II. EKUPOSATHIKAVAGGO
II. PHẨM MỘT
LẦN TRAI GIỚI:
11.
Ekuposathikāpadānaṃ
11. Ký Sự về
Ekuposathikā:[1]
131. Nagare bandhumatiyā bandhumā nāma
khattiyo,
divase puṇṇamāyaṃ so upavasi uposathaṃ.
Ở thành phố Bandhumatī, có
vị Sát-đế-lỵ tên là Bandhumā. Vào ngày trăng tròn, vị ấy thực hành
Bát quan trai giới.
132. Ahaṃ tena samayena kumbhadāsī ahuṃ tahiṃ,
disvā sarājikaṃ senaṃ evāhaṃ cintayiṃ tadā.
Vào lúc bấy giờ, tôi (đã)
là cô nô tỳ đội nước ở tại nơi ấy. Sau khi nhìn thấy đoàn quân
cùng với đức vua, khi ấy tôi đã suy nghĩ như vầy:
133. “Rājāpi rajjaṃ chaḍḍhetvā upavasi
uposathaṃ,
saphalaṃ nūna taṃ kammaṃ janakāyo pamodito.”
“Ngay
cả đức vua cũng đã buông bỏ vương quyền và thực hành Bát quan trai
giới, chắc hẳn việc làm ấy là có quả báu khiến đám đông người hứng
thú.”
134. Yoniso paccavekkhitvā duggaccañca
daḷiddataṃ,
mānasaṃ saṃpahaṃsetvā upavasiṃ uposathaṃ.
Sau khi suy xét chính chắn
về cảnh giới khổ đau và sự nghèo khó, tôi đã tự hoan hỷ tâm và đã
thực hành Bát quan trai giới.
135. Ahaṃ uposathaṃ katvā sammāsambuddhasāsane,
tena kammena sukatena tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Tôi đã thực hành Bát quan
trai giới theo lời dạy của đấng Chánh Đẳng Giác. Do nghiệp ấy đã
được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
136. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ uddhaṃ
yojanamuggataṃ,
kūṭāgāravarūpetaṃ sayanāsanabhūsitaṃ.
Tại nơi ấy, có cung điện
đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi, phía bên trên vươn cao một
do-tuần, được kề cận với ngôi nhà mái nhọn quý giá, được trang
hoàng với chỗ nằm ngồi.
137. Accharā satasahassā upatiṭṭhanti maṃ sadā,
aññe deve atikkamma atirocāmi sabbadā.
Một trăm ngàn tiên nữ luôn
luôn kề cận tôi. Tôi luôn luôn vượt trội và rực rỡ hơn các vị
thiên nhân khác.
138. Catusaṭṭhidevarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
tesaṭṭhicakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ.
Tôi đã được thiết lập vào
ngôi hoàng hậu của sáu mươi bốn vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết
lập vào ngôi hoàng hậu của sáu mươi ba vị Chuyển Luân Vương.
139. Suvaṇṇavaṇṇā hutvāna bhavesu saṃsarāmahaṃ,
sabbattha pavarā homi uposathassidaṃ phalaṃ.
Có được màu da vàng chói,
tôi luân hồi ở các cảnh giới. Tôi là người cao quý ở tất cả các
nơi; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
140. Hatthiyānaṃ assayānaṃ rathayānañca
sivikaṃ,
labhāmi sabbametampi uposathassidaṃ phalaṃ.
Về phương tiện di chuyển
bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển
bằng xe, và kiệu khiêng, tôi cũng đều đạt được tất cả điều ấy;
điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
141. Sovaṇṇamayaṃ rūpimayaṃ athopi
phalikāmayaṃ,
lohitaṅkamayañceva sabbaṃ paṭilabhām’ ahaṃ.
Khi ấy, ngay cả vật làm
bằng vàng, làm bằng bạc, làm bằng ngọc pha-lê, luôn cả vật làm
bằng hồng ngọc, tôi đều đạt được tất cả.
142. Koseyyakambaliyāni khomakappāsikāni ca,
mahagghāni ca vatthāni sabbaṃ paṭilabhām’ ahaṃ.
Các tấm mền làm bằng tơ
lụa, sợi len, và bông vải, cùng với các tấm vải giá trị cao, tôi
đều đạt được tất cả.
143. Annaṃ pānaṃ khādaniyaṃ vatthasenāsanāni
ca,
sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ.
Thức ăn, nước uống, vật
nhai, vải vóc, và chỗ nằm ngồi, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ
ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
144. Varagandhañca mālañca cuṇṇakañca
vilepanaṃ,
sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ.
Hương thơm cao quý, tràng
hoa, bột phấn thơm, dầu thoa, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ
ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
145. Kūṭāgārañca pāsādaṃ maṇḍapaṃ hammiyaṃ
guhaṃ,
sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ.
Ngôi nhà mái nhọn, tòa lâu
đài, mái che, tòa nhà dài, hang động, tôi đều đạt được tất cả
(các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
146. Jātiyā sattavasso ’haṃ pabbajiṃ
anagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte arahattaṃ apāpuṇiṃ.
Bảy năm sau khi sanh ra,
tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Chưa đầy nửa tháng,
tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
147. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu
hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
148. Ekanavute ito kappe yaṃ kammamakariṃ tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi uposathassidaṃ phalaṃ.
Kể từ khi tôi đã thực hiện
việc làm ấy cho đến chín mươi mốt kiếp, tôi (đã) không biết đến
cõi khổ; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
149. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
150. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Ekuposathikā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Ekuposathikā đã nói
lên những lời kệ này như thế ấy.
Ekuposathikātheriyāpadānaṃ paṭhamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Ekuposathikā là phần thứ nhất.
--ooOoo--
12.
Salalapupphikāpadānaṃ
12. Ký Sự về Salalapupphikā:[2]
151. Candabhāgānadītīre ahosiṃ kinnarī tadā,
addasāhaṃ devadevaṃ caṅkamantaṃ narāsabhaṃ.
Khi ấy, tôi đã là loài
kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy bậc Nhân
Ngưu, vị Trời của chư thiên, đang đi kinh hành.
152. Ocinitvāna salalaṃ buddhaseṭṭhass’ adās’
ahaṃ,
“Upasiṅgha mahāvīra salalaṃ devagandhikaṃ.”
Sau khi thâu nhặt bông hoa
salala, tôi đã dâng lên đức Phật
tối thượng (nói rằng): “Bạch đấng Đại
Hùng thỉnh ngài ngửi bông hoa salala có hương thơm của cõi trời.”
153. Paṭiggahetvā sambuddho vipassī lokanāyako,
upasiṅghi mahāvīro pekkhamānāya me tadā.
Khi ấy, trong lúc tôi đang
chăm chú nhìn, đấng Toàn Giác Vipassī, bậc Lãnh Đạo thế gian, đấng
Đại Hùng đã thọ nhận và đã ngửi (bông hoa ấy).
154. Añjaliṃ paggahetvāna vanditvā
dipaduttamaṃ,
sakaṃ cittaṃ pasādetvā tato pabbatamārūhiṃ.
Sau khi chắp tay lên, tôi
đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân. Sau khi làm cho tâm của mình được
tịnh tín, từ nơi ấy tôi đã đi lên ngọn núi.
155. Ekanavute ito kappe yaṃ pupphamadadiṃ
tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi buddhapūjāyidaṃ phalaṃ.
Kể từ khi tôi đã cúng
dường bông hoa cho đến chín mươi mốt kiếp, tôi (đã) không biết đến
cõi khổ; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
156. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
157. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
158. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Salalapupphikā bhikkhunī imā
gāthāyo abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Salalapupphikā
đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Salalapupphikātheriyāpadānaṃ dutiyaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Salalapupphikā là phần thứ nhì.
--ooOoo--
13.
Modakadāyikāpadānaṃ
13. Ký Sự về Modakadāyikā:[3]
159. Nagare bandhumatiyā kumbhadāsī ahos’ ahaṃ,
mama bhāgaṃ gahetvāna gacchiṃ udakahārikā.
Ở thành phố Bandhumatī,
tôi đã là người nữ tỳ đội nước. Là người vận chuyển nước, tôi đã
nhận lấy phần (nước) của mình rồi đã ra đi.
160. Panthamhi samaṇaṃ disvā santacittaṃ
samāhitaṃ,
pasannacittā sumanā modake tīṇi ’dās’ ahaṃ.
Ở đường lộ, tôi đã nhìn
thấy vị sa-môn có tâm thanh tịnh, định tĩnh. Với tâm tịnh tín, với
ý hoan hỷ, tôi đã dâng ba cục thịt vò viên.
161. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
ekanavuti kappāni vinipātaṃ na gacch’ ahaṃ.
Do việc làm ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, tôi đã không đi
đến đọa xứ chín mươi mốt kiếp.
162. Sampattiṃ taṃ karitvāna sabbaṃ
anubhavāmahaṃ,
modake tīṇi datvāna pattā ’haṃ acalaṃ padaṃ.
Sau khi đã thực hiện thành
tựu điều ấy, tôi đã đạt được mọi thứ. Sau khi bố thí ba cục thịt
vò viên, tôi đã đạt đến vị thế không bị lay chuyển.
163. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
164. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
165. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Modakadāyikā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Modakadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Modakadāyikātheriyāpadānaṃ tatiyaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Modakadāyikā là phần thứ ba.
--ooOoo--
14.
Ekāsanadāyikāpadānaṃ
14. Ký Sự về Ekāsanadāyikā:[4]
166. Nagare haṃsavatiyā ahosiṃ bālikā tadā,
mātā ca me pitā ceva kammantaṃ agamaṃsu te.
Lúc bấy giờ, tôi đã là cô
thiếu nữ ở tại thành phố Haṃsavatī. Mẹ và luôn cả cha của tôi, họ
đều đã đi làm công việc.
167. Majjhantikamhi suriye addasaṃ samaṇaṃ
ahaṃ,
vīthiyaṃ anugacchantaṃ āsanaṃ paññapes’ ahaṃ.
Vào lúc mặt trời ở chính
ngọ, tôi đã nhìn thấy vị sa-môn đang đi dọc theo đường lộ. Tôi đã
xếp đặt chỗ ngồi.
168. Goṇakacittakādīhi paññapetvā ’hamāsanaṃ,
pasannacittā sumanā idaṃ vacanamabraviṃ.
Sau khi xếp đặt chỗ ngồi
bằng nhiều loại lông cừu, v.v... rồi với tâm tịnh tín, với ý hoan
hỷ, tôi đã nói lời nói này:
169. “Santattā kuthitā bhūmi sūro majjhantike
ṭhito,
mālutā ca na vāyanti kālo cettha upaṭṭhito.
“Mặt
đất bị nóng bỏng, bị thiêu đốt, mặt trời đã đứng ở chính ngọ, và
các cơn gió ngưng thổi, vậy là lúc ngài hãy nghỉ ở đây.
170. Paññattamāsanamidaṃ tavatthāya mahāmuni,
anukampamupādāya nisīda mama āsane.”
Thưa bậc đại hiền triết, đây là chỗ ngồi đã
được sắp xếp dành cho ngài. Vì lòng bi mẫn, xin ngài hãy ngồi
xuống chỗ ngồi của con.”
171. Nisīdi tattha samaṇo sudanto suddhamānaso,
tassa pattaṃ gahetvāna yathārandhamadāsahaṃ.
Với tâm ý thanh tịnh, vị
sa-môn được rèn luyện chu đáo đã ngồi xuống ở tại nơi ấy. Tôi đã
nhận lãnh bình bát của vị ấy và đã cúng dường không chút sai sót.
172. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.
Do việc làm ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ
thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
173. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ āsanena
sunimmitaṃ,
saṭṭhiyojanamubbedhaṃ tiṃsayojanavitthataṃ.
Tại nơi ấy, dành cho tôi
có cung điện đã khéo được xây dựng, đã khéo được hóa hiện ra với
chỗ ngồi, có chiều cao sáu mươi do-tuần, có chiều rộng ba mươi
do-tuần.
174. Soṇṇamayā maṇimayā athopi phalikāmayā,
lohitaṅkamayā ceva pallaṅkā vividhā mama.
Cũng vào khi ấy, thuộc về
tôi có các ghế dựa nhiều kiểu làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni,
làm bằng ngọc pha-lê, và làm bằng hồng ngọc nữa.
175. Tūlikāvikatikāhi kaṭṭhissacittakāhi ca,
udda-ekantalomīhi pallaṅkā me susanthatā.
Các ghế dựa của tôi được
khéo lót trải với các tấm nệm bằng len dệt, với nhiều loại tấm
trải bằng tơ dệt có đính các viên ngọc, và với các tấm trải viền
ren ở một bên.
176. Yadā icchāmi gamanaṃ hāsakhiḍḍā
samappitaṃ,
saha pallaṅkaseṭṭhena gacchāmi mama patthitaṃ.
Khi nào tôi ước muốn sự ra
đi với mục đích giải trí nô đùa, điều ước nguyện của tôi là tôi ra
đi bằng chiếc ghế dựa thù thắng của tôi.
177. Asītidevarājūnaṃ mahesinnamakārayiṃ,
sattaticakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ.
Tôi đã được thiết lập vào
ngôi hoàng hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập
vào ngôi hoàng hậu của bảy mươi vị Chuyển Luân Vương.
178. Bhavābhave saṃsarantī mahābhogaṃ
labhāmahaṃ,
bhoge me ūnatā natthi ekāsanaphalaṃ idaṃ.
Trong khi luân hồi ở cõi
này cõi khác, tôi đã đạt được tài sản lớn lao. Đối với tôi, không
có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
179. Duve bhave saṃsarāmi devatte atha mānuse,
aññe bhave na jānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.
Tôi (đã) luân hồi ở hai
cảnh giới, trong bản thể chư thiên và nhân loại. Tôi (đã) không
biết đến các cõi khác; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
180. Duve kule pajāyāmi khattiye cāpi brāhmaṇe,
uccākulīnā sabbattha ekāsanaphalaṃ idaṃ.
Tôi (đã) được sanh ra ở
hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và cả Bà-la-môn nữa. Ở mọi nơi, tôi đều
thuộc gia đình thượng lưu; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
181. Domanassaṃ na jānāmi cittasantāpanaṃ mama,
vevaṇṇiyaṃ na jānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.
Tôi không biết đến tâm bực
bội và tôi có sự thỏa mãn ở tâm. Tôi không biết đến việc tàn tạ
dung nhan; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
182. Dhātiyo
maṃ upaṭṭhanti khujjā kheḷāsikā bahū,
aṅkena aṅkaṃ gacchāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.
Các nữ tỳ hầu hạ tôi,
nhiều người bị gù lưng, bị chảy nước dãi. Tôi đã (được ẳm bồng) di
chuyển từ hông này đến hông khác; điều này là quả báu của một chỗ
ngồi.
183. Aññā nahāpenti bhojenti aññā ramenti maṃ
sadā,
aññā gandhaṃ vilimpenti ekāsanaphalaṃ idaṃ.
Luôn luôn có các cô này
tắm (cho tôi), các cô kia chăm lo thức ăn, các cô khác làm cho tôi
vui thích, các cô nọ thoa dầu thơm (cho tôi); điều này là quả báu
của một chỗ ngồi.
184. Maṇḍape rukkhamūle vā suññāgāre vasantiyā,
mama saṅkappamaññāya pallaṅko upatiṭṭhati.
Trong lúc tôi sống ở mái
che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, chiếc ghế dựa biết
được ý định của tôi đều đến ở kế bên.
185. Ayaṃ pacchimako mayhaṃ carimo vattate
bhavo,
ajjāpi rajjaṃ chaḍḍetvā pabbajiṃ anagāriyaṃ.
Đây là kiếp sống cuối cùng
của tôi, là lần hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Hiện nay,
tôi đã từ bỏ vương quốc và đã xuất gia vào cuộc sống không gia
đình.
186. Satasahasse ito kappe yaṃ dānamadadiṃ
tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ.
Kể từ khi tôi đã cúng
dường vật thí cho đến một trăm ngàn kiếp, tôi (đã) không biết đến
cõi khổ; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
187. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
188. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
189. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Ekāsanadāyikā bhikkhunī imā
gāthāyo abhāsitthāti.
Vị tỳ khưu ni
Ekāsanadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ekāsanadāyikātheriyāpadānaṃ catutthaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Ekāsanadāyikā là phần thứ tư.
--ooOoo--
15.
Pañcadīpadāyikāpadānaṃ
15. Ký Sự về Pañcadīpadāyikā:[5]
190. Nagare haṃsavatiyā cārikā ās’ ahaṃ tadā,
ārāmena ca ārāmaṃ carāmi kusalatthikā.
Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ
ở thành phố Haṃsavatī. Có sự tầm cầu thiện pháp, tôi (đã) đi từ tu
viện này đến tu viện khác.
191. Kālapakkhamhi divase addasaṃ
bodhimuttamaṃ.
tattha cittaṃ pasādetvā bodhimūle nisīdahaṃ.
Vào một ngày thuộc hạ
huyền, tôi đã nhìn thấy cội cây Bồ Đề tối thượng. Tại đó, tôi đã
khởi tâm tịnh tín và đã ngồi xuống ở gốc cây Bồ Đề.
192. Garucittaṃ upaṭṭhapetvā sire katvāna
añjaliṃ,
somanassaṃ pavedetvā evaṃ cintesiṃ tāvade.
Sau khi thiết lập tâm cung
kỉnh, chắp tay lên ở đầu, và bày tỏ lòng hoan hỷ, tôi đã tức thời
suy nghĩ như vầy:
193. “Yadi buddho amitayaso asamappaṭipuggalo,
dassetu pāṭihīraṃ me bodhi obhāsatu ayaṃ.”
“Nếu
đức Phật có đức hạnh vô lượng, không người sánh bằng, xin cội Bồ
Đề này hãy thị hiện thần thông, hãy chói sáng cho tôi thấy.”
194. Saha āvajjanā mayhaṃ bodhi pajjali tāvade,
sabbasoṇṇamayā āsi disā sabbā virocayi.
Với điều suy nghĩ của tôi,
cội Bồ Đề ngay lập tức đã phát sáng, đã biến thành vàng toàn bộ,
và đã chiếu sáng tất cả các phương.
195. Sattarattindivaṃ tattha bodhimūle
nisīdahaṃ,
sattame divase patte dīpapūjaṃ akāsahaṃ.
Tôi đã ngồi xuống tại nơi
ấy ở gốc cây Bồ Đề bảy ngày đêm. Khi đã đạt đến ngày thứ bảy, tôi
đã thực hiện việc cúng dường các ngọn đèn.
196. Āsanaṃ parivāretvā pañcadīpāni pajjaluṃ.
yāva udeti suriyo dīpā me pajjaluṃ tadā.
Sau khi được đặt quanh chỗ
ngồi, năm ngọn đèn đã phát sáng. Khi ấy, các ngọn đèn của tôi đã
phát sáng cho đến khi mặt trời mọc lên.
197. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
198. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ pañcadīpīti
vuccati,
saṭṭhiyojanamubbedhaṃ tiṃsayojanavitthataṃ.
Tại nơi ấy, cung điện đã
được kiến tạo khéo léo dành cho tôi được gọi là “Pañcadīpī,”
có chiều cao sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
199. Asaṅkhiyāni dīpāni parivāre jalanti me,
yāvatā devabhavanaṃ dīpālokena jotati.
Xung quanh tôi có vô số
ngọn đèn chiếu sáng. Cho đến cung điện của chư thiên cũng sáng rực
bởi ánh sáng của các ngọn đèn.
200. Parammukhā nisīditvā yadi icchāmi
passituṃ,
uddhaṃ adho ca tiriyaṃ sabbaṃ passāmi cakkhunā.
Sau khi ngồi xuống mặt
quay về hướng khác, nếu tôi muốn nhìn thấy ở bên trên, bên dưới,
và chiều ngang, tôi đều nhìn thấy tất cả bằng mắt.
201. Yāvatā abhikaṅkhāmi daṭṭhuṃ sugataduggate,
tattha āvaraṇaṃ natthi rukkhesu pabbatesu vā.
Ngay cả khi tôi mong muốn
nhìn thấy những việc đi đến tốt đẹp hoặc đi đến xấu xa thì không
có gì che đậy được việc ấy dầu ở các cây cối hoặc ở các núi non.
202. Asīti devarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
satānaṃ cakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ.
Tôi đã được thiết lập vào
ngôi chánh hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập
vào ngôi chánh hậu của một trăm vị Chuyển Luân Vương.
203. Yaṃ yaṃ yonupapajjāmi devattaṃ atha
mānuse,
dīpasatasahassāni parivāre jalanti me.
Mỗi khi tôi nhập thai bào
dầu là cảnh giới chư thiên hoặc loài người, có một trăm ngàn ngọn
đèn chiếu sáng ở xung quanh tôi.
204. Devalokā cavitvāna uppajjiṃ mātukucchiyaṃ,
mātukucchigatā santī akkhi me na nimīlati.
Sau khi mệnh chung từ thế
giới chư thiên, tôi đã tái sanh vào bụng mẹ. Trong khi đi vào bụng
mẹ và trụ lại, mắt của tôi không nhắm lại.
205. Dīpasatasahassāni puññakammasamaṅgitā,
jalanti sūtikāgehe pañcadīpānidaṃ phalaṃ.
Một trăm ngàn ngọn đèn là
kết quả của nghiệp phước thiện, chúng chiếu sáng ở nhà bảo sanh;
điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
206. Pacchime bhave sampatte mānasaṃ
vinivaṭṭayiṃ,
ajarāmaraṃ sītibhūtaṃ nibbānaṃ phassayiṃ ahaṃ.
Khi đạt đến cuộc sống cuối
cùng, tôi đã gìn giữ tâm ý. Tôi đã chạm đến Niết Bàn là trạng thái
mát mẻ, không già, không chết.
207. Jātiyā sattavassāhaṃ arahattamapāpuṇiṃ,
upasampādayī buddho guṇamaññāya gotamo.
Bảy năm kể từ khi sanh,
tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi biết được đức hạnh (của
tôi), đức Phật Gotama đã cho tôi tu lên bậc trên.
208. Maṇḍape rukkhamūle vā suññāgāre vasantiyā,
sadā pajjalate dīpaṃ pañcadīpānidaṃ phalaṃ.
Trong lúc sinh sống ở mái
che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, luôn luôn có ngọn đèn
chiếu sáng; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
209. Dibbacakkhu visuddhaṃ me samādhikusalā
ahaṃ,
abhiññāpāramippattā pañcadīpānidaṃ phalaṃ.
Thiên nhãn của tôi được
thanh tịnh, tôi được thiện xảo về định, được thành đạt các thắng
trí và các pháp toàn hảo; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
210. Sabbavositavosānā katakiccā anāsavā,
pañcadīpā mahāvīra pāde vandati cakkhuma.
“Bạch
đấng Đại Hùng, bậc Hữu Nhãn, con là Pañcadīpā có toàn bộ nguồn
nhiên liệu đã cạn, có các phận sự đã được làm xong, không còn các
lậu hoặc, xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
211. Satasahasse ito kappe yaṃ dīpamadadiṃ
tadā,
duggatiṃ nābhijānāmi pañcadīpānidaṃ phalaṃ.
Kể từ khi tôi đã cúng
dường ngọn đèn cho đến một trăm ngàn kiếp, tôi (đã) không biết đến
cõi khổ; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
212. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
213. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
214. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Pañcadīpayikā bhikkhunī imā
gāthāyo abhāsitthāti.
Vị tỳ khưu ni
Pañcadīpadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Pañcadīpayikātheriyāpadānaṃ
pañcamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Pañcadīpadāyikā là phần thứ năm.
--ooOoo--
16.
Sālamālikāpadānaṃ
16. Ký Sự về Sālamālikā:[6]
215. Candābhāgānadītīre ahosiṃ kinnarī tadā,
addasaṃ virajaṃ buddhaṃ sayambhuṃ aparājitaṃ.
Khi ấy, tôi đã là loài
kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật,
bậc Vô Cấu Uế, đấng Tự Chủ, bậc không bị hàng phục.
216. Pasannacittā sumanā vedajātā katañjalī,
sālamālaṃ gahetvāna sayambhuṃ abhipūjayiṃ.
Với tâm tịnh tín, với ý
hoan hỷ, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên cầm lấy
tràng hoa Sālā và đã cúng dường
đến bậc Tự Chủ.
217. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā kinnarīdehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
xác kim-sỉ-điểu, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
218. Chattiṃsa devarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
manasā patthitaṃ mayhaṃ nibbattati yathicchitaṃ.
Tôi đã được thiết lập vào
ngôi hoàng hậu của ba mươi sáu vị Thiên Vương. Điều ước nguyện
trong tâm của tôi là được tái sanh theo ước muốn.
219. Dasannaṃ cakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ,
ocitattāva hutvāna saṃsarāmi bhavesvahaṃ.
Tôi đã được thiết lập vào
ngôi hoàng hậu của mười vị Chuyển Luân Vương. Sau khi thành tựu
kết quả, tôi tự luân hồi ở nhiều cõi.
220. Kusalaṃ vijjate mayhaṃ pabbajiṃ
anagāriyaṃ,
pūjārahā ahaṃ ajja sakyaputtassa sāsane.
Điều tốt lành của tôi đã
được tìm thấy, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Hiện
nay, tôi là bậc xứng đáng sự cúng dường ở trong Giáo Pháp của
người con trai dòng dõi Sakya (Thích Ca).
221. Visuddhamanasā ajja apetamanapāpikā,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.
Hiện nay, với tâm ý đã
được thanh tịnh, các ác pháp đã không còn, tất cả các lậu hoặc đã
cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
222. Catunavute ito kappe yaṃ
buddhamabhipūjayiṃ,
duggatiṃ nābhijānāmi sālamālāyidaṃ phalaṃ.
Kể từ khi tôi đã cúng
dường đến đức Phật cho đến chính mươi bốn kiếp, tôi (đã) không
biết đến cõi khổ; điều này là quả báu của tràng hoa
Sālā.
223. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
224. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
225. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Sālamālikā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Vị tỳ khưu ni Sālamālikā đã nói
lên những lời kệ này như thế ấy.
Sālamālikātheriyāpadānaṃ chaṭṭhaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Sālamālikā là phần thứ sáu.
--ooOoo--
17.
Mahāpāpatigotamī-apadānaṃ
17. Ký sự về Mahāpajāpatigotamī:[7]
226. Ekadā lokapajjoto vesāliyaṃ mahāvane,
kūṭāgāre susālāyaṃ vasate narasārathi.
Một thời, bậc Quang Đăng
của thế gian, đấng Điều Phục loài người ngự tại thành Vesālī, khu
Đại Lâm, ngôi nhà mái nhọn, trong giảng đường xinh xắn.
227. Tadā jinassa mātucchā mahāgotami
bhikkhunī,
tahiṃ kate pure ramme vasī bhikkhunupassaye.
Khi ấy, người dì ruột của
đấng Chiến Thắng là tỳ khưu ni Mahāgotamī đã cư ngụ tại tu viện
của tỳ khưu ni được xây dựng ở tại nơi ấy, trong thành phố đáng
yêu.
228. Bhikkhunīhi vimuttāhi satehi saha pañcahi,
rahogatāya tassevaṃ cittassāsi vitakkitaṃ.
Khi đang ở nơi thanh vắng
cùng với năm trăm vị tỳ khưu ni đã được hoàn toàn giải thoát, có
điều suy tầm đã khởi đến tâm của vị ni ấy như vầy:
229. “Buddhassa parinibbāṇaṃ sāvakaggayugassa
vā,
rāhulānandanandānaṃ nāhaṃ lacchāmi passituṃ.
“Ta
sẽ không thể chứng kiến sự viên tịch Niết Bàn của đức Phật, hoặc
của hai vị Tối Thượng Thinh Văn, của Rāhula, Ānanda, vā Nanda.
230. Paṭigaccāyusaṅkhāre ossajitvāna nibbutiṃ,
gaccheyyaṃ lokanāthena anuññātā mahesinā.”
Trước khi có thể buông bỏ thọ hành rồi thành
tựu Niết Bàn, ta cần được đấng Hộ Trì Thế Gian, bậc Đại Ẩn Sĩ cho
phép.”
231. Tathā pañcasatānampi bhikkhunīnaṃ
vitakkitaṃ,
āsi khemādikānampi etadeva vitakkitaṃ.
Sự suy tầm của năm trăm vị
tỳ khưu ni cũng như thế. Chính điều suy tầm này cũng đã khởi đến
các vị như là Khemā, v.v...
232. Bhūmicālo tadā āsi nāditā devadundubhi,
upassayādhivatthāyo devatā sokapīḷitā.
vipalantā sakaruṇaṃ tathassūni pavattayuṃ.
Khi ấy, đã có sự lay động
của trái đất, tiếng trống của cõi trời đã vang lên. Các thiên nhân
cư ngụ ở ni viện đã bị dày vò bởi sầu muộn. Tại nơi ấy, trong khi
than vãn với niềm bi mẫn họ đã tuôn rơi những giọt nước mắt.
233. Mittā bhikkhuniyo tāhi upagantvāna
gotamiṃ,
nipacca sirasā pāde idaṃ vacanamabravuṃ:
Cùng với các vị (thiên
nhân) ấy, các vị tỳ khưu ni bạn đã đi đến gặp bà Gotamī. Họ đã cúi
mình đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:
234. “Tattha toyalavāsittā mayamayye rahogatā,
sācalā calitā bhūmi nāditā devadundubhi,
paridevā ca sūyanti kimatthaṃ nūna gotamī.”
“Thưa
ni sư, ở tại nơi ấy chúng tôi đã tưới ướt với những giọt nước rồi
đã đi đến nơi thanh vắng.
Trái đất có sự không lay
động đã lay động, tiếng trống của cõi trời đã vang lên, và được
nghe những tiếng than khóc. Bà Gotamī, chẳng lẽ là có sự việc gì
hay sao?”
235. Tadā avoca sā sabbaṃ yathāparivitakkitaṃ,
tāyopi sabbā āhaṃsu yathāparivitakkitaṃ.
Khi ấy, bà Gotamī đã kể
lại mọi việc theo như đã được suy tầm. Các vị ni ấy cũng đã kể lại
mọi việc theo như đã được suy tầm:
236. “Yadi te rucitaṃ ayye nibbāṇaṃ paramaṃ
sivaṃ,
nibbāyissāma sabbāpi buddhānuññāya subbate.
“Thưa
ni sư, thưa vị có sự hành trì tốt đẹp, nếu Niết Bàn tối thắng thù
diệu được ni sư thích thú, thì tất cả chúng tôi cũng sẽ Niết Bàn
với sự chấp thuận của đức Phật.
237. Mayaṃ sahāva nikkhantā gharāpi ca bhavāpi
ca,
sahayeva gamissāma nibbāṇapuramuttamaṃ.”
Chúng tôi sẽ cùng nhau rời khỏi ngôi nhà và rời
khỏi luôn cả sự hiện hữu, chúng tôi sẽ cùng nhau đi đến thành phố
Niết Bàn tối thượng.”
238. Nibbānāya vajantīnaṃ kiṃ vakkhāmī’ti sā
vadaṃ,
saha sabbāhi niggacchi bhikkhunīnilayā tadā.
Bà Gotamī đã nói rằng: “Ta
sẽ nói gì đây đến những người đang đi đến Niết Bàn?” Khi
ấy, cùng với tất cả các vị ni ấy bà Gotamī đã rời khỏi chỗ cư ngụ
của các tỳ khưu ni.
239. Upassaye yādhivatthā devatā tā khamantu
me,
bhikkhunīnilayassedaṃ pacchimaṃ dassanaṃ mama.
“Xin
chư thiên đang ngự tại trú xá hãy thông cảm cho ta. Đây là sự nhìn
thấy ni viện lần cuối cùng của ta.
240. Na jarā maccu vā yattha appiyehi samāgamo,
piyehi vippayogo ’tthi taṃ vajissaṃ asaṅkhataṃ.
Nơi nào sự già hoặc sự chết, sự gần gũi với
những gì không yêu thích, sự xa lìa với những gì yêu thích là
không có, thì ta nên đi đến nơi không bị tạo tác ấy.”
241. Avītarāgā taṃ sutvā vacanaṃ sugatorasā,
sokaṭṭā parideviṃsu “Aho no appapuññatā.
Nghe được lời nói ấy,
những vị tỳ khưu ni của đấng Thiện Thệ chưa lìa tham ái bị dằn vặt
bởi sầu muộn đã than vãn rằng: “Than
ôi, chúng tôi có phước báu kém cỏi.
242. Bhikkhunīnilayo suñño bhūto tāhi vinā
ayaṃ,
pabhāte viya tārāyo na dissanti jinorasā.
Trú xứ này của các tỳ khưu ni thiếu vắng các vị
ấy trở nên trống không. Các vị tỳ khưu ni của đấng Chiến Thắng
không còn được nhìn thấy ví như các vì sao không còn được nhìn
thấy vào ban ngày.”
243. Nibbānaṃ gotamī yāti satehi saha pañcahi,
nadīsatehiva saha gaṅgā pañcahi sāgaraṃ.”
Bà Gotamī đi đến Niết bàn cùng với năm trăm vị
tương tợ như sông Gaṅgā cùng với năm trăm dòng sông chảy về biển
cả.”
244. Rathikāya vajantiṃ taṃ disvā saddhā
upāsikā,
gharā nikkhamma pādesu nipacca idamabraviṃ:
Sau khi nhìn thấy bà
Gotamī đang đi ở trên đường, các nữ cư sĩ thành tín đã rời khỏi
nhà rồi đã cúi xuống ở hai bàn chân (của bà) và đã nói điều này:
245. “Pasīdassu mahābhoge anāthāyo vihāya no,
tayā na yuttaṃ nibbātuṃ” iccaṭṭaṃ vilapiṃsu tā.
“Hỡi
vị có tài sản vĩ đại, xin người hoan hỷ. Xin chớ lìa bỏ chúng con
(trở thành) không người lãnh đạo. Xin người chớ quyết định Niết
Bàn,” họ đã than van ầm ĩ như thế.
246. Tāsaṃ sokapahāṇatthaṃ avoca madhuraṃ
giraṃ,
“Ruditena alaṃ puttā hāsakālo ’yamajja vo.
Nhằm mục đích xóa đi nỗi
sầu muộn của họ, bà Gotamī đã nói với giọng nói ngọt ngào rằng: “Này
các con, than khóc đã đủ rồi, hôm nay đây là thời điểm vui cười
của các con.
247. Pariññātaṃ mayā dukkhaṃ dukkhahetu
vivajjito,
nirodho me sacchikato maggo cāpi subhāvito.
Khổ đã được ta biết toàn diện, nhân của Khổ đã
được ta dứt bỏ, sự Diệt Tận đã được ta tác chứng, và Đạo cũng đã
được ta thực hành khéo léo.
(Bhāṇavāraṃ
paṭhamaṃ).
Tụng Phẩm thứ nhất.
248. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa
sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.
Bậc Đạo Sư đã được ta phục vụ, lời dạy của đức
Phật đã được ta thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối
dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
249. Yassatthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaññojanakkhayo.
Vì mục đích nào ta đã rời khỏi gia đình xuất
gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận
tất cả các sự trói buộc đã được ta đạt đến.
250. Buddho tassa ca saddhammo anūno yāva
tiṭṭhati,
nibbātuṃ tāva kālo me mā maṃ socatha puttikā.
Này các con, đức Phật và Chánh Pháp không bị
thiếu sót của Ngài vẫn còn tồn tại vào thời điểm Niết Bàn của ta,
chớ có khóc than cho ta.
251. Koṇḍaññānandanandādī tiṭṭhanti rāhulo
jino,
sukhito sahito saṅgho hatadappā ca titthiyā.
Koṇḍañña, Ānanda, Nanda, v.v..., vị Rāhula
chiến thắng còn tại tiền, hội chúng là được an lạc, hòa hợp, còn
đối với các ngoại đạo thì niềm kiêu hãnh đã bị tiêu tan.
252. Okkākavaṃsassa yaso usasito māramaddano,
nanu sampati kālo me nibbānatthāya puttikā.
Danh tiếng của dòng tộc Okkāka với sự tiêu diệt
Ma Vương đã được giương cao. Này các con, chẳng phải chính lúc này
là thời điểm cho mục đích Niết Bàn của ta hay sao?
253. Cirappabhūti yaṃ mayhaṃ patthitaṃ ajja
sijjhate,
ānandabherikālo ’yaṃ kiṃ vo assūhi puttikā.
Điều ước nguyện của ta được nung đúc từ lâu hôm
nay được thành tựu. Này các con, giờ đây là thời điểm của những
tiếng trống vui mừng, việc gì với những giọt nước mắt của các con?
254. Sace mayi dayā atthi yadi catthi
kataññutā,
saddhammaṭṭhitiyā sabbā karotha viriyaṃ daḷhaṃ.
Nếu có lòng thương mến đối với ta, và nếu có
lòng bi mẫn, tất cả các con hãy thể hiện sự tinh tấn kiên cố cho
sự tồn tại của Chánh Pháp.
255. Thīnaṃ adāsi pabbajjaṃ sambuddho yācito
mayā,
tasmā yathāhaṃ nandissaṃ tathā tamanutiṭṭhatha.
Khi được ta thỉnh cầu, đấng Toàn Giác đã ban
cho sự xuất gia một cách lưỡng lự. Do điều đó, ta đã hoan hỷ như
thế nào thì các con hãy thuận theo điều ấy như thế.”
256. Tā evamanusāsitvā bhikkhunīhi purakkhatā,
upecca buddhaṃ vanditvā idaṃ vacanamabravi:
Sau khi dặn dò như thế, bà
Gotamī dẫn đầu các vị tỳ khưu ni đã đi đến đảnh lễ đức Phật rồi đã
nói lời nói này:
257. “Ahaṃ sugata mātā te tvaṃ ca vīra pitā
mama,
saddhammasukhado nātha tayā jātamhi gotama.
“Bạch
đấng Thiện Thệ, con là mẹ của Ngài. Và bạch đấng Anh Hùng, Ngài là
cha của con. Bạch đấng Lãnh Đạo, Ngài là người ban cho niềm an lạc
trong Chánh Pháp. Bạch ngài Gotama, con đã được sanh ra bởi Ngài.
258. Saṃvaḍḍhīto ’yaṃ sugata rūpakāyo mayā
tava,
anindiyo dhammakāyo mama saṃvaḍḍhīto tayā.
Bạch đấng Thiện Thệ, hình hài và thân xác này
của Ngài đã được lớn mạnh là nhờ con. Còn Pháp thân không thể phê
phán của con đã được tăng trưởng là nhờ vào Ngài.
259. Muhuttataṇhāsamanaṃ khīraṃ tvaṃ pāyito
mayā,
tayāhaṃ santamaccantaṃ dhammakhīraṃ hi pāyitā.
Nhờ con, Ngài đã được uống nước sữa làm dịu đi
sự khao khát trong chốc lát. Nhờ Ngài, con cũng đã được uống chính
dòng sữa Giáo Pháp thanh tịnh vô cùng tận.
260. Vaddhanarakkhane mayhaṃ anaṇo tvaṃ
mahāmune,
puttakāmā thiyo yā tā labhantu tādisaṃ sutaṃ.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, trong việc dưỡng nuôi
chăm sóc của con Ngài không có nợ nần. Mong sao cho các phụ nữ có
lòng mong mỏi con trai có thể đạt được người con trai như thế này.
261. Mandhātādinarindānaṃ yā mātā sā
bhavaṇṇave,
nimuggāhaṃ tayā putta tāritā bhavasāgarā.
Mẹ của các vị vua như đức vua Mandhātu, v.v...
là ở trong biển cả của hiện hữu. Này con trai, ta đã bị chìm đắm,
nhờ Ngài ta đã vượt qua khỏi đại dương của hiện hữu.
262. Rañño mātā mahesīti sulabhaṃ
nāmamitthinaṃ,
buddhamātāti yaṃ nāmaṃ etaṃ paramadullabhaṃ.
Đối với hàng phụ nữ, danh xưng “Hoàng hậu mẹ
của đức vua” là dễ dàng đạt được. Còn danh xưng “Người mẹ của đức
Phật” là đạt được vô cùng khó khăn.
263. Tañca laddhaṃ mayā vīra paṇidhānaṃ mamaṃ
tayā,
aṇukaṃ vā mahantaṃ vā taṃ sabbaṃ pūritaṃ mayā.
Và bạch đấng Anh Hùng, nhờ Ngài con đã đạt được
điều ước nguyện ấy của con. Với con toàn bộ điều ấy dầu nhỏ bé hay
lớn lao đều đã được tròn đủ.
264. Parinibbātumicchāmi vihāyemaṃ kalebaraṃ,
anujānāhi me vīra dukkhantakara nāyaka.
Sau khi từ bỏ xác thân này con muốn viên tịch
Niết Bàn. Bạch đấng Anh Hùng, vị Lãnh Đạo, bậc Đoạn Tận Khổ Đau,
xin Ngài hãy cho phép con.
265. Cakkaṅkusadhajākiṇṇe pāde kamalakomale,
pasārehi paṇāmaṃ te karissaṃ puttapemasā.
Xin Ngài hãy duỗi ra (hai) bàn chân mềm dịu như
hoa sen được điểm tô bằng những cây căm bánh xe và các ngọn cờ,
con sẽ thể hiện sự tôn kính đến Ngài với lòng yêu mến đối với
người con trai.
266. Suvaṇṇarāsisaṃkāsaṃ sarīraṃ kuru pākaṭaṃ,
katvā dehaṃ sudiṭṭhaṃ te santiṃ gacchāmi nāyaka.”
Bạch đấng Lãnh Đạo, xin Ngài hãy thể hiện rõ
ràng thân thể tợ như khối vàng, sau khi thực hiện việc chiêm
ngưỡng thân thể của Ngài, con sẽ đi về chốn an tịnh.”
267. Dvattiṃsalakkhaṇūpetaṃ suppabhālaṅkataṃ
tanuṃ,
sañjhāghanāva bālakkaṃ mātucchaṃ dassayī jino.
Đấng Chiến Thắng đã khiến
cho người dì nhìn thấy thân thể được thành tựu ba mươi hai tướng
trạng và được điểm tô với những hào quang xinh xắn trông giống như
ánh mặt trời non trẻ từ đám mây chiều.
268. Phullāravindasaṅkāse taruṇādiccasappabhe,
cakkaṅkite pādatale tato sā sirasā pati.
Sau đó, bà Gotamī đã đê
đầu ở lòng bàn chân được in dấu hình bánh xe tợ như đóa hoa sen nở
rộ, (và) chói sáng như mặt trời buổi bình minh.
269. “Paṇamāmi narādiccaṃ ādiccakulaketukaṃ,
pacchime maraṇe mayhaṃ na taṃ ikkhāmahaṃ puno.
“Con
xin đảnh lễ đấng mặt trời của nhân loại, vị tiêu biểu của dòng dõi
mặt trời. Đây là lần tử biệt cuối cùng của con, con không gặp Ngài
nữa rồi.
270. Itthiyo nāma lokagga sabbadosakarā matā,
yadi ko catthi doso me khamassu karuṇākara.
Bạch đấng Tối Cao của thế gian, hàng nữ nhân
tạo nên mọi điều xấu xa rồi chết đi. Và bạch đấng Thực Hành bi
mẫn, nếu con có điều sai trái gì xin Ngài tha thứ.
271. Itthikānañca pabbajjaṃ yamahaṃ yāciṃ
punappunaṃ,
tattha ce atthi doso me taṃ khamassu narāsabha.”
Và bạch đấng Nhân Ngưu, con đã liên tục cầu xin
sự xuất gia cho hàng phụ nữ, trong việc này nếu con có điều sai
trái, xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.
272. Mayā bhikkhuniyo vīra tavānuññāya sāsitā,
tatra ce atthi dunnītaṃ taṃ khamassu khamādhipa.
Bạch đấng Đại Hùng, các tỳ khưu ni đã được con
dạy dỗ với sự cho phép của Ngài. Bạch đấng Chúa Tể về kham nhẫn,
trong trường hợp này nếu có vấn đề huấn luyện kém cỏi, xin Ngài
hãy thứ tha điều ấy.”
273. “Akkhante nāma khantabbaṃ kiṃ bhave
guṇabhūsane,
kimuttaraṃ te vakkhāmi nibbānāya vajantiyā.
“Này
người có đức hạnh là vật trang điểm, có thể kham nhẫn những điều
gọi là không thể kham nhẫn thì còn có việc gì? Ta sẽ nói điều gì
hơn nữa về bà là người đang tiến đến Niết Bàn?
274. Suddhe
anūne mama bhikkhusaṅghe
lokā ito nissarituṃ kamante,
pabhātakāle vyasanaṃ gahānaṃ
disvāna niyyāti va candalekhā.
Khi hội chúng tỳ khưu của Ta là thanh tịnh
không khiếm khuyết đang tiến bước để ra khỏi thế gian này, ví như
vầng trăng ra đi vào lúc rạng đông sau khi đã nhìn thấy sự biến
mất dần của các vì thiên thể.”
275. Tadetarā bhikkhuniyo jinaggaṃ
tārāva candānugatā sumeruṃ,
padakkhiṇaṃ katva nipacca pāde
ṭhitā mukhantaṃ samudikkhamānā.
Khi ấy, các vị tỳ khưu ni
kia đã hướng vai phải nhiễu quanh đấng Chiến Thắng tối cao, trông
giống như các vì sao theo gót mặt trăng di chuyển xung quanh núi
Sumeru, sau đó đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (đức Phật) rồi đứng
lên chiêm ngưỡng khuôn mặt (của Ngài).
276. “Na tittapubbaṃ tava dassanena
cakkhuṃ na sotaṃ tava bhāsitena,
cittaṃ mamaṃ kevalamekameva
pappuyya taṃ dhammarasena tittiṃ.
“Mắt
chưa có sự thỏa mãn đối với việc nhìn ngắm Ngài, tai chưa có sự
thoả mãn đối với việc được (nghe) Ngài thuyết giảng,
chỉ riêng một mình tâm của con đã đạt
được sự thoả mãn ấy nhờ vào hương vị của Giáo Pháp.
277. Nadato parisāyaṃ te vādidappāpahārino,
ye te dakkhanti vadanaṃ dhaññā te narapuṅgava.
Bạch đấng Cao Quý của loài người, Ngài là vị
đánh đổ sự kiêu căng của những người đối chất, khi Ngài đang tuyên
thuyết ở hội chúng những người nào nhìn thấy khuôn mặt của Ngài,
những người ấy là hữu duyên.
278. Dīghaṅgulī tambanakhe subhe āyatapaṇhike,
ye pāde paṇamissanti tepi dhaññā guṇandhara.
Bạch đấng có lóng (tay chân) dài, những người
nào sẽ khom mình ở bàn chân xinh đẹp có gót chân nhô ra, bạch bậc
Thượng Đức, những người ấy cũng là hữu duyên.
279. Madhurāni pahaṭṭhāni dosagghāni hitāni ca,
ye te vākyāni sossanti tepi dhaññā naruttama.
Bạch đấng Thượng Nhân, những người nào sẽ lắng
nghe những lời nói ngọt ngào, vui vẻ, tiêu diệt lỗi lầm, và có lợi
ích của Ngài, những người ấy cũng là hữu duyên.
280. Dhaññāhaṃ te mahāvīra pādapūjanatapparā,
tiṇṇasaṃsārakantārā suvākyena sirīmato.”
Bạch đấng Đại Hùng, với sự nhiệt tâm trong việc
lễ bái bàn chân (Ngài), con đã vượt qua khu rừng rậm luân hồi nhờ
vào lời thiện thuyết của đấng Quang Vinh, con là hữu duyên với
Ngài.”
281. Tato sā anusāsetvā bhikkhusaṅghampi
subbatā,
rāhulānandanande ca vanditvā idamabravi:
Sau đó, vị ni có hạnh kiểm
tốt đẹp ấy cũng đã thông báo đến hội chúng tỳ khưu. Và sau khi
đảnh lễ các vị Rāhula, Ānanda, Nanda, bà đã nói điều này:
282. “Āsīvisālayasame rogāvāse kalebare,
nibbinnā dukkhasaṃghāte jarāmaraṇagocare.
“Ta
nhờm gớm cái xác thân tợ như chỗ trú của rắn độc, là chỗ ngụ của
bệnh tật, bị chồng chất khổ đau, là chốn lai vãng của sự già và sự
chết, ...
283. Nānākalimalākiṇṇe parāyatte nirīhake,
tena nibbātumicchāmi anumaññatha puttakā.”
... đầy rẫy nhiễm ô và tội lỗi, lệ thuộc vào
người khác, không năng động. Vì thế Mẹ muốn Niết Bàn. Này các con
trai, hãy thông cảm (cho Mẹ).”
284. Nando rāhulabhaddo ca vītasokā nirāsavā,
ṭhītācalaṭṭhītithīrā dhammataṃ anucintayuṃ.
Vị Nanda và bậc hiền thiện
Rāhula, có sầu muộn đã lìa, không còn lậu hoặc, bền vững, không bị
lay động, chắc chắn, kiên quyết, đã suy xét về lẽ tự nhiên rằng:
285. Dhīratthu saṅkhataṃ lolaṃ asāraṃ
kadalūpamaṃ,
māyāmarīcisadisaṃ ittaraṃ anavaṭṭhitaṃ.
“Thật
là xấu hổ cho (xác thân) bị tạo tác, chao đảo, không có lõi tương
tợ như cây chuối, giống như trò xảo thuật hay ảo ảnh, ngắn ngủi,
không bền vững.
286. Yattha nāma jinassāyaṃ mātucchā
buddhaposikā,
gotamī nidhanaṃ yāti aniccaṃ sabbasaṅkhataṃ.”
Ngay cả bà Gotamī này, đối với đấng Chiến Thắng
là người dì, là người nuôi dưỡng Đức Phật, rồi cũng đi đến sự tử
vong; tất cả pháp hữu vi là vô thường.”
287. Ānando ca tadā sekho sokaṭṭo jinavacchalo,
tatthassūni dharanto so karuṇaṃ paridevati.
Và lúc bấy giờ, ngài
Ānanda, vị có lòng thương mến đối với đấng Chiến Thắng, là bậc hữu
học, đã bị dằn vặt vì sầu muộn. Tại đó, trong khi tuôn trào những
giọt lệ, vị ấy rên rĩ nỗi tiếc thương:
288. “Hā santiṃ gotamī yāti nūna buddhopi
nibbutiṃ,
gacchati na cireneva aggiriva nirindhano.”
“Hỡi
ôi! Bà Gotamī đi đến chốn thanh tịnh. Hiển nhiên, chẳng bao lâu
nữa đức Phật cũng đi đến tịch diệt ví như ngọn lửa hết nguồn nhiên
liệu.”
289. Evaṃ vilapamānaṃ taṃ Ānandaṃ āha gotamī:
“Sutisāgaragambhīra buddhupaṭṭhānatappara.
Bà Gotamī đã nói với vị
Ānanda đang than vãn ấy như vầy: “Này
vị sâu sắc như biển cả về việc nghe (học hỏi). Này vị nhiệt tâm
trong việc hầu cận đức Phật ...
290. Na yuttaṃ socituṃ putta hāsakāle
upaṭṭhite,
tava me saraṇaṃ putta nibbānaṃ samupāgataṃ.
Này con trai, chớ miệt mài thương tiếc khi thời
điểm cười vui đã đến đối với con. Này con trai, nơi nương nhờ của
ta là Niết Bàn đã đến.
291. Tayā tāta samajjhiṭṭho pabbajjaṃ anujāni
no,
mā putta vimano hohi saphalo te parissamo.
Này con yêu, được cầu khẩn bởi con (đức Phật)
đã cho phép sự xuất gia đến chúng tôi. Này con trai, chớ có phiền
muộn, sự nỗ lực của con là có kết quả.
292. Yaṃ na diṭṭhaṃ purāṇehi titthikācariyehi
pi,
taṃ padaṃ sukumārīhi sattavassāhi veditaṃ.
Đạo lộ ấy thậm chí không được nhìn thấy bởi các
vị ngoại đạo sư trước đây lại được biết đến bởi những bé gái hiền
thiện bảy tuổi.
293. Buddhasāsanapāletā pacchimaṃ dassanaṃ
tava,
tattha gacchāmahaṃ putta gato yattha na dissate.”
Này vị hộ trì Giáo Pháp của đức Phật, (giờ là)
lần nhìn thấy cuối cùng của con. Này con trai, nơi nào đi đến mà
không được nhìn thấy thì ta đi đến nơi ấy.”
294. Kadāci dhammaṃ desento khipi
lokagganāyako,
tadāhaṃ āsiṃsavacaṃ avocaṃ anukampikā:
Có lần nọ đấng Lãnh Đạo
tối cao của thế gian bị hắt hơi trong khi đang thuyết giảng Giáo
Pháp, khi ấy với lòng từ mẫn tôi đã nói lời mong mỏi rằng:
295. “Ciraṃ jīva mahāvīra kappaṃ tiṭṭha
mahāmune,
sabbalokassa atthāya bhavassu ajarāmaro.”
“Bạch
đấng Đại Hùng, xin Ngài hãy sống thọ. Bạch bậc Đại Hiền Triết, xin
Ngài hãy tồn tại trọn kiếp. Vì lợi ích của tất cả thế gian, xin
Ngài hãy là vị thiên thần bất lão.”
296. Taṃ tathāvādiniṃ buddho mamaṃ so
etadabravi:
“Na hevaṃ vandiyā buddhā yathā vandasi gotamī.”
Đối với tôi là người nữ có
lời nói như thế về điều ấy, đức Phật ấy đã nói điều này: “Này
Gotamī, chư Phật không nên được tôn vinh như thế, giống như cách
bà đã tôn vinh.”
297. “Kathaṃ carahi sabbaññu vanditabbā
tathāgatā,
kathaṃ avandiyā buddhā taṃ me akkhāhi pucchito.”
“Bạch
đấng Toàn Tri, vậy thì các đấng Như Lai là nên được tôn vinh như
thế nào? Chư Phật là không nên được tôn vinh như thế nào? Được
hỏi, xin Ngài hãy giảng cho con về điều ấy.”
298. “Āraddhaviriye pahitatte niccaṃ
daḷhaparakkame,
samagge sāvake passe esā buddhānavandanā.”
“Bà
hãy nhìn xem các vị đệ tử là có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng
quyết, có sự nỗ lực mạnh mẽ một cách bền bĩ, có sự hòa hợp; ấy là
sự tôn vinh chư Phật.”
299. Tato upassayaṃ gantvā ekikāhaṃ vicintayiṃ,
samaggaṃ parisaṃ nātho roceti tibhavantago.
Từ nơi ấy, sau khi đi về
ni viện, chỉ có một mình tôi đã suy nghiệm rằng: “Đấng
Bảo Hộ, vị đi đến tận cùng Tam Giới hài lòng về tập thể có sự hòa
hợp.
300. Handāhaṃ parinibbissaṃ mā vipattiṃ
tamaddasaṃ,”
evāhaṃ cintayitvāna disvāna isisattamaṃ.
Vậy thì ta sẽ Niết Bàn, ta chớ chứng kiến sự
băng hoại ấy.” Sau khi suy nghĩ
như thế, tôi đã diện kiến bậc Đệ Nhất Ẩn Sĩ.
301. Parinibbānakālaṃ me ārocesiṃ vināyakaṃ,
tato so samanuññāsi “Kālaṃ jānāhi gotamī.”
Tôi đã thông báo thời điểm
viên tịch Niết Bàn của tôi đến bậc Hướng Đạo. Sau đó, vị ấy đã
đồng ý rằng: “Này Gotamī, bà hãy biết
lấy thời điểm.”
302. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
“Các
phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa
sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi
trói), con sống không còn lậu hoặc.
303. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu
tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của
đức Phật tối thượng.
304. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải
thoát, và sáu thắng trí; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.”
305. Thīnaṃ dhammābhisamaye ye bālā vimatiṃ
gatā,
tesaṃ diṭṭhipahānatthaṃ iddhiṃ dassehi gotamī.
“Này
Gotamī, những kẻ ngu đi đến sự không chú tâm và sự trì trệ trong
việc lãnh hội Giáo Pháp, bà hãy thị hiện thần thông vì lợi ích cho
sự từ bỏ tà kiến của những kẻ ấy.”
306. Tadā nipacca sambuddaṃ uppatitvāna
ambaraṃ,
iddhī anekā dassesi buddhānuññāya gotamī.
Khi ấy, với sự cho phép
của đức Phật, bà Gotamī đã cúi mình (kính lễ) đấng Toàn Giác rồi
đã bay lên không trung và đã thị hiện nhiều loại thần thông.
307. Ekikā bahudhā āsi bahukā cekikā tathā,
āvibhāvaṃ tirobhāvaṃ tirokuḍḍaṃ tironagaṃ.
308. Asajjamānā agamā bhūmiyampi nimujjatha,
abhijjamāne udake agañchi mahiyā yathā.
Là một, bà đã trở thành
nhiều, và tương tợ như thế là nhiều trở thành một. Bà đã hiện ra,
biến mất, đi xuyên qua vách tường, xuyên qua ngọn núi không bị
chướng ngại. Bà cũng đã chìm vào trong trái đất. Bà đã đi ở trên
nước mà không làm chao động như là ở trên đất liền.
309. Sakuṇīva yathākāse pallaṅkena gamī tadā,
vasaṃ vattesi kāyena yāva brahmanivesanaṃ.
Khi ấy, bà đã di chuyển
với thế kiết già tương tợ như là loài chim ở trên không trung.
Bằng thân bà đã thể hiện sự tác động đến tận chỗ ngụ của đấng Phạm
Thiên.
310. Sineruṃ daṇḍaṃ katvāna chattaṃ katvā
mahāmahiṃ,
samūlaṃ parivattetvā dhārentī caṅkamī nabhe.
Sau khi đã làm ngọn núi
Sineru thành cây cán lọng và đã làm đại địa cầu thành cái lọng
che, bà đã xoay ngược lại đến tận gốc rễ. Trong khi che lọng bà đã
đi kinh hành ở hư không.
311. Chassūrodayakāleva lokañcākāsi dhūmikaṃ,
yugante viya lokaṃ sā jālāmālākulaṃ akā.
Và bà đã làm thế gian mù
mịt khói đúng vào lúc mọc lên của sáu mặt trời. Bà đã gây rối ren
bằng những tràng hoa rực lửa như là thế gian vào lúc hoại kiếp.
312. Mucalindaṃ mahāselaṃ meru mandāra daddare,
sāsaperiva sabbāni ekenaggahi muṭṭhinā.
Về tảng đá khổng lồ
Mucalinda, núi Meru, núi Mandāra, và núi Daddara, bà đã nắm lấy
toàn bộ bằng một nắm tay như là (nắm lấy) những hạt cải.
313. Aṅgulaggena chādesi bhākaraṃ sanisākaraṃ,
candasūrasahassāni āvelamiva dhārayi.
Với đầu ngón tay bà đã che
khuất mặt trời cùng với mặt trăng. Bà đã nắm giữ một ngàn mặt
trăng và mặt trời như là (nắm giữ) tràng hoa đội đầu.
314. Catusāgaratoyāni dhārayī ekapāṇinā,
yugantajaladākāraṃ mahāvassaṃ pavassayī.
Bà đã nắm giữ nước của bốn
bể bằng một bàn tay, đã làm đổ mưa trận mưa lớn có hình dáng của
đám mây đen vào lúc tận thế.
315. Cakkavattiṃ saparisaṃ māpayī sā
nabhatthale.
garuḷaṃ dviradaṃ sīhaṃ vinadantaṃ ca dassayī.
Bà đã biến hóa thành vị
Chuyển Luân Vương cùng với tùy tùng ở bề mặt của không trung. Bà
đã khiến cho nhìn thấy loài kim-sỉ-điểu, loài voi, và loài sư tử
đang gầm rống.
316. Ekikā abhinimmitvāppameyyaṃ
bhikkhunīgaṇaṃ,
puna antaradhāpetvā ekikā munimabravī:
Chỉ một mình, bà đã biến
hóa thành hội chúng tỳ khưu ni vô số kể sau đó lại làm cho biến
mất chỉ còn một mình, rồi đã nói với bậc Hiền Triết rằng:
317. “Mātucchā te mahāvīra tavasāsanakārikā,
anuppattā sakaṃ atthaṃ pāde vandati cakkhuma.”
“Bạch
đấng Đại Hùng, bạch bậc Hữu Nhãn, người dì cùa Ngài, là người nữ
thực hành theo lời dạy của Ngài, đã đạt được lợi ích cho bản thân,
(xin) đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
318. Dassetvā vividhā iddhī orohitvā
nabhatthalā,
vanditvā lokapajjotaṃ ekamantaṃ nisīdi sā.
Sau khi thị hiện nhiều thể
loại thần thông, vị ni ấy đã từ bề mặt của không trung đáp xuống
đảnh lễ đấng Quang Đăng của thế gian rồi đã ngồi xuống ở một bên.
319. “Sā vīsaṃvassasatikājātiyāhaṃ mahāmune,
alamettāvatā vīra nibbāyissāmi nāyaka.”
“Bạch
đấng Đại Hiền Triết, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính
từ lúc sanh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng
Lãnh Đạo, con sẽ Niết Bàn.”
320. Tadā ’tivimhitā sabbā parisā sā katañjalī,
avoc’ ayye kathaṃ āsi atuliddhiparakkamā.
Khi ấy, toàn thể hội chúng
ấy vô cùng sửng sốt đã chắp tay lên nói rằng: “Thưa
ni sư, làm thế nào bà đã trở thành vị có thần thông và sự nỗ lực
không thể sánh bằng?”
321. Padumuttaro nāma jino sabbadhammesu
cakkhumā,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn
về tất cả các pháp đã hiện khởi.
322. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātāmaccakule ahuṃ,
sabbūpakārasampanne iddhe phīte mahaddhane.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình vị quan cận thần có đủ mọi thứ
tiện nghi, sung túc, thịnh vượng, có đại tài sản.
323. Kadāci pitunā saddhiṃ dāsigaṇapurakkhatā,
mahatā parivārena taṃ upecca narāsabhaṃ.
Có lần nọ, tôi đã dẫn đầu
nhóm nữ tỳ cùng người cha với đoàn tùy tùng đông đảo đi đến đấng
Nhân Ngưu ấy.
324. Vāsavaṃ viya vassentaṃ dhammameghaṃ
anāsavaṃ,
saradādiccasadisaṃ raṃsimālākulaṃ jinaṃ.
Tợ như vị (Thiên Vương)
Vāsava đang làm mưa, đấng Chiến Thắng, bậc không còn lậu hoặc, rực
rỡ với quầng hào quang giống như mặt trời của mùa thu, đang làm đổ
xuống cơn mưa Pháp.
325. Disvā cittaṃ pasādetvā sutvā cassa
subhāsitaṃ,
mātucchaṃ bhikkhuniṃ agge ṭhapentaṃ naranāyakaṃ.
Sau khi nhìn thấy, tôi đã
khởi tâm tịnh tín và đã lắng nghe (Pháp) khéo được thuyết giảng
của vị đấng Lãnh Đạo nhân loại ấy khi Ngài đang thiết lập vị tỳ
khưu ni Mātucchā vào vị thế hàng đầu.
326. Sutvā datvā mahādānaṃ sattāhaṃ tassa
tādino,
sasaṅghassa naraggassa paccayāni bahūni ca.
Sau khi lắng nghe và sau
khi đã cúng dường đại thí và nhiều vật dụng trong bảy ngày đến bậc
Tối Thượng Nhân như thế ấy cùng với hội chúng (của Ngài), ...
327. Nipajja pādamūlamhi taṃ ṭhānaṃ
abhipatthayiṃ,
tato mahāparisatiṃ avoca isisattamo:
... Tôi đã nằm dài xuống ở
bàn chân (Ngài) và đã phát nguyện vị thế ấy. Sau đó, vị Đệ Nhất Ẩn
Sĩ đã nói với đoàn tùy tùng đông đảo rằng:
328. “Yā sasaṅghaṃ abhojesi sattāhaṃ
lokanāyakaṃ,
tamahaṃ kittayissāmi suṇātha mama bhāsato.
“Người
nữ nào đã cúng dường vật thực đến vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với
hội chúng trong bảy ngày, Ta sẽ tán dương người nữ ấy. Các người
hãy lắng nghe Ta nói.
329. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
330. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
gotamī nāma nāmena hessati satthusāvikā.
(Người
nữ này) sẽ trở
thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp,
có tên là Gotamī.
331. Tassa buddhassa mātucchā jīvitāpādikā
ayaṃ,
rattaññūnañca aggattaṃ bhikkhunīnaṃ labhissati.”
Người nữ này sẽ là người dì nuôi dưỡng mạng
sống của vị Phật ấy và sẽ đạt được vị thế hạng nhất trong số các
tỳ khưu ni kỳ cựu.”
332. Taṃ sutvāna pamuditā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
paccayehi upaṭṭhitvā tato kālakatā ahaṃ.
Sau khi nghe điều ấy, được
hoan hỷ, khi ấy tôi đã hộ độ đấng Chiến Thắng bằng các vật dụng
cho đến hết cuộc đời, sau đó đã từ trần.
333. Tāvatiṃsesu devesu sabbakāmasamiddhisu,
nibbattā dasahaṅgehi aññe abhibhaviṃ ahaṃ.
Được sanh lên giữa chư
Thiên thuộc cõi Đạo Lợi có các sự dồi dào
về mọi dục lạc, tôi đã vượt trội các vị
(trời) khác về mười phương diện:
334. Rūpasaddehi gandhehi rasehi phusanehi ca,
āyunāpi ca vaṇṇena sukhena yasasāpi ca.
Là các sắc, các thinh, các
hương, các vị, và các xúc, luôn cả tuổi thọ và sắc đẹp, sự an lạc
và luôn cả danh tiếng nữa.
335. Tathevādhipateyyena adhigayha viroc’ ahaṃ,
ahosiṃ amarindassa mahesī dayitā tahiṃ.
Với ưu thế như thế ấy, tôi
đã nổi bật và sáng chói. Tôi đã là hoàng hậu yêu dấu của vị Trời
Đế Thích ở tại nơi ấy.
336. Saṃsāre saṃsarantīhaṃ kammavāyusameritā,
kāsissa rañño visaye ajāyiṃ dāsagāmake.
Trong khi trôi nổi luân
hồi, bị dời chuyển dưới tác động của nghiệp, tôi đã được sanh ra ở
trong ngôi làng dân nô lệ thuộc lãnh địa của đức vua Kāsi.
337. Pañcadāsasatānūnā nivasanti tahiṃ tadā,
sabbesaṃ tattha yo jeṭṭho tassa jāyā ahos’ ahaṃ.
Khi ấy, có không dưới năm
trăm người nô lệ cư ngụ ở tại nơi ấy. Ở nơi ấy, người nào là đứng
đầu của tất cả (nhóm người nô lệ), tôi đã trở thành vợ của người
ấy.
338. Sayambhuno pañcasatā gāmaṃ piṇḍāya
pāvisuṃ,
te disvāna ahaṃ tuṭṭhā saha sabbehi ñātihi.
Năm trăm bậc Tự Chủ đã đi
vào làng để khất thực. Sau khi nhìn thấy những vị ấy, tôi đã vui
mừng cùng với tất cả thân quyến.
339. Katvā pañcasatakuṭī catumāse upaṭṭhiya,
ticīvarāni datvāna pasannāmha sasāmikā.
Sau khi đã xây dựng năm
trăm cốc liêu, đã hộ độ trong bốn tháng, đã cúng dường ba y, chúng
tôi cùng với những người chồng đã hoan hỷ.
340. Tato cutā sapatikā tāvatiṃsagatā mayaṃ,
pacchime ca bhave ’dāni jātā devadahe pure.
Từ nơi ấy chết đi, chúng
tôi cùng với những người chồng đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Và
trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, chúng tôi đã được sanh về
thành phố Devadaha.
341. Pitā añjanasakko me mātā mama sulakkhaṇā,
tato kapilavatthusmiṃ suddhodanagharaṃ gatā.
Cha của tôi là Añjana
thuộc dòng Sakya, mẹ của tôi là (hoàng hậu) Sulakkhaṇā. Sau đó,
tôi đã đi đến nhà (làm vợ) của (đức vua) Suddhodana ở thành
Kapilavatthu.
342. Sesā sakyakule jātā sakyānaṃ gharamāgamuṃ,
ahaṃ visiṭṭhā sabbāsaṃ jinassāpādikā ahuṃ.
Những người còn lại đã
được sanh vào gia tộc Sakya, đã đi đến nhà (làm vợ) của các vị
dòng Sakya. Là ưu việt trong số tất cả, tôi đã là người bảo mẫu
của đấng Chiến Thắng.
343. Mama putto ’bhinikkhamma buddho āsi
vināyako,
pacchāhaṃ pabbajitvāna satehi saha pañcahi.
Người con trai của tôi sau
khi lìa bỏ ra đi đã trở thành đức Phật, bậc Hướng Đạo. Về sau, tôi
đã xuất gia cùng với năm trăm vị (công nương).
344. Sākiyānihi dhīrāhi saha santisukhaṃ
phusiṃ,
ye tadā pubbajātiyaṃ amhākaṃ ahu sāmino.
Cùng với các công nương
dòng Sakya, tôi đã chạm đến sự an lạc của Niết Bàn. Khi ấy, những
người nào đã là chồng của chúng tôi trong cuộc sống trước đây, …
345. Saha puññassa kattāro mahāsamayakārakā,
phusiṃsu arahattaṃ te sugatenānukampitā.
… những người cùng thực
hiện phước báu, những người đã tạo ra thời điểm trọng đại, được
đấng Thiện Thệ thương tưởng những người ấy đã chạm đến quả vị
A-la-hán.
346. Tadetarā bhikkhuniyo āruhiṃsu
nabhatthalaṃ,
saṅgatā viya tārāyo virociṃsu mahiddhikā.
Khi ấy, các vị tỳ khưu ni
kia đã ngự lên bề mặt của không trung. Có đại thần lực, các vị ni
đã chói sáng như là các vì sao đã được quần tụ lại.
347. Iddhī anekā dassesuṃ piḷandhavikatī yathā,
kammāro kanakasseva kammaññassa susikkhito.
Các vị ni đã thị hiện
nhiều loại thần thong, tương tợ như những thợ vàng khéo được huấn
luyện đã làm ra nhiều mẫu mã trang sức đối với kim loại vàng đã
được chế biến.
348. Dassetvā pāṭihīrāni vicittāni bahūni ca,
tosetvā vādipavaraṃ muniṃ saparisaṃ tadā.
Khi ấy, các vị ni đã thị
hiện các phép lạ đa dạng nhiều loại và đã làm hoan hỷ đấng Hiền
Triết, vị thuyết giảng hàng đầu, cùng với đồ chúng.
349. Orohitvāna gaganā vanditvā isisattamaṃ,
anuññātā naraggena yathāṭhāne nisīdisuṃ.
Sau khi từ không trung đáp
xuống, các vị ni đã đảnh lễ bậc Ẩn Sĩ tối thượng. Được sự cho phép
của đấng Tối Thượng Nhân, các vị ni đã ngồi xuống đúng theo vị thế
(nói rằng):
350. “Aho ’nukampikā amhaṃ sabbāsaṃ vīra
gotamī,
vāsitā tava puññehi pattā no āsavakkhayaṃ.
“Ôi!
Bạch đấng Anh Hùng, bà Gotamī là người có lòng từ mẫn đối với tất
cả chúng con. Được sống nhờ vào những phước báu của Ngài, chúng
con đã đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.
351. Kilesā jhāpitā amhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā.
Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt,
tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như
là những con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn
lậu hoặc.
352. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã
thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự
hiện tiền của đức Phật tối thượng.
353. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Chúng con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám
giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã thực hành lời dạy của
đức Phật.
354. Iddhīsu ca vasī homa dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homa mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con đã có năng
lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng
lực về trí biết tâm của người khác.
355. Pubbe nivāsaṃ jānāma dibbacakkhu
visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.
Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên
nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ
đây không còn tái sanh nữa.
356. Atthe ca dhamme nerutte paṭibhāne ca
vijjati,
ñāṇaṃ amhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike.
Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý
nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và về phép biện giải là được phát
hiện, được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
357. Asmāhi pariciṇṇo ’si mettacittāhi nāyaka,
anujānāhi sabbāsaṃ nibbānāya mahāmune.”
Bạch đấng Lãnh Đạo, Ngài đã hành sử đối với
chúng con bằng các từ tâm.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, xin Ngài cho phép về
việc Niết Bàn đến tất cả (chúng con).”
358. “Nibbāyissāma iccevaṃ kiṃ vakkhāmi
vadantiyo,
yassadāni ca vo kālaṃ maññāthā’ti jino ’bravi.
Đấng Chiến Thắng đã nói
rằng: “Khi các nàng nói: ‘Chúng con sẽ
Niết Bàn,’ như thế thì Ta còn nói điều gì nữa. Vậy thì giờ đây,
các nàng hãy suy nghĩ về thời điểm của các nàng.”
359. Gotamī ādikā tāyo tadā bhikkhuniyo jinaṃ,
vanditvā āsanā tamhā vuṭṭhāya agamaṃsu tā.
Khi ấy, các vị tỳ khưu ni
ấy đứng đầu là Gotamī, v.v... đã đảnh lễ đấng Chiến Thắng rồi đã
từ chỗ ngồi ấy đứng dậy và các vị ni ấy đã ra đi.
360. Mahatā janakāyena saha lokagganāyako,
anusaṃyāyi so vīro mātucchaṃ yāva koṭṭhakaṃ.
Bậc Anh Hùng ấy, vị Lãnh
Đạo tối cao của thế gian cùng với đại chúng đông đảo đã cùng đi
theo người dì cho đến tận cổng.
361. Tadā nipati pādesu gotamī lokabandhuno,
sahetarāhi sabbāhi pacchimaṃ pādavandanaṃ.
Khi ấy, bà Gotamī đã cúi
xuống ở các bàn chân của đấng Quyến Thuộc thế gian, là sự đảnh lễ
bàn chân lần cuối cùng với tất cả các vị ni kia.
362. “Idaṃ pacchimakaṃ mayhaṃ lokanāthassa
dassanaṃ,
na puno amatākaraṃ passissāmi mukhaṃ tava.
"Đây
là lần nhìn thấy đấng Bảo Hộ Thế Gian lần cuối cùng của con. Con
sẽ không còn nhìn thấy lại khuôn mặt của Ngài là nguồn phát sanh
lên sự bất tử.
363. Na ca me vandanaṃ vīra tava pāde sukomale,
samphusissāmi lokagga ajja gacchāmi nibbutiṃ.
Và bạch đấng Anh Hùng, (đây) không phải là sự
đảnh lễ của con ở bàn chân vô cùng mềm mại của ngài. Bạch đấng Tối
Cao của thế gian, con sẽ sờ nắn (chúng); hôm nay con đi đến nơi an
tịnh.
364. Rūpena kiṃ tavānena diṭṭhe dhamme
yathātathe,
sabbaṃ saṅkhatamevetaṃ anassāsitamittaraṃ.”
Có gì với sắc tướng này của Ngài khi pháp đã
được thấy đúng theo bản thể?
Toàn bộ sắc tướng này chỉ là hữu vi,
không được thoải mái, là tạm bợ.”
365. Sā tāhi saha gantvāna bhikkhunupassayaṃ
sakaṃ,
aḍḍhapallaṅkamābhujja nisīdi paramāsane.
Sau khi đi về tu viện tỳ
khưu ni của mình cùng với các vị ni ấy, bà Gotamī đã xếp chân bán
già ngồi xuống ở trên chỗ ngồi cao nhất.
366. Tadā upāsikā tattha buddhasāsanavacchalā,
tassā pavattiṃ sutvāna upesuṃ pādavandikā.
Khi ấy, các nữ cư sĩ mến
chuộng Phật Pháp ở tại nơi ấy, sau khi nghe được tin tức về bà ấy
đã đi đến đảnh lễ ở bàn chân.
367. Karehi uraṃ pahantvā chinnamūlā yathā
latā,
rodantā karuṇaṃ rāvaṃ sokaṭṭā bhūmipātikā.
Bị dằn vặt vì sầu muộn, họ
đã đấm vào ngực bằng những bàn tay. Rồi giống như là các dây leo
bị chặt đứt gốc rễ, họ đã ngã xuống ở trên đất trong khi nức nở
tiếng khóc lóc thảm thương rằng:
368. “Mā no saraṇade nāthe vihāya gami
nibbutiṃ,
nipatitvāna yācāma sabbāyo sirasā mayaṃ.”
“Hỡi
người ban bố sự nương nhờ, hỡi người bảo hộ, xin người đừng từ bỏ
chúng con mà đi đến nơi an tịnh. Toàn thể người nữ chúng con quỳ
xuống đê đầu thỉnh cầu (người).”
369. Yā padhānatamā tāsaṃ saddhā paññā upāsikā,
tassā sīsaṃ pamajjantī idaṃ vacanamabravi:
Trong khi xoa đầu của
người nữ cư sĩ có sự nỗ lực cao nhất, có tín tâm, có trí tuệ trong
số ấy, bà Gotamī đã nói lời nói này:
370. “Alaṃ puttā visādena mārapāsānuvattinā,
aniccaṃ saṅkhataṃ sabbaṃ viyogantaṃ calācalaṃ.”
“Này
các con, thôi đủ rồi bởi vì thất vọng là sự xoay vần theo mưu kế
của Ma Vương. Tất cả pháp hữu vi là vô thường, sự chia lìa và sự
tử vong là không chừng đổi.”
371. Tato sā tā vissajjitvā paṭhamaṃ
jhānamuttamaṃ,
dutiyaṃ tatiyaṃ cāpi samāpajji catutthakaṃ.
Sau đó, bà ấy đã giã từ
những người nữ ấy rồi đã thể nhập bậc thiền tối thượng thứ nhất,
thứ nhì, thứ ba, và luôn cả bậc thứ tư.
372. Ākāsāyatanañceva viññāṇāyatanaṃ tathā,
ākiñcaññaṃ nevasaññaṃ samāpajji yathākkamaṃ.
Tương tợ như thế, theo
tuần tự bà đã thể nhập không gian xứ, thức xứ, vô sở hữu, phi
tưởng.
373. Paṭilomena jhānāni samāpajjittha gotamī,
yāvatā paṭhamaṃ jhānaṃ tato yāva catutthakaṃ.
Bà Gotamī đã thể nhập các
bậc thiền theo chiều nghịch về lại bậc thiền thứ nhất, rồi từ đó
tiến đến bậc thứ tư.
374. Tato vuṭṭhāya nibbāyi dīpaccīva nirāsanā,
bhūmicālo mahā āsi nabhasā vijjutā pati.
Từ đó bà đã xuất ra và đã
Niết Bàn tợ như ngọn lửa của cây đèn cạn dầu. Đã có sự chuyển động
của trái đất dữ dội, sét đã giáng xuống từ bầu trời.
375. Panāditā dundubhiyo parideviṃsu devatā,
pupphavuṭṭhi ca gaganā abhivassatha mediniṃ.
Các tiếng trống đã được
vang lên, chư thiên đã than vãn, và cơn mưa bông hoa từ bầu trời
đã đổ xuống trái đất.
376. Kampito merurājāpi raṅgamajjhe yathā naṭo,
sokenevātidīno ca viravo āsi sāgaro.
Ngọn núi chúa Meru cũng đã
rung động tương tợ như người vũ công ở giữa sàn nhảy. Chính vì sầu
muộn, biển cả đã có sự gào thét vô cùng thảm thiết.
377. Devā nāgāsurā brahmā saṃvigg’ āhaṃsu
taṅkhaṇe:
“Aniccā vata saṅkhārā yathāyaṃ vilayaṃ gatā.
Vào giây phút ấy, chư
Thiên, các Long Vương, Atula, và đấng Phạm Thiên bị chấn động đã
thốt lên rằng: “Các pháp hữu vi quả
thật là vô thường, vị ni này đã đi đến hoại diệt là thế ấy.
378. Yā c’ emaṃ parivāriṃsu satthusāsanakārikā,
tāyo ’pi anupādānā dīpaccī viya nibbutā.”
Và các vị ni nào là những người thực hành theo
lời dạy của bậc Đạo Sư đã tháp tùng vị ni này, các vị ni ấy cũng
không còn chấp thủ, như là ngọn lửa của cây đèn đã bị lụi tàn.”
379. “Hā yogā vippayogantā hāniccaṃ
sabbasaṅkhataṃ,
hā jīvitaṃ vināsantaṃ” iccāsi paridevanā.
Và đã có sự than vãn rằng:
“Chao ôi! Các sự hội tụ có sự chia lìa
là điểm kết thúc. Chao ôi! Tất cả pháp hữu vi là vô thường. Chao
ôi! Cuộc sống có sự hoại diệt là điểm kết thúc.”
380. Tato devā ca brahmā ca
lokadhammānuvattanaṃ,
kālānurūpaṃ kubbanti upetvā isisattamaṃ.
Sau đó, chư Thiên và đấng
Phạm Thiên (đã) tiến hành công việc thuận theo pháp thế gian, đúng
thời điểm, rồi đã đi đến gần vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ.
381. Tadā āmantayī satthā ānandaṃ sutisāgaraṃ,
“Gacchānanda nivedehi bhikkhūnaṃ mātunibbutiṃ.”
Khi ấy, bậc Đạo Sư đã bảo
ngài Ānanda là vị có sự học ví như biển cả rằng: “Này
Ānanda, hãy đi thông báo đến các tỳ khưu về việc Niết Bàn của mẹ.”
382. Tad’ ānando nirānando assunā puṇṇalocano,
gaggadena sarenāha “Samāgacchantu bhikkhavo.
Khi ấy, ngài Ānanda, không
còn nét hân hoan,[8]
mắt đẫm lệ, đã nói với giọng nói nghẹn ngào rằng: “Hỡi
chư tỳ khưu, hãy cùng nhau đi đến.
383. Pubbadakkhiṇapacchāsu uttarāyaṃ vasanti
ye,
suṇantu bhāsitaṃ mayhaṃ bhikkhavo sugatorasā.
Hỡi chư tỳ khưu là các đệ tử của đấng Thiện Thệ
đang ngụ ở các hướng đông, nam, tây, bắc, xin hãy lắng nghe lời
nói của tôi.
384. Yā vaḍḍhayi payattena sarīraṃ pacchimaṃ
mune,
sā gotamī gatā santiṃ tārāva suriyodaye.
Bà gotamī ấy, người đã
ra sức nuôi dưỡng xác thân cuối
cùng của đấng Hiền
Triết,
đã
đi
đến nơi
an tịnh như
là vì sao vào lúc ló dạng
của mặt
trời.
385. Buddhamātāti paññattiṃ ṭhapayitvā
gatāsamaṃ,
na yattha pañcanettopi gataṃ dakkhati nāyako.
Sau khi đã thiết lập danh xưng cho vị ni đã ngự
đến Niết Bàn là “Người Mẹ của đức Phật,” đấng Lãnh Đạo, dầu là bậc
Ngũ Nhãn, cũng không nhìn thấy nơi nào là nơi (bà) đã đi đến.
386. Yassatthi sugate saddhā yo ca piyo
mahāmune,
buddhamātarī sakkāraṃ karotu sugatoraso.”
Vị
nào có niềm tin
vào đấng Thiện
Thệ, và vị
nào yêu quý bậc
Đại Hiền
Triết, xin vị
đệ tử
của
đấng Thiện
Thệ hãy thể
hiện sự
tôn kính đối với
người mẹ của đức Phật.”
387. Sudūraṭṭhāpi taṃ sutvā sīghamāgañchu
bhikkhavo,
keci buddhānubhāvena keci iddhisu kovidā.
Sau nghe được điều ấy, các vị
tỳ khưu thậm chí từ quốc độ vô cùng xa xôi đã nhanh chóng đi đến,
một số vị là nhờ vào năng lực của đức Phật, một số vị là được
thuần thục về các thần thông.
388. Kūṭāgāravare ramme sabbasoṇṇamaye subhe,
mañcakaṃ samaropesuṃ yattha suttāsi gotamī.
Ở trong ngôi nhà mái nhọn
cao quý đáng yêu toàn bộ làm bằng vàng sáng chói, các vị đã cùng
nhau sắp đặt chiếc giường nhỏ là nơi bà Gotamī an nghỉ.
389. Cattāro lokapālā te aṃsehi samadhārayuṃ,
sesā sakkādayo devā kūṭāgāre samaggahuṃ.
Bốn vị (Trời) hộ trì thế
gian ấy đã cùng nhau gánh vác bằng những bả vai. Chư Thiên còn lại
như là (vua trời) Sakka, v.v... đã cùng nhau khiêng các ngôi nhà
mái nhọn.
390. Kūṭāgārāni sabbāni āsuṃ pañcasatānipi,
saradādiccavaṇṇāni vissakammakatāni hi.
Toàn bộ đã có đến năm trăm
ngôi nhà mái nhọn có màu sắc như ánh mặt trời vào mùa thu đều đã
được tạo nên bởi vị trời Vissakamma.
391. Sabbāpi tā bhikkhuniyo āsuṃ mañcesu
sāyitā,
devānaṃ khandhamāruḷhā niyyanti anupubbaso.
Toàn thể các vị tỳ khưu ni
ấy đã được đặt nằm trên những chiếc giường được nâng lên đặt ở vai
của chư Thiên rồi được tuần tự rước đi.
392. Sabbaso chāditaṃ āsi vitānena
nabhatthalaṃ,
satārā candasuriyā lañchitā kanakāmayā.
Bề mặt không trung đã được
che phủ toàn bộ bằng mái che. Mặt trăng, mặt trời, cùng các vì sao
đã được ghi dấu hiệu bằng vàng.
393. Patākā ussitā nekā vitatā pupphakañcukā,
ogatākāsapadumā mahiyā pupphamuggataṃ.
Vô số ngọn cờ đã được dựng
lên, các tấm màn hoa đã được trải rộng, từ trên không trung những
đóa hoa sen đã rơi xuống, ở trên mặt đất là bông hoa đã được vun
cao.
394. Dissanti candasuriyā pajjalanti ca tārakā,
majjhaṃgatopi cādicco na tāpeti sasī yathā.
Mặt trăng và mặt trời được
nhìn thấy và các vì sao lấp lánh. Và mặt trời dầu đã đi đến chính
ngọ nhưng không làm cho nóng bức, tợ như là mặt trăng vậy.
395. Devā dibbehi gandhehi mālehi surabhīhi ca,
vāditehi ca naccehi saṅgītīhi ca pūjayuṃ.
Chư Thiên đã cúng dường
bằng các hương thơm ở cõi trời, những tràng hoa thơm ngát, các
khúc nhạc, những điệu vũ, và các bản đồng ca.
396. Nāgā surā ca brahmāno yathāsatti
yathābalaṃ,
pūjāyiṃsu ca nīyantiṃ nibbutaṃ buddhamātaraṃ.
Và các vị Long Vương, chư
Thiên, và các Phạm Thiên tùy theo khả năng, tùy theo sức lực đã
cúng dường người mẹ của đức Phật đã Niết Bàn đang được rước đi.
397. Sabbāyo purato nītā nibbutā sugatorasā,
gotamī nīyate pacchā sakkatā buddhapositā.
Toàn bộ các vị ni đệ tử
của đấng Thiện Thệ đã tịch diệt là được rước đi ở phía trước, bà
Gotamī, người đã nuôi dưỡng đức Phật, được kính trọng, đã được
rước đi phía sau.
398. Purato devamanujā sanāgāsurabrahmakā,
pacchā sasāvako buddho pūjatthaṃ yāti mātuyā.
Chư Thiên và nhân loại
cùng với các Long Vương, A-tu-la, Phạm Thiên là ở phía trước, đức
Phật cùng các vị Thinh Văn đi ở phía sau nhằm mục đích tôn vinh
người mẹ.
399. Buddhassa parinibbānaṃ nedisaṃ āsi
yādisaṃ,
gotamī parinibbānaṃ atīvacchariyaṃ ahu.
Lễ viên tịch Niết Bàn của
đức Phật đã là như thế nào chứ không được như thế này, lễ viên
tịch Niết Bàn của bà Gotamī đã là vô cùng phi thường.
400. Buddho buddhassa nibbāne nopadissati
bhikkhavo,
buddho gotaminibbāne sāriputtādikā tathā.
Ở lễ Niết Bàn của đức
Phật, đức Phật không hiện diện (chỉ có) các vị tỳ khưu. Ở lễ Niết
Bàn của bà Gotamī có đức Phật cũng như có các vị Sāriputta, v.v...
401. Citakāni karitvāna sabbagandhamayāni te,
gandhacuṇṇāvakiṇṇāni jhāpayiṃsu ca tā tahiṃ.
Các vị ấy đã thực hiện các
giàn hỏa thiêu được làm bằng tất cả các loại vật thơm, được rải
rắc các loại bột phấn thơm, rồi đã hỏa thiêu bà ở nơi đó.
402. Sesabhāgāni ḍayhiṃsu aṭṭhisesāni sabbaso,
ānando ca tadāvoca saṃvegajananaṃ vaco:
Các phần còn sót lại đã
được đốt cháy toàn bộ, toàn bộ phần còn lại là các hạt xương. Và
khi ấy, ngài Ānanda đã nói lời nói khơi dậy nỗi chấn động:
403. “Gotamī nidhanaṃ yātā daḍḍhaṃ cassā
sarīrakaṃ,
saṅke ’haṃ buddhanibbānaṃ na cirena bhavissati.”
“Bà
Gotamī đã đi đến sự yên nghỉ, và thi thể của bà ấy đã được thiêu
đốt. Tôi e rằng sự Niết Bàn của đức Phật sẽ là không lâu.”
404. Tato gotamidhātūni tassā pattagatāni so,
upanāmesi nāthassa ānando buddhacodito.
Sau đó, được đức Phật
khuyên bảo vị Ānanda ấy đã dâng lên đấng
Bảo Hộ các xá-lợi của bà Gotamī đã được đặt vào trong bình bát của
bà ấy.
405. Pāṇinā tāni paggayha avoca isisattamo:
“Mahato sāravantassa yathā rukkhassa tiṭṭhato.
Sau khi đã nhận lấy các
xá-lợi bằng bàn tay, vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói rằng: “So
sánh với thân cây to lớn có lõi đang đứng thẳng, ...
406. Yo so mahattaro khandho palujjeyya
aniccatā,
tathā bhikkhunīsaṅghassa gotamī parinibbutā.
...
giống cây nào dầu có thân lớn hơn vẫn
bị ngã xuống bởi vì tính chất vô thường, tương tợ như thế bà
Gotamī của hội chúng tỳ khưu ni đã viên tịch Niết Bàn.
407. Aho acchariyaṃ mayhaṃ nibbutāyapi mātuyā,
sarīramattasesāya natthi sokapariddavo.
Ôi! Quả là ngạc nhiên đối với Ta ngay cả trong
sự Niết Bàn của người mẹ chỉ còn lại phần nhỏ về xá-lợi, không có
gì sầu muộn hay than vãn.
408. Na sociyā paresaṃ sā tiṇṇasaṃsārasāgarā,
parivajjitasantāpā sītibhūtā sunibbutā.
Những người khác không có gì phải sầu khổ, bà
ấy có biển cả luân hồi đã được vượt qua, sự bực bội đã lìa, được
trạng thái mát mẻ, đã Niết Bàn tốt đẹp.
409. Paṇḍitāsi mahāpaññā puthupaññā tatheva ca,
rattaññū bhikkhunīnaṃ sā evaṃ dhāretha bhikkhavo.
Bà đã là vị thông thái có tuệ vĩ đại, và tương
tợ như thế ấy bà là vị có tuệ bao quát, là vị kỳ cựu trong số các
tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, các ngươi hãy ghi nhận như thế ấy.
410. Iddhiyā ca vasī āsi dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī āsi ca gotamī.
Bà Gotamī đã có năng lực về thần thông, về
thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
411. Pubbe nivāsaṃ aññāsi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
sabbāsavaparikkhīṇā natthi tassā punabbhavo.
Bà đã biết được đời sống trước đây, thiên nhãn
đã được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đối với
bà ấy không còn tái sanh nữa.
412. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
parisuddhaṃ ahu ñāṇaṃ tasmā socaniyā na sā.
Bà ấy đã có được trí hoàn toàn thanh tịnh về ý
nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện
giải; vì thế không nên sầu muộn.
413. Ayoghanahatasseva jalato jātavedaso,
anupubbūpasantassa yathā na ñāyate gati.
Giống như đối với ngọn lửa cháy sáng hủy hoại
luôn cả chiếc búa sắt (nhưng khi) đã được dập tắt theo tuần tự thì
nơi đi đến cũng không được biết.
414. Evaṃ sammā vimuttānaṃ
kāmabandhoghatārinaṃ,
paññāpetuṃ gati natthi pattānaṃ acalaṃ padaṃ.
Tương tợ như vậy, đối với những người đã được
giải thoát đúng đắn, có sự vượt qua dòng lũ ràng buộc của các dục
lạc, đã đạt được vị thế bất động thì không còn cảnh giới tái sanh
nào đế nhận biết nữa.
415. Attadīpā tato hotha satipaṭṭhānagocarā,
bhāvetvā sattabojjhaṅge dukkhassantaṃ karissathā’ti.
Do đó, các ngươi hãy là hòn đảo của chính bản
thân, có hành xứ là các sự thiết lập niệm. Sau khi tu tập bảy chi
phần giác ngộ, các ngươi sẽ làm chấm dứt sự khổ đau.”
Itthaṃ sudaṃ Mahāpajāpatigotamī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Vị tỳ khưu ni Mahāpajāpatigotamī đã nói lên những lời kệ này như
thế ấy.
Mahāpajāpatigotamītheriyāpadānaṃ sattamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Mahāpajāpatigotamī là phần thứ bảy.
--ooOoo--
18.
Khemāpadānaṃ
18. Ký Sự về Khemā:
416. Padumuttaranāmajino sabbadhammesu
cakkhumā,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn
về tất cả các pháp đã hiện khởi.
417. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule
ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappitā.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô
số châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.
418. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ
dhammadesanaṃ,
tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ.
Tôi đã đi đến đấng Đại
Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín
sanh khởi, tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.
419. Mātaraṃ pitaraṃ cāpi āyācitvā vināyakaṃ,
nimantayitvā sattāhaṃ bhojayiṃ sahasāvakaṃ.
Và tôi cũng đã yêu cầu mẹ
cha rồi đã thỉnh mời đấng Hướng Đạo cùng với các vị Thinh Văn và
đã cung ứng vật thực trong bảy ngày.
420. Atikkante ca sattāhe mahāpaññānamuttamaṃ,
bhikkhuniṃ etadaggamhi ṭhapesi narasārathi.
Và khi bảy ngày đã trôi
qua, đấng Điều Ngự Trượng Phu đã thiết lập vị tỳ khưu ni đứng đầu
trong số các vị ni có đại trí tuệ vào vị thế tối thắng.
421. Taṃ sutvā muditā hutvā puno tassa
mahesino,
kāraṃ katvāna taṃ ṭhānaṃ paṇipacca paṇidahiṃ.
Sau khi được nghe điều ấy,
trở nên hoan hỷ, tôi đã thể hiện sự tôn kính đến bậc Đại Ẩn Sĩ ấy
lần nữa rồi đã nằm dài xuống và đã phát nguyện vị thế ấy.
422. Tato maṃ sa jino āha “Sijjhataṃ paṇidhi
tava,
sasaṅghe me kataṃ kāraṃ appameyyaphalaṃ tayā.
Do đó, đấng Chiến Thắng ấy
đã nói với tôi rằng: “Điều phát nguyện
của nàng (sẽ) được thành tựu. Sự tôn kính đã được nàng thực hiện ở
nơi Ta cùng với hội chúng là có quả báu vô lượng.
423. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
424. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
ekadaggaṃ anuppattā khemā nāma bhavissasi.”
(Người
nữ này) sẽ có tên
là Khemā, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh
thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, được đạt đến vị trí hạng nhất.
425. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsūpagā ahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
426. Tato cutā yāmamagaṃ tato ’haṃ tusitaṃ
gatā,
tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato.
Từ nơi ấy chết đi, tôi đã
đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó
đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
427. Yattha yatthūppajjāmi tassa kammassa
vāhasā,
tattha tattheva rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.
Do tác động của nghiệp ấy,
ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi
chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
428. Tato cutā manussatte rājūnaṃ
cakkavattīnaṃ,
maṇḍalīnañca rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ.
Từ nơi ấy chết đi (sanh)
vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của
các vị Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.
429. Sampattiṃ anubhotvāna dese manujesu ca,
sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsiriṃ.
Tôi đã thọ hưởng sự thành
đạt ở giữa chư thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các
nơi, và đã luân hồi trong nhiều kiếp.
430. Ekanavute ito kappe vipassī lokanāyako,
uppajji cārunayano sabbadhammavipassako.
Trước đây chín mươi mốt
kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, vị
thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi.
431. Tamahaṃ lokanāyakaṃ upetvā narasārathiṃ,
dhammaṃ paṇītaṃ sutvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ.
Tôi đã đi đến gặp vị Lãnh Đạo
thế gian, đấng Điều Ngự Trượng Phu ấy. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp
cao quý, tôi đã xuất gia vào cuộc sống
không gia đình.
432. Dasavassasahassāni tassa vīrassa sāsane,
brahmacariyaṃ caritvāna yuttayogā bahussutā.
Sau khi thực hành Phạm hạnh
trong Giáo Pháp của đấng Anh Hùng ấy mười ngàn năm, tôi đã gắn bó
vào thiền tập, có sự nghe nhiều (học rộng).
433. Paccayākārakusalā catusaccavisāradā,
nipuṇā cittakathikā satthusāsanakārikā.
Là vị thiện xảo về các
biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), có niềm tự tín ở bốn Sự
Thật, khôn khéo là vị thuyết giảng hay, là người thực hành theo
lời dạy của bậc Đạo Sư.
434. Tato cutāhaṃ tusitaṃ upapannā yasassinī,
abhibhosiṃ tahiṃ aññe brahmacariyaphalen’ ahaṃ.
Từ nơi ấy chết đi, tôi đã
đạt đến cõi trời Đẩu Suất, là tiên nữ có danh tiếng. Tại nơi ấy,
tôi đã vượt trội những người khác nhờ vào quả báu của việc hành
Phạm hạnh.
435. Yattha yatthūpapannāhaṃ mahābhogā
mahaddhanā,
medhāvinī rūpavatī vinītaparisā’pi ca.
Ở bất cứ nơi nào tôi được
sanh ra, tôi đều có nhiều của cải, nhiều tài sản, là người có sự
thông minh, có sắc đẹp, và có luôn cả hội chúng đã được rèn luyện
nữa.
436. Bhavāmi
tena kammena yogena jinasāsane,
sabbā sampattiyo mayhaṃ sulabhā manaso piyā.
Do nghiệp ấy có sự gắn bó
với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, tất cả các sự thành tựu của
tôi đều đạt được dễ dàng và tôi có sự thích thú ở trong tâm.
437. Yopi me
bhavate bhattā yattha yattha gatāyapi,
vimāneti na maṃ koci paṭipattiphalena me.
Thậm chí ở bất cứ nơi đâu
tôi sanh đến, tôi cũng đều có chồng (và) không có người nào khinh
miệt tôi nhờ vào quả báu tu tập của tôi.
438. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu
mahāyaso,
nāmena koṇāgamano uppajji vadataṃ varo.
Ở vào kiếp Bhadda này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Koṇāgamana, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm
Thiên.
439. Tadāhaṃ bārāṇasiyaṃ susamiddhakulappajā,
dhanañjāni sumedhā ca ahampi ca tayo janā.
Khi ấy, tôi là hậu duệ của
một gia đình vô cùng giàu có ở tại Bārāṇasī. Dhanañjāni, Sumedhā,
và tôi nữa là ba người.
440. Saṅghārāmamadāsimha dānasahāyikā pure,
saṅghassa ca vihārampi uddissa kārikā mayaṃ.
Là những người cộng sự
trong việc bố thí trước đây và là những người tạo lập, chúng tôi
đã xác định trú xá là của hội chúng rồi đã cúng dường tu viện đến
hội chúng .
441. Tato cutā mayaṃ sabbā tāvatiṃsūpagā ahuṃ,
yasasā aggataṃ pattā manussesu tatheva ca.
Từ nơi ấy chết đi, tất cả
chúng tôi đã đi đến cõi Đạo Lợi, đã đạt được tư cách cao tột về
danh vọng, và tương tợ y như thế ở giữa loài người.
442. Imasmiṃ yeva kappamhi brahmabandhu
mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.
Chính ở vào kiếp này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của
đấng Phạm Thiên.
443. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.
Khi ấy, có vị quân vương
là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ
độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
444. Tass’ āsiṃ jeṭṭhikā dhītā samaṇī iti
vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.
Tôi đã là người con gái
lớn nhất của vị ấy được nổi danh là Samaṇī. Sau khi lắng nghe Giáo
Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
445. Anujāni na
no tāto akāreva tadā mayaṃ,
vīsavassasahassāni vicarimha atanditā.
Cha đã không cho phép
chúng tôi. Khi ấy, chúng tôi chẳng có việc gì làm, đã đi đây đó
trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.
446. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhūpaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.
Là những người con gái của
đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của
người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong
việc hộ độ đức Phật.
447. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī
bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.
Samaṇī, Samaṇaguttā,
Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và
Saṅghadāsikā là thứ bảy.
448. Ahaṃ uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.
Tôi, Uppalavaṇṇā,
Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy
(vào thời hiện tại).
449. Kadāci so narādicco dhammaṃ deseti
abbhutaṃ,
mahānidānasuttantaṃ sutvā taṃ pariyāpuṇiṃ.
Có lần nọ đấng Mặt Trời
của nhân loại ấy thuyết giảng Giáo Pháp tuyệt vời. Sau khi lắng
nghe bài Kinh Đại Duyên tôi đã học thuộc lòng bài Kinh ấy.
450. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do các nghiệp ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ
thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
451. Pacchime ca bhave dāni sāgalāyaṃ
puruttame,
rañño maddassa dhītāmhi manāpā dayitā piyā.
Và trong kiếp cuối cùng
hiện nay, tôi là người con gái vui tính, được mến, đáng yêu của
đức vua Madda ở tại kinh thành Sāgalā.
452. Saha me jātamattamhi khemaṃ tamhi pure
ahu,
tato khemāti nāmaṃ me guṇato upapajjatha.
Cùng với tôi trong việc đã
được sanh ra là trong kinh thành ấy đã có sự thái bình. Vì thế,
tên “Khemā” đã được sanh lên cho
tôi xuất phát từ công đức (ấy).
453. Yadāhaṃ yobbanaṃ pattā rūpalāvaññabhūsitā,
tadā adāsi maṃ tāto bimbisārassa rājino.
Khi tôi đạt đến tuổi
trưởng thành, được tô điểm bởi của sắc đẹp và sự mặn mà, khi ấy
người cha đã dâng tôi cho đức vua Bimbisāra.
454. Tassāhaṃ suppiyā āsiṃ rūpakelāyane ratā,
rūpānaṃ dosavādīti na upesiṃ mahādayaṃ.
Tôi đã là người nữ vô cùng
yêu quý của vị (vua) ấy. Thích thú trong việc trau chuốt xác thân,
tôi đã không tỏ ra rộng lượng đối với những lời nói về khuyết điểm
của các sắc đẹp.
455. Bimbisāro tadā rājā mamānuggahabuddhiyā,
vaṇṇayitvā veḷuvanaṃ gāyake gāpayī mamaṃ.
Khi ấy, với sáng kiến nhằm
giúp đỡ cho tôi, đức vua Bimbisāra đã ngợi khen về Veḷuvana
(Trúc Lâm) và đã bảo các ca sĩ ca hát cho tôi nghe rằng:
456. “Rammaṃ veḷuvanaṃ yena na diṭṭhaṃ
sugatālayaṃ,
na tena nandanaṃ diṭṭhaṃ iti maññāmase mayaṃ.
“Chúng
tôi quan niệm rằng: ‘Người nào
chưa nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu, chốn ngụ cư của đấng Thiện Thệ,
thì người ấy chưa nhìn thấy (vườn hoa) Nandana (của cõi trời).
457. Yena veḷuvanaṃ diṭṭhaṃ
naranandananandanaṃ,
sudiṭṭhaṃ nandinaṃ tena amarindasunandanaṃ.
Người nào đã nhìn thấy Veḷuvana là (vườn hoa)
hoan lạc Nandana của nhân loại, người ấy đã nhìn thấy (vườn hoa)
Nandana vô cùng hoan lạc của vị Thiên Vương.
458. Vihāya nandanaṃ devā otaritvā mahītalaṃ,
rammaṃ veḷuvanaṃ disvā na tappanti suvimhitā.
Chư Thiên sau khi rời (vườn hoa) Nandana ngự
xuống mặt đất và đã nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu thì vô cùng sửng
sốt và không còn ân hận nữa.
459. Rājapuññena nibbattaṃ buddhapuññena
bhūsitaṃ,
ko vattā tassa nissesaṃ vanassa guṇasañcayaṃ.”
(Veḷuvana) đã được sanh lên do phước báu của
đức vua, được làm đẹp nhờ vào phước báu của đức Phật, có ai là
người thuật lại một cách trọn vẹn về tổng thể các đức tính tốt đẹp
của khu vườn ấy?”
460. Taṃ sutvā vanasamiddhiṃ mama
sotamanoharaṃ,
daṭṭhukāmā tamuyyānaṃ rañño ārocayiṃ tadā.
Sau khi nghe được sự thành
công của khu rừng ấy, đối với tôi là có sự quyến rũ ở tai, vào khi
ấy có lòng mong muốn nhìn thấy khu vườn ấy tôi đã trình lên đức
vua.
461. Mahatā parivārena tadā ca so mahīpati,
maṃ pesesi tamuyyānaṃ dassanāya samussukaṃ.
Và khi ấy, vị lãnh chúa ấy
đã phái đoàn tùy tùng đông đảo đưa tôi đi để nhìn xem khu vườn ấy
một cách sốt sắng:
462. “Gaccha passa mahābhoge vanaṃ
nettarasāyanaṃ,
yaṃ sadā bhāti siriyā sugatābhānurañjitaṃ.”
“Hỡi
nàng là của cải vĩ đại, nàng hãy đi, hãy nhìn xem khu rừng đem lại
sự bổ ích cho cặp mắt, là nơi luôn luôn chói sáng với sự vinh
quanh, được rực rỡ với hào quang của đấng Thiện Thệ.”
463. Yadā ca piṇḍāya muni giribbajapuruttame,
paviṭṭho ’haṃ tadāyeva vanaṃ daṭṭhumupāgamiṃ.
Và vào lúc đấng Hiền Triết
đã đi vào kinh thành Giribbaja để khất thực, đúng vào lúc ấy tôi
đã đi đến để nhìn thấy khu rừng.
464. Tadā ’haṃ phullavipinaṃ
nānābhamarakūjitaṃ,
kokilāgītasahitaṃ mayūragaṇanaccitaṃ.
Khi ấy, khu rừng cây trải
dài ấy[9]
được rì rào tiếng vo ve của ong vò vẽ các loại, được phối hợp với
tiếng rù rù của loài chim cu, được nhảy múa bởi đám chim công.
465. Appasaddamanākiṇṇaṃ nānācaṅkamabhūsitaṃ,
kuṭimaṇḍapasaṅkiṇṇaṃ yogīvaravirājitaṃ.
(Khu rừng cây) có ít tiếng
động, không bị phân tán, được điểm tô bằng các đường kinh hành
khác nhau, được rải rác với các cụm liêu cốc, được nổi bậc với các
hành giả cao quý.
466. Vicarantī amaññissaṃ “saphalaṃ nayanaṃ
mama,”
tatthāpi taruṇaṃ bhikkhuṃ yuttaṃ disvā vicintayiṃ.
Trong khi dạo quanh, tôi
đã suy nghĩ rằng: “Mắt ta có được thành
quả.” Cũng tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu trẻ gắn
bó (thiền tập) và đã suy gẫm rằng:
467. Īdise ’pi vane ramme ṭhito ’yaṃ
navayobbane,
vasantamiva kantena rūpena ca samanvito.
“Vị
này ở vào độ tuổi rất trẻ và được phú cho dáng vóc dễ thương như
là mùa xuân lại tồn tại ở trong khu rừng thậm chí đáng yêu như vầy.
468. Nisinno rukkhamūlamhi muṇḍo
saṅghāṭipāruto,
jhāyate vat’ ayaṃ bhikkhu hitvā visayajaṃ ratiṃ.
Ngồi ở gốc cây, đầu cạo, đắp y hai lớp, tham
thiền, quả nhiên vị tỳ khưu này đã từ bỏ khoái lạc sanh lên từ đối
tượng (bên ngoài).
469. Nanu nāma gahaṭṭhena kāmaṃ bhutvā
yathāsukhaṃ,
pacchā jiṇṇena dhammo ’yaṃ caritabbo subhaddako.
Phải chăng con người vô cùng hiền thiện này nên
thọ hưởng (ngũ) dục cho thoải mái với cuộc đời tại gia, sau này về
già mới nên thực hành Giáo Pháp?”
470. Suññakanti viditvāna gandhagehaṃ
jinālayaṃ,
upetvā jinamaddakkhiṃ udayantaṃva bhākaraṃ.
Sau khi biết được rằng “Sunññaka”
là hương thất, là chỗ ngụ của đấng Chiến Thắng, tôi đã đi đến gần
và đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng tương tợ như là mặt trời đang mọc
lên.
471. Ekakaṃ sukhamāsīnaṃ vījamānā varitthiyā,
disvānevaṃ vicintesiṃ “nāyaṃ lūkho narāsabho.”
(Tôi đã nhìn thấy đấng
Chiến Thắng) ngồi mỗi một mình một cách an lạc đang được quạt bởi
người nữ quý phái. Sau khi nhìn thấy tôi đã suy gẫm như vầy: “Bậc
Nhân Ngưu này không có thô lỗ.”
472. Sā kaññā kanakābhāsā padumānanalocanā,
bimboṭṭhī kundadasanā manonettarasāyanā.
Người thiếu nữ ấy có diện
mạo (sáng) như vàng, có khuôn mặt và đôi mắt như đóa sen, có môi
đỏ, có răng màu hoa nhài, có sự thu hút con tim và ánh mắt.
473. Hemadolābhasavanā kalasākārasutthanī,
tanumajjhā ca sussoṇī rambhoru cārubhūsanā.
Có đôi tai lấp lánh khuyên
vàng, có ngực dạng bầu bầu, có eo thon, có mông đẹp, có đùi thân
chuối, và có đồ trang sức xinh xắn.
474. Rattaṃsukūpasabyānā nīlamaṭṭhanivāsanā,
atappaneyyarūpena hāvabhāvasamanvitā.
Với chiếc áo khoác ngoài
lên đôi vai gợi tình, với y phục tinh khiết màu xanh, được sở hữu
tính chất phụ nữ với hình dáng (nhìn) không thể nào thỏa mãn.
475. Disvā tamevaṃ cintesiṃ “Aho ’yaṃ
abhirūpinī,
na mayā ’nena nettena diṭṭhapubbā kudācanaṃ.”
Sau khi nhìn thấy nàng ấy,
tôi đã suy nghĩ như vầy: “Ôi, nàng này
tuyệt đẹp. Ta chưa từng nhìn thấy trước đây bằng (cặp) mắt này.”
476. Tato jarābhibhūtā sā vivaṇṇā vitatānanā,
bhinnadantā setasirā salālavadanāsuci.
Kế đó, bị chế ngự bởi sự
già, nàng ấy (trở nên) có dung nhan tàn tạ, khuôn mặt chảy dài,
răng sứt mẻ, đầu bạc, miệng có nước dãi, dơ dáy, ...
477. Saṅkhittakaṇṇā setakkhī
lambāsubhapayodharā,
valivitatasabbaṅgī sirāvitatadehinī.
... có tai bị co rút, mắt
trắng (đục), bộ ngực xấu xí đong đưa, tất cả các bộ phận cơ thể bị
nhăn nheo chảy xệ, thân thể nổi đầy gân.
478. Nataṅgā daṇḍadutiyā uppaṇḍuppaṇḍukā kisā,
pavedhamānā patitā nissasantī muhuṃ muhuṃ.
... có lưng bị còng, có
gậy là bạn, vô cùng nhợt nhạt, gầy còm, trong lúc run rẩy bị té
nhào, chốc chốc lại bị hụt hơi.
479. Tato me āsi saṃvego abbhuto lomahaṃsano,
dhiratthu rūpaṃ asuciṃ ramante yattha bālisā.
Do đó, tôi đã có sự chấn
động, kinh ngạc, lông dựng đứng: “Thật
là xấu hổ cho xác thân bất tịnh là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!”
480. Tadā mahākāruṇiko disvā saṃviggamānasaṃ,
udaggacitto sugato imā gāthā abhāsatha:
Khi ấy, sau khi nhìn thấy
(tôi có) tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Thiện Thệ với tâm phấn
khởi, đã nói lên những lời kệ này:
481. “Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ passa kheme
samussayaṃ,
uggharantaṃ paggharantaṃ bālānaṃ abhinanditaṃ.
“Này
Khemā, hãy nhìn xem thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối đang
tiết ra, đang rò rỉ lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
482. Asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ
susamāhitaṃ,
sati kāyagatā tyatthu nibbidābahulā bhava.
Nàng hãy tu tập tâm được chuyên nhất khéo tập
trung về đề mục bất mỹ, niệm hãy được hướng đến thân, nàng hãy có
nhiều sự nhàm chán.
483. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā
idaṃ,
ajjhattañca bahiddhā ca kāye chandaṃ virājaya.
Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác
kia như thế nào thì thân này như vậy. Nàng hãy lìa bỏ sự mong muốn
về thân ở bên trong lẫn bên ngoài.
484. Animittañca bhāvetha mānānusayamujjaha,
tato mānābhisamayā upasantā carissasi.
Và nàng hãy tu tập về vô tướng, hãy dứt bỏ ngã
mạn ngũ ngầm, từ đó có được sự lãnh hội về ngã mạn nàng sẽ sống
thanh tịnh.
485. Ye rāgarattānupatanti sotaṃ
sayaṃ kataṃ makkaṭakova jālaṃ,
etampi chetvāna paribbajanti
anapekkhino kāmasukhaṃ pahāya.”
Những người bị đắm nhiễm ái dục rơi vào dòng
chảy tương tợ như con nhện sa vào mạng lưới được chính nó tạo nên,
sau khi cắt đứt luôn cả điều ấy xuất gia từ bỏ dục lạc trở thành
những người vô tư lự.”
486. Tato kallitacittaṃ maṃ ñatvāna
narasārathi,
mahānidānaṃ desesi suttantaṃ vinayāya me.
Kế đó, sau khi biết được
tôi có tâm đã được sẵn sàng, đấng Điều Ngự Trượng Phu đã thuyết
giảng bài Kinh Mahānidāna[10]
nhằm hướng dẫn cho tôi.
487. Sutvā suttantaseṭṭhaṃ taṃ
pubbasaññamanussariṃ,
tattha ṭhitāv’ ahaṃ santī dhammacakkhuṃ visodhayiṃ.
Sau khi lắng nghe bài kinh
tuyệt vời ấy, tôi đã tưởng nhớ về quá khứ. Tại nơi ấy, tôi được an
tịnh khi đang đứng; tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh.
488. Nipatitvā mahesissa pādamūlamhi tāvade,
accayaṃ desanatthāya idaṃ vacanamabraviṃ:
Ngay lập tức, tôi đã cúi
xuống ở dưới bàn chân của bậc Đại Hiền Triết nhằm mục đích bày tỏ
tội lỗi, và đã nói lời nói này:
489. “Namo te sabbadassāvi namo te karuṇākara,
namo te tiṇṇasaṃsāra namo te amataṃdada.
“Hỡi
đấng Toàn Tri, con kính lễ Ngài. Hỡi đấng hành bi mẫn, con kính lễ
Ngài. Hỡi đấng đã vượt qua luân hồi, con kính lễ Ngài. Hỡi đấng
ban cho sự bất tử, con kính lễ Ngài.
490. Diṭṭhigahanapakkhantā kāmarāgavimohitā,
tayā sammā upāyena vinītā vinaye ratā.
Con đã lao theo sự nắm bắt tà kiến, bị lầm lạc
trong ái dục, nhờ Ngài với phương pháp đúng đắn con đã được dẫn
dắt, được thỏa thích trong sự rèn luyện.
491. Adassanena vibbhogā tādisānaṃ mahesinaṃ,
anubhonti mahādukkhaṃ sattā saṃsārasāgare.
Là không có phước phần đối với việc không nhìn
thấy các bậc Đại Hiền Triết như thế ấy, chúng sanh chịu đựng khổ
đau lớn lao trong biển cả luân hồi.
492. Yadā ’haṃ lokasaraṇaṃ araṇaṃ maraṇantaguṃ,
nāddasāsimadūraṭṭhaṃ desayāmi tamaccayaṃ.
Khi con đã không nhìn thấy được sự lợi ích cận
kề, nơi nương nhờ của thế gian, bậc không dục vọng, đã đạt đến tận
cùng của sự chết, con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.
493. Mahāhitaṃ varadadaṃ ahitoti visaṅkitaṃ,
nopesiṃ rūpaniratā desayāmi tamaccayaṃ.”
Bị đắm say xác thân, con đã không đến gần bậc
có lợi ích lớn, vị có sự bố thí cao quý, hoài nghi là: ‘Không có
lợi ích,’ con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.”
494. Tadā madhuraniggoso mahākāruṇiko jino,
avoca “tiṭṭha kheme”ti siñcanto amatena maṃ.
Khi ấy, trong lúc rưới rắc
sự bất tử đến tôi, bậc Đại Bi, đấng Chiến Thắng, vị có giọng nói
vang ngọt ngào, đã nói rằng: “Này
Khemā, hãy đứng lại.”
495. Tadā paṇamya sirasā katvā ca naṃ
padakkhiṇaṃ,
gantvā disvā narapatiṃ idaṃ vacanamabraviṃ.
Khi ấy, sau khi đã đê đầu
đảnh lễ và đã thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tôi đã ra đi. Sau
khi nhìn thấy đấng quân vương, tôi đã nói lời nói này:
496. “Aho sammā-upāyo te cintito ’yamarindama,
vanadassanakāmāya diṭṭho nibbānado muni.
“Ôi
vị khuất phục kẻ thù, phương pháp đúng đắn này đã được suy tính
bởi bệ hạ. Do ước muốn nhìn thấy khu rừng, bậc Hiền Triết vị ban
phát Niết Bàn đã được nhìn thấy.
497. Yadi te ruccate rāja sāsane tassa tādino,
pabbajissāmi rūpe ’haṃ nibbinnā munivāṇinā.
Tâu bệ hạ, nếu ngài vui thích thiếp sẽ xuất gia
trong Giáo Pháp của vị như thế ấy. Nhờ vào lời nói của bậc Hiền
Triết, thiếp đã nhàm chán sắc thân.”
Bhāṇavāraṃ dutiyaṃ.
Tụng phẩm thứ nhì.
498. Añjaliṃ paggahetvāna tadāha sa mahīpati,
“Anujānāmi te bhadde pabbajjā tava sijjhatu.”
Khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã
chắp tay lên và nói rằng: “Này hiền
thê, trẫm cho phép nàng. Cầu chúc sự xuất gia được thành tựu đến
nàng.”
499. Pabbajitvā tadā cāhaṃ addhamāse upaṭṭhite,
dīpodayañca bhedañca disvā saṃviggamānasā.
Và sau khi xuất gia, khi
ấy đã được nửa tháng, sau khi nhìn thấy sự sáng lên của ngọn đèn
và sự diệt tắt tôi có tâm bị chấn động.
500. Nibbinnā sabbasaṅkhāre paccayākārakovidā,
caturoghe atikkamma arahattamapāpuṇiṃ.
Nhàm chán tất cả các hành,
được rành rẽ về biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), sau khi
đã vượt qua bốn dòng nước lũ (bộc lưu), tôi đã đạt được quả vị
A-la-hán.
501. Iddhiyā ca vasī āsiṃ dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī cāpi bhavāmahaṃ.
Tôi đã có năng lực về thần
thông, về thiên nhĩ giới, và tôi cũng đã có năng lực về trí biết
tâm của người khác.
502. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.
Tôi biết được đời sống
trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được
cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
503. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
parisuddhaṃ mama ñāṇaṃ uppannaṃ buddhasāsane.
Trí tuệ hoàn toàn thanh
tịnh của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như
thế về phép biện giải là được thành tựu trong Giáo Pháp của đức
Phật.
504. Kusalā ’haṃ visuddhīsu kathāvatthu
visāradā,
abhidhammanayaññū ca vasippattā ’mhi sāsane.
Tôi là thiện xảo về các
(pháp) thanh tịnh, là tự tin trong vấn đề tranh luận, biết về
phương thức của các pháp thù thắng, và đã đạt được năng lực ở Giáo
Pháp.
505. Tato bhojanavatthusmiṃ raññā kosalasāminā,
pucchitā nipuṇe pañhe vyākarontī yathātathaṃ.
Sau đó, được đức vua
(Pasenadi) chủ quản xứ Kosala hỏi các câu hỏi khôn khéo về vấn đề
vật thực, tôi đã giải thích đúng theo bản thể.
506. Tadā sa rājā sugataṃ upasaṅkamma
pucchatha,
tatheva buddho vyākāsi yathā te vyākatā mayā.
Sau đó, vị vua ấy đã đi
đến gặp đấng Thiện Thệ và đã hỏi lại. Các điều ấy đã được tôi giải
thích như thế nào thì đức Phật đã giải thích y như thế ấy.
507. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi
maṃ,
mahāpaññānamaggāti bhikkhunīnaṃ naruttamo.
Đấng Chiến Thắng, bậc Tối
Thượng Nhân hoan hỷ về đức hạnh ấy đã thiết lập tôi vào vị thế tối
thắng là “Vị đứng đầu các vị có đại tuệ”
trong số các vị tỳ khưu ni.
508. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
509. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
510. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Khemā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Khemā đã nói
lên những lời kệ này như thế ấy.
Khemātheriyāpadānaṃ aṭṭhamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Khemā là phần thứ tám.
--ooOoo--
19. Uppalavaṇṇāpadānaṃ
19. Ký Sự về Uppalavaṇṇā:
511. Bhikkhunī uppalavaṇṇā iddhiyā pāramiṅgatā,
vanditvā satthuno pāde idaṃ vacanamabravi.
Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā,
đạt đến sự toàn hảo về thần thông, đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc
Đạo Sư rồi đã nói lời nói này:
512. Nittiṇṇā jātisaṃsāraṃ pattā ’haṃ acalaṃ
padaṃ,
sabbadukkhaṃ mayā khīṇaṃ ārocemi mahāmuni.
“Bạch
đấng Đại Hiền Triết, con xin trình rằng con đã vượt qua khỏi sự
tái sanh luân hồi, đã đạt được vị thế bất động, con đã cạn kiệt
tất cả khổ đau.
513. Yāvatā parisā atthi pasannā jinasāsane,
yesañca me ’parādho ’tthi khamantu jinasammukhā.
Cho đến nhóm người có lòng tịnh tín vào Giáo
Pháp của đấng Chiến Thắng, và đối với những ai con có lỗi lầm,
mong rằng họ hãy tha thứ ở trước mặt đấng Chiến Thắng.
514. Saṃsāre saṃsarantāya khalitaṃ me sace
bhave,
ārocemi mahāvīra aparādhaṃ khamassu taṃ.
Bạch đấng Đại Hùng, con xin trình rằng trong
khi luân chuyển ở vòng luân hồi nếu con có điều lầm lỗi, xin Ngài
tha thứ cho điều sai trái ấy.”
515. “Iddhiṃ cāpi nidassehi mama sāsanakārike,
catasso parisā ajja kaṅkhaṃ chindāhi yāvatā.”
“Nàng
cũng nên phô bày thần thông cho những người hành theo Giáo Pháp
của Ta được thấy. Hôm nay nàng hãy cắt đứt sự hoài nghi cho cả tứ
chúng.”
516. “Dhītu tuyhaṃ mahāvīra paññāvanta
jutindhara,
bahuṃ ca dukkaraṃ kammaṃ kataṃ me atidukkaraṃ.
“Bạch
đấng Đại Hùng, bậc Trí Tuệ, đấng Quang Minh, là con gái của Ngài,
con đã làm được nhiều công việc khó làm và vô cùng khó làm.
517. Uppalasseva me vaṇṇo nāmenuppalanāmikā,
sāvikā te mahāvīra pāde vandati cakkhuma.
Màu da của con chính là màu của hoa sen, tên
gọi Uppala là theo tên gọi của hoa sen. Bạch đấng Đại Hùng, con là
nữ Thinh Văn của Ngài. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn
chân (của Ngài).
518. Rāhulo ca ahañceva nekajātisate bahū,
ekasmiṃ sambhave jātā samānacchandamānasā.
Trong nhiều trăm lần tái sanh, Rāhula và luôn
cả con nữa đã được sanh ra trong cùng một kiếp sống do ý muốn
tương tợ nhau.
519. Nibbatti
ekato hoti jātīsu bahuso mama,
pacchimabhave sampatte ubhopi nānāsambhavā.
Có sự sanh ra cùng nhau trong nhiều lần tái
sanh của con. Trong kiếp sống cuối cùng được thành tựu, cả hai còn
có nhiều nguyên nhân khác nữa.
520. Putto ca rāhulo nāma dhītā uppalasavhayā,
passa vīra mamaṃ iddhiṃ balaṃ dassemi satthuno.”
Và người con trai tên là Rāhula, người con gái
tên gọi Uppala. Bạch đấng Anh Hùng, xin hãy nhìn xem thần thông
của con, con sẽ thị hiện năng lực đến bậc Đạo Sư.”
521. Mahāsamudde caturo pakkhipi hatthapātiyaṃ,
telaṃ hatthagataṃ ceva vejjo komārako yathā.
Vị ni đã đặt bốn đại dương
ở trong lòng bàn tay tương tợ như vị y sĩ Jīvaka Komārabhacca đã
đổ dầu vào bàn tay.
522. Ubbattayitvā paṭhaviṃ pakkhipi
hatthapātiyaṃ,
cittamuñjaṃ yathā nāma luñci komārako yuvā.
Vị ni đã bứng trái đất lên
rồi đặt ở trong lòng bàn tay tương tợ như người thiếu niên trẻ
tuổi đã nhổ lên cọng cỏ muñja
nhiều màu sắc.
523. Cakkavāḷasamaṃ pāṇiṃ chādayitvāna
matthake,
vassāpetvāna phusitaṃ nānāvaṇṇaṃ punappunaṃ.
Vị ni đã đưa bàn tay tợ
như vũ trụ che ở đầu và đã làm đổ xuống giọt mưa nhiều màu sắc
thành nhiều lượt.
524. Bhūmiṃ udukkhalaṃ katvā dhaññaṃ katvāna
sakkharaṃ,
sineruṃ musalaṃ katvā maddi komārikā yathā.
Vị ni đã biến mặt đất
thành cái cối giã, đã biến hạt cát thành thóc lúa, đã biến ngọn
núi Sineru thành cái chày, rồi đã giã nát tương tợ như cô thiếu nữ
(giã lúa gạo).
525. “Dhītā ’haṃ buddhaseṭṭhassa
nāmenuppalasavhayā,
abhiññāsu vasībhūtā tava sāsanakārikā.
“Con
là con gái của đức Phật tối thượng có tên gọi là Uppala, đã có
được năng lực về các thắng trí, là người thực hành theo lời dạy
của Ngài.
526. Nānā vikubbaṇaṃ katvā dassetvā
lokanāyakaṃ,
nāmagottañca sāvetvā pāde vandāmi cakkhuma.
Bạch đấng Hữu Nhãn, sau khi đã thực hiện và đã
phô bày vô số phép biến hóa đến vị Lãnh Đạo Thế Gian, sau khi công
bố tên và dòng họ, con xin đảnh lễ ở bàn chân (của Ngài).
527. Iddhiyā ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
cetopariyañāṇassa vasī homi mahāmune.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã có năng lực về
thần thông, về thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm
của người khác.
528. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo.
Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn
được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc được cạn kiệt, giờ đây không
còn tái sanh nữa.
529. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
ñāṇaṃ me vimalaṃ suddhaṃ pabhāvena mahesino.
Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn
từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được trong sạch,
không bợn nhơ nhờ vào quyền năng của bậc Đại Ẩn Sĩ.
530. Purimānaṃ jinaggānaṃ sammukhā ca
parammukhā,
adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya mahāmuni.
Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều việc làm hướng
thượng của con đến các đấng Chiến Thắng cao cả trong quá khứ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp là nhằm mục đích về Ngài.
531. Yaṃ mayā pūritaṃ kammaṃ kusalaṃ sara me
muni,
tavatthāya mahāvīra puññaṃ upacitaṃ mayā.
Bạch đấng Hiền Triết, thiện nghiệp nào đã được
con làm tròn đủ, xin Ngài hãy nhớ lại cho con. Bạch đấng Đại Hùng,
phước báu đã được tích lũy bởi con là nhằm mục đích về Ngài.
532. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā parivajjentī
anācāraṃ,
tavatthāya mahāvīra cattaṃ jīvitamuttamaṃ.
Bạch đấng Đại Hùng, sau khi tránh xa những nơi
không xứng đáng, trong khi từ bỏ tánh hạnh xấu, mạng sống quý cao
đã được từ bỏ là nhằm mục đích về Ngài.
533. Dasakoṭisahassāni adāsiṃ mama jīvitaṃ,
pariccattaṃ ca me hoti tavatthāya mahāmuni.”
Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã bố thí mười
ngàn koṭi, và mạng sống của con đã được con dứt bỏ là nhằm mục
đích về Ngài.”
534. Tadātivimhitā sabbā sirasāva katañjalī,
avoc’ ayye kathaṃ āsi atuliddhiparakkamā.
Khi ấy, vô cùng sửng sốt,
tất cả đã chắp tay lên ngay ở đầu và đã nói rằng: “Thưa
ni sư, làm thế nào ni sư có được sự nỗ lực về thần thông không thể
sánh bằng?”
535. Satasahasse ito kappe nāgakaññā ahuṃ tadā,
vimalā namā nāmena kaññānaṃ sādhusammatā.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, khi ấy tôi đã là con gái của Long Vương, có tên Vimalā, được
công nhận là đức hạnh trong số những người con gái.
536. Mahorago mahānāgo pasanno jinasāsane,
padumuttaraṃ mahātejaṃ nimantesi sasāvakaṃ.
Có con rắn lớn là vị Đại
Long, tịnh tín với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, đã thỉnh mời
đấng Đại Quyền Lực Padumuttara cùng với các vị Thinh Văn.
537. Ratanāmayaṃ maṇḍapañca pallaṅkaṃ
ratanāmayaṃ,
ratanavālukākiṇṇaṃ upabhogaṃ ratanāmayaṃ.
(Vị ấy đã cho chuẩn bị)
mái che làm bằng châu báu, ghế dựa làm bằng châu báu, và vật dụng
làm bằng châu báu được rắc rải các hạt cát châu báu.
538. Maggaṃ ca paṭiyādesi ratanaddhajabhūsitaṃ,
paccuggantvāna sambuddhaṃ vajjanto turiyehi so.
Và vị ấy đã cho chuẩn bị
đường đi được trang hoàng với các ngọn cờ bằng châu báu. Trong khi
được vang lên bởi các nhạc cụ, vị ấy đã đi ra đón rước bậc Toàn
Giác.
539. Parisāhi catūhi sahito lokanāyako,
mahoragassa bhavane nisīdi paramāsane.
Được tháp tùng bởi tứ
chúng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã ngồi xuống ở chỗ ngồi cao nhất
trong tòa nhà của vị Đại Long.
540. Annaṃ pānaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ
mahārahaṃ,
varaṃ varañca pādāsi nāgarājā mahāyaso.
Vị Long Vương có danh
tiếng vĩ đại đã dâng lên thức ăn nước uống vật thực cứng, vật thực
mềm có giá trị lớn lao vô cùng quý báu.
541. Bhuñjitvāna sambuddho pattaṃ dhoviya
yoniso,
anumodanīyaṃ ’kāsi nāgarañño mahiddhino.
Sau khi thọ thực, đấng
Toàn Giác đã rửa bình bát theo khuôn phép rồi đã nói lời tùy hỷ
đến vị Long Vương có đại thần lực.
542. Sabbaññuṃ phullitaṃ disvā nāgakaññā
mahāyasā,
pasannā satthuno cittaṃ sunibaddhañca mānasaṃ.
Sau khi nhìn thấy đấng
Toàn Tri một cách trọn vẹn, người con gái có danh vọng lớn lao của
vị Long Vương đã được tịnh tín đối với bậc Đạo Sư, và tâm đã được
gắn liền chặt chẽ với ý.
543. Mamañca cittamaññāya jalajuttamanāyako,
tasmiṃ khaṇe mahāvīro bhikkhuniṃ dassayiddhiyā.
Và sau khi biết được tâm
của tôi, bậc Đại Hùng, đấng Lãnh Đạo Padumuttara vào giây phút ấy
đã bảo vị tỳ khưu ni thị hiện thần thông.
544. Iddhī anekā dassesi bhikkhunī sā visāradā,
pamoditā vedajātā satthāraṃ idamabraviṃ:
Được tự tin, vị tỳ khưu ni
ấy đã thị hiện nhiều loại thần thông. Được hoan hỷ, tràn đầy niềm
phấn khởi, tôi đã nói với bậc Đạo Sư điều này:
545. “Addasāhaṃ imaṃ iddhiṃ sumanāyitarāyapi,
Kathaṃ ahosi sā vīra iddhiyā suvisāradā?”
“Bạch
đấng Anh Hùng, con đã nhìn thấy loại thần thông này thậm chí với
tâm vui mừng khác. Làm thế nào nàng ấy đã được vô cùng tự tin về
thần thông?”
546. “Orasā mukhato jātā dhītā mama mahiddhikā,
mamānusāsanikarā iddhiyā suvisāradā.”
“Người
con gái có đại thần lực của Ta là chánh thống, được sanh ra từ
miệng, là người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, vô cùng tự tin về
thần thông.”
547. Buddhassa vacanaṃ sutvā evaṃ patthesahaṃ
tadā,
“Ahampi tādisā homi iddhiyā suvisāradā.”
Sau khi lắng nghe lời nói
của đức Phật, khi ấy tôi đã ước nguyện như vầy: “Mong
sao cho ta cũng được vô cùng tự tin về thần thông như thế ấy.”
548. Pamoditā ’haṃ sumanā patta-uttamamānasā,
anāgatamhi addhāne īdisā homi nāyaka.
Được hoan hỷ, với tâm vui
mừng, tôi đã đạt đến ý nghĩ cao quý rằng: “Bạch
đấng Lãnh Đạo, mong sao trong tương lai xa vời con sẽ là như thế
ấy.”
549. Maṇimayamhi pallaṅke maṇḍapasmiṃ
pabhaṅkare,
annapānena tappetvā sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.
Ở chiếc ghế dựa làm bằng
ngọc ma-ni tại mái che sáng ngời, tôi đã làm hài lòng đấng Lãnh
Đạo Thế Gian cùng với hội chúng bằng cơm ăn và nước uống.
550. Nāgānaṃ pavaraṃ pupphaṃ aruṇaṃ nāma
uppalaṃ,
“Vaṇṇaṃ me īdisaṃ hotu” pūjesiṃ lokanāyakaṃ.
Tôi đã cúng dường đấng
Lãnh Đạo Thế Gian đóa hoa sen xanh cao quý của loài rồng tên là
Aruṇa (nguyện rằng): “Mong sao cho tôi
có được màu da như thế này.”
551. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacch’ ahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
552. Tato cutā ’haṃ manuje upapannā sayambhuno,
uppalehi paṭicchannaṃ piṇḍapātamadāsahaṃ.
Từ nơi ấy chết đi, được
sanh vào loài người, tôi đã dâng vật thực được đậy lại bằng những
đóa sen xanh đến đấng Tự Chủ.
553. Ekanavute ito kappe vipassī nāma nāyako,
uppajji cārunayano sabbadhammesu cakkhumā.
Trước đây chín mươi mốt
kiếp, đã hiện khởi đấng Lãnh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu
hút, là bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp.
554. Seṭṭhidhītā tadā hutvā bārāṇasipuruttame,
nimantetvāna sambuddhaṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.
Khi ấy, là con gái của
người triệu phú ở kinh thành Bārāṇasī, tôi đã thỉnh mời đấng Toàn
Giác vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng.
555. Mahādānaṃ daditvāna uppalehi vināyakaṃ,
pūjayitvā cetasāva vaṇṇasobhaṃ apatthayiṃ.
Sau khi cúng dường đại thí
và đã dâng những đóa sen xanh đến đấng Hướng Đạo, tôi đã ước
nguyện về sự xinh đẹp của làn da chỉ bằng tâm ý.
556. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu
mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.
Ở vào kiếp Bhadda này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của
đấng Phạm Thiên.
557. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame.
Khi ấy, có vị quân vương
là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ
độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
558. Tass’ āsiṃ dutiyā dhītā
samaṇaguttasavhayā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.
Tôi đã là người con gái
thứ hai của vị (vua) ấy có tên là Samaṇagutta. Sau khi lắng nghe
Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
559. Anujāni na
no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.
Cha đã không cho phép
chúng tôi về việc không gia đình. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia
chúng tôi đã đi đó đây trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.
560. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā sattadhītaro.
Là những người con gái của
đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của
người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong
việc hộ độ đức Phật.
561. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī
bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.
Samaṇī, Samaṇaguttā,
Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và
Saṅghadāsikā là thứ bảy.
562. Ahaṃ khemā ca sappaññā paṭācārā ca
kuṇḍalā,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.
Tôi, Khemā có trí tuệ,
Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy
(vào thời hiện tại).
563. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do các nghiệp ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ
thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
564. Tato cutā manussesu upapannā mahākule,
pītamaṭṭhaṃ varaṃ dussaṃ adaṃ arahato ahaṃ.
Từ nơi ấy chết đi, được
sanh vào giữa loài người, trong đại gia tộc, tôi đã dâng đến vị
A-la-hán tấm vải màu vàng mịn màng quý giá.
565. Tato cut’ āriṭṭhapure jātā vippakule ahaṃ,
dhītā tiriṭavacchassa ummādantī manoharā.
Từ nơi ấy chết đi, tôi đã
được sanh vào gia tộc dòng Bà-la-môn ở trong thành Ariṭṭha, là con
gái của Tiriṭavaccha, có nét quyến rũ, tên là
Ummādantī.
566. Tato cutā janapade kule aññatare ahaṃ,
pasutā nātiphītamhi sāliṃ gopemahaṃ tadā.
Từ nơi ấy chết đi, được
sanh ra vào gia tộc khác không được giàu có lắm ở trong quốc độ,
khi ấy tôi đã chăm sóc lúa sāli.
567. Disvā paccekasambuddhaṃ pañcalājāsatān’
ahaṃ,
datvā padumachannāni pañcaputtasatānipi.
Sau khi nhìn thấy vị Độc Giác
Phật, tôi đã dâng năm trăm hạt cốm được
che đậy bởi những đóa hoa sen (và đã ước nguyện) năm trăm người
con trai.
568. Patthesiṃ tepi patthesuṃ madhuṃ datvā
sayambhuno,
tato cutā araññe ’haṃ ajāyiṃ padumodare.
Sau khi dâng cúng mật ong
đến đấng Tự Chủ, tôi đã ước nguyện về những người con trai ấy.[11]
Từ nơi ấy chết đi, tôi đã được sanh ra ở trong lòng đóa hoa sen ở
trong rừng.
569. Kāsirañño mahesī ’haṃ hutvā sakkatapūjitā,
ajaniṃ rājaputtānaṃ anūnaṃ satapañcakaṃ.
Tôi đã trở thành chánh hậu
của đức vua xứ Kāsi, được tôn vinh kính trọng. Tôi đã sanh ra năm
trăm vị hoàng tử không thiếu (một vị).
570. Yadā te yobbanappattā kīḷantā jalakīḷitaṃ,
disvā opattapadumaṃ āsuṃ paccekanāyakā.
Khi các người con trai ấy đạt
được tuổi thanh niên, trong lúc chơi giỡn cuộc vui ở trong nước,
sau khi nhìn thấy đóa hoa sen bị rụng cánh, họ đã trở thành các vị
Lãnh Đạo Độc Giác.
571. Sāhaṃ tehi vinābhūtā sutavarehi sokinī,
cutā isigilipasse gāmakamhi ajāyisaṃ.
Tôi đây, không có những người
con trai cao quý ấy, có sự sầu muộn, chết đi, tôi đã được sanh ra
ở ngôi làng nhỏ tại sườn núi Isigili.
572. Yadā cuddhā sutamatī sutānaṃ bhattunopi
ca,
yāgumādāya gacchantī aṭṭhapaccekanāyake.
573. Bhikkhāya gāmaṃ gacchante disvā putte
anussariṃ,
khīradhārā viniggacchi tadā me puttapemasā.
Khi ấy, tôi đã lớn lên, có
con cái. Và tôi đã mang món cháo cho những người con trai và cả
người chồng nữa. Trong khi đi tôi đã nhìn thấy tám vị Lãnh Đạo Độc
Giác đang đi vào làng để khất thực, và đã tưởng nhớ lại những
người con trai. Khi ấy, bầu sữa tôi đã tiết ra ngoài bởi lòng
thương yêu những người con trai của tôi.
574. Tato tesaṃ adaṃ yāguṃ pasannā sehi pāṇihi,
tato cutā ’haṃ tidase nandanaṃ upapajjahaṃ.
Sau đó, được tịnh tín tôi
đã dâng món cháo đến các vị ấy bằng hai bàn tay của mình. Từ nơi
ấy chết đi, tôi đã đạt đến vườn hoa Nandana ở cõi Tam Thập.
575. Anubhotvā sukhaṃ dukkhaṃ saṃsaritvā
bhavābhave,
tavatthāya mahāvīra pariccattañca jīvitaṃ.
“Bạch
đấng Đại Hùng, con đã trải qua an lạc khổ đau, đã luân hồi cõi này
cõi khác, và mạng sống đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.”
576. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampatti ca
bahubbidhā,
pacchime bhave sampatte jātā sāvatthiyaṃ pure.
Như vậy là đã có khổ đau
nhiều loại và đã có sự thành đạt nhiều cách. Khi đạt đến cuộc sống
cuối cùng, tôi đã được sanh ra ở thành Sāvatthī.
577. Mahādhane seṭṭhikule sukhite sajjite
tathā,
nānāratanapajjote sabbakāmasamiddhinī.
Tôi đã có được sự thành tựu
về tất cả các dục lạc ở trong gia đình triệu phú có đại tài sản,
được rực rỡ bởi nhiều loại châu báu khác nhau, được an vui, được
chu cấp như thế ấy.
578. Sakkatā pūjitā āsiṃ mānitā ’pacitā tathā,
rūpasobhaggasampannā kulesu abhisammatā.
Tôi đã được kính trọng, được
tôn vinh, được nể vì, được cung kỉnh như thế ấy, được phú cho vẻ
xinh đẹp của dáng vóc, được trọng vọng ở các gia đình.
579. Atīva patthitā c’ āsiṃ rūpabhogasirīhi ca,
patthitā seṭṭhiputtehi anekehi satehi ca.
Và tôi đã được ao ước vô cùng
mãnh liệt bởi những người có sắc tướng, giàu có, sang trọng, và
được ao ước bởi hàng trăm người con trai triệu phú.
580. Agāraṃ pajahitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ,
aḍḍhamāse asampatte arahattamapāpuṇiṃ.
Sau khi từ bỏ gia đình, tôi
đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình, không đầy nửa tháng tôi
đã đạt được quả vị A-la-hán.
581. Iddhiyā abhinimmitvā caturassarathaṃ ahaṃ,
buddhassa pāde vandissaṃ lokanāthassa sirīmato.
Sau khi đã hóa hiện bằng thần
thông thành chiếc xe bốn ngựa, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của đức
Phật, bậc Bảo Hộ Thế Gian, đấng Quang
Vinh.
582. Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhunī
ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle,
na c’ atthi te dutiyā vaṇṇadhātu
bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakānaṃ.
“Hỡi
vị tỳ khưu ni, sau khi đi đến tột đỉnh của việc đã được phát triển
toàn diện, nàng một mình đứng ở gốc cây Sāla. Và này người có phẩm
chất về sắc đẹp, nàng không có người thứ nhì, nàng không hãi
sợ lũ ngu dốt trong số những kẻ tồi
bại hay sao?”[12]
583. Sataṃ sahassānapi dhuttakānaṃ idhāgatā
tādisakā bhaveyyuṃ,
lomaṃ na iñjāmi na santasāmi na māra bhāyāmi tamekikāpi.
“Cho
dầu là trăm ngàn kẻ tồi bại như ngươi có đi đến nơi đây, ta cũng
không chao động sợi lông, ta cũng không bối rối. Này Ma Vương,
ngươi chỉ một mình, ta không hãi sợ ngươi.”
584. Esā antaradhāyāmi kucchiṃ vā pavisāmi te,
pakhumantarikāyampi tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi.
“Hỡi
nàng, ta sẽ biến mất hoặc ta sẽ đi vào trong bụng của nàng. Dẫu ta
đang đứng ở ngay giữa lông mày, nàng vẫn không nhìn thấy ta.”
585. Cittasmiṃ vasībhūtamhi iddhipādā
subhāvitā,
sabbabandhanamuttāmhi na taṃ bhāyāmi āvuso.
“Các
nền tảng của thần thông đã được khéo tu tập ở trong tâm có được
năng lực. Này ông bạn, ta đã được thoát khỏi mọi sự trói buộc, ta
không sợ hãi ngươi.”
586. Sattisūlūpamā kāmā khandhā’saṃ
adhikuṭṭanā,
yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi aratī ’dāni sā mama.
“Các
dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt. Điều ngươi đã gọi
là sự thích thú trong các dục, sự không thích thú ấy giờ đây ta đã
có được.”
587. Sabbattha vihatā nandi tamokhandho
padāḷito,
evaṃ jānāhi pāpima nihato tvamasi antaka.
“Sự
vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống mê mờ đã
được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần,
người đã bị bại trận.”
588. Jino tamhi guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi
maṃ,
aggā iddhimatīnan’ti parisāsu vināyako.
Hoan hỷ về đức hạnh ấy,
đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập tôi
vào vị thế tối thắng là “Vị đứng đầu
trong số các vị ni có thần thông.”
589. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa
sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.
Bậc Đạo Sư đã được tôi
phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng
nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
590. Yassatthāya pabbajitā agārasmā ’nagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.
Vì mục đích nào tôi đã rời
khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy
tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
591. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ
sayanāsanaṃ,
khaṇena upanāmenti sahassāni samantato.
Trong phút chốc, hàng ngàn
người từ các nơi dâng lên y phục, đồ ăn khất thực, thuốc men, và
chỗ nằm ngồi.
592. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
593. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
594. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Uppalavaṇṇā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã
nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Uppalavaṇṇātheriyāpadānaṃ navamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Uppalavaṇṇā là phần thứ chín.
--ooOoo--
20. Paṭācārāpadānaṃ
20. Ký Sự về Paṭācārā:
595. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.
Trước đây một trăm ngàn
kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông
suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
596. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
nānāratanapajjote mahāsukhasamappitā.
Khi ấy, tôi đã được sanh
ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô
số loại châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.
597. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ
dhammadesanaṃ,
tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ.
Tôi đã đi đến bậc Đại Hùng
ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín sanh
khởi, tôi đã đến nương nhờ vào đấng Chiến Thắng.
598. Tato vinayadhārīnaṃ aggaṃ vaṇṇesi nāyako,
bhikkhuniṃ lajjiniṃ tādiṃ kappākappavisāradaṃ.
Sau đó, đấng Lãnh Đạo đã
tán dương vị tỳ khưu ni khiêm tốn như thế ấy, được tự tin về các
điều được phép và không được phép, là đứng đầu trong số các vị ni
thông suốt về Luật.
599. Tadā muditacittā ’haṃ taṃ
ṭhānamabhikaṅkhinī,
nimantetvā dasabalaṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.
Khi ấy, có tâm được hân
hoan, có sự mong muốn về vị thế ấy, tôi đã thỉnh mời đấng Thập Lực
vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng.
600. Bhojayitvāna sattāhaṃ daditvā ca
ticīvaraṃ,
nipacca sirasā pade idaṃ vacanamabraviṃ:
Sau khi đã dâng vật thực
trong bảy ngày, tôi đã cúng dường ba y, rồi đã quỳ xuống đê đầu ở
bàn chân và đã nói lời nói này:
601. “Yā tayā vaṇṇitā vīra ito aṭṭhamake ’hani,
tādisā ’haṃ bhavissāmi yadi sijjhati nāyaka.”
“Bạch
đấng Anh Hùng, vị ni đã được Ngài tán dương vào tám ngày trước
đây. Bạch đấng Lãnh Đạo, nếu được thành tựu con sẽ trở thành như
vị ni ấy.”
602. Tadā avoca maṃ satthā “Bhadde mā bhāyi
assasa,
anāgatamhi addhāne lacchase taṃ manorathaṃ.
Khi ấy, bậc Đạo Sư đã nói
với tôi rằng: “Này cô gái hiền thục,
chớ lo ngại, hãy yên tâm. Trong thời vị lai xa xôi, con sẽ đạt
được điều mong ước ấy.
603. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.
Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư
tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện
ở thế gian.
604. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
paṭācārāti nāmena hessasi satthusāvikā.”
(Người
nữ này) sẽ trở
thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa
tự Giáo Pháp của
vị (Phật)
ấy, là chánh thống,
được tạo
ra từ Giáo Pháp,
có tên là Paṭācārā.”
605. Tadā ’haṃ muditā hutvā yāvajīvaṃ tato
jinaṃ,
mettacittā paricariṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ.
Khi ấy, tôi đã được hoan
hỷ. Với tâm từ mẫn tôi đã phục vụ đấng Chiến Thắng bậc Lãnh Đạo
Thế Gian cùng với hội chúng từ đó cho đến hết cuộc đời.
606. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do nghiệp ấy đã được thực
hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân
nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
607. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu
mahāyaso,
kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo.
Ở vào kiếp Bhadda này,
trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên
Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của
đấng Phạm Thiên.
608. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
kāsirājā kikī nāma bārāṇasisuparuttame.
Khi ấy, có vị quân vương
là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ
độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
609. Tass’ āsiṃ tatiyā dhītā bhikkhunī iti
vissutā,
dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ.
Tôi đã là người con gái
thứ ba của vị (vua) ấy được nổi danh là Bhikkhunī. Sau khi lắng
nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
610. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ,
vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā.
Cha đã không cho phép
chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó
trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.
611. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro.
Là những người con gái của
đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của
người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong
việc hộ độ đức Phật.
612. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī
bhikkhudāsikā,
dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā.
Samaṇī, Samaṇaguttā,
Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và
Saṅghadāsikā là thứ bảy.
613. Ahaṃ uppalavaṇṇā ca khemā bhaddā ca
bhikkhunī,
kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī.
Tôi, Uppalavaṇṇā, Khemā,
Bhikkhunī hiền thục, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ
bảy (vào thời hiện tại).
614. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ.
Do các nghiệp ấy đã được
thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ
thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
615. Pacchime ca bhavedāni jātā seṭṭhikule
ahaṃ,
sāvatthiyaṃ puravare iddhe phīte mahaddhane.
Và trong kiếp sống cuối
cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc,
thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.
616. Yadā ca yobbanūpetā vitakkavasagā ahaṃ,
naraṃ jānapadaṃ disvā tena saddhiṃ agacch’ ahaṃ.
Và khi đã đạt đến tuổi
trưởng thành, bị tác động của sự suy tầm, sau khi gặp người đàn
ông quê mùa tôi đã bỏ đi cùng với người ấy.
617. Ekaputtappasūtā ’haṃ dutiyo kucchiyaṃ
mama,
tadā ’haṃ mātāpitaro dakkhāmīti sunicchitā.
Tôi đã sanh ra một người
con trai, đứa thứ nhì còn ở trong bụng của tôi. Khi ấy, tôi đã ước
muốn mãnh liệt rằng: “Tôi sẽ gặp lại
cha mẹ.”
618. Na rocesi pati mayhaṃ tadā tamhi pavāsite,
ekikā niggatā gehā gantuṃ sāvatthimuttamaṃ.
Người chồng của tôi đã
không bằng lòng. Khi ấy, trong lúc người ấy đi vắng, mỗi một mình
tôi đã rời khỏi ngôi nhà để đi đến kinh thành Sāvatthī.
619. Tato me sāmi āgantvā sambhāvesi pathe
mamaṃ,
tadā me kammajā vātā uppannā atidāruṇā.
Sau đó, người chồng của
tôi đã đi đến và đã gặp tôi ở trên đường lộ. Khi ấy, có cơn gió vô
cùng khủng khiếp sanh lên do nghiệp của tôi đã ào tới.
620. Uṭṭhito ca mahāmegho pasūtisamaye mama,
dabbatthāya tadā gantvā sāmi sappena mārito.
Và có trận mưa lớn đã xuất
hiện vào lúc lâm bồn của tôi. Khi ấy, người chồng đã đi vì mục
đích củi gỗ (để sưởi ấm) và đã bị chết bởi con rắn.
621. Tadā vijātadukkhena anāthā kapaṇā ahaṃ,
kunnadiṃ pūritaṃ disvā gacchantī sakulālayaṃ.
Khi ấy, do đau đớn vì đã
sanh đẻ, không người bảo hộ, tôi đã trở nên khốn khổ. Trong khi đi
đến chỗ trú ngụ của gia đình, tôi đã nhìn thấy con sông cạn bị
tràn ngập.
622. Bālaṃ ādāya atariṃ parakūle ca ekakaṃ,
sāyetvā bālakaṃ puttaṃ itaraṃ tāraṇāy’ ahaṃ.
Sau khi ẳm lấy đứa bé tôi
đã lội qua, và có mỗi một đứa ở bờ bên kia. Tôi đã đặt đứa con
trai thơ dại nằm xuống vì việc mang đứa kia sang.
623. Nivattā ukkuso ’hāsi taruṇaṃ vilapantakaṃ,
itarañca vahī soto sāhaṃ sokasamappitā.
Tôi đã quay trở lại. Có
con chim ưng đã tha đi đứa nhỏ đang kêu khóc và dòng nước đã cuốn
trôi đứa kia; tôi đây đã bị xâm chiếm bởi sầu muộn.
624. Sāvathīnagaraṃ gantvā assosiṃ sajane mate,
tadā avocaṃ sokaṭṭā mahāsokasamappitā.
Sau khi đi đến thành
Sāvatthī, tôi đã nghe rằng những người thân đã chết. Khi ấy, bị
dằn vặt bởi sầu muộn, bị xâm chiếm bởi nỗi sầu muộn lớn lao, tôi
đã nói rằng:
625. “Ubho puttā kālakatā panthe mayhaṃ pati
mato,
mātā pitā ca bhātā ca ekacitakasmiṃ ḍayhare.”
“Cả
hai người con trai đã lìa đời, chồng của tôi đã bị chết ở trên
đường, mẹ cha và người em trai đã được thiêu chung ở một giàn hỏa
táng.”
626. Tadā kisā ca paṇḍu ca anāthā dīnamānasā,
ito tato bhamantīhaṃ addasaṃ narasārathiṃ.
Khi ấy, trở nên ốm yếu,
vàng vọt, không người bảo hộ, tâm ý thê lương, trong lúc đi quanh
quẩn đó đây tôi đã nhìn thấy đấng Điều Ngự Trượng Phu.
627. Tato avoca maṃ satthā “putte mā soci
assasa,
attānaṃ tvaṃ gavesassu kiṃ niratthaṃ vihaññasi.
Sau đó, bậc Đạo Sư đã nói
với tôi rằng: “Này con gái, chớ khóc
than, hãy bình tâm. Con hãy tìm kiếm lại chính mình. Sao con lại
buồn đau một cách vô ích?
628. Na santi puttā tāṇāya na pitā napi
bandhavā,
antakenādhipannassa natthi ñātīsu tāṇatā.”
Không có những người con trai, không có người
cha, cũng không có những người thân trong việc bảo vệ. Đối với
người đã bị khuất phục bởi sự chết, sự bảo vệ ở những người thân
là không có.”[13]
629. Taṃ sutvā munino vākyaṃ paṭhamaṃ
phalamajjhagaṃ,
pabbajitvāna na ciraṃ arahattamapāpuṇiṃ.
Sau khi lắng nghe lời nói
ấy của bậc Hiền Triết, tôi đã chứng đạt quả vị thứ nhất. Sau khi
xuất gia không lâu, tôi đã thành tựu quả vị A-la-hán.
630. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā.
Là người thực hành theo
lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về
thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
631. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu
visodhitaṃ,
khepetvā āsave sabbe visuddhāmhi sanimmalā.
Tôi biết được đời sống
trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, sau khi quăng bỏ tất cả các
lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, với sự không uế nhiễm.
632. Tato ’haṃ vinayaṃ sabbaṃ santike
sabbadassino,
uggaṇhiṃ sabbavitthāraṃ vyāhariṃ ca yathātathaṃ.
Sau đó, trong sự hiện diện
của đấng Toàn Tri, tôi đã học toàn bộ về Luật cùng tất cả phần chi
tiết và đã trình bày đúng theo như thế.
633. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi
maṃ,
“Aggā vinayadhārīnaṃ paṭācārāva ekikā.”
Hoan hỷ về đức hạnh ấy,
đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng rằng: “Chỉ
mỗi một mình Paṭācārā là đứng đầu trong số các vị ni thông suốt về
Luật.”
634. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa
sāsanaṃ,
ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā.
Bậc Đạo Sư đã được tôi
phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng
nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
635. Yassatthāya pabbajitā agārasmā ’nagāriyaṃ,
so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo.
Vì mục đích nào tôi đã rời
khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy
tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
636. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe
samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.
Các phiền não của tôi đã
được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt
sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không
còn lậu hoặc.
637. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa
santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Quả vậy, tôi đã thành công
mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật
trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
638. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca
aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.
Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ)
phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời
dạy của đức Phật.
Itthaṃ sudaṃ Paṭācārā bhikkhunī imā gāthāyo
abhāsitthāti.
Tỳ khưu ni Paṭācārā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Paṭācārātheriyāpadānaṃ dasamaṃ.
Ký sự về trưởng lão ni
Paṭācārā là phần thứ mười.
--ooOoo--
Ekuposathikavaggo dutiyo.
Phẩm Một Lần Trai Giới
là phẩm thứ nhì.
Tassuddānaṃ:
Tóm lược của
phẩm này:[14]
Ekuposathikā ceva saḷalā cātha modakā,
ekāsanā pañcadīpā naḷamālī ca gotamī.
Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca bhikkhunī,
gāthā satāni pañceva nava cāpi taduttari.
Vị ni Ekuposathikā, luôn
cả Saḷalā, rồi Modakā, Ekāsanā, Pañcadīpā, Naḷamālī, và Gotamī,
Khemā, Uppalavaṇṇā, và tỳ khưu ni Paṭācārā. Các câu kệ là năm trăm
và luôn cả chín câu thêm vào đó nữa.
--ooOoo--
[1]
Ekuposathikā nghĩa là “người nữ có một lần thực hành
Bát quan trai giới.”
[2]
Salalapupphikā nghĩa là “người
nữ có bông hoa salala.”
[3]
Modakadāyikā nghĩa là “người nữ bố thí thịt vò viên.”
[4]
Ekāsanadāyikā nghĩa là “người nữ dâng một chỗ ngồi.”
[5]
Pañcadīpadāyikā nghĩa là “người nữ cúng dường năm ngọn
đèn.” Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 9 của
Pañcadīpikā (người nữ có năm ngọn đèn).
[6]
Sālamālikā nghĩa là “người nữ có tràng hoa Sālā.”
Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 5 của vị trưởng lão ni có
tên Naḷamālikā.
[7]
Mahāpajāpatigotamī nghĩa là “người nữ lãnh tụ vĩ đại
thuộc dòng họ Gotama.”
[8]
“ānando nir-ānando” là phép
chơi chữ , không thể diễn tả bằng tiếng Việt.
[9]
Dịch theo các bản Pāḷi của
Thái, Miến, Anh: tadā taṃ
phullapivinaṃ ...
[10]
Xem Mahānidānasuttaṃ - Kinh
Đại Duyên, Trường Bộ II.
[11]
tepi patthesuṃ = các vị ấy
cũng đã ước nguyện (?), vì thế đã dịch theo Tam Tạng Thái Lan:
patthesiṃ tesu puttesu.
[12]
Các câu kệ từ 581 đến 587 được thấy ở Trưởng Lão Ni Kệ, Phẩm
Mười Một - Tập Mười Hai Kệ miêu tả cuộc đối thoại giữa Ma Vương
và vị trưởng lão ni.
[13]
Kinh Pháp Cú, câu 288.
[14]
Không thấy phần tóm lược này ở Tam Tạng của Sri Lanka. Được thêm
vào từ Tạng Miến.