
              đã thỉnh mời đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng và đã cúng 
              dường đại thí đến vị ấy bằng hai bàn tay của mình.
               
              
              813. Jhāyinīnaṃ bhikkhunīnaṃ aggaṭṭhānaṃ 
              apatthayiṃ, 
              nipacca sirasā vīraṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ. 
              Tôi đã quỳ xuống đê đầu 
              đến bậc Anh Hùng đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, tôi đã 
              ước nguyện vị thế tối thắng trong số các tỳ khưu ni chứng thiền.
               
              
              814. Tadā adantadamako tilokasaraṇo pabhū, 
              vyākāsi narasaddūlo lacchase taṃ supatthitaṃ. 
              Khi ấy, bậc Điều Phục 
              những ai chưa được điều phục, đấng Nương Nhờ của ba cõi, vị Chúa 
              Tể, bậc Nhân Báo đã chú nguyện rằng: “Con 
              sẽ đạt được điều đã khéo được ước nguyện ấy.
               
              
              815. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              816. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              nandāti nāma nāmena hessasi satthusāvikā.” 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ trở 
              thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp, 
              có tên là Nandā.”
               
              
              817. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā 
              jinaṃ, 
              mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ. 
              Nghe được điều ấy, tôi đã trở 
              nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến 
              Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
               
              
              818. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã 
              đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              819. Tato cutā yāmamagaṃ tato ’haṃ tusitaṃ 
              agaṃ, 
              tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato. 
              Từ nơi ấy chết đi, tôi đã 
              đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó 
              đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
               
              
              820. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa 
              vāhasā, 
              tattha tattheva rājānaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Do tác động của nghiệp ấy, 
              ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi 
              chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
               
              
              821. Tato cutā manussatte rājānaṃ 
              cakkavattīnaṃ, 
              maṇḍalīnañca rājānaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Từ nơi ấy chết đi (sanh) 
              vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của 
              các vị Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.
              
               
              
              822. Sampattiṃ anubhotvāna devesu manujesu ca,
              
              sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsariṃ. 
              Tôi đã thọ hưởng sự thành 
              đạt ở giữa chư thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các 
              nơi, và đã luân hồi qua nhiều (đại) kiếp.
               
              
              823. Pacchime bhave sampatte puramhi 
              kapilavhaye, 
              rañño suddhodanassāhaṃ dhītā āsiṃ aninditā. 
              Khi đạt đến kiếp sống cuối 
              cùng, tôi đã là người con gái hoàn hảo của đức vua Suddhodana tại 
              thành phố tên là Kapila. 
               
              
              824. Siriṃva rūpiniṃ disvā nanditaṃ āsi taṃ 
              kulaṃ, 
              tena nandāti me nāmaṃ sundaropapadaṃ ahū. 
              Nhìn thấy (tôi) có nét đẹp 
              vô cùng rạng rỡ, gia đình ấy đã trở nên vui vẻ; vì thế tôi có tên 
              là “Nandā” (vui vẻ). Tôi đã được 
              công nhận là xinh đẹp.
               
              
              825. Yuvatīnañca sabbāsaṃ kalyāṇīti ca vissutā,
              
              tasmimpi nagare ramme ṭhapetvā ca yasodharā. 
              Và cũng ở trong thành phố 
              đáng yêu ấy, tôi đã được nổi danh là “Mỹ 
              nhân” trong số tất cả các thiếu nữ ngoại trừ Yasodharā.
               
              
              826. Jeṭṭho bhātā tilokaggo pacchimo arahā 
              tathā, 
              ekākinī gahaṭṭhāhaṃ mātarā paricoditā. 
              Người anh trai đầu là đấng 
              Cao Cả của tam giới, cũng vậy người út là vị A-la-hán. Mỗi một 
              mình tôi là người tại gia, tôi đã bị mẹ quở trách rằng: 
              
               
              
              827. “Sākiyamhi kule jātā putte buddhānujā 
              tuvaṃ, 
              nandenapi vinā bhūtā agāre kinnu vacchasi? 
              “Này 
              con, được sanh trong gia tộc dòng Sakya (Thích Ca), con là em gái 
              của đức Phật. Con cũng không còn có Nanda nữa, việc gì con lại ở 
              tại gia?
               
              
              828. Jarāvasānaṃ yobbaññaṃ rūpaṃ asucisammataṃ,
              
              rogantampi ca ārogyaṃ jīvitaṃ maraṇantikaṃ. 
              
              Tuổi trẻ có sự già là nơi cư ngụ, xác thân được 
              xem là bất tịnh, vô bệnh cũng có bệnh là điểm cuối cùng, mạng sống 
              có sự chết là nơi chấm dứt.
               
              
              829. Idampi te subhaṃ rūpaṃ sasikantaṃ 
              manoharaṃ, 
              bhūsanānamalaṅkāraṃ sirisaṅghātasannibhaṃ. 
              
              Sắc thân này của con dầu là xinh đẹp, được yêu 
              dấu như là mặt trăng, quyến rũ, có sự trang điểm của những đồ 
              trang sức như là được gắn liền với sự rạng rỡ.
               
              
              830. Piṇḍitaṃ lokasāraṃva nayanānaṃ rasāyanaṃ,
              
              puññānaṃ kittijananaṃ okkākakulanandanaṃ. 
              
              (Sắc thân này của con) được gộp chung lại thuần 
              sự tinh túy của thế gian, là sự đem lại chất vị cho những con mắt, 
              là sự sản xuất ra danh thơm của các điều phước thiện, là niềm vui 
              của gia tộc Okkāka.
               
              
              831. Na cireneva kālena jarā samatibhossati,
              
              vihāya gehaṃ tāruññe cara dhammamanindite. 
              
              Vào thời gian chẳng bao lâu nữa, sự già sẽ ngự 
              trị. Này cô gái trẻ, hãy từ bỏ gia đình. Này cô gái hoàn hảo, hãy 
              thực hành Giáo Pháp.” 
               
              
              832. Sutvā ’haṃ mātuvacanaṃ pabbajiṃ 
              anagāriyaṃ, 
              dehena na tu cittena rūpayobbanalālitā. 
              Được vui thích với sắc đẹp 
              và tuổi trẻ, sau khi nghe lời nói của người mẹ, tôi đã xuất gia 
              vào cuộc sống không gia đình bằng thân chứ không phải bằng tâm.
               
              
              833. Mahatā ca 
              payattena jhānajjhenaparaṃ mamaṃ, 
              kātuṃ ca vadate mātā na cāhaṃ tattha ussukā. 
              Và với sự cố gắng lớn lao, 
              tôi đã suy tưởng về điều vô cùng trái ngược. Và (việc) người mẹ 
              bảo làm, tôi đã không năng nổ về việc ấy.
               
              
              834. Tato mahākāruṇiko disvā maṃ kāmalālasaṃ,
              
              nibbindanatthaṃ rūpasmiṃ mama cakkhupathe jino. 
              Do đó, bậc Đại Bi, đấng 
              Chiến Thắng, đã nhìn thấy tôi có lòng khao khát về các dục, và đối 
              với tôi ý nghĩa của sự nhàm chán về xác thân là qua lộ trình của 
              mắt.
               
              
              835. Sakena anubhāvena itthiṃ māpesi sobhaniṃ,
              
              dassanīyaṃ suruciraṃ mamatopi surūpiniṃ. 
              Bằng năng lực tự thân, 
              Ngài đã làm hiện ra người phụ nữ lộng lẫy, đáng nhìn, rất dễ 
              thương, vô cùng xinh đẹp hơn hẳn luôn cả tôi.
               
              
              836. Tamahaṃ vimhitā disvā ativimhitadehiniṃ,
              
              cintayiṃ saphalaṃ meti nettalābhañca mānusaṃ. 
              Sau khi nhìn thấy người nữ 
              có thân thể vô cùng kinh ngạc ấy, bị sửng sốt, và tôi đã suy nghĩ 
              về sự lợi ích thuộc về nhân gian đối với con mắt rằng: “Có 
              quả báu đến ta.”
               
              
              837. Tamahaṃ ehi subhage yenattho taṃ vadehi 
              me, 
              kulaṃ te nāmagottañca vada me yadi te piyaṃ. 
              
              Này cô em yêu dấu, hãy đến với tôi đây. Có cần 
              gì nàng hãy nói với tôi. Hãy nói với tôi về gia đình, tên, dòng họ 
              của nàng nếu nàng ưng ý.
               
              
              838. Na pañhakālo subhage ucchaṅge maṃ 
              nivesaya, 
              sīdantīva mamaṅgāni supasuppaya muhuttakaṃ. 
              
              Này cô em yêu dấu, không phải là lúc hỏi han. 
              Hãy cho tôi tựa vào lòng. Tay chân của tôi như là chìm xuống. Nàng 
              hãy ru tôi ngủ một chốc.”
               
              
              839. Tato sīsaṃ mamaṅke sā katvā sayi sulocanā,
              
              tassā nalāṭe patitā lūtā paramadāruṇā. 
              Sau đó, nàng có đôi mắt 
              xinh đẹp ấy đã kê đầu vào hông của tôi rồi đã thiếp đi. Có con 
              nhện vô cùng ghê rợn đã rơi xuống ở trán của nàng.
               
              
              840. Saha tassā nipātena piḷakā uppajjatha, 
              pagghariṃsu pabhinnā ca kuṇapā pubbalohitā. 
              Cùng với sự rơi xuống của 
              con nhện ấy, mụn nhọt đã nổi lên. Chúng đã rò rỉ, vỡ ra, và toàn 
              thân là mủ và máu. 
               
              
              841. Pabhinnaṃ vadanaṃ cāsi kuṇapaṃ 
              pūtigandhikaṃ, 
              uddhumātaṃ vinilañca vipubbañca sarīrakaṃ. 
              Và khuôn mặt đã bị nứt nẻ, 
              thi thể có mùi hôi thối. Toàn thân bị trương lên, đổi sang màu 
              tím, và thối rửa. 
               
              
              842. Sā pavedhitasabbaṅgī nissasantī muhuṃ 
              muhuṃ, 
              vedayantī sakaṃ dukkhaṃ karuṇaṃ paridevayī. 
              Nàng ấy, có toàn thể các 
              bộ phận bị run rẩy, chốc chốc lại bị hụt hơi, trong khi cảm nhận 
              sự khổ đau của mình, đã than vãn một cách thê lương rằng: 
              
               
              
              843. “Dukkhena dukkhitā homi phusayanti ca 
              vedanā, 
              mahādukkhe nimuggāmhi saraṇaṃ hohi me sakhī.” 
              “Tôi 
              bị khổ sở vì nỗi đau đớn, và các cảm thọ được chạm đến, tôi bị đắm 
              chìm trong nỗi khổ đau lớn lao. Này cô bạn gái, bạn hãy là nơi 
              nương nhờ của tôi.”
               
              
              844. “Kuhiṃ vadanasobhā te kuhiṃ te 
              tuṅganāsikā, 
              tambabimbavaroṭṭhaṃ te vadanaṃ te kuhiṃ gataṃ. 
              “Vẻ 
              đẹp ở khuôn mặt của cô đâu rồi? Lỗ mũi cao của cô đâu rồi? Làn môi 
              màu đỏ của trái cây bimba tuyệt hảo của cô, khuôn mặt của cô đã đi 
              đâu rồi? 
               
              
              845. Kuhiṃ sasinibhaṃ vattaṃ kambugīvā kuhiṃ 
              gatā, 
              doḷālālā ca te kaṇṇā vevaṇṇaṃ samupāgatā. 
              
              Gương mặt tợ như mặt trăng đâu rồi? Chiếc cổ ba 
              ngần đã đi đâu rồi? Và các lỗ tai run rẩy lung linh của cô đã đi 
              đến tình trạng thay đổi rồi.
              
               
              
              846. Makuḷamburuhākārā kalasāva payodharā, 
              pabhinnā pūtikuṇapā duggandhittamāgatā. 
              
              Bộ ngực có hình dáng đóa hoa sen còn dạng chồi 
              tợ như bầu nước đã trở thành thi thể hôi thối, bị phân rã, có mùi 
              khó chịu. 
               
              
              847. Tanumajjhā puthussoṇi sūnā vaṇitakibbisā,
              
              jātā amejjhabharitā aho rūpaṃ asassataṃ. 
              
              Eo thon, mông đầy đặn, bị sưng lên, có sự lở 
              lói và độc hại, trở thành nơi chứa đầy vật không trong sạch; ôi 
              xác thân là không vĩnh viễn! 
               
              
              848. Sabbaṃ sarīrasañjātaṃ pūtigandhaṃ 
              bhayānakaṃ, 
              susānamiva bībhacchaṃ ramante yattha bālisā.” 
              
              Toàn bộ nguồn gốc của thân thể là có mùi hôi 
              thối, có sự hãi sợ, như là bãi tha ma kinh hoàng, lại là nơi mà 
              những kẻ ngu hứng thú!”
               
              
              849. Tadā mahākāruṇiko bhātā me lokanāyako, 
              disvā saṃviggacittaṃ maṃ imā gāthā abhāsatha. 
              Khi ấy, sau khi nhìn thấy 
              tôi có tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, người 
              anh trai của tôi, đã nói lên những lời kệ này :
               
              
              850. “Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ passa nande 
              samussayaṃ, 
              asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ susamāhitaṃ. 
              “Này 
              Nandā, hãy nhìn thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối. Em hãy tu 
              tập tâm về đề mục bất mỹ (tử thi) trở thành chuyên nhất, khéo được 
              tập trung.
               
              
              851. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā 
              idaṃ, 
              duggandhaṃ pūtikaṃ vāpi bālānaṃ abhinanditaṃ. 
              
              Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác 
              kia như thế nào thì thân này như vậy, có mùi khó chịu hoặc hôi 
              thối lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
               
              
              852. Evametaṃ avekkhantī rattindivamatanditā,
              
              tato satāya paññāya abhinibbijja dakkhasi.” 
              
              Trong khi xem xét xác thân này như thế ngày và 
              đêm không mệt mỏi, từ đó với niệm với tuệ sau khi đã nhàm chán thì 
              em sẽ nhìn thấy.”
               
              
              853. Tato ’haṃ atisaṃviggā sutvā gāthā 
              subhāsitā, 
              tatraṭṭhitā vipassantī arahattamapāpuṇiṃ. 
              Do đó, sau khi nghe được 
              các lời kệ khéo thuyết, tôi đã bị vô cùng chấn động. Đứng tại chỗ 
              ấy, trong lúc quán sát tôi đã đạt được quả vị A-la-hán. 
              
               
              
              854. Yattha yattha nisinnāhaṃ sadā 
              jhānaparāyanā, 
              jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi maṃ. 
              Ngồi xuống ở bất cứ nơi 
              nào, tôi luôn luôn có mục đích chính là thiền. Hoan hỷ về đức hạnh 
              ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.
               
              
              855. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              856. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              857. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Nandā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Nandā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Nandātheriyāpadānaṃ pañcamaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Nandā là phần thứ năm.
              --ooOoo--
              
              26. Soṇāpadānaṃ
              
              26. Ký Sự về 
              Soṇā:
               
              
              858. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
              
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              859. Tadā seṭṭhikule jātā sukhitā pūjitā piyā,
              
              upetvā taṃ munivaraṃ assosiṃ madhuraṃ vacaṃ. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra trong gia đình triệu phú, được hạnh phúc, được tôn vinh, yêu 
              quý. Tôi đã đi đến bậc Hiền Triết cao quý ấy và đã lắng nghe lời 
              nói ngọt ngào.
               
              
              860. Āraddhaviriyānaggaṃ vaṇṇesi bhikkhuniṃ 
              jino, 
              taṃ sutvā muditā hutvā kāraṃ katvāna satthuno. 
              Đấng Chiến Thắng đã tán 
              dương vị tỳ khưu ni là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức 
              tinh tấn. Sau khi nghe được điều ấy, trở nên hoan hỷ, tôi đã thể 
              hiện sự thành kính đến bậc Đạo Sư.
               
              
              861. Abhivādiya sambuddhaṃ taṃ ṭhānaṃ patthayiṃ 
              tadā, 
              anumodi mahāvīro “sijjhataṃ paṇidhī tava. 
              Khi ấy, tôi đã đảnh lễ bậc 
              Toàn Giác và đã ước nguyện vị thế ấy. Đấng Đại Hùng đã nói lời tùy 
              hỷ rằng: “Ước nguyện của con sẽ được 
              thành tựu.
               
              
              862. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              863. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              soṇāti nāma nāmena hessasi satthusāvikā.” 
              
              (Người nữ này) sẽ trở thành nữ thinh văn của 
              bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh 
              thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Soṇā.”
               
              
              864. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā 
              jinaṃ, 
              mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ. 
              Nghe được điều ấy, tôi đã trở 
              nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến 
              Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
               
              
              865. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              866. Pacchime ca bhavedāni jātā saṭṭhikule 
              ahaṃ, 
              sāvatthiyaṃ puravare iddhe phīte mahaddhane. 
              Và trong kiếp sống cuối 
              cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc, 
              thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.
               
              
              867. Yadā ca yobbanappattā gantvā patikulaṃ 
              ahaṃ, 
              dasaputtāni ajaniṃ surūpāni visesato. 
              Và khi đã đạt đến tuổi 
              trưởng thành, tôi đã đi đến nhà người chồng và đã sanh ra mười 
              người con trai, hết thảy đều có vóc dáng hoàn hảo.
              
              868. Sukhedhitā ca te sabbe jananettamanoharā,
              
              amittānampi te rucitā mamaṃ pageva te piyā. 
              Và tất cả bọn chúng đều
              được nuôi dưỡng trong sung sướng, có sự 
              quyến rũ ánh mắt của mọi người. Ngay cả đối với những kẻ nghịch 
              thù, chúng cũng được ưa thích. Chúng được yêu mến còn hơn cả tôi 
              nữa.
               
              
              869. Tato mayhaṃ akāmāya dasaputtapurakkhato,
              
              pabbajittha sa me bhattā devadevassa sāsane. 
              Sau đó, với sự không mong 
              muốn của tôi, người chồng ấy của tôi được khích lệ bởi mười người 
              con trai đã xuất gia trong Giáo Pháp của vị Chúa chư Thiên.
               
              
              870. Tadekikā vicintesiṃ jīvitenālamatthu me,
              
              cattāya patiputtehi vuḍḍhāya ca varākiyā. 
              Khi ấy, còn mỗi một mình 
              tôi đã suy xét rằng: “Đã đủ cho cuộc 
              sống của ta là người bị chồng và những người con trai bỏ rơi, lại 
              già cả, và thảm thương.
               
              
              871. Ahampi tattha gacchissaṃ sampatto yattha 
              me patī,” 
              evāhaṃ cintayitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ. 
              
              Ta cũng sẽ đi đến nơi nào mà người chồng của ta 
              đã đạt đến.” Sau khi suy xét như 
              thế, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.
               
              
              872. Tato ca maṃ bhikkhuniyo evaṃ 
              bhikkhunupassaye, 
              vihāya gacchumovādaṃ “tāpehi udakaṃ” iti. 
              Và sau đó, các vị tỳ khưu 
              ni đã để tôi ở lại tu viện của các tỳ khưu ni như thế rồi đã đi 
              (nghe) giáo giới (bảo rằng): “Bà hãy 
              đun nóng nước.” 
               
              
              873. Tadā udakamāhitvā okiritvāna kumbhiyā, 
              cullyaṃ ṭhapetvā āsīnā tato cittaṃ samādahiṃ. 
              Khi ấy, tôi đã đem nước 
              lại đổ vào trong nồi, sau đó đặt ở bếp lửa, rồi đã ngồi xuống. Do 
              đó tâm đã được định tĩnh.
               
              
              874. Khandhe aniccato disvā dukkhato ca 
              anattato, 
              chetvāna āsave sabbe arahattamapāpuṇiṃ. 
              Sau khi nhìn thấy các uẩn 
              là vô thường, là khổ não, và là vô ngã, tôi đã cắt đứt tất cả các 
              lậu hoặc và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. 
               
              
              875. Tadā ’gantvā bhikkhuniyo 
              uṇhodakamapucchisuṃ, 
              tejodhātuṃ adhiṭthāya khippaṃ santāpayiṃ jalaṃ. 
              Khi ấy, các vị tỳ khưu ni 
              sau khi quay lại đã hỏi về nước nóng. Sau khi chú nguyện vào bản 
              thể của lửa, tôi đã đun nóng nước một cách mau chóng. 
               
              
              876. Vimhitā tā jinavaraṃ etamatthamasāvayuṃ,
              
              taṃ sutvā mudito nātho imaṃ gāthaṃ abhāsatha: 
              Ngạc nhiên, các vị ni ấy 
              đã trình lại sự việc này đến đấng Chiến Thắng cao quý. Sau khi 
              nghe điều ấy, được hoan hỷ, đấng Bảo Hộ đã nói lên lời kệ này:
              
               
              
              877. Yo ce vassasataṃ jīve kusīto hīnavīriyo,
              
              ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo viriyamārabhato daḷhaṃ.” 
              “Và 
              người nào đã sống trăm năm, lười biếng, có sự tinh tấn thấp thỏi, 
              cuộc sống một ngày là tốt hơn đối với người đang ra sức tinh tấn 
              một cách bền bĩ.”[4]
               
              
              878. Ārādhito mahāvīro mama suppaṭipattiyā, 
              āraddhaviriyānaggaṃ mamāha sa mahāmuni. 
              Được hài lòng với sự thực 
              hành tốt đẹp của tôi, đấng Đại Hùng, bậc Đại Hiền Triết ấy đã nói 
              tôi là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn. 
              
               
              
              879. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              880. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              881. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Soṇā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Soṇā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Soṇātheriyāpadānaṃ chaṭṭhaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Soṇā là phần thứ sáu.
              --ooOoo--
              
              27. 
              Bhaddākāpilāni-apadānaṃ
              27. Ký Sự về 
              Bhaddākāpilānī:
               
              
              882. Padumuttaro nāma jino sabbadhammesu 
              pāragū, 
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              883. Tadāhu haṃsavatiyaṃ videho nāma nāmato,
              
              seṭṭhi pahūtaratano tassa jāyā ahos’ ahaṃ. 
              Khi ấy, ở tại Haṃsavatī có 
              người triệu phú tên là Videha có rất nhiều châu báu. Tôi đã là vợ 
              của người ấy. 
               
              
              884. Kadāci so narādiccaṃ upecca saparijjano,
              
              dhammamassosi buddhassa sabbadukkhakkhayāvahaṃ. 
              Có lần nọ, người ấy cùng 
              nhóm tùy tùng đã đi đến đấng Mặt Trời của nhân loại và đã lắng 
              nghe Giáo Pháp đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau của đức Phật.
               
              
              885. Sāvakaṃ dhutavādānaṃ aggaṃ kittesi nāyako,
              
              sutvā sattāhikaṃ dānaṃ datvā buddhassa tādino. 
              Đấng Lãnh Đạo đã ngợi khen 
              vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị thuyết về sự giũ bỏ (pháp 
              đầu-đà). Sau khi lắng nghe, chồng tôi đã cúng dường vật thí đến 
              đức Phật như thế ấy trong bảy ngày.
               
              
              886. Nipacca sirasā pāde taṃ ṭhānaṃ 
              abhipatthayi, 
              sa hāsayanto parisaṃ tadā hi narapuṅgavo. 
              Chồng tôi trong khi làm 
              hội chúng vui vẻ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã ước nguyện 
              vị thế ấy. Chính vào khi ấy, đấng Cao Quý của loài người ...
               
              
              887. Seṭṭhino anukampāya imā gāthā abhāsatha:
              
              “Lacchase patthitaṃ ṭhānaṃ nibbuto hohi puttaka. 
              
              ... vì lòng thương tưởng 
              đến người triệu phú, đã nói những lời kệ này: “Này 
              con trai, ngươi sẽ đạt được vị thế đã ước nguyện rồi ngươi hãy 
              Niết Bàn.
               
              
              888. Satasahasse  ito kappe 
              okkākakulasambhavo, 
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              889. Tassa dhammesu dāyādo oraso dhammanimmito,
              
              kassapo nāma nāmena hessasi satthusāvako.” 
              
              (Người 
              nam này) sẽ trở thành nam thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp, 
              có tên là Kassapa.”
               
              
              890. Taṃ sutvā mudito hutvā yāvajīvaṃ tadā 
              jinaṃ, 
              mettacitto paricari paccayehi vināyakaṃ. 
              Nghe được điều ấy, chồng tôi 
              đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái chồng tôi đã chăm sóc 
              đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc 
              đời.
               
              
              891. Sāsanaṃ jotayitvāna madditvā ca 
              kutitthiye, 
              veneyye vinayitvā ca nibbuto so sasāvako. 
              Vị (Phật) ấy đã làm chói 
              sáng Giáo Pháp, đã chế phục các ngoại đạo, đã hướng dẫn những ai 
              đáng được hướng dẫn, rồi đã Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn. 
              
               
              
              892. Nibbute tamhi lokagge pūjanatthāya 
              satthuno, 
              ñātimitte samānetvā saha tehi akārayi. 
              Khi đấng Cao Cả của thế 
              gian ấy đã Niết Bàn, nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư chồng 
              tôi đã tập hợp các bạn bè thân quyến rồi cùng với những người ấy 
              đã cho xây dựng ...  
               
              
              893. Sattayojanikaṃ thūpaṃ ubbiddhaṃ 
              ratanāmayaṃ, 
              jalantaṃ sataraṃsīva sālarājaṃva phullitaṃ. 
              ... ngôi bảo tháp làm bằng 
              châu báu cao bảy do-tuần, chói sáng như là trăm ánh hào quang, 
              được mở rộng ra như là hoa Sālā 
              chúa.
               
              
              894. Sattasatasahassāni pātiyo tattha kārayi,
              
              naḷaggi viya jotantī rataneheva sattahi. 
              Tại nơi ấy, chồng tôi đã 
              cho thực hiện bảy trăm ngàn chiếc đĩa nhỏ bằng chính bảy loại châu 
              báu, chúng đang chói sáng như là ngọn lửa của cây sậy. 
               
              
              895. Gandhatelena pūretvā dīpānujjālayi tahiṃ,
              
              pūjatthāya mahesissa sabbabhūtānukampino. 
              Chồng tôi đã cho đổ đầy 
              với dầu thơm rồi đã cho thắp sáng các ngọn đèn tại nơi ấy nhằm mục 
              đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Bi Mẫn của mọi sanh linh.
              
               
              
              896. Satta satasahassāni puṇṇakumbhāni kārayi,
              
              rataneheva puṇṇāni pūjatthāya mahesino. 
              Chồng tôi đã cho thực hiện 
              bảy trăm ngàn chậu đầy đặn được chứa đầy với thuần các loại châu 
              báu nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ.
               
              
              897. Majjhe aṭṭhaṭṭhakumbhīnaṃ ussitā 
              kañcanagghiyā, 
              atirocanti vaṇṇena saradeva divākaro. 
              Ở giữa của mỗi nhóm tám 
              chậu là những vật giá trị như vàng được chất đống. Chúng sáng rực 
              với màu sắc tợ như ánh mặt trời vào mùa thu
               
              
              898. Catudvāresu sobhanti toraṇā ratanāmayā,
              
              ussitā phalakā rammā sobhanti ratanāmayā. 
              Chiếu sáng ở bốn cửa là 
              các vòm cổng làm bằng châu báu. Chiếu sang là những tấm ván xinh 
              xắn làm bằng châu báu được dựng đứng. 
               
              
              899. Virocanti parikkhittā avataṃsā sunimmitā,
              
              ussitāni paṭākāni ratanāni virocare. 
              Chói sáng là các lẳng hoa 
              khéo tạo ra được đặt vòng quanh. Chói sáng là các cờ xí bằng châu 
              báu được dựng đứng.
               
              
              900. Surattaṃ sukataṃ cetaṃ cetiyaṃ 
              ratanāmayaṃ, 
              atirocati vaṇṇena sasañjhova divākaro. 
              Và ngôi bảo điện làm bằng 
              ngọc quý này khéo được tô màu, khéo được thực hiện, sáng rực với 
              màu sắc tợ như mặt trời vào lúc hoàng hôn. 
               
              
              901. Thūpassa vediyo tisso haritālena pūrayi,
              
              ekaṃ manosilāyekaṃ añjanena ca ekikaṃ. 
              Ngôi bảo tháp có ba bệ 
              thờ. Chồng tôi đã chất đầy một bệ với đá màu vàng, một bệ với đá 
              màu đỏ, một bệ với đá màu đen. 
               
              
              902. Pūjametādisaṃ rammaṃ kāretvā varavādino,
              
              adāsi dānaṃ saṅghassa yāvajīvaṃ yathābalaṃ. 
              Sau khi đã cho thực hiện 
              việc cúng dường đáng yêu như thế ấy đến bậc Thuyết Giảng cao quý, 
              chồng tôi đã dâng vật thí đến hội chúng tùy theo năng lực cho đến 
              hết cuộc đời. 
               
              
              903. Sahāhaṃ seṭṭhinā tena tāni puññāni 
              sabbaso, 
              yāvajīvaṃ karitvāna sahāva sugatiṃ gatā. 
              Sau khi đã cùng với người 
              triệu phú ấy thực hiện toàn bộ những việc phước báu ấy cho đến hết 
              cuộc đời, tôi đã đi đến cõi an vui cùng với chính người ấy.
               
              
              904. Sampattiyonubhotvāna devatte atha mānuse,
              
              chāyā viya sarīrena saha teneva saṃsariṃ. 
              Sau khi đã thọ hưởng sự thành 
              công ở bản thể chư thiên rồi nhân loại, tôi đã luân hồi 
              cùng với chính người ấy 
              như là hình bóng với xác thân vậy.
               
              
              905. Ekanavute ito kappe vipassī nāma nāyako,
              
              uppajji cārunayano sabbadhammavipassako. 
              Trước đây chín mươi mốt 
              kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, vị có ánh mắt thu hút, vị 
              thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi
               
              
              906. Tadā ’yaṃ bandhumatiyaṃ brāhmaṇo 
              sādhusammato, 
              aḍḍho satthāgamen’ āsi dhanena ca suduggato. 
              Khi ấy ở tại Bandhumatī, 
              người này là vị Bà-la-môn được xem là thánh thiện, giàu có
              nhờ vào sự đạt được kiến thức, và đã bị lâm 
              vào cảnh vô cùng khó khăn về tài sản.
               
              
              907. Tadāpi tass’ ahaṃ āsiṃ brahmaṇī 
              samacetasā, 
              kadāci so dijavaro saṃgamesi mahāmuniṃ. 
              Cũng vào khi ấy, với tâm ý 
              tương đồng tôi đã là nữ Bà-la-môn của người ấy. Có lần, người 
              Bà-la-môn cao quý ấy đã đi đến bậc Đại Hiền Triết. 
               
              
              908. Nisinnaṃ janakāyasmiṃ desentaṃ amataṃ 
              padaṃ, 
              sutvā dhammaṃ pamudito adāsi ekasāṭakaṃ. 
              (Đức Phật) ngồi ở đám 
              người đang thuyết giảng về đạo lộ Bất Tử. Sau khi nghe Pháp, được 
              hoan hỷ người ấy đã cúng dường một tấm vải choàng.
               
              
              909. Gharamekena vatthenāganvānetaṃ mamabravi,
              
              anumoda mahāpuññe dinnaṃ buddhassa sāṭakaṃ. 
              Quay về lại nhà với một 
              mảnh vải, người ấy đã nói với tôi điều này: “Nàng 
              hãy tùy hỷ việc phước lớn lao; tấm vải choàng đã được dâng đến đức 
              Phật.”
               
              
              910. Tadā ’haṃ añjaliṃ katvā anumodiṃ supīṇitā,
              
              sudinno sāṭako sāmi buddhaseṭṭhassa tādino. 
              Khi ấy, hài lòng xiết bao 
              tôi đã chắp tay lên nói lời tùy hỷ rằng: “Phu 
              quân à, tấm vải choàng là đã khéo được dâng đến đức Phật tối 
              thượng như thế ấy.”
               
              
              911. Sukhito sajjito hutvā saṃsaranto 
              bhavābhāvo, 
              bārāṇasipure ramme rājā āsi mahīpati. 
              Được an vui, trở nên gắn 
              bó, trong khi luân hồi cõi này cõi khác, người ấy đã trở thành đức 
              vua, vị chủ tể trái đất ở thành phố Bārāṇasī đáng yêu.
               
              
              912. Tadā tassa mahesīhaṃ itthigumbassa uttamā,
              
              tassātidayitā āsiṃ pubbasnehena bhattuno. 
              Khi ấy, 
              tôi trở thành chánh hậu 
              của người ấy, là tối cao trong đám nữ nhân. Tôi đã được cảm tình 
              rất mực của người ấy do sự yêu mến trước đây của chồng. 
              
               
              
              913. Piṇḍāya vicarante so aṭṭha paccekanāyake,
              
              disvā pamudito hutvā datvā piṇḍaṃ mahārahaṃ. 
              Sau khi nhìn thấy tám vị 
              Lãnh Đạo Độc Giác đang đi quanh để khất thực, vị ấy đã trở nên 
              hoan hỷ và đã dâng thức ăn vô cùng giá trị. 
               
              
              914. Puno nimantayitvāna katvā ratanamaṇḍapaṃ,
              
              kammārehi kataṃ chattaṃ sovaṇṇaṃ satahatthakaṃ. 
              Sau khi thỉnh mời lần nữa, 
              vị ấy đã thực hiện mái che bằng châu báu. Lọng che bằng vàng 
              (rộng) trăm cánh tay đã được những người thợ rèn kiến thiết.
              
               
              
              915. Samānetvāna te sabbe tesaṃ dānamadāsi so,
              
              soṇṇāsanopaviṭṭhānaṃ pasanno sehi pāṇihi. 
              Sau khi đã hướng dẫn tất 
              cả các ngài ấy tiến vào các chỗ ngồi bằng vàng, được tịnh tín vị 
              ấy đã dâng cúng vật thí đến các ngài ấy bằng hai bàn tay của mình.
              
               
              
              916. Tampi dānaṃ sah’ ādāsiṃ kāsirājen’ ahaṃ 
              tadā, 
              punāhaṃ bārāṇasiyaṃ ajāyiṃ dvāragāmake. 
              Khi ấy, tôi cũng đã dâng 
              cúng vật thí ấy cùng với đức vua xứ Kāsi. Tôi đã được sanh ra ở 
              Bārāṇasī lần nữa, tại ngôi làng nhỏ ngoại thành.
               
              
              917. Kuṭumbikakule phīte sukhito so sabhātuko,
              
              jeṭṭhassa bhātuno jāyā ahosiṃ supatibbatā. 
              (Sanh ra) ở trong gia đình 
              giàu có thịnh vượng, người ấy được an lạc, có em trai. Tôi đã là 
              người vợ vô cùng chung thủy của người anh cả.
               
              
              918. Paccekabuddhaṃ disvāna mama 
              bhattukanīyasī, 
              bhāgannaṃ tassa datvāna āgate tamhi pāvadi. 
              Sau khi nhìn thấy vị Phật 
              Độc Giác, người em gái của chồng tôi đã dâng phần cơm đến vị ấy, 
              rồi khi chồng tôi đi đến đã thuật lại. 
               
              
              919. Nābhinandittha so dānaṃ tato tassa adās’ 
              ahaṃ, 
              ūkhā āniya taṃ annaṃ puno tasseva so adā. 
              Chồng tôi không hoan hỷ 
              với việc cúng dường. Do đó, tôi đã lấy lại phần cơm ấy từ bình bát 
              rồi đã trao cho chồng. Chồng tôi đã cúng dường (phần cơm ấy) một 
              lần nữa đến chính vị Phật ấy. 
               
              
              920. Tadannaṃ chaḍḍhayitvāna duṭṭhā buddhass’ 
              ahaṃ tadā, 
              pattaṃ kalalapuṇṇaṃ taṃ adāsiṃ tassa tādino. 
              Khi ấy, tôi đã quăng bỏ đi 
              phần cơm ấy và đã độc ác đối với đức Phật. Tôi đã dâng bình bát ấy 
              chứa đầy bùn đến vị Phật như thế ấy.
               
              
              921. Dāne ca gahaṇe ceva amejjhe padume yathā,
              samacittamukhaṃ disvā tadāhaṃ saṃvijiṃ bhusaṃ. 
              Về vật cho cũng như việc 
              nhận giống như là vật không trong sạch và đóa hoa sen, khi ấy tôi 
              đã nhìn khuôn mặt có tâm bình thản và đã vô cùng chấn động.
               
              
              922. Puno pattaṃ gahetvāna sodhayitvā 
              sugandhinā, 
              pasannacittā pūretvā saghataṃ sakkharaṃ adaṃ. 
              Sau khi nhận lại bình bát, 
              tôi đã làm sạch bằng chất thơm, rồi với tâm tịnh tín, tôi đã chứa 
              đầy với bơ lỏng và đã dâng lên một cách cung kính.
               
              
              923. Yattha yatthūpapajjāmi surūpā homi dānato,
              
              buddhassa apakārena duggandhā vadanena ca. 
              Ở bất cứ nơi đâu tôi được 
              sanh ra, tôi đều có sắc xinh đẹp do sự bố thí và có mùi hôi do lời 
              nói và do thái độ không phải phép đối với đức Phật. 
               
              
              924. Puna kassapavīrassa niṭṭhāyantamhi cetiye,
              
              sovaṇṇa-iṭṭhakavaraṃ adāsiṃ muditā ahaṃ. 
              Lần khác, khi ngôi bảo 
              điện của đấng Chiến Thắng Kassapa đang được hoàn tất, được hoan hỷ 
              tôi đã cúng dường phiến ngói cao quý bằng vàng. 
               
              
              925. Catujjātena gandhena nicayitvā 
              tamiṭṭhakaṃ, 
              muttā duggandhadosamhā sabbaṅgasusamāgatā. 
              Tôi đã tẩm phiến ngói ấy 
              bằng hương thơm sanh lên từ bốn nguồn. Tôi đã được thoát khỏi 
              khuyết điểm về mùi hôi thối và đã được thành tựu tốt đẹp về toàn 
              bộ các phần thân thể.
               
              
              926. Sattapātisahassāni rataneheva sattahi, 
              kāretvā ghatapūrāni vaṭṭiyo ca sahassaso. 
              (Chồng tôi) đã cho thực 
              hiện bảy ngàn cái đĩa bằng chính bảy loại châu báu chứa đầy bơ 
              lỏng và hàng ngàn tim đèn.
               
              
              927. Pakkhipitvā padīpetvā ṭhapayī 
              sattapantiyo, 
              pūjatthaṃ lokanāthassa vippasannena cetasā. 
              Với tâm ý thanh tịnh, sau 
              khi đã đặt (tim đèn) vào và thắp sáng, vị ấy đã xếp thành bảy hàng 
              nhằm mục đích cúng dường đến bậc Lãnh Đạo Thế Gian.
               
              
              928. Tadāpi tamhi puññamhi bhāginī ’haṃ 
              visesato, 
              puna kāsisu sañjāto sumitto iti vissuto. 
              Khi ấy, tôi cũng có phần 
              đóng góp đặc biệt trong việc phước thiện ấy. Vị ấy đã được sanh ra 
              ở xứ Kāsi lần nữa, được nổi danh là Sumitta. 
               
              
              929. Tassāhaṃ bhariyā āsiṃ sukhitā sajjitā 
              piyā, 
              tadāpi paccekamunino adāsi ghanaveṭhanaṃ. 
              Tôi đã là vợ của người ấy, 
              được an vui, được gắn bó, được yêu quý. Khi ấy, người ấy cũng đã 
              dâng đến vị Hiền Triết Độc Giác tấm vải choàng bền chắc. 
              
               
              
              930. Tassāpi bhāginī āsiṃ moditvā dānamuttamaṃ,
              
              punāpi kāsiraṭṭhamhi jāto koliyajātiyā. 
              Tôi đã hoan hỷ về việc bố 
              thí tối thượng và cũng đã có phần trong việc ấy. Vị ấy cũng đã 
              sanh ra lần nữa trong quốc độ Kāsi thuộc dòng dõi Koliya. 
              
               
              
              931. Tadā koliyaputtānaṃ satehi saha pañcahi,
              
              pañca paccekabuddhānaṃ satāni samupaṭṭhahi. 
              Khi ấy, cùng với năm trăm 
              người con trai dòng Koliya, vị ấy đã hộ độ năm trăm vị Phật Độc 
              Giác. 
               
              
              932. Temāsaṃ tappayitvāna adāsi ca ticīvaraṃ,
              
              jāyā tassa tadā āsiṃ puññakammapathānugā. 
              Và sau khi đã làm hài lòng 
              (chư Phật Độc Giác) trong ba tháng, vị ấy đã dâng ba y. Khi ấy, đi 
              theo lộ trình của nghiệp phước thiện tôi đã là vợ của vị ấy.
               
              
              933. Tato cuto ahu rājā nando nāma mahāyaso,
              
              tassāpi mahesī āsiṃ sabbakāmasamiddhinī. 
              Từ nơi ấy chết đi, vị ấy 
              đã trở thành vị vua tên là Nanda có danh tiếng vĩ đại. Tôi cũng đã 
              trở thành chánh hậu của vị ấy, có sự thành 
              tựu về tất cả các điều dục lạc. 
               
              
              934. Tadā ca so bhavitvāna brahmadatto 
              mahīpati, 
              padumavatīputtānaṃ paccekamuninaṃ tadā. 
              Và khi ấy, vị ấy đã trở 
              thành vị chúa tể Brahmadatta. Khi ấy, đối với các bậc Hiền Triết 
              Độc Giác con trai của bà Padumavatī, ...
               
              
              935. Satāni pañc’ anūnāni yāvajīvaṃ upaṭṭhahi,
              
              rājuyyāne nivāsetvā nibbutāni ca pūjayi. 
              ... vị ấy đã hộ độ năm 
              trăm vị không thiếu vị nào cho đến hết cuộc đời. Chư Phật Độc Giác 
              đã cư ngụ tại vườn hoa của đức vua rồi đã Niết Bàn, và vị ấy đã 
              tôn vinh.  
               
              
              936. Cetiyāni ca kāretvā pabbajitvā ubho mayaṃ,
              
              bhāvetvā appamaññāyo brahmalokaṃ aggamhase. 
              Và sau khi cho xây dựng 
              các ngôi bảo điện, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Sau khi tu tập 
              các vô lượng (tâm), chúng tôi đã đi đến cõi Phạm Thiên.
               
              
              937. Tato cuto mahātitthe sujāto pipphalāyano,
              
              mātā sumanadevīti kosiyagotto dijo pitā. 
              Từ nơi ấy chết đi, người 
              ấy đã được sanh ra tại Mahātittha là Pipphalāyana. 
              Mẹ là Sumanadevī, cha là người Bà-la-môn dòng tộc Kosiya. 
              
               
              
              938. Ahaṃ maddajanapade sāgalāyaṃ puruttame,
              
              kapilassa dijass’ āsiṃ dhītā mātā sucīmatī. 
              Tôi đã là người con gái 
              của vị Bà-la-môn Kapila, mẹ là Sucīmatī, tại kinh thành Sāgalā 
              trong xứ sở Madda. 
               
              
              939. Ghanakañcanabimbena nimmiṇitvāna maṃ pitā,
              
              adā kassapadhīrassa kāmāsāvajjitassa maṃ. 
              Sau khi tạo ra tôi với 
              hình tượng bằng vàng khối, người cha đã gã tôi cho bậc trí Kassapa 
              là người đã kiêng cử các dục.
               
              
              940. Kadāci so kāruṇiko gantvā 
              kammantapekkhanaṃ, 
              kākādikehi khajjante pāṇe disvāna saṃviji. 
              Vào lúc nọ, vị có lòng bi 
              mẫn ấy đã đi xem xét công việc làm. Sau khi nhìn thấy các sinh vật 
              bị những loài như là quạ, v.v... ăn thịt, vị ấy đã bị chấn động.
              
               
              
              941. Ghare cāhaṃ tile jāte disvānātapatāpane,
              
              kimi kākehi khajjante saṃvegamalabhiṃ tadā. 
              Và tôi ở nhà, sau khi nhìn 
              thấy những cây mè mọc lên trong sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời 
              và loài sâu bọ bị các con quạ ăn thịt, khi ấy tôi đã có sự động 
              tâm. 
               
              
              942. Tadā so pabbajī dhīro ahaṃ tamanupabbajiṃ,
              
              pañca vassāni nivasiṃ paribbājavate ahaṃ. 
              Khi ấy, con người sáng 
              suốt ấy đã xuất gia. Tôi đã xuất gia theo vị ấy. Tôi đã sống theo 
              hạnh du sĩ ngoại đạo trong năm năm.
               
              
              943. Yadā pabbajitā āsi gotamī jinaposikā, 
              tadā ’haṃ tamupāgantvā buddhena anusāsitā. 
              Đến khi bà Gotamī người 
              nuôi dưỡng đấng Chiến Thắng đã được xuất gia, khi ấy tôi đã đi 
              theo bà ấy và đã được chỉ dạy bởi đức Phật. 
               
              
              944. Na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ, 
              aho kalyāṇamittattaṃ kassapassa sirīmato. 
              Trong thời gian không bao 
              lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Ôi, tính chất bạn hữu tốt 
              lành đối với vị Kassapa vinh quang! 
               
              
              945. Suto buddhassa dāyādo kassapo susamāhito,
              
              pubbe nivāsaṃ yo vedi saggāpāyañca passati. 
              Kassapa là con trai, là 
              người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, nhìn thấy được 
              cõi trời và địa ngục, và là vị đã biết được đời sống trước đây.
               
              
              946. Atho jātikkhayaṃ patto abhiññāvosito muni,
              
              etāhi tīhi vijjāhi tevijjo hoti brāhmaṇo. 
              Rồi (vị ấy) đã đạt đến sự 
              diệt tận của sự sanh, là vị hiền triết được hoàn hảo về thắng trí, 
              với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có tam minh. 
              
               
              
              947. Tatheva bhaddā kāpilānī tevijjā 
              maccuhāyinī, 
              dhāreti antimaṃ dehaṃ jetvā māraṃ savāhiniṃ. 
              Tương tợ như thế ấy, 
              Bhaddā Kāpilānī là vị ni có tam minh, có sự dứt bỏ Tử Thần, mang 
              thân mạng cuối cùng sau khi đã chiến thắng Ma Vương cùng với đạo 
              quân binh. 
               
              
              948. Disvā ādīnavaṃ loke ubho pabbajitā mayaṃ,
              
              tyamhā khīṇāsavā dantā sītibhūtāmha nibbutā. 
              Sau khi nhìn thấy điều tai 
              hại ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các 
              lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái 
              mát mẻ, Niết Bàn. 
               
              
              949. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              950. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              951. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Bhaddākāpilānī bhikkhunī imā 
              gāthāyo abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Bhaddākāpilānī 
              đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Bhaddākāpilānitheriyāpadānaṃ sattamaṃ. 
               
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Bhaddākāpilānī là phần thứ bảy.
              --ooOoo--
              
              28. 
              Yasodharāpadānaṃ 
              28. Ký Sự về 
              Yasodharā:
                
              
              952. Ekasmiṃ samaye ramme iddhe rājagahe pure,
              
              pabbhāramhi varekasmiṃ vasante naranāyake. 
              Vào một thuở nọ, đấng Lãnh 
              Đạo nhân loại đang ngự tại một sườn núi cao quý ở thành Rājagaha 
              đáng yêu, trù phú.[5]
              
               
              
              953. Vasantiyā tamhi nagare ramme 
              bhikkhunupassaye, 
              yasodharābhikkhuniyā evaṃ āsi vitakkitaṃ: 
              Khi đang cư ngụ ở trong 
              thành phố ấy tại trú xứ đáng yêu của các tỳ khưu ni, đã có suy 
              nghĩ như vầy khởi đến vị tỳ khưu ni Yasodharā rằng: 
               
              
              954. “Nando rāhulabhaddo ca sāvakaggā tatheva 
              ca, 
              suddhodano mahārājā gotamī ca pajāpatī. 
              “Nanda, 
              Rāhula hiền thiện, và tương tợ y như thế (hai) vị tối thượng Thinh 
              Văn, đại vương Suddhodana, và bà Gotamī Pajāpatī, ...
               
              
              955. Abhiññātā ca mahātherā theriyo ca 
              mahiddhikā, 
              santiṃ gatāva āsuṃ te dīpaccīva nirāsavā. 
              ...
              các vị đại trưởng lão đã đạt thắng trí, 
              và các trưởng lão ni có đại thần lực, các vị ấy đã ngự đến nơi an 
              tịnh không còn lậu hoặc như là tim của cây đèn hết nhiên liệu.
               
              
              956. Lokanāthe dharanteva ahampi ca sivaṃ 
              padaṃ, 
              gamissāmī’ti cintetvā passantī āyumattano. 
              
              Và luôn cả ta nữa cũng sẽ đi đến vị thế an toàn 
              ngay trong khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian còn hiện tiền.” 
              Trong khi xem xét tuổi thọ của mình, vị ni đã suy nghĩ như thế.
               
              
              957. Passitvā āyusaṅkhāraṃ tadaheva khayaṃ 
              gataṃ, 
              pattacīvaramādāya nikkhamitvā sakassamā. 
              Sau khi xem xét thọ hành 
              sẽ đi đến sự hoại diệt trong chính ngày hôm ấy, vị ni đã cầm lấy 
              bình bát và y rồi rời khỏi chốn tịnh cư của mình.
               
              
              958. Purakkhatā bhikkhunīhi satehi sahassehi 
              sā, 
              mahiddhikā mahāpaññā sambuddhaṃ upasaṅkami. 
              Vị ni có đại thần lực có 
              đại trí tuệ ấy đã dẫn đầu một trăm ngàn tỳ khưu ni đi đến bậc Toàn 
              Giác.
               
              
              959. Sambuddhaṃ abhivādetvā satthuno 
              cakkalakkhino, 
              nisinnā ekamantamhi idaṃ vacanamabravi: 
              Sau khi đảnh lễ bậc Toàn 
              Giác, vị ni ấy đã ngồi xuống ở một bên và đã nói lời nói này với 
              bậc Đạo Sư là vị có dấu hiệu bánh xe: 
               
              
              960. “Aṭṭhasattativassā ’haṃ pacchimo vattate 
              vayo, 
              pabbhāraṃ hi anuppattā ārocemi mahāmune. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hiền Triết, con đã bảy mươi tám tuổi. Giai đoạn cuối cùng 
              của tuổi tác đang tiến đến. Con đã đạt đến ngay ở sườn dốc, con 
              xin thưa rõ.
               
              
              961. Paripakko vayo mayhaṃ parittaṃ mama 
              jīvitaṃ, 
              pahāya vo gamissāmi kataṃ me saraṇamattano. 
              
              Sự tiêu hoại của con đã chín muồi, mạng sống 
              của con còn chút ít. Rời bỏ Ngài, con sẽ ra đi. Sự nương nhờ của 
              bản thân đã được con thực hiện.
               
              
              962. Vayaṃ hi 
              pacchime kāle maraṇaṃ uparundhati, 
              ajja rattiṃ mahāvīra pāpuṇissāmi nibbutiṃ. 
              
              Bởi vì ở thời điểm cuối cùng sự tiêu hoại dừng 
              lại là sự chết. Bạch đấng Đại Hùng, hôm nay vào ban đêm con sẽ 
              thành tựu Niết Bàn.” 
               
              
              963. Natthi jāti jarā vyādhi maraṇañca yahiṃ 
              mune, 
              tattha gacchām’ ahaṃ vīra gato yattha na dissati. 
              
              
              Bạch đấng Hiền Triết, (Niết Bàn) là nơi không 
              có sự sanh, sự già, sự bệnh và sự chết. Bạch đấng Anh Hùng, nơi 
              nào đã đi đến là không còn được nhìn thấy thì con đi đến nơi ấy.
              
               
              
              964. Yāvatā parisā ettha samupāsanti satthuno,
              
              aparādhaṃ pajānanti khamantaṃ sammukhā mune. 
              
              Bạch đấng Hiền Triết, cho đến nhóm người của 
              bậc Đạo Sư ngồi chung ở nơi đây (nếu) nhận biết lỗi lầm (nào của 
              tôi), xin quý vị hãy tha thứ ở trước mặt.
              
               
              
              965. Saṃsaritvā ca saṃsāre khalitaṃ ce mamaṃ 
              tayi, 
              ārocemi mahāvīra aparādhaṃ khamassu me. 
              
              Và sau khi đã xoay vần trong vòng luân hồi, nếu 
              có điều sai trái của con đối với Ngài, bạch đấng Đại Hùng con xin 
              thưa rõ, xin Ngày hãy tha thứ lỗi lầm cho con.”
              
               
              
              966. Sutvāna tassā vacanaṃ munindo idamabravi,
              
              kimuttaraṃ te vakkhāmi nibbānāya vajantiyā. 
              Sau khi lắng nghe lời nói 
              của vị ni ấy, đấng Hiền Triết Vương đã nói điều này: “Ta 
              sẽ nói điều gì hơn về nàng là người đang đi đến Niết Bàn?
              
               
              
              967. Iddhiṃ cāpi nidassehi mama sāsanakārike,
              
              parisānañca sabbāsaṃ kaṅkhaṃ chindassu sāsane. 
              
              Và nàng cũng nên thị hiện thần thông cho các vị 
              hành theo Giáo Pháp của Ta được thấy. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ 
              về Giáo Pháp cho tất cả các chúng.”
               
              
              968. Sutvā taṃ munino vācaṃ bhikkhunī sā 
              yasodharā, 
              vanditvā munirājaṃ taṃ idaṃ vacanamabravi: 
              Sau khi lắng nghe lời nói 
              của bậc Hiền Triết ấy, vị tỳ khưu ni Yasodharā ấy đã đảnh lễ đấng 
              Hiền Triết Vương ấy và đã nói lời nói này: 
               
              
              969. “Yasodharā ahaṃ vīra agāre te pajāpati.
              
              sākiyamhi kule jātā itthīyaṅge patiṭṭhitā. 
              “Bạch 
              đấng Anh Hùng, con là Yasodharā, ở tại gia là người vợ của Ngài. 
              Được sanh ra trong gia tộc Sakya, con đã duy trì phận sự của người 
              nữ.
               
              
              970. Thīnaṃ satasahassānaṃ navutīnaṃ 
              chaḷuttari, 
              agāre te ahaṃ vīra pāmokkhā sabba-issarā. 
              
              Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi 
              sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, con là người đứng đầu, là người 
              chủ quản tất cả. 
               
              
              971. Rūpācāraguṇūpetā yobbanaṭṭhā piyaṃvadā,
              
              sabbā maṃ apacāyanti devatā viya mānusā. 
              
              Là người có được sắc đẹp, tánh tình, và đức 
              hạnh, ở vào tuổi trẻ, có lời nói đáng yêu, tất cả chư thiên cũng 
              như loài người đều quý trọng con.
              
               
              
              972. Kaññāsahassappamukhā sakyaputtanivesane,
              
              samānasukhadukkhā tā devatā viya nandane. 
              
              Con đứng đầu một ngàn thiếu nữ ở trong cung của 
              người con trai dòng Sakya. Các cô ấy cùng vui buồn giống nhau tợ 
              như chư thiên ở (vườn hoa) Nandana.
               
              
              973. Kāmadhātumatikkantā saṇṭhitā rūpadhātuyā,
              
              rūpena sadisā natthi ṭhapetvā lokanāyakaṃ.” 
              
              Con đã vượt lên trên lãnh vực dục tình, được 
              khẳng định về mặt thể hình, không có người tương đương về sắc đẹp 
              ngoại trừ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.”
              
               
              
              974. Evamādīni vatvāna uppatitvāna ambaraṃ, 
              iddhi anekā dassesi buddhānuññā yasodharā. 
              Sau khi đã nói như thế, 
              v.v... Yasodharā, với sự cho phép của đức Phật, đã bay lên không 
              trung và đã thị hiện vô số thần thông. 
               
              
              975. Cakkavāḷasamaṃ kāyaṃ sīsaṃ uttarato kuru,
              
              ubho pakkhā duve dīpā jambudīpo sarīrato. 
              (Yasodharā đã thị hiện) cơ 
              thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, 
              hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu,[6] 
              ...
               
              
              976. Dakkhiṇañca saraṃ piñjaṃ nānāsākhā tu 
              pattakā, 
              cando ca suriyo akkhi merupabbatato sikhā. 
              ... và đuôi công là cái hồ 
              ở phía nam nhưng các cánh chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng 
              và mặt trời là mắt, núi Meru là chóp đỉnh, ...
               
              
              977. Cakkavāḷagiri tuṇḍaṃ jamburukkhaṃ 
              samūlakaṃ, 
              vījamānā upāgantvā vandate lokanāyakaṃ. 
              ...ngọn núi của bầu vũ trụ 
              là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây 
              quạt), vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian. 
              
               
              
              978. Hatthivaṇṇaṃ tathev’ assaṃ pabbataṃ 
              jaladhiṃ tathā, 
              candimaṃ suriyaṃ meruṃ sakkavaṇṇañca dassayi. 
              Tương tợ y như thế, vị ni 
              đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi 
              mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.
               
              
              979. “Yasodharā ahaṃ vīra pāde vandāmi 
              cakkhuma,” 
              sahassaṃ lokadhātūnaṃ phullapadmena chādayi. 
              “Bạch 
              đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn 
              chân (Ngài). Con đã che khuất một ngàn thế giới bằng đóa sen nở rộ.”
              
               
              
              980. Brahmavaṇṇañca māpetvā dhammaṃ desesi 
              suññataṃ, 
              “Yasodharā ahaṃ vīra pāde vandāmi cakkhuma. 
              Và sau khi hóa hiện ra vóc 
              dáng của đấng Brahma, vị ni đã thuyết giảng Giáo Pháp về không 
              tánh. “Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng 
              Hữu Nhãn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). 
              
               
              
              981. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
              
              cetopariyañāṇassa vasī homi mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã có năng lực về 
              các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí 
              biết tâm của người khác.
               
              
              982. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo. 
              
              Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn 
              được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây 
              không còn tái sanh nữa. 
              
               
              
              983. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
              
              ñāṇaṃ mayhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về 
              pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được 
              thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
              
               
              
              984. Buddhānaṃ lokanāthānaṃ saṅgamaṃ te 
              sudassitaṃ, 
              adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya mahāmune. 
              
              Sự hội tụ của chư Phật là các đấng Lãnh Đạo Thế 
              Gian đã được Ngài nhìn thấy rõ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, có nhiều 
              hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              985. Yaṃ mayhaṃ purimaṃ kammaṃ kusalaṃ sarase 
              mune, 
              tuyhatthāya mahāvīra puññaṃ upacitaṃ mayā. 
              
              Bạch đấng Hiền Triết, xin Ngài nhớ lại thiện 
              nghiệp trước đây của con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được 
              con tích lũy là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              986. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā vārayitvā anācaraṃ,
              
              tuyhatthāya mahāvīra sañcattaṃ jīvitaṃ mayā. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những 
              nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống 
              đã được con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              987. Nekakoṭisahassānaṃ bhariyatthāya ’dāsi 
              maṃ, 
              na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con 
              nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi[7]
              lần. Con không có bất bình về điều ấy 
              là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              988. Nekakoṭisahassānaṃ upakārāya ’dāsi maṃ,
              
              na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con vì 
              sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về 
              điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              989. Nekakoṭisahassānaṃ bhojanatthāya ’dāsi 
              maṃ, 
              na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con 
              nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con 
              không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              990. Nekakoṭisahassāni jīvitāni pariccajiṃ, 
              bhayamokkhaṃ karissaṃ ti cajāmi mama jīvitaṃ. 
              
              Con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Con từ 
              bỏ mạng sống của con (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thực hiện sự giải thoát 
              khỏi nỗi sợ hãi.’
               
              
              991. Aṅgagate alaṅkāre vatthe nānāvidhe bahū,                         
              
              
              itthimaṇḍe na gūhāmi tuyhatthāya mahāmuni.
              
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, con không cất giấu 
              các đồ trang sức được dùng cho cơ thể, nhiều vải vóc các loại, các 
              vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              992. Dhanadhaññapariccāgaṃ gāmāni nigamāni ca,
              
              khettā puttā ca dhītā ca pariccattā mahāmune. 
              
              Con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các làng, và 
              các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, các ruộng vườn, những người 
              con trai, và con gái là đã được dứt bỏ.
               
              
              993. Hatthī assā gavā cāpi dāsiyo paricārikā,
              
              tuyhatthāya mahāvīra pariccattā asaṅkhiyā. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những 
              con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ 
              là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              994. Yaṃ mayhaṃ paṭimantesi dānaṃ dassāmi 
              yācake, 
              vimanaṃ me na passāmi dadato dānamuttamaṃ. 
              
              Về việc Ngài bảo con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí 
              đến người hành khất,’ con không nhìn thấy sự bất bình của con 
              trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.
               
              
              995. Nānāvidhaṃ bahuṃ dukkhaṃ saṃsāre ca 
              bahubbidhe, 
              tuyhatthāya mahāvīra anubhuttaṃ asaṅkhiyaṃ. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng,con đã trải qua nhiều khổ 
              đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi trong nhiều 
              hình thức là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              996. Sukhappattā na modāmi na ca dukkhesu 
              dummanā, 
              sabbattha tulitā homi tuyhatthāya mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, đạt được sung sướng 
              con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau, 
              con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              997. Anumaggena sambuddho yaṃ dhammaṃ 
              abhinīhari, 
              anubhutvā sukhaṃ dukkhaṃ patto bodhiṃ mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, theo con đường bậc 
              Toàn Giác đã phát nguyện về pháp (giải thoát), Ngài đã trải qua 
              lạc khổ và đã đạt đến sự giác ngộ.
               
              
              998. 
              Brahmadevañca sambuddhaṃ gotamaṃ lokanāyakaṃ, 
              aññesaṃ lokanāthānaṃ saṅgamā te bahū mayā. 
              
              Bạch vị trời Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng 
              Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, đối với các đấng Hộ Trì Thế Gian khác, 
              Ngài với con đã có nhiều lần gặp gỡ.
               
              
              999. Adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya 
              mahāmune, 
              gavesato buddhadhamme ahaṃ te paricārikā. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều hành động hướng 
              thượng của con là nhằm mục đích về Ngài. Con là nữ tỳ của Ngài 
              trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.”
               
              
              1000. Kappe satasahasse ca caturo ca asaṅkhiye,
              
              dīpaṅkaro mahāvīro uppajji lokanāyako. 
              Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và 
              một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian 
              Dīpaṅkara đã hiện khởi.
               
              
              1001. Paccantadesavisaye nimantetvā tathāgataṃ,
              
              tassa āgamanaṃ maggaṃ sodhenti tuṭṭhamānasā. 
              Sau khi đã thỉnh mời đức 
              Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường 
              đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.
               
              
              1002. Tena kālena so āsi sumedho nāma brāhmaṇo,
              
              maggañca paṭiyādesi āyato sabbadassino. 
              Vào thời điểm ấy, vị ấy đã 
              là người Bà-la-môn tên Sumedha và đã sửa soạn con đường của đấng 
              Toàn Tri đang đi đến.
               
              
              1003. Tena kālen’ ahaṃ āsiṃ kaññā 
              brāhmaṇasambhavā, 
              sumittā nāma nāmena upagañchiṃ samāgamaṃ. 
              Vào thời điểm ấy, con đã 
              là người thiếu nữ xuất thân Bà-la-môn tên Sumittā. Con đã đi đến 
              cuộc tụ hội.
               
              
              1004. Aṭṭha uppalahatthāni pūjanatthāya 
              satthuno, 
              ādāya janasammejjha addasaṃ isimuggataṃ. 
              Con đã cầm tám nắm hoa sen 
              nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư. Con đã nhìn thấy vị ẩn sĩ 
              được nổi bậc ở giữa đám người.
               
              
              1005. Cīrānupari āsīnaṃ atikantaṃ manoharaṃ,
              
              disvā tadā amaññissaṃ “Saphalaṃ jīvitaṃ mama.” 
              Sau khi nhìn thấy con 
              người đang ngồi khoác áo vỏ cây vô cùng đáng yêu, quyến rũ đang 
              ngồi, khi ấy con đã nghĩ rằng: ‘Mạng 
              sống của ta là có kết quả.’
               
              
              1006. Parakkamaṃ taṃ saphalaṃ addasaṃ isino 
              tadā, 
              pubbakammena sambuddhe cittañcāpi pasīdi me. 
              Khi ấy, con đã nhìn thấy 
              sự nỗ lực ấy của vị ẩn sĩ có được kết quả. Do nghiệp quá khứ, tâm 
              của con cũng đã tịnh tín vào đấng Toàn Giác.
               
              
              1007. Bhiyyo cittaṃ pasādesiṃ ise uggatamānase,
              
              deyyaṃ aññaṃ na passāmi demi pupphāni te ise. 
              Con đã có tâm tịnh tín hơn 
              nữa đối với vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng. (Con đã nói rằng): 
              ‘Này vị ẩn sĩ, tôi không nhìn thấy vật nào khác nên được cúng 
              dường, tôi cho ông các đóa hoa.
               
              
              1008. Pañca hatthā tava hontu tayo hontu mamaṃ 
              ise, 
              tena siddhi samā hotu bodhatthāya tavaṃ ise.
              
              Này vị ẩn sĩ, hãy là của ông năm nắm, hãy là 
              của tôi ba nắm. Này vị ẩn sĩ, như thế sự thành tựu hãy là bằng 
              nhau đối với mục đích giác ngộ của Ngài.’
               Bhāṇavāraṃ catutthaṃ.
              
              Tụng Phẩm thứ tư.
              
              1009. Isi gahetvā pupphāni āgacchantaṃ 
              mahāyasaṃ, 
              pūjesi janasammajjhe bodhatthāya mahā-isiṃ. 
              Sau khi cầm lấy các đóa 
              hoa, vị ẩn sĩ nhằm mục đích giác ngộ, ở giữa đám người, đã cúng 
              dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ có danh tiếng vĩ đại đang đi đến.
               
              
              1010. Passitvā janasammajjhe dīpaṅkaro 
              mahāmuni, 
              viyākāsi mahāvīro isiṃ uggatamānasaṃ.
              Bậc Đại Hiền Triết 
              Dīpaṅkara, đấng Đại Hùng đã nhìn thấy ở giữa đám người và đã chú 
              nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng rằng:
               
              
              1011. Samacittā samakammā samakārī bhavissati,
              
              piyā hessati kammena tuyhatthāya mahā-ise. 
              ‘Này 
              vị đại ẩn sĩ, (người nữ này) sẽ có tâm tương đương, có nghiệp 
              tương đương, có hành động tương đương, sẽ trở thành người vợ do 
              nghiệp báu đối với mục đích của ngươi.’
               
              
              1012. Sudassanā suppiyā ca manāpā piyavādinī,
              
              tassa dhammesu dāyādā piyā hessati itthikā. 
              
              (Người nữ này) có dáng nhìn xinh đẹp, vô cùng 
              đáng yêu, vui vẻ, có lời nói đáng mến, sẽ trở thành người vợ yêu 
              quý, người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy.
              
               
              
              1013. Yathāpi bhaṇḍasāmuggaṃ anurakkhanti 
              sāmino, 
              evaṃ kusaladhammānaṃ anurakkhissate ayaṃ. 
              
              Cũng giống như các người chủ gìn giữ cái rương 
              của cải, người nữ này sẽ hộ trì như thế ấy đối với các thiện pháp.
               
              
              1014. Tassa te anukampantī pūrayissati pāramī,
              
              sīhova pañjaraṃ bhetvā pāpuṇissati bodhiyaṃ. 
              
              Trong khi thương tưởng đến ngươi đây, (người nữ 
              này) sẽ làm tròn đủ các pháp toàn hảo, sẽ đạt được quả vị giác ngộ 
              tương tợ như con sư tử phá vỡ cái chuồng.’
               
              
              1015. Aparimeyye ito kappe yaṃ maṃ buddho 
              viyākari, 
              taṃ vācaṃ anumodantī evaṃkārī bhaviṃ ahaṃ. 
              Ấy là điều đức Phật đã chú 
              nguyện cho con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói 
              ấy, con đã là người có hành động như vậy.
               
              
              1016. Tassa kammassa sukatassa tattha cittaṃ 
              pasādayiṃ, 
              devamānusakaṃ yoniṃ upapajja asaṅkhiyaṃ. 
              Tại nơi ấy, con đã có tâm 
              tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy. Con đã 
              sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.
              
               
              
              1017. Anubhotvā sukhaṃ dukkhaṃ devesu mānusesu 
              ca, 
              pacchime bhave sampatte ajāyiṃ sākiye kule. 
              Con đã trải qua lạc khổ ở 
              các cõi trời và ở loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con 
              đã sanh ra trong gia tộc Sakya.
               
              
              1018. Rūpavatī bhogavatī yasasīlavatī tathā,
              
              sabbaṅgasampadā homi kusalesu atisakkatā. 
              Con có sắc đẹp, có của 
              cải, có danh vọng và giới hạnh tương tợ như thế. Con có sự thành 
              tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng về các điều lành.
               
              
              1019. Lābhaṃ silokaṃ sakkāraṃ 
              lokadhammasamāgamaṃ, 
              cittañca dukkhitaṃ natthi vasāmi akutobhayā.
              Lợi lộc, danh vọng, cung 
              kính, sự tổng hợp các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không 
              có, con sống không sợ hãi.[8]
              
               
              
              1020. Nibbinditvāna saṃsāre pabbajiṃ 
              anagāriyaṃ, 
              sahassaparivārena pabbajitvā akiñcanā. 
              Con đã nhàm chán các sự 
              luôn hồi và đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Sau khi xuất 
              gia cùng với một ngàn người hầu cận, con không có gì.
               
              
              1021. Agāraṃ vijahitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ,
              
              addhamāse asampatte catusaccaṃ apāpuṇiṃ. 
              Sau khi từ bỏ gia đình, 
              con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt đến nửa 
              tháng, con đã đạt được bốn Sự Thật.
               
              
              1022. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ 
              sayanāsanaṃ, 
              upanentī bahū neke sāgarasseva ūmiyo. 
              Nhiều người, không phải 
              một, đem lại y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như 
              các làn sóng của biển cả.
               
              
              1023. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của con đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              1024. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, con đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              1025. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Con đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; con đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              1026. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampatti ca 
              bahubbidhā, 
              visuddhabhāvaṃ sampattā labhāmi sabbasampadā. 
              Như vậy là có khổ đau đa 
              dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh 
              tịnh, con nhận lãnh mọi sự thành tựu.
               
              
              1027. Sā dadāti sakattānaṃ puññatthāya 
              mahesino, 
              sahāyasampadā honti nibbānapadamasaṅkhataṃ. 
              Nàng ấy bố thí chính bản 
              thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ. Họ có sự thành 
              tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.
               
              
              1028. Parikkhīṇaṃ atītaṃ ca paccuppannaṃ 
              anāgataṃ, 
              sabbaṃ kammaṃ mamaṃ khīṇaṃ pāde vandāmi cakkhuma. 
              
              “Quá 
              khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của con 
              đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn chân 
              (Ngài).”
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Yasodharā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Yasodharā đã 
              nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Yasodharātheriyāpadānaṃ aṭṭhamaṃ.
              
              Ký sự về trưởng lão ni Yasodharā là phần thứ tám.
               
              --ooOoo--
              
              29. 
              Dasabhikkhunīsahassāpadānaṃ 
              29. Ký Sự về 
              10.000 vị Tỳ Khưu Ni:
               
              
              1029. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye,
              
              dīpaṅkaro nāma jino uppajji lokanāyako. 
              Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và 
              một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng, vị Lãnh Đạo Thế Gian tên là 
              Dīpaṅkara đã hiện khởi.
               
              
              1030. Dīpaṅkaro mahāvīro viyākāsi vināyako, 
              sumedhaṃ ca sumittaṃ ca samānasukhadukkhataṃ. 
              Đấng Đại Hùng, bậc Hướng 
              Đạo Dīpaṅkara đã chú nguyện Sumedha và Sumittā là có trạng thái an 
              lạc và khổ đau giống như nhau.
               
              
              1031. Sadevakaṃ 
              ca passantā vicarantā sadevakaṃ, 
              tesaṃ pakittane amhe upagamma samāgamaṃ. 
              Trong lúc cùng với chư 
              thiên nhìn thấy và trong lúc đi đó đây cùng với chư thiên, chúng 
              con đã đi đến nơi tụ hội vào dịp tuyên dương của hai người ấy.
              
               
              
              1032. Amhaṃ sabbapati hohi anāgatasamāgame, 
              sabbāva tuyhaṃ bhariyā manāpā piyavādikā. 
              “Trong 
              lần tụ hội ở ngày vị lai, xin ngài hãy là chồng của tất cả chúng 
              tôi. Hết thảy tất cả sẽ là những người vợ vui vẻ, có lời nói đáng 
              yêu của ngài.”
               
              
              1033. Dānasīlamayaṃ sabbaṃ bhāvanā ca 
              subhāvitā, 
              dīgharattaṃ ca no sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hiền Triết, tất cả chúng con có bố thí với trì giới, và 
              tham thiền đã khéo được tu tập. Và tất cả đã được chúng con buông 
              bỏ từ lâu. 
               
              
              1034. Gandhaṃ vilepanaṃ mālaṃ dīpaṃ ca 
              ratanāmayaṃ, 
              yaṃ kiñci patthitaṃ sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune. 
              
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, bất cứ điều gì đã 
              được ao ước (như là) hương thơm, vật thoa, tràng hoa, đèn, vật làm 
              bằng châu báu, tất cả đều được buông bỏ.
              
               
              
              1035. Aññaṃ cāpi kataṃ kammaṃ paribhogaṃ ca 
              mānusaṃ, 
              dīgharattaṃ hi no sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, và luôn cả nghiệp nào 
              khác đã được thực hiện cũng như sự thụ hưởng thuộc về nhân loại, 
              tất cả đã được chúng con buông bỏ lâu lắm rồi.”
               
              
              1036. Anekajātisaṃsāraṃ bahuṃ puññaṃ hi no 
              kataṃ, 
              issaramanubhotvāna saṃsaritvā bhavābhave. 
              Trong khi luân hồi nhiều 
              kiếp sống, chúng con đã làm được nhiều phước báu. Chúng con đã thọ 
              hưởng quyền thế và đã luân hồi cõi này cõi khác.
               
              
              1037. Pacchimabhave sampatte 
              sakyaputtanivesane, 
              nānākulūpapannāyo accharā kāmavaṇṇinī. 
              Khi đạt đến kiếp sống cuối 
              cùng ở trong cung của người con trai dòng Sakya, chúng con đã được 
              sanh ra trong nhiều gia tộc khác nhau, là những mỹ nhân có ái dục 
              và sắc đẹp.
               
              
              1038. Lābhaggena yasaṃ pattā pūjitā 
              sabbasakkatā, 
              lābhiyo annapānānaṃ sadā sammānitā mayaṃ. 
              Chúng con đã đạt đến danh 
              vọng cùng với lợi lộc tột cùng, được tôn vinh, được tất cả tôn 
              trọng, luôn luôn được cung cấp các lợi lộc về cơm ăn nước uống.
               
              
              1039. Agāraṃ pajahitvāna pabbajitvānagāriyaṃ,
              
              aḍḍhamāse asampatte sabbā pattāmha nibbutiṃ. 
              Sau khi từ bỏ gia đình, 
              chúng con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt 
              đến nửa tháng, tất cả chúng con đã đạt đến Niết Bàn.
               
              
              1040. Lābhiyo annapānānaṃ vatthasenāsanāni ca,
              
              upenti paccayā sabbe sadā sakkatapūjitā. 
              Nhiều người đem lại mọi 
              thứ lợi lộc về cơm ăn nước uống, y phục và chỗ nằm ngồi. Chúng con 
              luôn luôn được tôn kính cúng dường.
               
              
              1041. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā. 
              Các phiền não của chúng 
              con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi 
              cắt đứt sự trói buộc như là những con voi cái (đã được cởi trói), 
              chúng con sống không còn lậu hoặc. 
               
              
              1042. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, chúng con đã 
              thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của 
              đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              1043. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Chúng con đã đắc chứng bốn 
              (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã 
              thực hành lời dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Yasodharāpamukhāni 
              dasabhikkhunīsahassāni bhagavato sammukhā imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Mười ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu 
              là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như 
              thế ấy.
               
              
              Dasabhikkhunīsahassāpadānaṃ navamaṃ.
              
              Ký sự về mười ngàn vị 
              tỳ khưu ni là phần thứ chín.
              --ooOoo--
              
              30. 
              Aṭṭhārasabhikkhunīsahassāpadānaṃ 
              30. Ký Sự về 
              18.000 vị Tỳ Khưu Ni:
               
              
              1044. Aṭṭhārasasahassāni bhikkhunī 
              sakyasambhavā, 
              yasodharāpamukhāni sambuddhaṃ upasaṅkamuṃ. 
              Mười tám ngàn vị tỳ khưu 
              ni xuất thân dòng Sakya đứng đầu là Yasodharā đã đi đến đấng Toàn 
              Giác. 
               
              
              1045. Aṭṭhārasasahassāni sabbā honti 
              mahiddhikā, 
              vandantī munino pāde ārocenti yathābalaṃ. 
              Tất cả mười tám vị ni đều 
              có đại thần lực. Trong khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Hiền Triết, 
              các vị trình rõ đúng theo năng lực.
               
              
              1046. Jāti khīṇā jarā vyādhi maranaṃ ca 
              mahāmuni, 
              anāsavaṃ padaṃ santaṃ amataṃ yāma nāyaka. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hiền Triết, sự sanh, sự già, sự bệnh, và sự chết đã được 
              cạn kiệt. Bạch đấng Lãnh Đạo, chúng con đã đi đến vị thế an tịnh, 
              bất tử, không còn lậu hoặc.
               
              
              1047. Khalitaṃ ce pure atthi sabbāsampi 
              mahāmuni, 
              aparādhamajānantī khama amhaṃ vināyaka. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, nếu có điều sai trái 
              gì trước đây của tất cả chúng con vì không biết là lỗi lầm, bạch 
              đấng Hướng Đạo xin Ngài hãy tha thứ cho chúng con.”
              
               
              
              1048. “Iddhiṃ cāpi nidassetha mama 
              sāsanakārikā, 
              parisānaṃ ca sabbāsaṃ kaṅkhaṃ chindatha yāvatā.” 
              
              “Là 
              những người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, các nàng cũng nên thị 
              hiện thần thông. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ đã có cho tất cả các 
              chúng.”
               
              
              1049. Yasodharī mahāvīra manāpā piyadassanā,
              
              sabbā tuyhaṃ mahāvīra agārasmiṃ pajāpatī. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hùng, là những vị ni danh tiếng, vui vẻ, có dáng vóc đáng 
              yêu, bạch đấng Đại Hùng, tất cả là vợ của Ngài lúc còn tại gia.
              
               
              
              1050. Thīnaṃ satasahassānaṃ navutīnaṃ 
              chaḷuttari, 
              agāre te mayaṃ vīra pāmokkhā sabba-issarā. 
              
              Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi 
              sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, chúng con là những vị đứng đầu, là 
              những người chủ quản tất cả. 
               
              
              1051. Rūpācāraguṇūpetā yobbanaṭṭhā piyaṃvadā,
              
              sabbāyo apacāyanti devatā viya mānusā. 
              
              Là những người có được sắc đẹp, tánh tình, và 
              đức hạnh, ở vào tuổi trẻ, có lời nói đáng yêu, tất cả chư thiên 
              cũng như loài người đều quý trọng (chúng con). 
               
              
              1052. Aṭṭhārasasahassāni sabbā sākiyasambhavā,
              
              yasodharā sahassāni pāmokkhā issarā tadā. 
              
              Khi ấy, tất cả mười tám ngàn vị ni đều xuất 
              thân dòng Sakya, một ngàn vị ni có danh tiếng là những vị đứng 
              đầu, là những người chủ quản.
               
              
              1053. 
              Kāmadhātumatikkantā saṇṭhitā rūpadhātuyā, 
              rūpena sadisā natthi sahassānaṃ mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, (các cô ấy) đã vượt 
              qua lãnh vực của dục tình, đã được an trú vào lãnh vực của sắc 
              đẹp. Không có gì tương đương với sắc đẹp của một ngàn cô ấy.”
               
              
              1054. Sambuddhaṃ abhivādetvā iddhiṃ dassesu 
              satthuno, 
              nekā nānāvidhākārā mahā-iddhipi dassayuṃ. 
              Sau khi đảnh lễ bậc Toàn 
              Giác, các vị ni đã phô bày thần thông đến bậc Đạo Sư. Các vị ni 
              cũng đã thị hiện đại thần lực có nhiều hình thức khác loại.
               
              
              1055. Cakkavāḷasamaṃ kāyaṃ sīsaṃ uttarato kuru,
              
              ubho pakkhā duve dīpā jambudīpaṃ sarīrato. 
              (Các vị ni đã thị hiện) cơ 
              thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, 
              hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu, ...
               
              
              1056. Dakkhiṇaṃ ca saraṃ piñjaṃ nānāsākhā tu 
              pattakā, 
              candasūravisālakkhā merupabbatato sikhā. 
              ... và đuôi công là cái hồ 
              ở phía nam nhưng các lông chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng 
              và mặt trời là cặp mắt to, núi Meru là chóp đỉnh, ...
               
              
              1057. Cakkavāḷagirituṇḍā jamburukkhaṃ 
              samūlakaṃ, 
              vījamānā upagantvā vandanti lokanāyakaṃ. 
              ...ngọn núi của bầu vũ trụ 
              là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây 
              quạt), vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian. 
              
               
              
              1058. Hatthivaṇṇaṃ tathevassaṃ pabbataṃ 
              jaladhiṃ tathā, 
              candaṃ ca suriyaṃ meruṃ sakkavaṇṇaṃ ca dassayuṃ. 
              
              Tương tợ y như thế, các vị 
              ni đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, 
              rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.
               
              
              1059. Yasodharā mayaṃ vīra pāde vandāma 
              cakkhuma, 
              tava vīra pabhāvena nipphannā naranāyaka. 
              “Bạch 
              vị Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con là các vị Yasodharā xin 
              đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Lãnh Đạo 
              của nhân loại, chúng con đã được hoàn thành nhờ vào quyền năng của 
              Ngài.  
               
              
              1060. Iddhīsu ca vasī homa dibbāya sotadhātuyā,
              
              cetopariyañāṇassa vasī homa mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con đã có năng 
              lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng 
              lực về trí biết tâm của người khác.
               
              
              1061. Pubbe nivāsaṃ jānāma dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo. 
              
              Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên 
              nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ 
              đây không còn tái sanh nữa. 
               
              
              1062. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva 
              ca, 
              ñāṇaṃ amhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý 
              nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải 
              là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
              
               
              
              1063. Pubbānaṃ lokanāthānaṃ saṅgamaṃ no 
              nidassitaṃ, 
              adhikārā bahū amhaṃ tumhatthāya mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, sự hội tụ của các vị 
              Lãnh Đạo Thế Gian trước đây, đã được chúng con nhìn thấy rõ. Có 
              nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về 
              Ngài.
               
              
              1064. Yaṃ amhaṃ purimaṃ kammaṃ kusalaṃ sarase 
              mune, 
              tumhatthāya mahāvīra puññānupacitāni no. 
              
              Bạch bậc Hiền Triết, xin Ngài nhớ lại thiện 
              nghiệp trước đây của chúng con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã 
              được tích lũy bởi chúng con là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1065. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā vārayimha 
              anācaraṃ, 
              tuyhatthāya mahāvīra cattāni jīvitāni no.  
              
              Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những 
              nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống 
              đã được chúng con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1066. Nekakoṭisahassānaṃ bhariyatthāya’dāsi no,
              
              na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng 
              con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi
              lần. Chúng con không có bất bình về 
              điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1067. Nekakoṭisahassānaṃ upakārāya ’dāsi no,
              
              na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng 
              con vì sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có 
              bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1068. Nekakoṭisahassānaṃ bhojanatthāya ’dāsi 
              no, 
              na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng 
              con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. 
              Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1069. Nekakoṭisahassāni jīvitāni cajimha no,
              “Bhayamokkhaṃ karissāma” jīvitāni cajimhase. 
              
              Chúng con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. 
              Chúng con đã từ bỏ các mạng sống (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thực 
              hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi.’
               
              
              1070. Aṅgagate alaṅkāre vatthe nānāvidhe bahū,
              
              itthibhaṇḍe na gūhāma tuyhatthāya mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con không cất 
              giấu các đồ trang sức được dùng cho phụ nữ, nhiều vải vóc các 
              loại, các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1071. Dhanadhaññapariccāgaṃ gāmāni nigamāni ca,
              
              khettā puttā ca dhītā ca pariccattā mahāmune. 
              
              Chúng con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các ngôi 
              làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, các ruộng vườn, 
              những người con trai, và con gái đã được dứt bỏ.
               
              
              1072. Hatthī assā gavā cāpi dāsiyo paricārikā,
              
              tuyhatthāya mahāvīra pariccattā asaṅkhiyā. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những 
              con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ 
              là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1073. Yaṃ amhe paṭimantesi dānaṃ dassāma 
              yācake, 
              vimanaṃ no na passāma dadato dānamuttamaṃ. 
              
              Về việc Ngài bảo chúng con rằng: ‘Ta sẽ cho vật 
              thí đến người hành khất,’ chúng con không nhìn thấy sự bất bình 
              của chúng con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.
               
              
              1074. Nānāvidhaṃ bahuṃ dukkhaṃ saṃsāre ca 
              bahubbidhe, 
              tuyhatthāya mahāvīra anubhuttaṃ asaṅkhiyaṃ. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng,chúng con đã trải qua nhiều 
              khổ đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi trong nhiều 
              hình thức là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              1075. Sukhappattā na modāma na ca dukkhesu 
              dummanā, 
              sabbattha tulitā homa tuyhatthāya mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, đạt được sung sướng 
              chúng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ 
              đau, chúng con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục 
              đích về Ngài.
               
              
              1076. Anumaggena sambuddho yaṃ dhammaṃ 
              abhinīhari, 
              anubhutvā sukhaṃ dukkhaṃ patto bodhiṃ mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, theo con đường bậc 
              Toàn Giác đã phát nguyện về pháp (giải thoát), Ngài đã trải qua 
              lạc khổ và đã đạt đến sự giác ngộ.
               
              
              1077. Brahmadevaṃ ca sambuddhaṃ gotamaṃ 
              lokanāyakaṃ, 
              aññesaṃ lokanāthānaṃ saṅgamā tehi no bahū. 
              
              Vị trời của Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng 
              Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, đối với các đấng Hộ Trì Thế Gian khác, 
              chúng con đã có nhiều lần gặp gỡ với các vị ấy.
               
              
              1078. Adhikārā bahū amhaṃ tuyhatthāya mahāmune,
              
              gavesato buddhadhamme mayaṃ te paricārikā. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều hành động hướng 
              thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài. Chúng con là những 
              nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.”
              
               
              
              1079. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye,
              
              dīpaṅkaro mahāvīro uppajji lokanāyako. 
              Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và 
              một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian 
              Dīpaṅkara đã hiện khởi.
               
              
              1080. Paccantadesavisaye nimantetvā tathāgataṃ,
              
              tassa āgamanaṃ maggaṃ sodhenti tuṭṭhamānasā. 
              Sau khi đã thỉnh mời đức 
              Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường 
              đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.
               
              
              1081. Tena kālena so āsi sumedho nāma brāhmaṇo,
              
              maggaṃ ca paṭiyādesi āyataṃ sabbadassino.  
              Vào thời điểm ấy, vị ấy đã 
              là người Bà-la-môn tên Sumedha và đã sửa soạn con đường của đấng 
              Toàn Tri đang đi đến.
               
              
              1082. Tena kālena āsimha sabbā 
              brāhmaṇasambhavā, 
              thalūdajāni pupphāni āharimha samāgamaṃ. 
              Vào thời điểm ấy, tất cả 
              chúng con đã là xuất thân Bà-la-môn. Chúng con đã mang đến cuộc tụ 
              hội những đóa hoa mọc trên đất liền và dưới nước.
               
              
              1083. Tasmiṃ so samaye buddho dīpaṅkaro 
              mahāyaso, 
              viyākāsi mahāvīro isimuggatamānasaṃ. 
              Vào lúc ấy, đức Phật 
              Dīpaṅkara, bậc Đại Hùng có danh tiếng vĩ đại ấy đã chú nguyện cho 
              vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng.
               
              
              1084. Calatī 
              ravatī paṭhavī saṅkampati sadevakaṃ, 
              tassa kammaṃ pakittente isimuggatamānaso. 
              Trong khi tuyên dương hành 
              động của vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng ấy, quả đất lay chuyển, 
              gào thét, rung động cùng với thiên giới.
               
              
              1085. Devakaññā manussā ca mayaṃ cāpi sadevakā,
              
              nānāpūjanīyaṃ bhaṇḍaṃ pūjayitvāna patthayuṃ. 
              Các tiên nữ và loài người, 
              luôn cả chúng con cùng với chư thiên đã dâng lên phẩm vật cúng 
              dường khác nhau rồi đã ước nguyện.
               
              
              1086. Tesaṃ buddho viyākāsi jotidīpasanāmako,
              
              “Ajja ye patthitā atthi te bhavissanti sammukhā.” 
              
              Đức Phật tên Jotidīpa 
              (Dīpaṅkara) đã chú nguyện cho bọn họ rằng: “Những 
              điều đã được ước nguyện vào ngày hôm nay sẽ trở thành hiện thực.”
              
               
              
              1087. Aparimeyye ito kappe yaṃ no buddho 
              viyākari, 
              taṃ vācamanumodantī evaṅkārī ahumha no. 
              Ấy là điều đức Phật đã chú 
              nguyện cho chúng con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời 
              nói ấy, chúng con đã là những người có hành động như vậy.
               
              
              1088. Tassa kammassa sukatassa tattha cittaṃ 
              pasādiya, 
              devamānusakaṃ yoniṃ anubhotvā asaṅkhiyaṃ. 
              Tại nơi ấy, chúng con đã 
              có tâm tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy. 
              Chúng con đã sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể 
              đếm được. 
               
              
              1089. Sukhadukkhe ’nubhotvāna devesu mānusesu 
              ca, 
              pacchimabhave sampatte jātā ’mha sākiye kule. 
              Chúng con đã trải qua lạc 
              và khổ ở các cõi trời và loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối 
              cùng, chúng con đã sanh ra trong gia tộc Sakya.
               
              
              1090. Rūpavatī bhogavatī yasasīlavatī tato, 
              sabbaṅgasampadā homa kulesu atisakkatā. 
              Chúng con có sắc đẹp, có 
              của cải, do đó có danh vọng và giới hạnh. Chúng con có sự thành 
              tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng ở các gia đình.
               
              
              1091. Lābhaṃ silokaṃ sakkāraṃ 
              lokadhammasamāgamaṃ, 
              cittaṃ ca dukkhitaṃ natthi vasāma akutobhayā. 
              Lợi lộc, danh vọng, cung 
              kính, sự tổng hợp các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không 
              có, chúng con sống không sợ hãi.
               
              
              1092. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā rañño antepure 
              tadā, 
              khattiyānaṃ pure vīro upakāraṃ ca niddisi. 
              Khi ấy, điều này đã được 
              đức Thế Tôn nói ra ở trong kinh thành của đức vua (Suddhodana). Và 
              đấng Anh Hùng đã chỉ ra việc hộ độ trước đây của các vị Sát-đế-lỵ:
               
              
              1093. Upakārā ca yā nārī yā ca nārī sukhe 
              dukhe, 
              atthakkhāyī ca yā nārī yā ca nārī ’nukampikā.  
              
              “Người 
              nữ nào là hữu ân, người nữ nào cùng chung vui sướng khổ đau, người 
              nữ nào nói lời hữu ích, và người nữ nào có lòng thương tưởng, ...
               
              
              1094. Dhammaṃ care sucaritaṃ na naṃ duccaritaṃ 
              care, 
              dhammacārī sukhaṃ seti asmiṃ loke paramhi ca. 
              
              ... hãy thực hành pháp thiện hạnh, chớ thực 
              hành ác hạnh ấy. Người thực hành Giáo Pháp thọ hưởng an lạc trong 
              đời này và trong đời sau.” 
              
               
              
              1095. Agāraṃ vijahitvāna pabbajimha ’nagāriyaṃ,
              
              aḍḍhamāse asampatte catusaccaṃ phusimha no. 
              Sau khi từ bỏ gia đình, 
              chúng con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt 
              đến nửa tháng, chúng con đã chạm được bốn Sự Thật.
               
              
              1096. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ 
              sayanāsanaṃ, 
              upanenti bahuṃ amhe sāgarasseva ūmiyo. 
              Nhiều người đem đến cho 
              chúng con y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các 
              làn sóng của biển cả.
               
              
              1097. Kilesā jhāpitā amhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā. 
              Các phiền não của chúng 
              con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi 
              cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), chúng 
              con sống không còn lậu hoặc. 
               
              
              1098. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, chúng con đã 
              thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của 
              đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              1099. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Chúng con đã đắc chứng bốn 
              (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã 
              thực hành lời dạy của đức Phật.
               
              
              1100. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampattī ca 
              bahubbidhā, 
              visuddhabhāvaṃ sampattā labhāma sabbasampadā. 
              Như vậy là có khổ đau đa 
              dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh 
              tịnh, chúng con nhận lãnh mọi sự thành tựu.
               
              
              1101. Yā dadanti sakattānaṃ puññatthāya 
              mahesino, 
              sahāyasampadā honti nibbānapadamasaṅkhataṃ. 
              Những nàng nào bố thí 
              chính bản thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ là có 
              sự thành tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.
               
              
              1102. Parikkhīṇaṃ atītaṃ ca paccuppannaṃ 
              anāgataṃ, 
              sabbaṃ kammampi no khīṇaṃ pāde vandāma cakkhuma. 
              
              “Quá 
              khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của chúng 
              con đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con xin đảnh lễ ở 
              bàn chân (Ngài).”
               
              
              1103. Nibbānāya vajantīnaṃ kiṃ vo vakkhāma 
              uttariṃ, 
              santasaṅkhatadosaṃ hi pappotha amataṃ padaṃ. 
              “Ta 
              sẽ nói điều gì hơn nữa về các nàng là những người đang tiến đến 
              Niết Bàn? Bởi vì các nàng đạt được vị thế Bất Tử, (là nơi) sự tạo 
              tác và điều sai trái đã được tịnh lặng.”
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Yasodharāpamukhāni 
              aṭṭhārasabhikkhunīsahassāni bhagavato sammukhā imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng 
              đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này 
              như thế ấy.
               
              
              
              Yasodharāpamukha-aṭṭhārasabhikukhunisahassāpadānaṃ dasamaṃ. 
              
              Ký sự về mười tám ngàn 
              vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā là phần thứ mười.
               
              
              Kuṇḍalakesivaggo tatiyo.
              Phẩm Kuṇḍalakesī là 
              phẩm thứ ba.
              --ooOoo--
              
              Tatthuddānaṃ:
              
              Tóm lược của 
              phẩm này:
               
              
              Kuṇḍalā gotamī ceva dhammadinnā ca sakulā,
              
              varanandā ca soṇā ca kāpilānī yasodharā. 
              Dasasahassabhikkhunī aṭṭhārasasahassakā, 
              gāthāsatāni cattāri cha ca sattati meva ca.
              
              Vị ni Kuṇḍalā, Kisāgotamī, 
              luôn cả Dhammadinnā, Sakulā, Nandā cao quý, Soṇā, Bhaddākāpilānī, 
              Yasodharā, mười ngàn tỳ khưu ni, và mười tám ngàn vị ni, là bốn 
              trăm bảy mươi sáu câu kệ cả thảy. 
              --ooOoo--
            
              
              
                
                
                
                [1] 
                Sau khi đã được nhổ sạch, những sợi tóc mọc lại đã bị xoắn nên 
                có biệt hiệu là Kuṇḍalakesā 
                (tóc xoắn).
 
              
                
                
                
                [2]
                Kinh Pháp Cú, câu 113.
 
              
                
                
                
                [3] 
                Xem thêm Kinh Cūlavedallasuttaṃ 
                - Tiểu Kinh Phương Quảng, 
                Trung Bộ I.
 
              
                
                
                
                [4]
                Kinh Pháp Cú, câu 112.
 
              
                
                
                
                [5] 
                Các câu kệ từ  952 - 957 không thấy ở Tạng Thái và Tạng 
                Anh.
 
              
                
                
                
                [6]
                Jambudīpa: bán đảo Ấn Độ.
 
              
                
                
                
                [7] 
                Một koṭi là mười triệu.
 
              
                
                
                
                [8] 
                Kế tiếp có hai mươi câu kệ được thấy ở Tạng Thái, Miến, Anh, 
                nhưng không thấy ở Tạng Sri Lanka. Vì nội dung không có gì đặc 
                sắc nên không thêm vào.