III.
KUṆḌALAKESIVAGGO
III. PHẨM
KUṆḌALAKESĪ:
21.
Kuṇḍalakesāpadānaṃ
21. Ký Sự về Kuṇḍalakesā:
639. Padamuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
640. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappite.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ bởi vô số
loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.
641. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ
dhammadesanaṃ,
tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ.
Tôi đã đi đến đấng Đại
Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín
sanh khởi, tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.
642. Tadā mahākāruṇiko padumuttaranāmako,
khippābhiññānamaggatte ṭhapesi bhikkhuniṃ subhaṃ.
Khi ấy, đấng Đại Bi tên
Padumuttara đã thiết lập tỳ khưu ni Subhā vào vị thế tối thắng
trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén.
643. Taṃ sutvā muditā hutvā dānaṃ datvā
mahesino,
nipajja sirasā pāde taṃ ṭhānaṃ abhipatthayiṃ.
Sau khi nghe điều ấy, tôi
đã trở nên hoan hỷ và đã cúng dường vật thí đến bậc Đại Ẩn Sĩ, rồi
đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã phát nguyện vị thế ấy.
644. Anumodi mahāvīro bhadde yaṃ te
’bhipatthitaṃ,
samijjhissati taṃ sabbaṃ sukhinī hohi nibbutā.
Đấng Đại Hùng đã nói lời
tùy hỷ rằng: “Này cô gái hiền thục,
điều nào đã được con ước nguyện toàn bộ điều ấy sẽ được thành tựu.
Hãy được an lạc, hãy được Niết Bàn.
645. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
646. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
bhaddā kuṇḍakesāti hessasi satthusāvikā.
(Người
nữ này) sẽ là
Bhaddā Kuṇḍakesā, nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp.”
647. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
648. Tato cutā yāmamagā tato ’haṃ tusitaṃ gatā,
tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato.
Từ nơi ấy chết đi, tôi đã
đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó
đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
649. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa
vāhasā,
tattha tattheva rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.
Do tác động của nghiệp ấy,
ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi
chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
650. Tato cutā manussesu rājūnaṃ vasavattinaṃ,
maṇḍalīnañca rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.
Từ nơi ấy chết đi, ở giữa
loài người tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua
có quyền lực và của các vị vua có lãnh thổ.
651. Sampattiṃ anubhotvāna devesu mānusesu ca,
sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsariṃ.
Tôi đã thọ hưởng sự thành
công ở giữa chư thiên và nhân loại, tôi đã được an vui ở trong mọi
nơi, tôi đã luân hồi vô số (đại) kiếp.
652. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu
mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.
Ở vào kiếp Bhadda này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của
đấng Phạm Thiên.
653. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasi puruttame.
Khi ấy, có vị quân vương
là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ
độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
654. Tassa dhītā catutth’ āsiṃ bhikkhudāsīti
vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.
Tôi đã là người con gái
thứ tư của vị (vua) ấy được nổi danh là “Bhikkhudāsī.”
Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã
xin xuất gia.
655. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.
Cha đã không cho phép
chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó
trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.
656. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.
Là những người con gái của
đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của
người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong
việc hộ độ đức Phật.
657. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī
bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.
Samaṇī, Samaṇaguttā,
Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và
Saṅghadāsikā là thứ bảy.
658. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ahaṃ tathā,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.
Khemā, Uppalavaṇṇā,
Paṭācārā, thêm vào tôi, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ
bảy (vào thời hiện tại).
659. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do các nghiệp ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ
thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
660. Pacchime ca bhave dāni giribbajapuruttame,
jātā seṭṭhikule phīte yadā ’haṃ yobbane ṭhitā.
Và trong kiếp sống cuối
cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra tại kinh
thành Giribbaja, trong gia đình triệu
phú thịnh vượng. Rồi đến lúc tôi đã ở vào lứa tuổi thanh xuân.
661. Coraṃ vadhatthaṃ nīyantaṃ disvā rattā
tahiṃ ahaṃ,
pitā me taṃ sahassena mocayitvā vadhā tato.
Sau khi nhìn thấy kẻ trộm
đang bị dẫn đi để xử tử, tôi đã bị luyến ái với gã. Do đó, cha của
tôi đã giải cứu gã ấy khỏi cái chết bằng ngàn đồng tiền.
662. Adāsi tassa maṃ tāto viditvāna manaṃ mama,
tassāhamāsiṃ vissatthā atīva dayitā hitā.
Sau khi biết được tâm ý
của tôi, cha đã ban gã ấy cho tôi. Tôi đã trở nên thân thiết, vô
cùng yêu thương, gắn bó đối với gã ấy.
663. So me bhūsanalobhena khalitajjhāsayo diso,
corappapātaṃ netvāna pabbataṃ cetayī vadhaṃ.
Vì lòng tham đối với các
đồ trang sức của tôi, gã nghịch thù ấy có ý định gây tội đã đưa
(tôi) đến ngọn núi có vực thẳm Kẻ Trộm và đã nghĩ đến việc giết
hại.
664. Tadā ’haṃ paṇamitvāna bhattukaṃ
sukatañjalī,
rakkhantī attano pāṇaṃ idaṃ vacanamabraviṃ:
Khi ấy, trong lúc bảo vệ
mạng sống của mình, tôi đã cúi lạy, nghiêm chỉnh chắp tay lại với
người chồng, và đã nói lời nói này:
665. “Idaṃ suvaṇṇaṃ keyūraṃ muttā veḷuriyā
bahū,
sabbaṃ harassu bhaddante mañca dāsīti sāvaya.”
“Thưa
tướng công, vàng vòng ngọc trai ngọc bích này có nhiều, xin chàng
hãy tự mang đi tất cả. Và hãy thông báo rằng thiếp là ‘Nô tỳ.’”
666. Oropayassu kalyāṇi mā bāḷhaṃ paridevasi,
na cāhaṃ abhijānāmi ahantvā dhanamābhataṃ.”
“Này
người đẹp, nàng phải chết. Chớ than vãn nhiều quá. Và ta biết chắc
rằng không giết thì của cải không mang đi được.”
667. “Yato sarāmi attānaṃ yato pattāsmi
viññutaṃ,
na cāhaṃ abhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā.
“Kể
từ khi thiếp ghi nhớ được bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự
hiểu biết, và thiếp biết chắc rằng không ai khác được yêu thương
hơn là chàng.
668. Ehi taṃ upagūhissaṃ kassañca taṃ
padakkhiṇaṃ,
na ca dāni puno atthi mama tuyhañca saṅgamo.
Xin chàng hãy đến, thiếp sẽ ôm lấy chàng và sẽ
nhiễu quanh chàng. Và giờ đây không còn có sự gần gũi nào giữa
thiếp và chàng nữa.”
669. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito,
itthīpi paṇḍitā hoti tattha tattha vicakkhaṇā.
Không hẳn trong mọi trường
hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ có sự cẩn thật nhiều bề cũng
là khôn ngoan.
670. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito,
itthīpi paṇḍitā hoti lahuṃ atthavicintakā.
Không hẳn trong mọi trường
hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ cân nhắc điều lợi ích một
cách mau chóng cũng là khôn ngoan.
671. Lahuñca vata khippañca nikiṭṭhe
samacetayiṃ,
migamuṇṇā yathā evaṃ tadā ’haṃ sattukaṃ vadhiṃ.
Quả nhiên, một cách nhẹ
nhàng và mau chóng tôi đã suy nghĩ mưu kế. Giống như bộ lông (giết
chết) con thú, khi ấy tôi đã giết chết gã Sattuka như thế.
672. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ na
khippamanubujjhati,
so haññate mandamati corova girigabbhare.
Và người nào không mau
chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, người có trí kém cỏi ấy
sẽ bị giết như là kẻ trộm ở hẻm núi.
673. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva
nibodhati,
muccate sattusambādhā tadā ’haṃ sattukā yathā.
Và người nào thật mau
chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, (người ấy) thoát khỏi
sự quấy rối của kẻ thù giống như tôi và Sattuka vào khi ấy vậy.
674. Tadā taṃ pātayitvāna giriduggamhi
sattukaṃ,
santikaṃ setavatthānaṃ upetvā pabbajiṃ ahaṃ.
Khi ấy, tôi đã quăng gã
Sattuka ấy vào hóc núi, rồi đã đi đến gặp những người (ngoại đạo)
mặc vải trắng, và đã xuất gia.
675. Saṇḍāsena ca kese me luñcitvā sabbaso
tadā,
pabbājetvā sasamayaṃ ācikkhiṃsu nirantaraṃ.
Và khi ấy, sau khi đã nhổ
lên toàn bộ những sợi tóc của tôi bằng nhíp,[1]
họ đã cho tôi xuất gia và đã chỉ dạy giáo lý không có gián đoạn.
676. Tato taṃ uggahetvāna nisīditvāna ekikā,
samayaṃ taṃ vicintesiṃ suvāno mānusaṃ karaṃ.
677. Chinnaṃ gayha samīpe me pātayitvā
apakkami,
disvā nimittamalabhiṃ hatthaṃ taṃ puḷavākulaṃ.
Tôi đã học xong (giáo lý)
ấy từ họ. Tôi đã ngồi xuống mỗi một mình và đã suy xét về (giáo
lý) ấy. Có con chó tha bàn tay của con người bị đứt lìa và đã nhả
ở cạnh tôi rồi đã bỏ chạy. Sau khi nhìn thấy dấu hiệu, tôi đã nhặt
lấy bàn tay có đầy dòi bọ ấy.
678. Tato vuṭṭhāya saṃviggā apucchiṃ
sahadhammike,
te avocuṃ: “Vijānanti tamatthaṃ sakyabhikkhavo.”
Sau khi từ chỗ ấy đứng
dậy, bị chấn động tôi đã hỏi những người đồng đạo. Họ đã nói rằng:
“Những vị tỳ khưu dòng Sakya biết rõ ý
nghĩa ấy.”
679. Sāhaṃ tamatthaṃ pucchissaṃ upetvā
buddhasāvake,
te mamādāya gacchiṃsu buddhaseṭṭhassa santikaṃ.
(Nghĩ rằng) “Ta
sẽ hỏi ý nghĩa ấy,” tôi đây đã đi đến các vị Thinh Văn của
đức Phật. Sau khi đón nhận tôi, các vị ấy đã đi đến bên đức Phật
Tối Thượng.
680. So me dhammamadesesi khandhāyatanadhātuyo,
asubhāniccā dukkhāti anattā’ti ca nāyako.
Và đấng Lãnh Đạo ấy đã
thuyết Pháp cho tôi về: “Uẩn, xứ, giới,
đề mục bất mỹ, vô thường, khổ não, vô ngã.”
681. Tassa dhammaṃ suṇitvā ’haṃ dhammacakkhuṃ
visodhayiṃ,
tato viññātasaddhammā pabbajjaṃ upasampadaṃ.
682. Āyāciṃ so tadā āha “ehi bhadde”ti nāyako,
tadā ’haṃ upasampannā parittaṃ toyamaddasaṃ.
Sau khi lắng nghe Giáo
Pháp của vị ấy, tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó,
được hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã yêu cầu sự xuất gia và sự tu lên
bậc trên. Khi ấy, đấng Lãnh Đạo ấy đã nói rằng: “Này
cô gái hiền thục, hãy đến.” Khi ấy, được tu lên bậc trên,
tôi đã nhìn thấy một ít nước.
683. Pādapakkhālanenāhaṃ ñatvā sa-udayaṃ vayaṃ,
tathā sabbepi saṅkhārā iti saṃcintayiṃ tadā.
Với sự rửa sạch bàn chân,
tôi đã biết được là có sự tiêu hoại với nước. Khi ấy, tôi đã tự
suy xét rằng: “Tất cả các hành cũng là
tương tợ như thế.”
684. Tato cittaṃ vimucci me anupādāya sabbaso,
khippābhiññānamaggaṃ maṃ tadā paññāpayī jino.
Sau đó, tâm tôi đã được
giải thoát trọn vẹn không còn chấp thủ. Khi ấy, đấng Chiến Thắng
đã tuyên bố tôi là đứng đầu trong số các vị ni có thắng trí nhạy
bén.
685. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paricittāni jānāmi satthusāsanakārikā.
Là người thực hành theo
lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về
thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
686. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddh’ āsiṃ sunimmalā.
Tôi biết được đời sống
trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả
các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
687. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa
sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.
Bậc Đạo Sư đã được tôi
phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng
nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
688. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.
Vì mục đích nào tôi đã rời
khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy
tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
689. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāṇe tatheva ca,
ñāṇaṃ me vipulaṃ suddhaṃ buddhaseṭṭhassa sāsane.
Trí tuệ của tôi về ý
nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện
giải là bao la, trong sạch ở trong Giáo Pháp của đức Phật tối
thượng.
690. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
691. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
692. Paṭisambhidā catasso ca vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Bhaddā Kuṇḍalakesā bhikkhunī imā
gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Bhaddā
Kuṇḍalakesā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kuṇḍalakesātheriyāpadānaṃ paṭhamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Bhaddā Kuṇḍalakesā là phần thứ nhất.
--ooOoo--
22. Kisāgotamī
apādānaṃ
22. Ký Sự về
Kisāgotamī:
693. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
694. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā aññatare kule,
upetvā taṃ naravaraṃ saraṇaṃ samupāgamiṃ.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra ở một gia đình nọ trong (thành) Haṃsavatī. Tôi đã đi đến và đã
nương nhờ vào bậc Quý Nhân ấy.
695. Dhammañca tassa assosiṃ
catusaccūpasaṃhitaṃ,
madhuraṃ paramassādaṃ vaṭṭasantisukhāvahaṃ.
Và tôi đã lắng nghe Giáo
Pháp ngọt ngào của vị ấy, bao gồm bốn Sự Thật, có phẩm vị tối
thắng, đưa đến sự an lạc và tịnh lặng của vòng luân hồi.
696. Tadā ca bhikkhuniṃ vīro
lūkhacīvaradhāriniṃ,
ṭhapento etadaggamhi vaṇṇayī purisuttamo.
Và khi ấy, trong khi thiết
lập vị tỳ khưu ni mặc y thô vào vị thế tối thắng, bậc Anh Hùng,
đấng Tối Thượng Nhân đã khen ngợi.
697. Janetvānappakaṃ pītiṃ sutvā bhikkhuṇiyā
guṇaṃ,
kāraṃ katvāna buddhassa yathāsattī yathābalaṃ.
Sau khi đã làm sanh lên
niềm phỉ lạc không nhỏ nhoi, sau khi lắng nghe đức hạnh của vị tỳ
khưu ni, tôi đã làm công việc phục vụ đến đức Phật tùy theo khả
năng, tùy theo sức lực.
698. Nipacca munivīraṃ taṃ taṃ
ṭhānamabhipatthayiṃ,
tadānumodi sambuddho ṭhānalābhāya nāyako.
Tôi đã cúi xuống ở bậc
Hiền Triết Anh Hùng ấy và đã ước nguyện vị thế ấy. Khi ấy, bậc
Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo đã nói lời tùy hỷ về sự lợi ích của vị
thế (ấy):
699. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
“Vào
một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng
dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
700. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
gotamī nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”
(Người
nữ này) sẽ trở
thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp,
có tên là Gotamī.”
701. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā
jinaṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.
Nghe được điều ấy, tôi đã trở
nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến
Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
702. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
703. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu
mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.
Ở vào kiếp Bhadda này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của
đấng Phạm Thiên.
704. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.
Khi ấy, có vị quân vương
là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ
độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
705. Pañcamī tassa dhīt’ āsiṃ dhammā nāmena
vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.
Tôi đã là người con gái
thứ năm của vị (vua) ấy được nổi danh với tên là Dhammā. Sau khi
lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất
gia.
706. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.
Cha đã không cho phép
chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó
trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.
707. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.
Là những người con gái của
đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của
người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong
việc hộ độ đức Phật.
708. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī
bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.
Samaṇī, Samaṇaguttā,
Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và
Saṅghadāsikā là thứ bảy.
709. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
ahaṃ ceva dhammadinnā visākhā hoti sattamī.
Khemā, Uppalavaṇṇā,
Paṭācārā, Kuṇḍalā, tôi, luôn cả Dhammadinnā, và Visākhā là thứ
bảy (vào thời hiện tại).
710. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.
Do các nghiệp ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ
thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
711. Pacchime ca bhavedāni jātā seṭṭhikule
ahaṃ,
duggate adhane naṭṭhe gatā ca sadhanaṃ kulaṃ.
Và trong kiếp cuối cùng
hiện nay, tôi đã được sanh ra trong gia đình triệu phú bị lâm cảnh
khốn cùng, không tài sản, bị khánh tận, và tôi đã được gả vào gia
đình có tài sản.
712. Patiṃ ṭhapetvā sesā disanti adhanā iti,
yadā ca sasutā āsiṃ sabbesaṃ dayitā tadā.
Ngoại trừ người chồng,
những người còn lại giễu là “Nữ nhân
không tài sản.” Và đến khi tôi đã có con trai, khi ấy tôi
đã được cảm tình của tất cả.
713. Yadā so taruṇo bhadro komalaṅgo
sukhedhito,
sapāṇamiva kanto me tadā yamavasaṃ gato.
Vào lúc đứa bé trai hiền
hậu ấy, có cơ thể mềm mại, được nuôi dưỡng trong sung sướng, được
yêu quý như chính mạng sống của tôi đã đi đến cõi Dạ Ma.
714. Sokaṭṭā dīnavadanā assunettā rudammukhā,
mataṃ kuṇapamādāya vilapantī bhamāmahaṃ.
Bị dằn vặt bởi sầu muộn,
có vẻ mặt thê lương, mắt đẫm lệ, miệng khóc than, tôi đã bồng ẳm
thi thể đã chết, trong lúc than vãn tôi đã đi lang thang.
715. Tadā ekena sandiṭṭhā upetvā bhisajuttamaṃ,
avocaṃ “dehi bhesajjaṃ puttasañjīvananti bho.”
Khi ấy, nhận thức một
chiều, tôi đã đi đến vị Đệ Nhất Lương Y và đã nói rằng: “Thưa
ông, xin ông hãy cho thuổc đem lại sự sống cho con tôi.”
716. “Na vijjante matā yasmiṃ gehe
siddhatthakaṃ tato,
āharā”ti jino āha vinayopāyakovido.
Đấng Chiến Thắng, bậc rành
rẽ về phương thức huấn luyện, đã nói rằng: “Những
người chết không được tìm thấy ở tại ngôi nhà nào thì nàng hãy
mang lại hạt cải từ nơi (ngôi nhà) ấy.”
717. Tadā gamitvā sāvatthiyaṃ na labhiṃ tādisaṃ
gharaṃ,
kuto siddhatthakaṃ kasmā tato laddhā satiṃ ahaṃ.
Khi ấy, tôi đã đi ở trong
thành Sāvatthī, và đã không đạt được ngôi nhà như thế ấy. Do đó,
tôi đã đạt được trí nhớ rằng: “Hạt cải
ở đâu, từ nơi đâu?”
718. Kuṇapaṃ chaḍḍayitvāna upesiṃ lokanāyakaṃ,
dūratova mamaṃ disvā avoca madhurassaro.
Sau khi đã quăng bỏ thây
chết, tôi đã đi đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Sau khi nhìn thấy tôi
từ rất xa, vị có âm giọng ngọt ngào đã nói rằng:
719. “Yo ca vassasataṃ jīve apassaṃ
udayabbayaṃ,
ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo passato udayabbayaṃ.
“Và
người nào đã sống trăm năm không nhìn thấy sự sanh diệt, cuộc sống
một ngày là tốt hơn đối với người đang nhìn thấy sự sanh diệt.[2]
720. Na gāmadhammo no nigamassa dhammo
nacāpayaṃ ekakulassa dhammo,
sabbassa lokassa sadevakassa
esova dhammo yadidaṃ aniccatā.”
Không phải là quy luật thuộc về ngôi làng,
không phải là quy luật thuộc về phố chợ, quy luật này cũng không
phải thuộc về một gia đình, mà thuộc về tất cả thế gian luôn cả
chư thiên; quy luật ấy đấy tức là tính chất vô thường.”
721. Sāhaṃ sutvānimā gāthā dhammacakkhuṃ
visodhayiṃ,
tato viññātasaddhammā pabbajiṃ anagāriyaṃ.
Sau khi lắng nghe lời kệ
này, tôi đây đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó, được
hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.
722. Tathā pabbajitā santī yuñjantī jinasāsane,
na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ.
Đã được xuất gia như thế,
có sự thanh tịnh, trong khi gắn bó vào Giáo Pháp của đấng Chiến
Thắng, Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị
A-la-hán.
723. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā.
Là người thực hành theo
lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về
thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
724. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhuṃ
visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāsiṃ sunimmalā.
Tôi biết được đời sống
trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả
các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
725. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa
sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.
Bậc Đạo Sư đã được tôi
phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng
nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
726. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.
Vì mục đích nào tôi đã rời
khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy
tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
727. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāṇe tatheva ca,
ñāṇaṃ me vimalaṃ suddhaṃ buddhaseṭṭhassa vāhasā.
Trí tuệ của tôi về ý
nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện
giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức
Phật tối thượng.
728. Saṅkārakūṭā āhatvā susānā rathiyāpi ca,
tato saṅghāṭikaṃ katvā lūkhaṃ dhāremi cīvaraṃ.
Sau khi mang về từ đống
rác, từ mộ địa, và thậm chí từ đường lộ, từ đó tôi đã thực hiện y
hai lớp và đã mặc y thô.
729. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho
lūkhacīvaradhāraṇe,
ṭhapesi etadaggamhi parisāsu vināyako.
Hoan hỷ về đức hạnh ấy,
đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập
(tôi) vào vị thế tối thắng trong việc mặc y thô.
730. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
731. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
732. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Kisāgotamī bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Kisāgotamī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kisāgotamītheriyāpadānaṃ dutiyaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Kisāgotamī là phần thứ nhì.
--ooOoo--
23.
Dhammadinnāpadānaṃ
23. Ký Sự về
Dhammadinnā:
733. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
734. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ kule aññatare ahuṃ,
parakammakarī āsiṃ nipakā sīlasaṃvutā.
Khi ấy, tôi đã ở trong một
gia đình nọ tại thành Haṃsavatī. Tôi đã là người nữ làm thuê khéo
léo, gìn giữ tánh hạnh.
735. Padumuttarabuddhassa sujāto aggasāvako,
vihārā abhinikkhamma piṇḍapātāya gacchati.
Sujāta, vị Thinh Văn hàng
đầu của đức Phật Padumuttara, đã rời khỏi trú xá đi khất thực.
736. Ghaṭaṃ gahetvā gacchantī tadā udakahārikā,
taṃ disvā adadiṃ pūvaṃ pasannā sehi pāṇihi.
Là người nữ đội nước, khi
ấy trong lúc cầm lấy bầu nước đang đi, tôi đã nhìn thấy vị ấy,
được tịnh tín, tôi đã dâng (vị ấy) món bánh ngọt bằng hai bàn tay
của mình.
737. Paṭiggahetvā tattheva nisinno paribhuñji
so,
tato netvāna taṃ gehaṃ adāsiṃ tassa bhojanaṃ.
Sau khi thọ lãnh, vị ấy đã
ngồi xuống ngay tại nơi ấy và đã thọ dụng. Sau đó, tôi đã đưa vị
ấy về nhà và đã dâng vật thực đến vị ấy.
738. Tato me ayyako tuṭṭho akarī suṇisaṃ sakaṃ,
sassuyā saha gantvāna sambuddhaṃ abhivādayiṃ.
Do đó, người chủ của tôi
hoan hỷ đã nhận làm con dâu của mình. Tôi đã cùng với người mẹ
chồng đi đến và đã đảnh lễ bậc Toàn Giác.
739. Tadā so dhammakathikaṃ bhikkhuniṃ
parikittayaṃ,
ṭhapesi etadaggasmiṃ taṃ sutvā muditā ahaṃ.
Khi ấy, Ngài đã tán dương
và đã thiết lập vị tỳ khưu ni là vị thuyết giảng Giáo Pháp vào vị
thế tối thắng. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đã vui mừng.
740. Nimantayitvā sugataṃ sasaṅghaṃ
lokanāyakaṃ,
mahādānaṃ daditvāna taṃ ṭhānaṃ abhipatthayiṃ.
Tôi đã thỉnh mời đức Thiện
Thệ đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, rồi đã cúng dường
đại thí và đã ước nguyện vị thế ấy.
741. Tato maṃ sugato āha ghananinnādasussaro,
“Mamupaṭṭhānanirate sasaṅghaṃ parivesike.
742. Saddhammasavaṇe yutte guṇavaḍḍhitamānase,
bhadde bhavassu muditā lacchase paṇidhīphalaṃ.
Do đó, với giọng có âm
điệu đều đều vang vang, đấng Thiện Thệ đã nói với tôi rằng: “Này
người thiếu nữ hiền thục, được vui thích trong việc hộ độ Ta cùng
với hội chúng, là người dâng vật thực, được gắn bó trong việc lắng
nghe Chánh Pháp, với tâm ý được tăng trưởng về đức hạnh, con hãy
vui mừng, con sẽ đạt được kết quả của điều nguyện ước.
743. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
744. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
dhammadinnāti nāmena hessasi satthusāvikā.”
(Người
nữ này) sẽ trở
thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp,
có tên là Dhammadinnā.”
745. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ
mahāmuniṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.
Nghe được điều ấy, tôi đã trở
nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến
Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
746. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
747. Imasmiṃ bhaddake kappe
brahmabandhu mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.
Ở vào kiếp Bhadda này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của
đấng Phạm Thiên.
748. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.
Khi ấy, có vị quân vương
là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ
độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
749. Chaṭṭhā tassāsahaṃ dhītā sudhammā iti
vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.
Tôi đã là người con gái
thứ sáu của vị (vua) ấy được nổi danh là Sudhammā. Sau khi lắng
nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
750. Nānujānāsi maṃ tāto agāren’ ālayā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.
Cha đã không cho phép
chúng tôi. Có sự ấp ủ về việc không gia đình, chúng tôi đã đi đây
đó trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.
Bhāṇavāraṃ tatiyaṃ.
Tụng Phẩm thứ ba.
751. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhūpaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.
Là những người con gái của
đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của
người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong
việc hộ độ đức Phật.
752. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī
bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.
Samaṇī, Samaṇaguttā,
Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và
Saṅghadāsikā là thứ bảy.
753. Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
gotamī ca ahaṃ ceva visākhā hoti sattamī.
Khemā, Uppalavaṇṇā,
Paṭācārā, Kuṇḍalā, Gotamī, tôi, và luôn cả Visākhā là thứ bảy (vào
thời hiện tại).
754. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do các nghiệp ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ
thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
755. Pacchime ca bhavedāni giribbajapuruttame,
jātā seṭṭhikule phīte sabbakāmasamiddhake.
Và vào kiếp sống cuối cùng
hiện nay, tôi đã được sanh ra ở kinh thành
Giribbaja, trong gia đình triệu phú,
thịnh vượng, có sự dồi dào về tất cả các
dục lạc.
756. Yadā rūpaguṇopetā paṭhame yobbane ṭhitā,
tadā parakulaṃ gantvā vasiṃ sukhasamappitā.
Vào lúc đạt đến sắc đẹp và
đức hạnh, ở vào thời đầu của tuổi thanh xuân, khi ấy tôi đã đi đến
gia tộc khác (làm vợ) và đã sống thọ hưởng lạc thú.
757. Upetvā lokasaraṇaṃ suṇitvā dhammadesanaṃ,
anāgāmiphalaṃ patto sāmiko me subuddhimā.
Sau khi đi đến đấng Nương
Nhờ của thế gian và đã lắng nghe lời thuyết Pháp, chồng của tôi đã
đạt đến quả vị Bất Lai, có trí giác ngộ hoàn hảo.
758. Tadā taṃ anujānetvā pabbajiṃ anagāriyaṃ,
na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ.
Khi ấy, tôi đã thuyết phục
vị ấy rồi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Trong thời
gian không bao lâu, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
759. Tadā upāsako so maṃ upagantvā apucchatha,
gambhīre nipuṇe paññe te sabbe vyākariṃ ahaṃ.
Khi ấy, vị nam cư sĩ ấy đã
đi đến tôi và đã hỏi về các tuệ thâm sâu và hoàn hảo. Tôi đã giảng
giải về tất cả các điều ấy.[3]
760. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi
maṃ,
bhikkhuniṃ dhammakathikaṃ nāññaṃ passāmi edisaṃ.
Hoan hỷ về đức hạnh ấy,
đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng: “Ta
không nhìn thấy vị tỳ khưu ni nào khác là vị thuyết giảng Giáo
Pháp như là vị ni này.
761. Dhammadinnā yathā dhīrā evaṃ dhāretha
bhikkhavo,
evāhaṃ paṇḍitā jātā nāyakenānukampitā.
Này các tỳ khưu, Dhammadinnā là vị ni sáng trí
như thế nào thì các ngươi hãy ghi nhớ như thế.”
Được đấng Lãnh Đạo thương xót, tôi đã trở thành vị ni thông thái
như thế.
762. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa
sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.
Bậc Đạo Sư đã được tôi
phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng
nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
763. Yass’ atthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.
Vì mục đích nào tôi đã rời
khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy
tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
764. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthu sāsanakārikā.
Là người thực hành theo
lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về
thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
765. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāmhi sunimmalā.
Tôi biết được đời sống
trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả
các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
766. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
767. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
768. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Dhammadinnā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Dhammadinnā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Dhammadinnātheriyāpadānaṃ tatiyaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Dhammadinnā là phần thứ ba.
--ooOoo--
24.
Sakulāpadānaṃ
24. Ký Sự về
Sakulā:
769. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
770. Hitāya sabbasattānaṃ sukhāya vadataṃ varo,
atthāya purisājañño paṭipanno sadevake.
Vì sự tấn hóa, sự lợi ích,
ví sự an lạc của tất cả chúng sanh, đấng Siêu Nhân, bậc cao quý
trong số các vị đang thuyết giảng đã sanh ra ở thế gian gồm cả
thiên giới.
771. Yasaggappatto sirimā vaṇṇakittibhato jino,
pūjito sabbalokassa disā sabbāsu vissuto.
Đấng Chiến Thắng, đã đạt
đến danh vọng cao tột, có sự vinh quang, có được sự tán dương ca
ngợi, được tôn vinh, được nổi danh ở tất cả các phương của toàn
thể thế gian.
772. Uttiṇṇavicikiccho so vītivattakathaṃkatho,
sampuṇṇamanasaṅkappo patto sambodhimuttamaṃ.
Ngài đã vượt lên trên sự
hoài nghi, đã vượt qua sự lưỡng lự, đã tròn đủ tâm tư, đã đạt đến
quả Toàn Giác tối thượng.
773. Anuppannassa maggassa uppādetā naruttamo,
anakkhātañca akkhāsi asañjātañca sañjanī.
Đấng Tối Thượng Nhân là
người khai mở con đường chưa được khai mở, là vị đã nói về điều
chưa được nói đến, và đã nhận thức điều chưa được nhận thức.
774. Maggaññū ca maggavidū maggakkhāyī
narāsabho,
maggassa kusalo satthā sārathīnaṃ varuttamo.
Đấng Nhân Ngưu là vị biết
được Đạo lộ, là vị rành mạch về Đạo lộ, là vị thuyết về Đạo lộ.
Được thiện xảo về Đạo lộ, đấng Đạo Sư là cao quý tối thượng trong
số các bậc điều ngự (người điều khiển xe).
775. Mahākāruṇiko satthā dhammaṃ desesi nāyako,
nimugge kāmapaṅkamhi samuddharati pāṇino.
Đấng Đại Bi, bậc Đạo Sư,
vị Lãnh Đạo đã thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài kéo lên những chúng
sanh (đang) bị đắm chìm trong đầm lầy ái dục.
776. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā
khattiyanandanā,
surūpā sadhanā cāsiṃ dayitā ca sirīmatī.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra ở tại Haṃsavatī, là niềm hoan hỷ của dòng Sát-đế-lỵ. Và tôi đã
có sắc đẹp tuyệt vời, có tài sản, được yêu quý, và có sự vẻ vang.
777. Ānandassa mahārañño dhītā paramasobhanā,
vemātu bhaginī cāpi padumuttaranāmino.
Là người con gái vô cùng
xinh đẹp của vị đại vương Ānanda, và cũng là người em gái khác mẹ
của vị (Phật) tên Padumuttara.
778. Rājakaññāhi sahitā sabbābharaṇabhūsitā,
upagamma mahāvīraṃ assosiṃ dhammadesanaṃ.
Được tháp tùng bởi các
người con gái của đức vua, được trang điểm với tất cả các đồ trang
sức, tôi đã đi đến đấng Đại Hùng và đã lắng nghe lời thuyết Pháp.
779. Tadā hi so lokagaru bhikkhuniṃ
dibbacakkhukaṃ,
kittayaṃ parisāmajjhe aggaṭṭhāne ṭhapesi taṃ.
Chính vào khi ấy, bậc Thầy
của thế gian ấy ở giữa các chúng đã tán dương vị tỳ khưu ni có
thiên nhãn và đã thiết lập vị ni ấy vào vị thế tối thắng.
780. Suṇitvā tamahaṃ haṭṭhā dānaṃ datvāna
satthuno,
pūjetvāna ca sambuddhaṃ dibbacakkhuṃ apatthayiṃ.
Sau khi nghe điều ấy, được
mừng rỡ tôi đã dâng vật thí đến bậc Đạo Sư. Và sau khi cúng
dường đến bậc Toàn Giác, tôi đã ước nguyện về thiên nhãn.
781. Tato avoca maṃ satthā “nande lacchasi
patthitaṃ,
padīpadhammadānānaṃ phalametaṃ sunicchitaṃ.
Do đó, bậc Đạo Sư đã nói
với tôi rằng: “Này người thiếu nữ vui
vẻ, con sẽ đạt được điều đã ước nguyện. Điều đã khéo được mong
muốn này là quả báu của các việc cúng dường đèn và Giáo Pháp.
782. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
783. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
sakulā nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”
(Người
nữ này) sẽ trở
thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp,
có tên là Sakulā.”
784. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
785. Imamhi bhaddake kappe brahmabandhu
mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.
Ở vào kiếp Bhadda này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của
đấng Phạm Thiên.
786. Paribbājakinī āsiṃ tadā ’haṃ ekacārinī,
bhikkhāya vicaritvāna alabhiṃ telamattakaṃ.
Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ
ngoại đạo có hạnh độc hành. Sau khi đi lang thang để khất thực tôi
đã nhận được một số lượng dầu thắp.
787. Tena dīpaṃ padīpetvā upaṭṭhiṃ
sabbasaṃvariṃ,
cetiyaṃ dipadaggassa vippasannena cetasā.
Sau khi thắp sáng ngọn đèn
với số (dầu) đó, với tâm ý trong sạch tôi đã phục vụ ngôi bảo tháp
của đấng Tối Thượng Nhân trọn cả đêm.
788. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
789. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa
vāhasā,
pajjalanti mahādīpā tattha tattha gatāya me.
Do tác động của nghiệp ấy,
ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, ở chính tại các nơi ấy có các ngọn
đèn lớn chiếu sáng khi tôi đi đến.
790. Tirokuḍḍaṃ tiroselaṃ samatiggayha
pabbataṃ,
passām’ ahaṃ yadicchāmi dīpadānassidaṃ phalaṃ.
Nếu tôi muốn, tôi (có thể)
nhìn thấy ngọn núi sau khi đã vượt lên xuyên qua bức tường, xuyên
qua tảng đá; điều này là quả báu của việc cúng dường đèn.
791. Visuddhanayanā homi yasasā ca jalām’ ahaṃ,
saddhāpaññāvatī ceva dīpadānassidaṃ phalaṃ.
Tôi có cặp mắt trong ngần,
và tôi chói sáng với danh vọng, lại còn có đức tin và trí tuệ nữa;
điều này là quả báu của việc cúng dường đèn.
792. Pacchime ca bhavedāni jātā vippakule ahaṃ,
pahūtadhanadhaññamhi mudite rājapūjite.
Và trong kiếp sống cuối
cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình Bà-la-môn có nhiều
tài sản và lúa gạo, được hài lòng, được đức vua tôn trọng.
793. Ahuṃ sabbaṅgasampannā sabbābharaṇabhūsitā,
purappavese sugataṃ vātapāne ṭhitā ahaṃ.
Được phú cho toàn vẹn cơ
thể, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, đứng ở cửa sổ
tôi (đã nhìn thấy) đấng Thiện Thệ ở lối đi vào thành.
794. Disvā jalantaṃ yasasā devamānusasakkataṃ,
anubyañjanasampannaṃ lakkhaṇehi vibhūsitaṃ.
Tôi đã nhìn thấy Ngài đang
chói sáng với danh vọng, được trọng vọng bởi chư thiên và nhân
loại, được hội đủ các tướng phụ, được điểm tô bằng những tướng
chính.
795. Udaggacittā sumanā pabbajjaṃ samarocayiṃ,
na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ.
Với tâm phấn chấn, với
thiện ý, tôi đã xin xuất gia. Trong thời gian không bao lâu tôi đã
thành tựu phẩm vị A-la-hán.
796. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā.
Là người thực hành theo
lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về
thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
797. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāsiṃ sunimmalā.
Tôi biết được đời sống
trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả
các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
798. Pariciṇṇo mahā satthā kataṃ buddhassa
sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.
Bậc Đạo Sư đã được tôi
phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng
nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
799. Yassatthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto tibbasaṃyojanakkhayo.
Vì mục đích nào tôi đã rời
khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy
tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
800. Tato mahākāruṇiko etadagge ṭhapesi maṃ,
“Dibbacakkhukīnaṃ aggā sakulā”ti naruttamo.
Do đó, đấng Đại Bi, bậc
Tối Thượng Nhân đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng “Sakulā
là vị ni đứng đầu trong các vị ni có thiên nhãn.”
801. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
802. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
803. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Sakulā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Sakulā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Sakulātheriyāpadānaṃ catutthaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Sakulā là phần thứ tư.
--ooOoo--
25.
Nandājanapadakalyāṇī apadānaṃ
25. Ký Sự về
Nandā - Mỹ Nhân của Xứ Sở:
804. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
805. Ovādako viññāpako kārako sabbapāṇinaṃ,
desanākusalo buddho tāresi janataṃ bahuṃ.
Là vị giáo giới, vị làm
cho hiểu rõ, vị hành xử đối với tất cả chúng sanh, là thiện xảo
trong việc chỉ dạy, đức Phật đã giúp cho nhiều chúng sanh vượt
qua.
806. Anukampako kāruṇiko hitesī sabbapāṇinaṃ,
sampatte titthiye sabbe pañcasīle patiṭṭhahi.
Là bậc Thương Tưởng, đấng
Bi Mẫn, vị Ẩn Sĩ hữu ích đối với tất cả chúng sanh, Ngài đã an trú
vào ngũ giới cho tất cả các ngoại đạo đã đi đến.
807. Evaṃ nirākulaṃ āsi suññakaṃ titthiyehi ca,
vicittaṃ arahantehi vasībhūtehi tādihi.
Như thế, được tô điểm với
các vị A-la-hán có được năng lực như thế ấy, (thế gian) đã không
bị rối loạn và không có các ngoại đạo.
808. Ratanānaṭṭhapaññāsaṃ uggato so mahāmuni,
kañcanagghiyasaṅkāso battiṃsavaralakkhaṇo.
Bậc Đại Hiền Triết ấy có
ba mươi hai quý tướng, cao năm mươi tám
ratana (14.50 m) tợ như cây cột trụ bằng vàng.
809. Vassasatasahassāni āyu vijjati tāvade,
tāvatā tiṭṭhamāno so tāresi janataṃ bahuṃ.
Cho đến khi ấy, tuổi thọ
được biết là một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại như thế, Ngài đã
giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
810. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule
ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappite.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô
số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.
811. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ
dhammadesanaṃ,
amataṃ paramassādaṃ paramatthanivedakaṃ.
Tôi đã đi đến đấng Đại
Hùng ấy và đã lắng nghe lời thuyết giảng Giáo Pháp Bất Tử, có phẩm
vị tối thắng, làm rõ về chân lý tuyệt đối.
812. Tadā nimantayitvāna sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ,
datvā tassa mahādānaṃ pasannā sehi pāṇihi.
Khi ấy, được tịnh tín tôi
đã thỉnh mời đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng và đã cúng
dường đại thí đến vị ấy bằng hai bàn tay của mình.
813. Jhāyinīnaṃ bhikkhunīnaṃ aggaṭṭhānaṃ
apatthayiṃ,
nipacca sirasā vīraṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.
Tôi đã quỳ xuống đê đầu
đến bậc Anh Hùng đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, tôi đã
ước nguyện vị thế tối thắng trong số các tỳ khưu ni chứng thiền.
814. Tadā adantadamako tilokasaraṇo pabhū,
vyākāsi narasaddūlo lacchase taṃ supatthitaṃ.
Khi ấy, bậc Điều Phục
những ai chưa được điều phục, đấng Nương Nhờ của ba cõi, vị Chúa
Tể, bậc Nhân Báo đã chú nguyện rằng: “Con
sẽ đạt được điều đã khéo được ước nguyện ấy.
815. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
816. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
nandāti nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”
(Người
nữ này) sẽ trở
thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp,
có tên là Nandā.”
817. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā
jinaṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.
Nghe được điều ấy, tôi đã trở
nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến
Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
818. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã
đi đến cõi trời Đạo Lợi.
819. Tato cutā yāmamagaṃ tato ’haṃ tusitaṃ
agaṃ,
tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato.
Từ nơi ấy chết đi, tôi đã
đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó
đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
820. Yattha yatthūpapajjāmi tassa kammassa
vāhasā,
tattha tattheva rājānaṃ mahesittamakārayiṃ.
Do tác động của nghiệp ấy,
ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi
chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
821. Tato cutā manussatte rājānaṃ
cakkavattīnaṃ,
maṇḍalīnañca rājānaṃ mahesittamakārayiṃ.
Từ nơi ấy chết đi (sanh)
vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của
các vị Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.
822. Sampattiṃ anubhotvāna devesu manujesu ca,
sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsariṃ.
Tôi đã thọ hưởng sự thành
đạt ở giữa chư thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các
nơi, và đã luân hồi qua nhiều (đại) kiếp.
823. Pacchime bhave sampatte puramhi
kapilavhaye,
rañño suddhodanassāhaṃ dhītā āsiṃ aninditā.
Khi đạt đến kiếp sống cuối
cùng, tôi đã là người con gái hoàn hảo của đức vua Suddhodana tại
thành phố tên là Kapila.
824. Siriṃva rūpiniṃ disvā nanditaṃ āsi taṃ
kulaṃ,
tena nandāti me nāmaṃ sundaropapadaṃ ahū.
Nhìn thấy (tôi) có nét đẹp
vô cùng rạng rỡ, gia đình ấy đã trở nên vui vẻ; vì thế tôi có tên
là “Nandā” (vui vẻ). Tôi đã được
công nhận là xinh đẹp.
825. Yuvatīnañca sabbāsaṃ kalyāṇīti ca vissutā,
tasmimpi nagare ramme ṭhapetvā ca yasodharā.
Và cũng ở trong thành phố
đáng yêu ấy, tôi đã được nổi danh là “Mỹ
nhân” trong số tất cả các thiếu nữ ngoại trừ Yasodharā.
826. Jeṭṭho bhātā tilokaggo pacchimo arahā
tathā,
ekākinī gahaṭṭhāhaṃ mātarā paricoditā.
Người anh trai đầu là đấng
Cao Cả của tam giới, cũng vậy người út là vị A-la-hán. Mỗi một
mình tôi là người tại gia, tôi đã bị mẹ quở trách rằng:
827. “Sākiyamhi kule jātā putte buddhānujā
tuvaṃ,
nandenapi vinā bhūtā agāre kinnu vacchasi?
“Này
con, được sanh trong gia tộc dòng Sakya (Thích Ca), con là em gái
của đức Phật. Con cũng không còn có Nanda nữa, việc gì con lại ở
tại gia?
828. Jarāvasānaṃ yobbaññaṃ rūpaṃ asucisammataṃ,
rogantampi ca ārogyaṃ jīvitaṃ maraṇantikaṃ.
Tuổi trẻ có sự già là nơi cư ngụ, xác thân được
xem là bất tịnh, vô bệnh cũng có bệnh là điểm cuối cùng, mạng sống
có sự chết là nơi chấm dứt.
829. Idampi te subhaṃ rūpaṃ sasikantaṃ
manoharaṃ,
bhūsanānamalaṅkāraṃ sirisaṅghātasannibhaṃ.
Sắc thân này của con dầu là xinh đẹp, được yêu
dấu như là mặt trăng, quyến rũ, có sự trang điểm của những đồ
trang sức như là được gắn liền với sự rạng rỡ.
830. Piṇḍitaṃ lokasāraṃva nayanānaṃ rasāyanaṃ,
puññānaṃ kittijananaṃ okkākakulanandanaṃ.
(Sắc thân này của con) được gộp chung lại thuần
sự tinh túy của thế gian, là sự đem lại chất vị cho những con mắt,
là sự sản xuất ra danh thơm của các điều phước thiện, là niềm vui
của gia tộc Okkāka.
831. Na cireneva kālena jarā samatibhossati,
vihāya gehaṃ tāruññe cara dhammamanindite.
Vào thời gian chẳng bao lâu nữa, sự già sẽ ngự
trị. Này cô gái trẻ, hãy từ bỏ gia đình. Này cô gái hoàn hảo, hãy
thực hành Giáo Pháp.”
832. Sutvā ’haṃ mātuvacanaṃ pabbajiṃ
anagāriyaṃ,
dehena na tu cittena rūpayobbanalālitā.
Được vui thích với sắc đẹp
và tuổi trẻ, sau khi nghe lời nói của người mẹ, tôi đã xuất gia
vào cuộc sống không gia đình bằng thân chứ không phải bằng tâm.
833. Mahatā ca
payattena jhānajjhenaparaṃ mamaṃ,
kātuṃ ca vadate mātā na cāhaṃ tattha ussukā.
Và với sự cố gắng lớn lao,
tôi đã suy tưởng về điều vô cùng trái ngược. Và (việc) người mẹ
bảo làm, tôi đã không năng nổ về việc ấy.
834. Tato mahākāruṇiko disvā maṃ kāmalālasaṃ,
nibbindanatthaṃ rūpasmiṃ mama cakkhupathe jino.
Do đó, bậc Đại Bi, đấng
Chiến Thắng, đã nhìn thấy tôi có lòng khao khát về các dục, và đối
với tôi ý nghĩa của sự nhàm chán về xác thân là qua lộ trình của
mắt.
835. Sakena anubhāvena itthiṃ māpesi sobhaniṃ,
dassanīyaṃ suruciraṃ mamatopi surūpiniṃ.
Bằng năng lực tự thân,
Ngài đã làm hiện ra người phụ nữ lộng lẫy, đáng nhìn, rất dễ
thương, vô cùng xinh đẹp hơn hẳn luôn cả tôi.
836. Tamahaṃ vimhitā disvā ativimhitadehiniṃ,
cintayiṃ saphalaṃ meti nettalābhañca mānusaṃ.
Sau khi nhìn thấy người nữ
có thân thể vô cùng kinh ngạc ấy, bị sửng sốt, và tôi đã suy nghĩ
về sự lợi ích thuộc về nhân gian đối với con mắt rằng: “Có
quả báu đến ta.”
837. Tamahaṃ ehi subhage yenattho taṃ vadehi
me,
kulaṃ te nāmagottañca vada me yadi te piyaṃ.
Này cô em yêu dấu, hãy đến với tôi đây. Có cần
gì nàng hãy nói với tôi. Hãy nói với tôi về gia đình, tên, dòng họ
của nàng nếu nàng ưng ý.
838. Na pañhakālo subhage ucchaṅge maṃ
nivesaya,
sīdantīva mamaṅgāni supasuppaya muhuttakaṃ.
Này cô em yêu dấu, không phải là lúc hỏi han.
Hãy cho tôi tựa vào lòng. Tay chân của tôi như là chìm xuống. Nàng
hãy ru tôi ngủ một chốc.”
839. Tato sīsaṃ mamaṅke sā katvā sayi sulocanā,
tassā nalāṭe patitā lūtā paramadāruṇā.
Sau đó, nàng có đôi mắt
xinh đẹp ấy đã kê đầu vào hông của tôi rồi đã thiếp đi. Có con
nhện vô cùng ghê rợn đã rơi xuống ở trán của nàng.
840. Saha tassā nipātena piḷakā uppajjatha,
pagghariṃsu pabhinnā ca kuṇapā pubbalohitā.
Cùng với sự rơi xuống của
con nhện ấy, mụn nhọt đã nổi lên. Chúng đã rò rỉ, vỡ ra, và toàn
thân là mủ và máu.
841. Pabhinnaṃ vadanaṃ cāsi kuṇapaṃ
pūtigandhikaṃ,
uddhumātaṃ vinilañca vipubbañca sarīrakaṃ.
Và khuôn mặt đã bị nứt nẻ,
thi thể có mùi hôi thối. Toàn thân bị trương lên, đổi sang màu
tím, và thối rửa.
842. Sā pavedhitasabbaṅgī nissasantī muhuṃ
muhuṃ,
vedayantī sakaṃ dukkhaṃ karuṇaṃ paridevayī.
Nàng ấy, có toàn thể các
bộ phận bị run rẩy, chốc chốc lại bị hụt hơi, trong khi cảm nhận
sự khổ đau của mình, đã than vãn một cách thê lương rằng:
843. “Dukkhena dukkhitā homi phusayanti ca
vedanā,
mahādukkhe nimuggāmhi saraṇaṃ hohi me sakhī.”
“Tôi
bị khổ sở vì nỗi đau đớn, và các cảm thọ được chạm đến, tôi bị đắm
chìm trong nỗi khổ đau lớn lao. Này cô bạn gái, bạn hãy là nơi
nương nhờ của tôi.”
844. “Kuhiṃ vadanasobhā te kuhiṃ te
tuṅganāsikā,
tambabimbavaroṭṭhaṃ te vadanaṃ te kuhiṃ gataṃ.
“Vẻ
đẹp ở khuôn mặt của cô đâu rồi? Lỗ mũi cao của cô đâu rồi? Làn môi
màu đỏ của trái cây bimba tuyệt hảo của cô, khuôn mặt của cô đã đi
đâu rồi?
845. Kuhiṃ sasinibhaṃ vattaṃ kambugīvā kuhiṃ
gatā,
doḷālālā ca te kaṇṇā vevaṇṇaṃ samupāgatā.
Gương mặt tợ như mặt trăng đâu rồi? Chiếc cổ ba
ngần đã đi đâu rồi? Và các lỗ tai run rẩy lung linh của cô đã đi
đến tình trạng thay đổi rồi.
846. Makuḷamburuhākārā kalasāva payodharā,
pabhinnā pūtikuṇapā duggandhittamāgatā.
Bộ ngực có hình dáng đóa hoa sen còn dạng chồi
tợ như bầu nước đã trở thành thi thể hôi thối, bị phân rã, có mùi
khó chịu.
847. Tanumajjhā puthussoṇi sūnā vaṇitakibbisā,
jātā amejjhabharitā aho rūpaṃ asassataṃ.
Eo thon, mông đầy đặn, bị sưng lên, có sự lở
lói và độc hại, trở thành nơi chứa đầy vật không trong sạch; ôi
xác thân là không vĩnh viễn!
848. Sabbaṃ sarīrasañjātaṃ pūtigandhaṃ
bhayānakaṃ,
susānamiva bībhacchaṃ ramante yattha bālisā.”
Toàn bộ nguồn gốc của thân thể là có mùi hôi
thối, có sự hãi sợ, như là bãi tha ma kinh hoàng, lại là nơi mà
những kẻ ngu hứng thú!”
849. Tadā mahākāruṇiko bhātā me lokanāyako,
disvā saṃviggacittaṃ maṃ imā gāthā abhāsatha.
Khi ấy, sau khi nhìn thấy
tôi có tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, người
anh trai của tôi, đã nói lên những lời kệ này :
850. “Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ passa nande
samussayaṃ,
asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ susamāhitaṃ.
“Này
Nandā, hãy nhìn thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối. Em hãy tu
tập tâm về đề mục bất mỹ (tử thi) trở thành chuyên nhất, khéo được
tập trung.
851. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā
idaṃ,
duggandhaṃ pūtikaṃ vāpi bālānaṃ abhinanditaṃ.
Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác
kia như thế nào thì thân này như vậy, có mùi khó chịu hoặc hôi
thối lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
852. Evametaṃ avekkhantī rattindivamatanditā,
tato satāya paññāya abhinibbijja dakkhasi.”
Trong khi xem xét xác thân này như thế ngày và
đêm không mệt mỏi, từ đó với niệm với tuệ sau khi đã nhàm chán thì
em sẽ nhìn thấy.”
853. Tato ’haṃ atisaṃviggā sutvā gāthā
subhāsitā,
tatraṭṭhitā vipassantī arahattamapāpuṇiṃ.
Do đó, sau khi nghe được
các lời kệ khéo thuyết, tôi đã bị vô cùng chấn động. Đứng tại chỗ
ấy, trong lúc quán sát tôi đã đạt được quả vị A-la-hán.
854. Yattha yattha nisinnāhaṃ sadā
jhānaparāyanā,
jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi maṃ.
Ngồi xuống ở bất cứ nơi
nào, tôi luôn luôn có mục đích chính là thiền. Hoan hỷ về đức hạnh
ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.
855. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
856. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
857. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Nandā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Nandā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Nandātheriyāpadānaṃ pañcamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Nandā là phần thứ năm.
--ooOoo--
26. Soṇāpadānaṃ
26. Ký Sự về
Soṇā:
858. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
859. Tadā seṭṭhikule jātā sukhitā pūjitā piyā,
upetvā taṃ munivaraṃ assosiṃ madhuraṃ vacaṃ.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra trong gia đình triệu phú, được hạnh phúc, được tôn vinh, yêu
quý. Tôi đã đi đến bậc Hiền Triết cao quý ấy và đã lắng nghe lời
nói ngọt ngào.
860. Āraddhaviriyānaggaṃ vaṇṇesi bhikkhuniṃ
jino,
taṃ sutvā muditā hutvā kāraṃ katvāna satthuno.
Đấng Chiến Thắng đã tán
dương vị tỳ khưu ni là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức
tinh tấn. Sau khi nghe được điều ấy, trở nên hoan hỷ, tôi đã thể
hiện sự thành kính đến bậc Đạo Sư.
861. Abhivādiya sambuddhaṃ taṃ ṭhānaṃ patthayiṃ
tadā,
anumodi mahāvīro “sijjhataṃ paṇidhī tava.
Khi ấy, tôi đã đảnh lễ bậc
Toàn Giác và đã ước nguyện vị thế ấy. Đấng Đại Hùng đã nói lời tùy
hỷ rằng: “Ước nguyện của con sẽ được
thành tựu.
862. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
863. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
soṇāti nāma nāmena hessasi satthusāvikā.”
(Người nữ này) sẽ trở thành nữ thinh văn của
bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh
thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Soṇā.”
864. Taṃ sutvā muditā hutvā yāvajīvaṃ tadā
jinaṃ,
mettacittā paricariṃ paccayehi vināyakaṃ.
Nghe được điều ấy, tôi đã trở
nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến
Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
865. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
866. Pacchime ca bhavedāni jātā saṭṭhikule
ahaṃ,
sāvatthiyaṃ puravare iddhe phīte mahaddhane.
Và trong kiếp sống cuối
cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc,
thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.
867. Yadā ca yobbanappattā gantvā patikulaṃ
ahaṃ,
dasaputtāni ajaniṃ surūpāni visesato.
Và khi đã đạt đến tuổi
trưởng thành, tôi đã đi đến nhà người chồng và đã sanh ra mười
người con trai, hết thảy đều có vóc dáng hoàn hảo.
868. Sukhedhitā ca te sabbe jananettamanoharā,
amittānampi te rucitā mamaṃ pageva te piyā.
Và tất cả bọn chúng đều
được nuôi dưỡng trong sung sướng, có sự
quyến rũ ánh mắt của mọi người. Ngay cả đối với những kẻ nghịch
thù, chúng cũng được ưa thích. Chúng được yêu mến còn hơn cả tôi
nữa.
869. Tato mayhaṃ akāmāya dasaputtapurakkhato,
pabbajittha sa me bhattā devadevassa sāsane.
Sau đó, với sự không mong
muốn của tôi, người chồng ấy của tôi được khích lệ bởi mười người
con trai đã xuất gia trong Giáo Pháp của vị Chúa chư Thiên.
870. Tadekikā vicintesiṃ jīvitenālamatthu me,
cattāya patiputtehi vuḍḍhāya ca varākiyā.
Khi ấy, còn mỗi một mình
tôi đã suy xét rằng: “Đã đủ cho cuộc
sống của ta là người bị chồng và những người con trai bỏ rơi, lại
già cả, và thảm thương.
871. Ahampi tattha gacchissaṃ sampatto yattha
me patī,”
evāhaṃ cintayitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ.
Ta cũng sẽ đi đến nơi nào mà người chồng của ta
đã đạt đến.” Sau khi suy xét như
thế, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình.
872. Tato ca maṃ bhikkhuniyo evaṃ
bhikkhunupassaye,
vihāya gacchumovādaṃ “tāpehi udakaṃ” iti.
Và sau đó, các vị tỳ khưu
ni đã để tôi ở lại tu viện của các tỳ khưu ni như thế rồi đã đi
(nghe) giáo giới (bảo rằng): “Bà hãy
đun nóng nước.”
873. Tadā udakamāhitvā okiritvāna kumbhiyā,
cullyaṃ ṭhapetvā āsīnā tato cittaṃ samādahiṃ.
Khi ấy, tôi đã đem nước
lại đổ vào trong nồi, sau đó đặt ở bếp lửa, rồi đã ngồi xuống. Do
đó tâm đã được định tĩnh.
874. Khandhe aniccato disvā dukkhato ca
anattato,
chetvāna āsave sabbe arahattamapāpuṇiṃ.
Sau khi nhìn thấy các uẩn
là vô thường, là khổ não, và là vô ngã, tôi đã cắt đứt tất cả các
lậu hoặc và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
875. Tadā ’gantvā bhikkhuniyo
uṇhodakamapucchisuṃ,
tejodhātuṃ adhiṭthāya khippaṃ santāpayiṃ jalaṃ.
Khi ấy, các vị tỳ khưu ni
sau khi quay lại đã hỏi về nước nóng. Sau khi chú nguyện vào bản
thể của lửa, tôi đã đun nóng nước một cách mau chóng.
876. Vimhitā tā jinavaraṃ etamatthamasāvayuṃ,
taṃ sutvā mudito nātho imaṃ gāthaṃ abhāsatha:
Ngạc nhiên, các vị ni ấy
đã trình lại sự việc này đến đấng Chiến Thắng cao quý. Sau khi
nghe điều ấy, được hoan hỷ, đấng Bảo Hộ đã nói lên lời kệ này:
877. Yo ce vassasataṃ jīve kusīto hīnavīriyo,
ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo viriyamārabhato daḷhaṃ.”
“Và
người nào đã sống trăm năm, lười biếng, có sự tinh tấn thấp thỏi,
cuộc sống một ngày là tốt hơn đối với người đang ra sức tinh tấn
một cách bền bĩ.”[4]
878. Ārādhito mahāvīro mama suppaṭipattiyā,
āraddhaviriyānaggaṃ mamāha sa mahāmuni.
Được hài lòng với sự thực
hành tốt đẹp của tôi, đấng Đại Hùng, bậc Đại Hiền Triết ấy đã nói
tôi là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn.
879. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
880. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
881. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Soṇā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Soṇā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Soṇātheriyāpadānaṃ chaṭṭhaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Soṇā là phần thứ sáu.
--ooOoo--
27.
Bhaddākāpilāni-apadānaṃ
27. Ký Sự về
Bhaddākāpilānī:
882. Padumuttaro nāma jino sabbadhammesu
pāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
883. Tadāhu haṃsavatiyaṃ videho nāma nāmato,
seṭṭhi pahūtaratano tassa jāyā ahos’ ahaṃ.
Khi ấy, ở tại Haṃsavatī có
người triệu phú tên là Videha có rất nhiều châu báu. Tôi đã là vợ
của người ấy.
884. Kadāci so narādiccaṃ upecca saparijjano,
dhammamassosi buddhassa sabbadukkhakkhayāvahaṃ.
Có lần nọ, người ấy cùng
nhóm tùy tùng đã đi đến đấng Mặt Trời của nhân loại và đã lắng
nghe Giáo Pháp đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau của đức Phật.
885. Sāvakaṃ dhutavādānaṃ aggaṃ kittesi nāyako,
sutvā sattāhikaṃ dānaṃ datvā buddhassa tādino.
Đấng Lãnh Đạo đã ngợi khen
vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị thuyết về sự giũ bỏ (pháp
đầu-đà). Sau khi lắng nghe, chồng tôi đã cúng dường vật thí đến
đức Phật như thế ấy trong bảy ngày.
886. Nipacca sirasā pāde taṃ ṭhānaṃ
abhipatthayi,
sa hāsayanto parisaṃ tadā hi narapuṅgavo.
Chồng tôi trong khi làm
hội chúng vui vẻ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã ước nguyện
vị thế ấy. Chính vào khi ấy, đấng Cao Quý của loài người ...
887. Seṭṭhino anukampāya imā gāthā abhāsatha:
“Lacchase patthitaṃ ṭhānaṃ nibbuto hohi puttaka.
... vì lòng thương tưởng
đến người triệu phú, đã nói những lời kệ này: “Này
con trai, ngươi sẽ đạt được vị thế đã ước nguyện rồi ngươi hãy
Niết Bàn.
888. Satasahasse ito kappe
okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
889. Tassa dhammesu dāyādo oraso dhammanimmito,
kassapo nāma nāmena hessasi satthusāvako.”
(Người
nam này) sẽ trở thành nam thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp,
có tên là Kassapa.”
890. Taṃ sutvā mudito hutvā yāvajīvaṃ tadā
jinaṃ,
mettacitto paricari paccayehi vināyakaṃ.
Nghe được điều ấy, chồng tôi
đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái chồng tôi đã chăm sóc
đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc
đời.
891. Sāsanaṃ jotayitvāna madditvā ca
kutitthiye,
veneyye vinayitvā ca nibbuto so sasāvako.
Vị (Phật) ấy đã làm chói
sáng Giáo Pháp, đã chế phục các ngoại đạo, đã hướng dẫn những ai
đáng được hướng dẫn, rồi đã Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn.
892. Nibbute tamhi lokagge pūjanatthāya
satthuno,
ñātimitte samānetvā saha tehi akārayi.
Khi đấng Cao Cả của thế
gian ấy đã Niết Bàn, nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư chồng
tôi đã tập hợp các bạn bè thân quyến rồi cùng với những người ấy
đã cho xây dựng ...
893. Sattayojanikaṃ thūpaṃ ubbiddhaṃ
ratanāmayaṃ,
jalantaṃ sataraṃsīva sālarājaṃva phullitaṃ.
... ngôi bảo tháp làm bằng
châu báu cao bảy do-tuần, chói sáng như là trăm ánh hào quang,
được mở rộng ra như là hoa Sālā
chúa.
894. Sattasatasahassāni pātiyo tattha kārayi,
naḷaggi viya jotantī rataneheva sattahi.
Tại nơi ấy, chồng tôi đã
cho thực hiện bảy trăm ngàn chiếc đĩa nhỏ bằng chính bảy loại châu
báu, chúng đang chói sáng như là ngọn lửa của cây sậy.
895. Gandhatelena pūretvā dīpānujjālayi tahiṃ,
pūjatthāya mahesissa sabbabhūtānukampino.
Chồng tôi đã cho đổ đầy
với dầu thơm rồi đã cho thắp sáng các ngọn đèn tại nơi ấy nhằm mục
đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Bi Mẫn của mọi sanh linh.
896. Satta satasahassāni puṇṇakumbhāni kārayi,
rataneheva puṇṇāni pūjatthāya mahesino.
Chồng tôi đã cho thực hiện
bảy trăm ngàn chậu đầy đặn được chứa đầy với thuần các loại châu
báu nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ.
897. Majjhe aṭṭhaṭṭhakumbhīnaṃ ussitā
kañcanagghiyā,
atirocanti vaṇṇena saradeva divākaro.
Ở giữa của mỗi nhóm tám
chậu là những vật giá trị như vàng được chất đống. Chúng sáng rực
với màu sắc tợ như ánh mặt trời vào mùa thu
898. Catudvāresu sobhanti toraṇā ratanāmayā,
ussitā phalakā rammā sobhanti ratanāmayā.
Chiếu sáng ở bốn cửa là
các vòm cổng làm bằng châu báu. Chiếu sang là những tấm ván xinh
xắn làm bằng châu báu được dựng đứng.
899. Virocanti parikkhittā avataṃsā sunimmitā,
ussitāni paṭākāni ratanāni virocare.
Chói sáng là các lẳng hoa
khéo tạo ra được đặt vòng quanh. Chói sáng là các cờ xí bằng châu
báu được dựng đứng.
900. Surattaṃ sukataṃ cetaṃ cetiyaṃ
ratanāmayaṃ,
atirocati vaṇṇena sasañjhova divākaro.
Và ngôi bảo điện làm bằng
ngọc quý này khéo được tô màu, khéo được thực hiện, sáng rực với
màu sắc tợ như mặt trời vào lúc hoàng hôn.
901. Thūpassa vediyo tisso haritālena pūrayi,
ekaṃ manosilāyekaṃ añjanena ca ekikaṃ.
Ngôi bảo tháp có ba bệ
thờ. Chồng tôi đã chất đầy một bệ với đá màu vàng, một bệ với đá
màu đỏ, một bệ với đá màu đen.
902. Pūjametādisaṃ rammaṃ kāretvā varavādino,
adāsi dānaṃ saṅghassa yāvajīvaṃ yathābalaṃ.
Sau khi đã cho thực hiện
việc cúng dường đáng yêu như thế ấy đến bậc Thuyết Giảng cao quý,
chồng tôi đã dâng vật thí đến hội chúng tùy theo năng lực cho đến
hết cuộc đời.
903. Sahāhaṃ seṭṭhinā tena tāni puññāni
sabbaso,
yāvajīvaṃ karitvāna sahāva sugatiṃ gatā.
Sau khi đã cùng với người
triệu phú ấy thực hiện toàn bộ những việc phước báu ấy cho đến hết
cuộc đời, tôi đã đi đến cõi an vui cùng với chính người ấy.
904. Sampattiyonubhotvāna devatte atha mānuse,
chāyā viya sarīrena saha teneva saṃsariṃ.
Sau khi đã thọ hưởng sự thành
công ở bản thể chư thiên rồi nhân loại, tôi đã luân hồi
cùng với chính người ấy
như là hình bóng với xác thân vậy.
905. Ekanavute ito kappe vipassī nāma nāyako,
uppajji cārunayano sabbadhammavipassako.
Trước đây chín mươi mốt
kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, vị có ánh mắt thu hút, vị
thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi
906. Tadā ’yaṃ bandhumatiyaṃ brāhmaṇo
sādhusammato,
aḍḍho satthāgamen’ āsi dhanena ca suduggato.
Khi ấy ở tại Bandhumatī,
người này là vị Bà-la-môn được xem là thánh thiện, giàu có
nhờ vào sự đạt được kiến thức, và đã bị lâm
vào cảnh vô cùng khó khăn về tài sản.
907. Tadāpi tass’ ahaṃ āsiṃ brahmaṇī
samacetasā,
kadāci so dijavaro saṃgamesi mahāmuniṃ.
Cũng vào khi ấy, với tâm ý
tương đồng tôi đã là nữ Bà-la-môn của người ấy. Có lần, người
Bà-la-môn cao quý ấy đã đi đến bậc Đại Hiền Triết.
908. Nisinnaṃ janakāyasmiṃ desentaṃ amataṃ
padaṃ,
sutvā dhammaṃ pamudito adāsi ekasāṭakaṃ.
(Đức Phật) ngồi ở đám
người đang thuyết giảng về đạo lộ Bất Tử. Sau khi nghe Pháp, được
hoan hỷ người ấy đã cúng dường một tấm vải choàng.
909. Gharamekena vatthenāganvānetaṃ mamabravi,
anumoda mahāpuññe dinnaṃ buddhassa sāṭakaṃ.
Quay về lại nhà với một
mảnh vải, người ấy đã nói với tôi điều này: “Nàng
hãy tùy hỷ việc phước lớn lao; tấm vải choàng đã được dâng đến đức
Phật.”
910. Tadā ’haṃ añjaliṃ katvā anumodiṃ supīṇitā,
sudinno sāṭako sāmi buddhaseṭṭhassa tādino.
Khi ấy, hài lòng xiết bao
tôi đã chắp tay lên nói lời tùy hỷ rằng: “Phu
quân à, tấm vải choàng là đã khéo được dâng đến đức Phật tối
thượng như thế ấy.”
911. Sukhito sajjito hutvā saṃsaranto
bhavābhāvo,
bārāṇasipure ramme rājā āsi mahīpati.
Được an vui, trở nên gắn
bó, trong khi luân hồi cõi này cõi khác, người ấy đã trở thành đức
vua, vị chủ tể trái đất ở thành phố Bārāṇasī đáng yêu.
912. Tadā tassa mahesīhaṃ itthigumbassa uttamā,
tassātidayitā āsiṃ pubbasnehena bhattuno.
Khi ấy,
tôi trở thành chánh hậu
của người ấy, là tối cao trong đám nữ nhân. Tôi đã được cảm tình
rất mực của người ấy do sự yêu mến trước đây của chồng.
913. Piṇḍāya vicarante so aṭṭha paccekanāyake,
disvā pamudito hutvā datvā piṇḍaṃ mahārahaṃ.
Sau khi nhìn thấy tám vị
Lãnh Đạo Độc Giác đang đi quanh để khất thực, vị ấy đã trở nên
hoan hỷ và đã dâng thức ăn vô cùng giá trị.
914. Puno nimantayitvāna katvā ratanamaṇḍapaṃ,
kammārehi kataṃ chattaṃ sovaṇṇaṃ satahatthakaṃ.
Sau khi thỉnh mời lần nữa,
vị ấy đã thực hiện mái che bằng châu báu. Lọng che bằng vàng
(rộng) trăm cánh tay đã được những người thợ rèn kiến thiết.
915. Samānetvāna te sabbe tesaṃ dānamadāsi so,
soṇṇāsanopaviṭṭhānaṃ pasanno sehi pāṇihi.
Sau khi đã hướng dẫn tất
cả các ngài ấy tiến vào các chỗ ngồi bằng vàng, được tịnh tín vị
ấy đã dâng cúng vật thí đến các ngài ấy bằng hai bàn tay của mình.
916. Tampi dānaṃ sah’ ādāsiṃ kāsirājen’ ahaṃ
tadā,
punāhaṃ bārāṇasiyaṃ ajāyiṃ dvāragāmake.
Khi ấy, tôi cũng đã dâng
cúng vật thí ấy cùng với đức vua xứ Kāsi. Tôi đã được sanh ra ở
Bārāṇasī lần nữa, tại ngôi làng nhỏ ngoại thành.
917. Kuṭumbikakule phīte sukhito so sabhātuko,
jeṭṭhassa bhātuno jāyā ahosiṃ supatibbatā.
(Sanh ra) ở trong gia đình
giàu có thịnh vượng, người ấy được an lạc, có em trai. Tôi đã là
người vợ vô cùng chung thủy của người anh cả.
918. Paccekabuddhaṃ disvāna mama
bhattukanīyasī,
bhāgannaṃ tassa datvāna āgate tamhi pāvadi.
Sau khi nhìn thấy vị Phật
Độc Giác, người em gái của chồng tôi đã dâng phần cơm đến vị ấy,
rồi khi chồng tôi đi đến đã thuật lại.
919. Nābhinandittha so dānaṃ tato tassa adās’
ahaṃ,
ūkhā āniya taṃ annaṃ puno tasseva so adā.
Chồng tôi không hoan hỷ
với việc cúng dường. Do đó, tôi đã lấy lại phần cơm ấy từ bình bát
rồi đã trao cho chồng. Chồng tôi đã cúng dường (phần cơm ấy) một
lần nữa đến chính vị Phật ấy.
920. Tadannaṃ chaḍḍhayitvāna duṭṭhā buddhass’
ahaṃ tadā,
pattaṃ kalalapuṇṇaṃ taṃ adāsiṃ tassa tādino.
Khi ấy, tôi đã quăng bỏ đi
phần cơm ấy và đã độc ác đối với đức Phật. Tôi đã dâng bình bát ấy
chứa đầy bùn đến vị Phật như thế ấy.
921. Dāne ca gahaṇe ceva amejjhe padume yathā,
samacittamukhaṃ disvā tadāhaṃ saṃvijiṃ bhusaṃ.
Về vật cho cũng như việc
nhận giống như là vật không trong sạch và đóa hoa sen, khi ấy tôi
đã nhìn khuôn mặt có tâm bình thản và đã vô cùng chấn động.
922. Puno pattaṃ gahetvāna sodhayitvā
sugandhinā,
pasannacittā pūretvā saghataṃ sakkharaṃ adaṃ.
Sau khi nhận lại bình bát,
tôi đã làm sạch bằng chất thơm, rồi với tâm tịnh tín, tôi đã chứa
đầy với bơ lỏng và đã dâng lên một cách cung kính.
923. Yattha yatthūpapajjāmi surūpā homi dānato,
buddhassa apakārena duggandhā vadanena ca.
Ở bất cứ nơi đâu tôi được
sanh ra, tôi đều có sắc xinh đẹp do sự bố thí và có mùi hôi do lời
nói và do thái độ không phải phép đối với đức Phật.
924. Puna kassapavīrassa niṭṭhāyantamhi cetiye,
sovaṇṇa-iṭṭhakavaraṃ adāsiṃ muditā ahaṃ.
Lần khác, khi ngôi bảo
điện của đấng Chiến Thắng Kassapa đang được hoàn tất, được hoan hỷ
tôi đã cúng dường phiến ngói cao quý bằng vàng.
925. Catujjātena gandhena nicayitvā
tamiṭṭhakaṃ,
muttā duggandhadosamhā sabbaṅgasusamāgatā.
Tôi đã tẩm phiến ngói ấy
bằng hương thơm sanh lên từ bốn nguồn. Tôi đã được thoát khỏi
khuyết điểm về mùi hôi thối và đã được thành tựu tốt đẹp về toàn
bộ các phần thân thể.
926. Sattapātisahassāni rataneheva sattahi,
kāretvā ghatapūrāni vaṭṭiyo ca sahassaso.
(Chồng tôi) đã cho thực
hiện bảy ngàn cái đĩa bằng chính bảy loại châu báu chứa đầy bơ
lỏng và hàng ngàn tim đèn.
927. Pakkhipitvā padīpetvā ṭhapayī
sattapantiyo,
pūjatthaṃ lokanāthassa vippasannena cetasā.
Với tâm ý thanh tịnh, sau
khi đã đặt (tim đèn) vào và thắp sáng, vị ấy đã xếp thành bảy hàng
nhằm mục đích cúng dường đến bậc Lãnh Đạo Thế Gian.
928. Tadāpi tamhi puññamhi bhāginī ’haṃ
visesato,
puna kāsisu sañjāto sumitto iti vissuto.
Khi ấy, tôi cũng có phần
đóng góp đặc biệt trong việc phước thiện ấy. Vị ấy đã được sanh ra
ở xứ Kāsi lần nữa, được nổi danh là Sumitta.
929. Tassāhaṃ bhariyā āsiṃ sukhitā sajjitā
piyā,
tadāpi paccekamunino adāsi ghanaveṭhanaṃ.
Tôi đã là vợ của người ấy,
được an vui, được gắn bó, được yêu quý. Khi ấy, người ấy cũng đã
dâng đến vị Hiền Triết Độc Giác tấm vải choàng bền chắc.
930. Tassāpi bhāginī āsiṃ moditvā dānamuttamaṃ,
punāpi kāsiraṭṭhamhi jāto koliyajātiyā.
Tôi đã hoan hỷ về việc bố
thí tối thượng và cũng đã có phần trong việc ấy. Vị ấy cũng đã
sanh ra lần nữa trong quốc độ Kāsi thuộc dòng dõi Koliya.
931. Tadā koliyaputtānaṃ satehi saha pañcahi,
pañca paccekabuddhānaṃ satāni samupaṭṭhahi.
Khi ấy, cùng với năm trăm
người con trai dòng Koliya, vị ấy đã hộ độ năm trăm vị Phật Độc
Giác.
932. Temāsaṃ tappayitvāna adāsi ca ticīvaraṃ,
jāyā tassa tadā āsiṃ puññakammapathānugā.
Và sau khi đã làm hài lòng
(chư Phật Độc Giác) trong ba tháng, vị ấy đã dâng ba y. Khi ấy, đi
theo lộ trình của nghiệp phước thiện tôi đã là vợ của vị ấy.
933. Tato cuto ahu rājā nando nāma mahāyaso,
tassāpi mahesī āsiṃ sabbakāmasamiddhinī.
Từ nơi ấy chết đi, vị ấy
đã trở thành vị vua tên là Nanda có danh tiếng vĩ đại. Tôi cũng đã
trở thành chánh hậu của vị ấy, có sự thành
tựu về tất cả các điều dục lạc.
934. Tadā ca so bhavitvāna brahmadatto
mahīpati,
padumavatīputtānaṃ paccekamuninaṃ tadā.
Và khi ấy, vị ấy đã trở
thành vị chúa tể Brahmadatta. Khi ấy, đối với các bậc Hiền Triết
Độc Giác con trai của bà Padumavatī, ...
935. Satāni pañc’ anūnāni yāvajīvaṃ upaṭṭhahi,
rājuyyāne nivāsetvā nibbutāni ca pūjayi.
... vị ấy đã hộ độ năm
trăm vị không thiếu vị nào cho đến hết cuộc đời. Chư Phật Độc Giác
đã cư ngụ tại vườn hoa của đức vua rồi đã Niết Bàn, và vị ấy đã
tôn vinh.
936. Cetiyāni ca kāretvā pabbajitvā ubho mayaṃ,
bhāvetvā appamaññāyo brahmalokaṃ aggamhase.
Và sau khi cho xây dựng
các ngôi bảo điện, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Sau khi tu tập
các vô lượng (tâm), chúng tôi đã đi đến cõi Phạm Thiên.
937. Tato cuto mahātitthe sujāto pipphalāyano,
mātā sumanadevīti kosiyagotto dijo pitā.
Từ nơi ấy chết đi, người
ấy đã được sanh ra tại Mahātittha là Pipphalāyana.
Mẹ là Sumanadevī, cha là người Bà-la-môn dòng tộc Kosiya.
938. Ahaṃ maddajanapade sāgalāyaṃ puruttame,
kapilassa dijass’ āsiṃ dhītā mātā sucīmatī.
Tôi đã là người con gái
của vị Bà-la-môn Kapila, mẹ là Sucīmatī, tại kinh thành Sāgalā
trong xứ sở Madda.
939. Ghanakañcanabimbena nimmiṇitvāna maṃ pitā,
adā kassapadhīrassa kāmāsāvajjitassa maṃ.
Sau khi tạo ra tôi với
hình tượng bằng vàng khối, người cha đã gã tôi cho bậc trí Kassapa
là người đã kiêng cử các dục.
940. Kadāci so kāruṇiko gantvā
kammantapekkhanaṃ,
kākādikehi khajjante pāṇe disvāna saṃviji.
Vào lúc nọ, vị có lòng bi
mẫn ấy đã đi xem xét công việc làm. Sau khi nhìn thấy các sinh vật
bị những loài như là quạ, v.v... ăn thịt, vị ấy đã bị chấn động.
941. Ghare cāhaṃ tile jāte disvānātapatāpane,
kimi kākehi khajjante saṃvegamalabhiṃ tadā.
Và tôi ở nhà, sau khi nhìn
thấy những cây mè mọc lên trong sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời
và loài sâu bọ bị các con quạ ăn thịt, khi ấy tôi đã có sự động
tâm.
942. Tadā so pabbajī dhīro ahaṃ tamanupabbajiṃ,
pañca vassāni nivasiṃ paribbājavate ahaṃ.
Khi ấy, con người sáng
suốt ấy đã xuất gia. Tôi đã xuất gia theo vị ấy. Tôi đã sống theo
hạnh du sĩ ngoại đạo trong năm năm.
943. Yadā pabbajitā āsi gotamī jinaposikā,
tadā ’haṃ tamupāgantvā buddhena anusāsitā.
Đến khi bà Gotamī người
nuôi dưỡng đấng Chiến Thắng đã được xuất gia, khi ấy tôi đã đi
theo bà ấy và đã được chỉ dạy bởi đức Phật.
944. Na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ,
aho kalyāṇamittattaṃ kassapassa sirīmato.
Trong thời gian không bao
lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Ôi, tính chất bạn hữu tốt
lành đối với vị Kassapa vinh quang!
945. Suto buddhassa dāyādo kassapo susamāhito,
pubbe nivāsaṃ yo vedi saggāpāyañca passati.
Kassapa là con trai, là
người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, nhìn thấy được
cõi trời và địa ngục, và là vị đã biết được đời sống trước đây.
946. Atho jātikkhayaṃ patto abhiññāvosito muni,
etāhi tīhi vijjāhi tevijjo hoti brāhmaṇo.
Rồi (vị ấy) đã đạt đến sự
diệt tận của sự sanh, là vị hiền triết được hoàn hảo về thắng trí,
với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có tam minh.
947. Tatheva bhaddā kāpilānī tevijjā
maccuhāyinī,
dhāreti antimaṃ dehaṃ jetvā māraṃ savāhiniṃ.
Tương tợ như thế ấy,
Bhaddā Kāpilānī là vị ni có tam minh, có sự dứt bỏ Tử Thần, mang
thân mạng cuối cùng sau khi đã chiến thắng Ma Vương cùng với đạo
quân binh.
948. Disvā ādīnavaṃ loke ubho pabbajitā mayaṃ,
tyamhā khīṇāsavā dantā sītibhūtāmha nibbutā.
Sau khi nhìn thấy điều tai
hại ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các
lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái
mát mẻ, Niết Bàn.
949. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
950. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
951. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Bhaddākāpilānī bhikkhunī imā
gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Bhaddākāpilānī
đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Bhaddākāpilānitheriyāpadānaṃ sattamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Bhaddākāpilānī là phần thứ bảy.
--ooOoo--
28.
Yasodharāpadānaṃ
28. Ký Sự về
Yasodharā:
952. Ekasmiṃ samaye ramme iddhe rājagahe pure,
pabbhāramhi varekasmiṃ vasante naranāyake.
Vào một thuở nọ, đấng Lãnh
Đạo nhân loại đang ngự tại một sườn núi cao quý ở thành Rājagaha
đáng yêu, trù phú.[5]
953. Vasantiyā tamhi nagare ramme
bhikkhunupassaye,
yasodharābhikkhuniyā evaṃ āsi vitakkitaṃ:
Khi đang cư ngụ ở trong
thành phố ấy tại trú xứ đáng yêu của các tỳ khưu ni, đã có suy
nghĩ như vầy khởi đến vị tỳ khưu ni Yasodharā rằng:
954. “Nando rāhulabhaddo ca sāvakaggā tatheva
ca,
suddhodano mahārājā gotamī ca pajāpatī.
“Nanda,
Rāhula hiền thiện, và tương tợ y như thế (hai) vị tối thượng Thinh
Văn, đại vương Suddhodana, và bà Gotamī Pajāpatī, ...
955. Abhiññātā ca mahātherā theriyo ca
mahiddhikā,
santiṃ gatāva āsuṃ te dīpaccīva nirāsavā.
...
các vị đại trưởng lão đã đạt thắng trí,
và các trưởng lão ni có đại thần lực, các vị ấy đã ngự đến nơi an
tịnh không còn lậu hoặc như là tim của cây đèn hết nhiên liệu.
956. Lokanāthe dharanteva ahampi ca sivaṃ
padaṃ,
gamissāmī’ti cintetvā passantī āyumattano.
Và luôn cả ta nữa cũng sẽ đi đến vị thế an toàn
ngay trong khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian còn hiện tiền.”
Trong khi xem xét tuổi thọ của mình, vị ni đã suy nghĩ như thế.
957. Passitvā āyusaṅkhāraṃ tadaheva khayaṃ
gataṃ,
pattacīvaramādāya nikkhamitvā sakassamā.
Sau khi xem xét thọ hành
sẽ đi đến sự hoại diệt trong chính ngày hôm ấy, vị ni đã cầm lấy
bình bát và y rồi rời khỏi chốn tịnh cư của mình.
958. Purakkhatā bhikkhunīhi satehi sahassehi
sā,
mahiddhikā mahāpaññā sambuddhaṃ upasaṅkami.
Vị ni có đại thần lực có
đại trí tuệ ấy đã dẫn đầu một trăm ngàn tỳ khưu ni đi đến bậc Toàn
Giác.
959. Sambuddhaṃ abhivādetvā satthuno
cakkalakkhino,
nisinnā ekamantamhi idaṃ vacanamabravi:
Sau khi đảnh lễ bậc Toàn
Giác, vị ni ấy đã ngồi xuống ở một bên và đã nói lời nói này với
bậc Đạo Sư là vị có dấu hiệu bánh xe:
960. “Aṭṭhasattativassā ’haṃ pacchimo vattate
vayo,
pabbhāraṃ hi anuppattā ārocemi mahāmune.
“Bạch
đấng Đại Hiền Triết, con đã bảy mươi tám tuổi. Giai đoạn cuối cùng
của tuổi tác đang tiến đến. Con đã đạt đến ngay ở sườn dốc, con
xin thưa rõ.
961. Paripakko vayo mayhaṃ parittaṃ mama
jīvitaṃ,
pahāya vo gamissāmi kataṃ me saraṇamattano.
Sự tiêu hoại của con đã chín muồi, mạng sống
của con còn chút ít. Rời bỏ Ngài, con sẽ ra đi. Sự nương nhờ của
bản thân đã được con thực hiện.
962. Vayaṃ hi
pacchime kāle maraṇaṃ uparundhati,
ajja rattiṃ mahāvīra pāpuṇissāmi nibbutiṃ.
Bởi vì ở thời điểm cuối cùng sự tiêu hoại dừng
lại là sự chết. Bạch đấng Đại Hùng, hôm nay vào ban đêm con sẽ
thành tựu Niết Bàn.”
963. Natthi jāti jarā vyādhi maraṇañca yahiṃ
mune,
tattha gacchām’ ahaṃ vīra gato yattha na dissati.
Bạch đấng Hiền Triết, (Niết Bàn) là nơi không
có sự sanh, sự già, sự bệnh và sự chết. Bạch đấng Anh Hùng, nơi
nào đã đi đến là không còn được nhìn thấy thì con đi đến nơi ấy.
964. Yāvatā parisā ettha samupāsanti satthuno,
aparādhaṃ pajānanti khamantaṃ sammukhā mune.
Bạch đấng Hiền Triết, cho đến nhóm người của
bậc Đạo Sư ngồi chung ở nơi đây (nếu) nhận biết lỗi lầm (nào của
tôi), xin quý vị hãy tha thứ ở trước mặt.
965. Saṃsaritvā ca saṃsāre khalitaṃ ce mamaṃ
tayi,
ārocemi mahāvīra aparādhaṃ khamassu me.
Và sau khi đã xoay vần trong vòng luân hồi, nếu
có điều sai trái của con đối với Ngài, bạch đấng Đại Hùng con xin
thưa rõ, xin Ngày hãy tha thứ lỗi lầm cho con.”
966. Sutvāna tassā vacanaṃ munindo idamabravi,
kimuttaraṃ te vakkhāmi nibbānāya vajantiyā.
Sau khi lắng nghe lời nói
của vị ni ấy, đấng Hiền Triết Vương đã nói điều này: “Ta
sẽ nói điều gì hơn về nàng là người đang đi đến Niết Bàn?
967. Iddhiṃ cāpi nidassehi mama sāsanakārike,
parisānañca sabbāsaṃ kaṅkhaṃ chindassu sāsane.
Và nàng cũng nên thị hiện thần thông cho các vị
hành theo Giáo Pháp của Ta được thấy. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ
về Giáo Pháp cho tất cả các chúng.”
968. Sutvā taṃ munino vācaṃ bhikkhunī sā
yasodharā,
vanditvā munirājaṃ taṃ idaṃ vacanamabravi:
Sau khi lắng nghe lời nói
của bậc Hiền Triết ấy, vị tỳ khưu ni Yasodharā ấy đã đảnh lễ đấng
Hiền Triết Vương ấy và đã nói lời nói này:
969. “Yasodharā ahaṃ vīra agāre te pajāpati.
sākiyamhi kule jātā itthīyaṅge patiṭṭhitā.
“Bạch
đấng Anh Hùng, con là Yasodharā, ở tại gia là người vợ của Ngài.
Được sanh ra trong gia tộc Sakya, con đã duy trì phận sự của người
nữ.
970. Thīnaṃ satasahassānaṃ navutīnaṃ
chaḷuttari,
agāre te ahaṃ vīra pāmokkhā sabba-issarā.
Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi
sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, con là người đứng đầu, là người
chủ quản tất cả.
971. Rūpācāraguṇūpetā yobbanaṭṭhā piyaṃvadā,
sabbā maṃ apacāyanti devatā viya mānusā.
Là người có được sắc đẹp, tánh tình, và đức
hạnh, ở vào tuổi trẻ, có lời nói đáng yêu, tất cả chư thiên cũng
như loài người đều quý trọng con.
972. Kaññāsahassappamukhā sakyaputtanivesane,
samānasukhadukkhā tā devatā viya nandane.
Con đứng đầu một ngàn thiếu nữ ở trong cung của
người con trai dòng Sakya. Các cô ấy cùng vui buồn giống nhau tợ
như chư thiên ở (vườn hoa) Nandana.
973. Kāmadhātumatikkantā saṇṭhitā rūpadhātuyā,
rūpena sadisā natthi ṭhapetvā lokanāyakaṃ.”
Con đã vượt lên trên lãnh vực dục tình, được
khẳng định về mặt thể hình, không có người tương đương về sắc đẹp
ngoại trừ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.”
974. Evamādīni vatvāna uppatitvāna ambaraṃ,
iddhi anekā dassesi buddhānuññā yasodharā.
Sau khi đã nói như thế,
v.v... Yasodharā, với sự cho phép của đức Phật, đã bay lên không
trung và đã thị hiện vô số thần thông.
975. Cakkavāḷasamaṃ kāyaṃ sīsaṃ uttarato kuru,
ubho pakkhā duve dīpā jambudīpo sarīrato.
(Yasodharā đã thị hiện) cơ
thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc,
hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu,[6]
...
976. Dakkhiṇañca saraṃ piñjaṃ nānāsākhā tu
pattakā,
cando ca suriyo akkhi merupabbatato sikhā.
... và đuôi công là cái hồ
ở phía nam nhưng các cánh chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng
và mặt trời là mắt, núi Meru là chóp đỉnh, ...
977. Cakkavāḷagiri tuṇḍaṃ jamburukkhaṃ
samūlakaṃ,
vījamānā upāgantvā vandate lokanāyakaṃ.
...ngọn núi của bầu vũ trụ
là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây
quạt), vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
978. Hatthivaṇṇaṃ tathev’ assaṃ pabbataṃ
jaladhiṃ tathā,
candimaṃ suriyaṃ meruṃ sakkavaṇṇañca dassayi.
Tương tợ y như thế, vị ni
đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi
mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.
979. “Yasodharā ahaṃ vīra pāde vandāmi
cakkhuma,”
sahassaṃ lokadhātūnaṃ phullapadmena chādayi.
“Bạch
đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn
chân (Ngài). Con đã che khuất một ngàn thế giới bằng đóa sen nở rộ.”
980. Brahmavaṇṇañca māpetvā dhammaṃ desesi
suññataṃ,
“Yasodharā ahaṃ vīra pāde vandāmi cakkhuma.
Và sau khi hóa hiện ra vóc
dáng của đấng Brahma, vị ni đã thuyết giảng Giáo Pháp về không
tánh. “Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng
Hữu Nhãn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).
981. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homi mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã có năng lực về
các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí
biết tâm của người khác.
982. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.
Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn
được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây
không còn tái sanh nữa.
983. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
ñāṇaṃ mayhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike.
Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về
pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được
thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
984. Buddhānaṃ lokanāthānaṃ saṅgamaṃ te
sudassitaṃ,
adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya mahāmune.
Sự hội tụ của chư Phật là các đấng Lãnh Đạo Thế
Gian đã được Ngài nhìn thấy rõ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, có nhiều
hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài.
985. Yaṃ mayhaṃ purimaṃ kammaṃ kusalaṃ sarase
mune,
tuyhatthāya mahāvīra puññaṃ upacitaṃ mayā.
Bạch đấng Hiền Triết, xin Ngài nhớ lại thiện
nghiệp trước đây của con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được
con tích lũy là nhằm mục đích về Ngài.
986. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā vārayitvā anācaraṃ,
tuyhatthāya mahāvīra sañcattaṃ jīvitaṃ mayā.
Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những
nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống
đã được con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.
987. Nekakoṭisahassānaṃ bhariyatthāya ’dāsi
maṃ,
na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con
nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi[7]
lần. Con không có bất bình về điều ấy
là nhằm mục đích về Ngài.
988. Nekakoṭisahassānaṃ upakārāya ’dāsi maṃ,
na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con vì
sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về
điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
989. Nekakoṭisahassānaṃ bhojanatthāya ’dāsi
maṃ,
na tattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí con
nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con
không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
990. Nekakoṭisahassāni jīvitāni pariccajiṃ,
bhayamokkhaṃ karissaṃ ti cajāmi mama jīvitaṃ.
Con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Con từ
bỏ mạng sống của con (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thực hiện sự giải thoát
khỏi nỗi sợ hãi.’
991. Aṅgagate alaṅkāre vatthe nānāvidhe bahū,
itthimaṇḍe na gūhāmi tuyhatthāya mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, con không cất giấu
các đồ trang sức được dùng cho cơ thể, nhiều vải vóc các loại, các
vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.
992. Dhanadhaññapariccāgaṃ gāmāni nigamāni ca,
khettā puttā ca dhītā ca pariccattā mahāmune.
Con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các làng, và
các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, các ruộng vườn, những người
con trai, và con gái là đã được dứt bỏ.
993. Hatthī assā gavā cāpi dāsiyo paricārikā,
tuyhatthāya mahāvīra pariccattā asaṅkhiyā.
Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những
con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ
là nhằm mục đích về Ngài.
994. Yaṃ mayhaṃ paṭimantesi dānaṃ dassāmi
yācake,
vimanaṃ me na passāmi dadato dānamuttamaṃ.
Về việc Ngài bảo con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí
đến người hành khất,’ con không nhìn thấy sự bất bình của con
trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.
995. Nānāvidhaṃ bahuṃ dukkhaṃ saṃsāre ca
bahubbidhe,
tuyhatthāya mahāvīra anubhuttaṃ asaṅkhiyaṃ.
Bạch đấng Đại Hùng,con đã trải qua nhiều khổ
đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi trong nhiều
hình thức là nhằm mục đích về Ngài.
996. Sukhappattā na modāmi na ca dukkhesu
dummanā,
sabbattha tulitā homi tuyhatthāya mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, đạt được sung sướng
con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau,
con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.
997. Anumaggena sambuddho yaṃ dhammaṃ
abhinīhari,
anubhutvā sukhaṃ dukkhaṃ patto bodhiṃ mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, theo con đường bậc
Toàn Giác đã phát nguyện về pháp (giải thoát), Ngài đã trải qua
lạc khổ và đã đạt đến sự giác ngộ.
998.
Brahmadevañca sambuddhaṃ gotamaṃ lokanāyakaṃ,
aññesaṃ lokanāthānaṃ saṅgamā te bahū mayā.
Bạch vị trời Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng
Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, đối với các đấng Hộ Trì Thế Gian khác,
Ngài với con đã có nhiều lần gặp gỡ.
999. Adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya
mahāmune,
gavesato buddhadhamme ahaṃ te paricārikā.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều hành động hướng
thượng của con là nhằm mục đích về Ngài. Con là nữ tỳ của Ngài
trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.”
1000. Kappe satasahasse ca caturo ca asaṅkhiye,
dīpaṅkaro mahāvīro uppajji lokanāyako.
Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và
một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian
Dīpaṅkara đã hiện khởi.
1001. Paccantadesavisaye nimantetvā tathāgataṃ,
tassa āgamanaṃ maggaṃ sodhenti tuṭṭhamānasā.
Sau khi đã thỉnh mời đức
Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường
đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.
1002. Tena kālena so āsi sumedho nāma brāhmaṇo,
maggañca paṭiyādesi āyato sabbadassino.
Vào thời điểm ấy, vị ấy đã
là người Bà-la-môn tên Sumedha và đã sửa soạn con đường của đấng
Toàn Tri đang đi đến.
1003. Tena kālen’ ahaṃ āsiṃ kaññā
brāhmaṇasambhavā,
sumittā nāma nāmena upagañchiṃ samāgamaṃ.
Vào thời điểm ấy, con đã
là người thiếu nữ xuất thân Bà-la-môn tên Sumittā. Con đã đi đến
cuộc tụ hội.
1004. Aṭṭha uppalahatthāni pūjanatthāya
satthuno,
ādāya janasammejjha addasaṃ isimuggataṃ.
Con đã cầm tám nắm hoa sen
nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư. Con đã nhìn thấy vị ẩn sĩ
được nổi bậc ở giữa đám người.
1005. Cīrānupari āsīnaṃ atikantaṃ manoharaṃ,
disvā tadā amaññissaṃ “Saphalaṃ jīvitaṃ mama.”
Sau khi nhìn thấy con
người đang ngồi khoác áo vỏ cây vô cùng đáng yêu, quyến rũ đang
ngồi, khi ấy con đã nghĩ rằng: ‘Mạng
sống của ta là có kết quả.’
1006. Parakkamaṃ taṃ saphalaṃ addasaṃ isino
tadā,
pubbakammena sambuddhe cittañcāpi pasīdi me.
Khi ấy, con đã nhìn thấy
sự nỗ lực ấy của vị ẩn sĩ có được kết quả. Do nghiệp quá khứ, tâm
của con cũng đã tịnh tín vào đấng Toàn Giác.
1007. Bhiyyo cittaṃ pasādesiṃ ise uggatamānase,
deyyaṃ aññaṃ na passāmi demi pupphāni te ise.
Con đã có tâm tịnh tín hơn
nữa đối với vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng. (Con đã nói rằng):
‘Này vị ẩn sĩ, tôi không nhìn thấy vật nào khác nên được cúng
dường, tôi cho ông các đóa hoa.
1008. Pañca hatthā tava hontu tayo hontu mamaṃ
ise,
tena siddhi samā hotu bodhatthāya tavaṃ ise.
Này vị ẩn sĩ, hãy là của ông năm nắm, hãy là
của tôi ba nắm. Này vị ẩn sĩ, như thế sự thành tựu hãy là bằng
nhau đối với mục đích giác ngộ của Ngài.’
Bhāṇavāraṃ catutthaṃ.
Tụng Phẩm thứ tư.
1009. Isi gahetvā pupphāni āgacchantaṃ
mahāyasaṃ,
pūjesi janasammajjhe bodhatthāya mahā-isiṃ.
Sau khi cầm lấy các đóa
hoa, vị ẩn sĩ nhằm mục đích giác ngộ, ở giữa đám người, đã cúng
dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ có danh tiếng vĩ đại đang đi đến.
1010. Passitvā janasammajjhe dīpaṅkaro
mahāmuni,
viyākāsi mahāvīro isiṃ uggatamānasaṃ.
Bậc Đại Hiền Triết
Dīpaṅkara, đấng Đại Hùng đã nhìn thấy ở giữa đám người và đã chú
nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng rằng:
1011. Samacittā samakammā samakārī bhavissati,
piyā hessati kammena tuyhatthāya mahā-ise.
‘Này
vị đại ẩn sĩ, (người nữ này) sẽ có tâm tương đương, có nghiệp
tương đương, có hành động tương đương, sẽ trở thành người vợ do
nghiệp báu đối với mục đích của ngươi.’
1012. Sudassanā suppiyā ca manāpā piyavādinī,
tassa dhammesu dāyādā piyā hessati itthikā.
(Người nữ này) có dáng nhìn xinh đẹp, vô cùng
đáng yêu, vui vẻ, có lời nói đáng mến, sẽ trở thành người vợ yêu
quý, người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy.
1013. Yathāpi bhaṇḍasāmuggaṃ anurakkhanti
sāmino,
evaṃ kusaladhammānaṃ anurakkhissate ayaṃ.
Cũng giống như các người chủ gìn giữ cái rương
của cải, người nữ này sẽ hộ trì như thế ấy đối với các thiện pháp.
1014. Tassa te anukampantī pūrayissati pāramī,
sīhova pañjaraṃ bhetvā pāpuṇissati bodhiyaṃ.
Trong khi thương tưởng đến ngươi đây, (người nữ
này) sẽ làm tròn đủ các pháp toàn hảo, sẽ đạt được quả vị giác ngộ
tương tợ như con sư tử phá vỡ cái chuồng.’
1015. Aparimeyye ito kappe yaṃ maṃ buddho
viyākari,
taṃ vācaṃ anumodantī evaṃkārī bhaviṃ ahaṃ.
Ấy là điều đức Phật đã chú
nguyện cho con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói
ấy, con đã là người có hành động như vậy.
1016. Tassa kammassa sukatassa tattha cittaṃ
pasādayiṃ,
devamānusakaṃ yoniṃ upapajja asaṅkhiyaṃ.
Tại nơi ấy, con đã có tâm
tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy. Con đã
sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.
1017. Anubhotvā sukhaṃ dukkhaṃ devesu mānusesu
ca,
pacchime bhave sampatte ajāyiṃ sākiye kule.
Con đã trải qua lạc khổ ở
các cõi trời và ở loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con
đã sanh ra trong gia tộc Sakya.
1018. Rūpavatī bhogavatī yasasīlavatī tathā,
sabbaṅgasampadā homi kusalesu atisakkatā.
Con có sắc đẹp, có của
cải, có danh vọng và giới hạnh tương tợ như thế. Con có sự thành
tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng về các điều lành.
1019. Lābhaṃ silokaṃ sakkāraṃ
lokadhammasamāgamaṃ,
cittañca dukkhitaṃ natthi vasāmi akutobhayā.
Lợi lộc, danh vọng, cung
kính, sự tổng hợp các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không
có, con sống không sợ hãi.[8]
1020. Nibbinditvāna saṃsāre pabbajiṃ
anagāriyaṃ,
sahassaparivārena pabbajitvā akiñcanā.
Con đã nhàm chán các sự
luôn hồi và đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Sau khi xuất
gia cùng với một ngàn người hầu cận, con không có gì.
1021. Agāraṃ vijahitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ,
addhamāse asampatte catusaccaṃ apāpuṇiṃ.
Sau khi từ bỏ gia đình,
con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt đến nửa
tháng, con đã đạt được bốn Sự Thật.
1022. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ
sayanāsanaṃ,
upanentī bahū neke sāgarasseva ūmiyo.
Nhiều người, không phải
một, đem lại y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như
các làn sóng của biển cả.
1023. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của con đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không
còn lậu hoặc.
1024. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, con đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1025. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Con đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; con đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
1026. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampatti ca
bahubbidhā,
visuddhabhāvaṃ sampattā labhāmi sabbasampadā.
Như vậy là có khổ đau đa
dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh
tịnh, con nhận lãnh mọi sự thành tựu.
1027. Sā dadāti sakattānaṃ puññatthāya
mahesino,
sahāyasampadā honti nibbānapadamasaṅkhataṃ.
Nàng ấy bố thí chính bản
thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ. Họ có sự thành
tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.
1028. Parikkhīṇaṃ atītaṃ ca paccuppannaṃ
anāgataṃ,
sabbaṃ kammaṃ mamaṃ khīṇaṃ pāde vandāmi cakkhuma.
“Quá
khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của con
đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn chân
(Ngài).”
Itthaṃ sudaṃ Yasodharā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Yasodharā đã
nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Yasodharātheriyāpadānaṃ aṭṭhamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni Yasodharā là phần thứ tám.
--ooOoo--
29.
Dasabhikkhunīsahassāpadānaṃ
29. Ký Sự về
10.000 vị Tỳ Khưu Ni:
1029. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye,
dīpaṅkaro nāma jino uppajji lokanāyako.
Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và
một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng, vị Lãnh Đạo Thế Gian tên là
Dīpaṅkara đã hiện khởi.
1030. Dīpaṅkaro mahāvīro viyākāsi vināyako,
sumedhaṃ ca sumittaṃ ca samānasukhadukkhataṃ.
Đấng Đại Hùng, bậc Hướng
Đạo Dīpaṅkara đã chú nguyện Sumedha và Sumittā là có trạng thái an
lạc và khổ đau giống như nhau.
1031. Sadevakaṃ
ca passantā vicarantā sadevakaṃ,
tesaṃ pakittane amhe upagamma samāgamaṃ.
Trong lúc cùng với chư
thiên nhìn thấy và trong lúc đi đó đây cùng với chư thiên, chúng
con đã đi đến nơi tụ hội vào dịp tuyên dương của hai người ấy.
1032. Amhaṃ sabbapati hohi anāgatasamāgame,
sabbāva tuyhaṃ bhariyā manāpā piyavādikā.
“Trong
lần tụ hội ở ngày vị lai, xin ngài hãy là chồng của tất cả chúng
tôi. Hết thảy tất cả sẽ là những người vợ vui vẻ, có lời nói đáng
yêu của ngài.”
1033. Dānasīlamayaṃ sabbaṃ bhāvanā ca
subhāvitā,
dīgharattaṃ ca no sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune.
“Bạch
đấng Đại Hiền Triết, tất cả chúng con có bố thí với trì giới, và
tham thiền đã khéo được tu tập. Và tất cả đã được chúng con buông
bỏ từ lâu.
1034. Gandhaṃ vilepanaṃ mālaṃ dīpaṃ ca
ratanāmayaṃ,
yaṃ kiñci patthitaṃ sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, bất cứ điều gì đã
được ao ước (như là) hương thơm, vật thoa, tràng hoa, đèn, vật làm
bằng châu báu, tất cả đều được buông bỏ.
1035. Aññaṃ cāpi kataṃ kammaṃ paribhogaṃ ca
mānusaṃ,
dīgharattaṃ hi no sabbaṃ pariccattaṃ mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, và luôn cả nghiệp nào
khác đã được thực hiện cũng như sự thụ hưởng thuộc về nhân loại,
tất cả đã được chúng con buông bỏ lâu lắm rồi.”
1036. Anekajātisaṃsāraṃ bahuṃ puññaṃ hi no
kataṃ,
issaramanubhotvāna saṃsaritvā bhavābhave.
Trong khi luân hồi nhiều
kiếp sống, chúng con đã làm được nhiều phước báu. Chúng con đã thọ
hưởng quyền thế và đã luân hồi cõi này cõi khác.
1037. Pacchimabhave sampatte
sakyaputtanivesane,
nānākulūpapannāyo accharā kāmavaṇṇinī.
Khi đạt đến kiếp sống cuối
cùng ở trong cung của người con trai dòng Sakya, chúng con đã được
sanh ra trong nhiều gia tộc khác nhau, là những mỹ nhân có ái dục
và sắc đẹp.
1038. Lābhaggena yasaṃ pattā pūjitā
sabbasakkatā,
lābhiyo annapānānaṃ sadā sammānitā mayaṃ.
Chúng con đã đạt đến danh
vọng cùng với lợi lộc tột cùng, được tôn vinh, được tất cả tôn
trọng, luôn luôn được cung cấp các lợi lộc về cơm ăn nước uống.
1039. Agāraṃ pajahitvāna pabbajitvānagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte sabbā pattāmha nibbutiṃ.
Sau khi từ bỏ gia đình,
chúng con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt
đến nửa tháng, tất cả chúng con đã đạt đến Niết Bàn.
1040. Lābhiyo annapānānaṃ vatthasenāsanāni ca,
upenti paccayā sabbe sadā sakkatapūjitā.
Nhiều người đem lại mọi
thứ lợi lộc về cơm ăn nước uống, y phục và chỗ nằm ngồi. Chúng con
luôn luôn được tôn kính cúng dường.
1041. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā.
Các phiền não của chúng
con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi
cắt đứt sự trói buộc như là những con voi cái (đã được cởi trói),
chúng con sống không còn lậu hoặc.
1042. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, chúng con đã
thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của
đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1043. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Chúng con đã đắc chứng bốn
(tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã
thực hành lời dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Yasodharāpamukhāni
dasabhikkhunīsahassāni bhagavato sammukhā imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Mười ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu
là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như
thế ấy.
Dasabhikkhunīsahassāpadānaṃ navamaṃ.
Ký sự về mười ngàn vị
tỳ khưu ni là phần thứ chín.
--ooOoo--
30.
Aṭṭhārasabhikkhunīsahassāpadānaṃ
30. Ký Sự về
18.000 vị Tỳ Khưu Ni:
1044. Aṭṭhārasasahassāni bhikkhunī
sakyasambhavā,
yasodharāpamukhāni sambuddhaṃ upasaṅkamuṃ.
Mười tám ngàn vị tỳ khưu
ni xuất thân dòng Sakya đứng đầu là Yasodharā đã đi đến đấng Toàn
Giác.
1045. Aṭṭhārasasahassāni sabbā honti
mahiddhikā,
vandantī munino pāde ārocenti yathābalaṃ.
Tất cả mười tám vị ni đều
có đại thần lực. Trong khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Hiền Triết,
các vị trình rõ đúng theo năng lực.
1046. Jāti khīṇā jarā vyādhi maranaṃ ca
mahāmuni,
anāsavaṃ padaṃ santaṃ amataṃ yāma nāyaka.
“Bạch
đấng Đại Hiền Triết, sự sanh, sự già, sự bệnh, và sự chết đã được
cạn kiệt. Bạch đấng Lãnh Đạo, chúng con đã đi đến vị thế an tịnh,
bất tử, không còn lậu hoặc.
1047. Khalitaṃ ce pure atthi sabbāsampi
mahāmuni,
aparādhamajānantī khama amhaṃ vināyaka.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, nếu có điều sai trái
gì trước đây của tất cả chúng con vì không biết là lỗi lầm, bạch
đấng Hướng Đạo xin Ngài hãy tha thứ cho chúng con.”
1048. “Iddhiṃ cāpi nidassetha mama
sāsanakārikā,
parisānaṃ ca sabbāsaṃ kaṅkhaṃ chindatha yāvatā.”
“Là
những người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, các nàng cũng nên thị
hiện thần thông. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ đã có cho tất cả các
chúng.”
1049. Yasodharī mahāvīra manāpā piyadassanā,
sabbā tuyhaṃ mahāvīra agārasmiṃ pajāpatī.
“Bạch
đấng Đại Hùng, là những vị ni danh tiếng, vui vẻ, có dáng vóc đáng
yêu, bạch đấng Đại Hùng, tất cả là vợ của Ngài lúc còn tại gia.
1050. Thīnaṃ satasahassānaṃ navutīnaṃ
chaḷuttari,
agāre te mayaṃ vīra pāmokkhā sabba-issarā.
Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi
sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, chúng con là những vị đứng đầu, là
những người chủ quản tất cả.
1051. Rūpācāraguṇūpetā yobbanaṭṭhā piyaṃvadā,
sabbāyo apacāyanti devatā viya mānusā.
Là những người có được sắc đẹp, tánh tình, và
đức hạnh, ở vào tuổi trẻ, có lời nói đáng yêu, tất cả chư thiên
cũng như loài người đều quý trọng (chúng con).
1052. Aṭṭhārasasahassāni sabbā sākiyasambhavā,
yasodharā sahassāni pāmokkhā issarā tadā.
Khi ấy, tất cả mười tám ngàn vị ni đều xuất
thân dòng Sakya, một ngàn vị ni có danh tiếng là những vị đứng
đầu, là những người chủ quản.
1053.
Kāmadhātumatikkantā saṇṭhitā rūpadhātuyā,
rūpena sadisā natthi sahassānaṃ mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, (các cô ấy) đã vượt
qua lãnh vực của dục tình, đã được an trú vào lãnh vực của sắc
đẹp. Không có gì tương đương với sắc đẹp của một ngàn cô ấy.”
1054. Sambuddhaṃ abhivādetvā iddhiṃ dassesu
satthuno,
nekā nānāvidhākārā mahā-iddhipi dassayuṃ.
Sau khi đảnh lễ bậc Toàn
Giác, các vị ni đã phô bày thần thông đến bậc Đạo Sư. Các vị ni
cũng đã thị hiện đại thần lực có nhiều hình thức khác loại.
1055. Cakkavāḷasamaṃ kāyaṃ sīsaṃ uttarato kuru,
ubho pakkhā duve dīpā jambudīpaṃ sarīrato.
(Các vị ni đã thị hiện) cơ
thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc,
hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu, ...
1056. Dakkhiṇaṃ ca saraṃ piñjaṃ nānāsākhā tu
pattakā,
candasūravisālakkhā merupabbatato sikhā.
... và đuôi công là cái hồ
ở phía nam nhưng các lông chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng
và mặt trời là cặp mắt to, núi Meru là chóp đỉnh, ...
1057. Cakkavāḷagirituṇḍā jamburukkhaṃ
samūlakaṃ,
vījamānā upagantvā vandanti lokanāyakaṃ.
...ngọn núi của bầu vũ trụ
là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây
quạt), vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1058. Hatthivaṇṇaṃ tathevassaṃ pabbataṃ
jaladhiṃ tathā,
candaṃ ca suriyaṃ meruṃ sakkavaṇṇaṃ ca dassayuṃ.
Tương tợ y như thế, các vị
ni đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả,
rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.
1059. Yasodharā mayaṃ vīra pāde vandāma
cakkhuma,
tava vīra pabhāvena nipphannā naranāyaka.
“Bạch
vị Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con là các vị Yasodharā xin
đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Lãnh Đạo
của nhân loại, chúng con đã được hoàn thành nhờ vào quyền năng của
Ngài.
1060. Iddhīsu ca vasī homa dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homa mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con đã có năng
lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng
lực về trí biết tâm của người khác.
1061. Pubbe nivāsaṃ jānāma dibbacakkhu
visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.
Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên
nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ
đây không còn tái sanh nữa.
1062. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva
ca,
ñāṇaṃ amhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike.
Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý
nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải
là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1063. Pubbānaṃ lokanāthānaṃ saṅgamaṃ no
nidassitaṃ,
adhikārā bahū amhaṃ tumhatthāya mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, sự hội tụ của các vị
Lãnh Đạo Thế Gian trước đây, đã được chúng con nhìn thấy rõ. Có
nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về
Ngài.
1064. Yaṃ amhaṃ purimaṃ kammaṃ kusalaṃ sarase
mune,
tumhatthāya mahāvīra puññānupacitāni no.
Bạch bậc Hiền Triết, xin Ngài nhớ lại thiện
nghiệp trước đây của chúng con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã
được tích lũy bởi chúng con là nhằm mục đích về Ngài.
1065. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā vārayimha
anācaraṃ,
tuyhatthāya mahāvīra cattāni jīvitāni no.
Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những
nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống
đã được chúng con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.
1066. Nekakoṭisahassānaṃ bhariyatthāya’dāsi no,
na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng
con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi
lần. Chúng con không có bất bình về
điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
1067. Nekakoṭisahassānaṃ upakārāya ’dāsi no,
na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng
con vì sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có
bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
1068. Nekakoṭisahassānaṃ bhojanatthāya ’dāsi
no,
na tattha vimanā homa tuyhatthāya mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, Ngài đã bố thí chúng
con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần.
Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
1069. Nekakoṭisahassāni jīvitāni cajimha no,
“Bhayamokkhaṃ karissāma” jīvitāni cajimhase.
Chúng con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống.
Chúng con đã từ bỏ các mạng sống (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thực
hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi.’
1070. Aṅgagate alaṅkāre vatthe nānāvidhe bahū,
itthibhaṇḍe na gūhāma tuyhatthāya mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con không cất
giấu các đồ trang sức được dùng cho phụ nữ, nhiều vải vóc các
loại, các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.
1071. Dhanadhaññapariccāgaṃ gāmāni nigamāni ca,
khettā puttā ca dhītā ca pariccattā mahāmune.
Chúng con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các ngôi
làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Triết, các ruộng vườn,
những người con trai, và con gái đã được dứt bỏ.
1072. Hatthī assā gavā cāpi dāsiyo paricārikā,
tuyhatthāya mahāvīra pariccattā asaṅkhiyā.
Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những
con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ
là nhằm mục đích về Ngài.
1073. Yaṃ amhe paṭimantesi dānaṃ dassāma
yācake,
vimanaṃ no na passāma dadato dānamuttamaṃ.
Về việc Ngài bảo chúng con rằng: ‘Ta sẽ cho vật
thí đến người hành khất,’ chúng con không nhìn thấy sự bất bình
của chúng con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.
1074. Nānāvidhaṃ bahuṃ dukkhaṃ saṃsāre ca
bahubbidhe,
tuyhatthāya mahāvīra anubhuttaṃ asaṅkhiyaṃ.
Bạch đấng Đại Hùng,chúng con đã trải qua nhiều
khổ đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi trong nhiều
hình thức là nhằm mục đích về Ngài.
1075. Sukhappattā na modāma na ca dukkhesu
dummanā,
sabbattha tulitā homa tuyhatthāya mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, đạt được sung sướng
chúng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ
đau, chúng con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục
đích về Ngài.
1076. Anumaggena sambuddho yaṃ dhammaṃ
abhinīhari,
anubhutvā sukhaṃ dukkhaṃ patto bodhiṃ mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, theo con đường bậc
Toàn Giác đã phát nguyện về pháp (giải thoát), Ngài đã trải qua
lạc khổ và đã đạt đến sự giác ngộ.
1077. Brahmadevaṃ ca sambuddhaṃ gotamaṃ
lokanāyakaṃ,
aññesaṃ lokanāthānaṃ saṅgamā tehi no bahū.
Vị trời của Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng
Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, đối với các đấng Hộ Trì Thế Gian khác,
chúng con đã có nhiều lần gặp gỡ với các vị ấy.
1078. Adhikārā bahū amhaṃ tuyhatthāya mahāmune,
gavesato buddhadhamme mayaṃ te paricārikā.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều hành động hướng
thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài. Chúng con là những
nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.”
1079. Kappe ca satasahasse caturo ca asaṅkhiye,
dīpaṅkaro mahāvīro uppajji lokanāyako.
Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và
một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian
Dīpaṅkara đã hiện khởi.
1080. Paccantadesavisaye nimantetvā tathāgataṃ,
tassa āgamanaṃ maggaṃ sodhenti tuṭṭhamānasā.
Sau khi đã thỉnh mời đức
Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường
đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.
1081. Tena kālena so āsi sumedho nāma brāhmaṇo,
maggaṃ ca paṭiyādesi āyataṃ sabbadassino.
Vào thời điểm ấy, vị ấy đã
là người Bà-la-môn tên Sumedha và đã sửa soạn con đường của đấng
Toàn Tri đang đi đến.
1082. Tena kālena āsimha sabbā
brāhmaṇasambhavā,
thalūdajāni pupphāni āharimha samāgamaṃ.
Vào thời điểm ấy, tất cả
chúng con đã là xuất thân Bà-la-môn. Chúng con đã mang đến cuộc tụ
hội những đóa hoa mọc trên đất liền và dưới nước.
1083. Tasmiṃ so samaye buddho dīpaṅkaro
mahāyaso,
viyākāsi mahāvīro isimuggatamānasaṃ.
Vào lúc ấy, đức Phật
Dīpaṅkara, bậc Đại Hùng có danh tiếng vĩ đại ấy đã chú nguyện cho
vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng.
1084. Calatī
ravatī paṭhavī saṅkampati sadevakaṃ,
tassa kammaṃ pakittente isimuggatamānaso.
Trong khi tuyên dương hành
động của vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng ấy, quả đất lay chuyển,
gào thét, rung động cùng với thiên giới.
1085. Devakaññā manussā ca mayaṃ cāpi sadevakā,
nānāpūjanīyaṃ bhaṇḍaṃ pūjayitvāna patthayuṃ.
Các tiên nữ và loài người,
luôn cả chúng con cùng với chư thiên đã dâng lên phẩm vật cúng
dường khác nhau rồi đã ước nguyện.
1086. Tesaṃ buddho viyākāsi jotidīpasanāmako,
“Ajja ye patthitā atthi te bhavissanti sammukhā.”
Đức Phật tên Jotidīpa
(Dīpaṅkara) đã chú nguyện cho bọn họ rằng: “Những
điều đã được ước nguyện vào ngày hôm nay sẽ trở thành hiện thực.”
1087. Aparimeyye ito kappe yaṃ no buddho
viyākari,
taṃ vācamanumodantī evaṅkārī ahumha no.
Ấy là điều đức Phật đã chú
nguyện cho chúng con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời
nói ấy, chúng con đã là những người có hành động như vậy.
1088. Tassa kammassa sukatassa tattha cittaṃ
pasādiya,
devamānusakaṃ yoniṃ anubhotvā asaṅkhiyaṃ.
Tại nơi ấy, chúng con đã
có tâm tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy.
Chúng con đã sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể
đếm được.
1089. Sukhadukkhe ’nubhotvāna devesu mānusesu
ca,
pacchimabhave sampatte jātā ’mha sākiye kule.
Chúng con đã trải qua lạc
và khổ ở các cõi trời và loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối
cùng, chúng con đã sanh ra trong gia tộc Sakya.
1090. Rūpavatī bhogavatī yasasīlavatī tato,
sabbaṅgasampadā homa kulesu atisakkatā.
Chúng con có sắc đẹp, có
của cải, do đó có danh vọng và giới hạnh. Chúng con có sự thành
tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng ở các gia đình.
1091. Lābhaṃ silokaṃ sakkāraṃ
lokadhammasamāgamaṃ,
cittaṃ ca dukkhitaṃ natthi vasāma akutobhayā.
Lợi lộc, danh vọng, cung
kính, sự tổng hợp các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không
có, chúng con sống không sợ hãi.
1092. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā rañño antepure
tadā,
khattiyānaṃ pure vīro upakāraṃ ca niddisi.
Khi ấy, điều này đã được
đức Thế Tôn nói ra ở trong kinh thành của đức vua (Suddhodana). Và
đấng Anh Hùng đã chỉ ra việc hộ độ trước đây của các vị Sát-đế-lỵ:
1093. Upakārā ca yā nārī yā ca nārī sukhe
dukhe,
atthakkhāyī ca yā nārī yā ca nārī ’nukampikā.
“Người
nữ nào là hữu ân, người nữ nào cùng chung vui sướng khổ đau, người
nữ nào nói lời hữu ích, và người nữ nào có lòng thương tưởng, ...
1094. Dhammaṃ care sucaritaṃ na naṃ duccaritaṃ
care,
dhammacārī sukhaṃ seti asmiṃ loke paramhi ca.
... hãy thực hành pháp thiện hạnh, chớ thực
hành ác hạnh ấy. Người thực hành Giáo Pháp thọ hưởng an lạc trong
đời này và trong đời sau.”
1095. Agāraṃ vijahitvāna pabbajimha ’nagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte catusaccaṃ phusimha no.
Sau khi từ bỏ gia đình,
chúng con đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Khi chưa đạt
đến nửa tháng, chúng con đã chạm được bốn Sự Thật.
1096. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ
sayanāsanaṃ,
upanenti bahuṃ amhe sāgarasseva ūmiyo.
Nhiều người đem đến cho
chúng con y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các
làn sóng của biển cả.
1097. Kilesā jhāpitā amhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā.
Các phiền não của chúng
con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi
cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), chúng
con sống không còn lậu hoặc.
1098. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, chúng con đã
thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của
đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1099. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Chúng con đã đắc chứng bốn
(tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã
thực hành lời dạy của đức Phật.
1100. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampattī ca
bahubbidhā,
visuddhabhāvaṃ sampattā labhāma sabbasampadā.
Như vậy là có khổ đau đa
dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh
tịnh, chúng con nhận lãnh mọi sự thành tựu.
1101. Yā dadanti sakattānaṃ puññatthāya
mahesino,
sahāyasampadā honti nibbānapadamasaṅkhataṃ.
Những nàng nào bố thí
chính bản thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ là có
sự thành tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.
1102. Parikkhīṇaṃ atītaṃ ca paccuppannaṃ
anāgataṃ,
sabbaṃ kammampi no khīṇaṃ pāde vandāma cakkhuma.
“Quá
khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của chúng
con đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con xin đảnh lễ ở
bàn chân (Ngài).”
1103. Nibbānāya vajantīnaṃ kiṃ vo vakkhāma
uttariṃ,
santasaṅkhatadosaṃ hi pappotha amataṃ padaṃ.
“Ta
sẽ nói điều gì hơn nữa về các nàng là những người đang tiến đến
Niết Bàn? Bởi vì các nàng đạt được vị thế Bất Tử, (là nơi) sự tạo
tác và điều sai trái đã được tịnh lặng.”
Itthaṃ sudaṃ Yasodharāpamukhāni
aṭṭhārasabhikkhunīsahassāni bhagavato sammukhā imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng
đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này
như thế ấy.
Yasodharāpamukha-aṭṭhārasabhikukhunisahassāpadānaṃ dasamaṃ.
Ký sự về mười tám ngàn
vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā là phần thứ mười.
Kuṇḍalakesivaggo tatiyo.
Phẩm Kuṇḍalakesī là
phẩm thứ ba.
--ooOoo--
Tatthuddānaṃ:
Tóm lược của
phẩm này:
Kuṇḍalā gotamī ceva dhammadinnā ca sakulā,
varanandā ca soṇā ca kāpilānī yasodharā.
Dasasahassabhikkhunī aṭṭhārasasahassakā,
gāthāsatāni cattāri cha ca sattati meva ca.
Vị ni Kuṇḍalā, Kisāgotamī,
luôn cả Dhammadinnā, Sakulā, Nandā cao quý, Soṇā, Bhaddākāpilānī,
Yasodharā, mười ngàn tỳ khưu ni, và mười tám ngàn vị ni, là bốn
trăm bảy mươi sáu câu kệ cả thảy.
--ooOoo--
[1]
Sau khi đã được nhổ sạch, những sợi tóc mọc lại đã bị xoắn nên
có biệt hiệu là Kuṇḍalakesā
(tóc xoắn).
[2]
Kinh Pháp Cú, câu 113.
[3]
Xem thêm Kinh Cūlavedallasuttaṃ
- Tiểu Kinh Phương Quảng,
Trung Bộ I.
[4]
Kinh Pháp Cú, câu 112.
[5]
Các câu kệ từ 952 - 957 không thấy ở Tạng Thái và Tạng
Anh.
[6]
Jambudīpa: bán đảo Ấn Độ.
[7]
Một koṭi là mười triệu.
[8]
Kế tiếp có hai mươi câu kệ được thấy ở Tạng Thái, Miến, Anh,
nhưng không thấy ở Tạng Sri Lanka. Vì nội dung không có gì đặc
sắc nên không thêm vào.