II. EKUPOSATHIKAVAGGO
              II. PHẨM MỘT 
              LẦN TRAI GIỚI:
             
              
              11. 
              Ekuposathikāpadānaṃ 
              11. Ký Sự về 
              Ekuposathikā:[1]
               
              
              131. Nagare bandhumatiyā bandhumā nāma 
              khattiyo, 
              divase puṇṇamāyaṃ so upavasi uposathaṃ. 
              Ở thành phố Bandhumatī, có 
              vị Sát-đế-lỵ tên là Bandhumā. Vào ngày trăng tròn, vị ấy thực hành 
              Bát quan trai giới.
               
              
              132. Ahaṃ tena samayena kumbhadāsī ahuṃ tahiṃ,
              
              disvā sarājikaṃ senaṃ evāhaṃ cintayiṃ tadā. 
              Vào lúc bấy giờ, tôi (đã) 
              là cô nô tỳ đội nước ở tại nơi ấy. Sau khi nhìn thấy đoàn quân 
              cùng với đức vua, khi ấy tôi đã suy nghĩ như vầy:
               
              
              133. “Rājāpi rajjaṃ chaḍḍhetvā upavasi 
              uposathaṃ, 
              saphalaṃ nūna taṃ kammaṃ janakāyo pamodito.” 
              “Ngay 
              cả đức vua cũng đã buông bỏ vương quyền và thực hành Bát quan trai 
              giới, chắc hẳn việc làm ấy là có quả báu khiến đám đông người hứng 
              thú.”
               
              
              134. Yoniso paccavekkhitvā duggaccañca 
              daḷiddataṃ, 
              mānasaṃ saṃpahaṃsetvā upavasiṃ uposathaṃ. 
              Sau khi suy xét chính chắn 
              về cảnh giới khổ đau và sự nghèo khó, tôi đã tự hoan hỷ tâm và đã 
              thực hành Bát quan trai giới.
               
              
              135. Ahaṃ uposathaṃ katvā sammāsambuddhasāsane,
              
              tena kammena sukatena tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Tôi đã thực hành Bát quan 
              trai giới theo lời dạy của đấng Chánh Đẳng Giác. Do nghiệp ấy đã 
              được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. 
              
               
              
              136. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ uddhaṃ 
              yojanamuggataṃ, 
              kūṭāgāravarūpetaṃ sayanāsanabhūsitaṃ. 
              Tại nơi ấy, có cung điện 
              đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi, phía bên trên vươn cao một 
              do-tuần, được kề cận với ngôi nhà mái nhọn quý giá, được trang 
              hoàng với chỗ nằm ngồi. 
               
              
              137. Accharā satasahassā upatiṭṭhanti maṃ sadā,
              
              aññe deve atikkamma atirocāmi sabbadā. 
              Một trăm ngàn tiên nữ luôn 
              luôn kề cận tôi. Tôi luôn luôn vượt trội và rực rỡ hơn các vị 
              thiên nhân khác. 
               
              
              138. Catusaṭṭhidevarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
              
              tesaṭṭhicakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Tôi đã được thiết lập vào 
              ngôi hoàng hậu của sáu mươi bốn vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết 
              lập vào ngôi hoàng hậu của sáu mươi ba vị Chuyển Luân Vương.
               
              
              139. Suvaṇṇavaṇṇā hutvāna bhavesu saṃsarāmahaṃ,
              
              sabbattha pavarā homi uposathassidaṃ phalaṃ. 
              Có được màu da vàng chói, 
              tôi luân hồi ở các cảnh giới. Tôi là người cao quý ở tất cả các 
              nơi; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
               
              
              140. Hatthiyānaṃ assayānaṃ rathayānañca 
              sivikaṃ, 
              labhāmi sabbametampi uposathassidaṃ phalaṃ. 
              Về phương tiện di chuyển 
              bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển 
              bằng xe, và kiệu khiêng, tôi cũng đều đạt được tất cả điều ấy; 
              điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
               
              
              141. Sovaṇṇamayaṃ rūpimayaṃ athopi 
              phalikāmayaṃ, 
              lohitaṅkamayañceva sabbaṃ paṭilabhām’ ahaṃ. 
              Khi ấy, ngay cả vật làm 
              bằng vàng, làm bằng bạc, làm bằng ngọc pha-lê, luôn cả vật làm 
              bằng hồng ngọc, tôi đều đạt được tất cả. 
               
              
              142. Koseyyakambaliyāni khomakappāsikāni ca,
              
              mahagghāni ca vatthāni sabbaṃ paṭilabhām’ ahaṃ. 
              Các tấm mền làm bằng tơ 
              lụa, sợi len, và bông vải, cùng với các tấm vải giá trị cao, tôi 
              đều đạt được tất cả. 
               
              
              143. Annaṃ pānaṃ khādaniyaṃ vatthasenāsanāni 
              ca, 
              sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ. 
              Thức ăn, nước uống, vật 
              nhai, vải vóc, và chỗ nằm ngồi, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ 
              ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
               
              
              144. Varagandhañca mālañca cuṇṇakañca 
              vilepanaṃ, 
              sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ. 
              Hương thơm cao quý, tràng 
              hoa, bột phấn thơm, dầu thoa, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ 
              ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
               
              
              145. Kūṭāgārañca pāsādaṃ maṇḍapaṃ hammiyaṃ 
              guhaṃ, 
              sabbametaṃ paṭilabhe uposathassidaṃ phalaṃ. 
              Ngôi nhà mái nhọn, tòa lâu 
              đài, mái che, tòa nhà dài, hang động, tôi đều đạt được tất cả 
              (các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
               
              
              146. Jātiyā sattavasso ’haṃ pabbajiṃ 
              anagāriyaṃ, 
              aḍḍhamāse asampatte arahattaṃ apāpuṇiṃ. 
              Bảy năm sau khi sanh ra, 
              tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Chưa đầy nửa tháng, 
              tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. 
               
              
              147. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu 
              hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
               
              
              148. Ekanavute ito kappe yaṃ kammamakariṃ tadā,
              
              duggatiṃ nābhijānāmi uposathassidaṃ phalaṃ. 
              Kể từ khi tôi đã thực hiện 
              việc làm ấy cho đến chín mươi mốt kiếp, tôi (đã) không biết đến 
              cõi khổ; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
               
              
              149. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              150. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Ekuposathikā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Ekuposathikā đã nói 
              lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Ekuposathikātheriyāpadānaṃ paṭhamaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Ekuposathikā là phần thứ nhất.
              --ooOoo--
              
              12. 
              Salalapupphikāpadānaṃ 
              12. Ký Sự về Salalapupphikā:[2]
               
              
              151. Candabhāgānadītīre ahosiṃ kinnarī tadā,
              
              addasāhaṃ devadevaṃ caṅkamantaṃ narāsabhaṃ.
              
              Khi ấy, tôi đã là loài 
              kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy bậc Nhân 
              Ngưu, vị Trời của chư thiên, đang đi kinh hành.
               
              
              152. Ocinitvāna salalaṃ buddhaseṭṭhass’ adās’ 
              ahaṃ, 
              “Upasiṅgha mahāvīra salalaṃ devagandhikaṃ.” 
              Sau khi thâu nhặt bông hoa
              salala, tôi đã dâng lên đức Phật 
              tối thượng (nói rằng): “Bạch đấng Đại 
              Hùng thỉnh ngài ngửi bông hoa salala có hương thơm của cõi trời.”
              
               
              
              153. Paṭiggahetvā sambuddho vipassī lokanāyako,
              
              upasiṅghi mahāvīro pekkhamānāya me tadā. 
              Khi ấy, trong lúc tôi đang 
              chăm chú nhìn, đấng Toàn Giác Vipassī, bậc Lãnh Đạo thế gian, đấng 
              Đại Hùng đã thọ nhận và đã ngửi (bông hoa ấy).
               
              
              154. Añjaliṃ paggahetvāna vanditvā 
              dipaduttamaṃ, 
              sakaṃ cittaṃ pasādetvā tato pabbatamārūhiṃ. 
              Sau khi chắp tay lên, tôi 
              đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân. Sau khi làm cho tâm của mình được 
              tịnh tín, từ nơi ấy tôi đã đi lên ngọn núi.
               
              
              155. Ekanavute ito kappe yaṃ pupphamadadiṃ 
              tadā, 
              duggatiṃ nābhijānāmi buddhapūjāyidaṃ phalaṃ. 
              Kể từ khi tôi đã cúng 
              dường bông hoa cho đến chín mươi mốt kiếp, tôi (đã) không biết đến 
              cõi khổ; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
               
              
              156. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              157. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              158. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Salalapupphikā bhikkhunī imā 
              gāthāyo abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Salalapupphikā 
              đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Salalapupphikātheriyāpadānaṃ dutiyaṃ.
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Salalapupphikā là phần thứ nhì.
              --ooOoo--
              
              13. 
              Modakadāyikāpadānaṃ 
              13. Ký Sự về Modakadāyikā:[3]
                
              
              159. Nagare bandhumatiyā kumbhadāsī ahos’ ahaṃ,
              
              mama bhāgaṃ gahetvāna gacchiṃ udakahārikā.
              Ở thành phố Bandhumatī, 
              tôi đã là người nữ tỳ đội nước. Là người vận chuyển nước, tôi đã 
              nhận lấy phần (nước) của mình rồi đã ra đi. 
               
              
              160. Panthamhi samaṇaṃ disvā santacittaṃ 
              samāhitaṃ, 
              pasannacittā sumanā modake tīṇi ’dās’ ahaṃ. 
              Ở đường lộ, tôi đã nhìn 
              thấy vị sa-môn có tâm thanh tịnh, định tĩnh. Với tâm tịnh tín, với 
              ý hoan hỷ, tôi đã dâng ba cục thịt vò viên.
               
              
              161. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              ekanavuti kappāni vinipātaṃ na gacch’ ahaṃ. 
              Do việc làm ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, tôi đã không đi 
              đến đọa xứ chín mươi mốt kiếp.
               
              
              162. Sampattiṃ taṃ karitvāna sabbaṃ 
              anubhavāmahaṃ, 
              modake tīṇi datvāna pattā ’haṃ acalaṃ padaṃ. 
              Sau khi đã thực hiện thành 
              tựu điều ấy, tôi đã đạt được mọi thứ. Sau khi bố thí ba cục thịt 
              vò viên, tôi đã đạt đến vị thế không bị lay chuyển.
               
              
              163. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              164. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              165. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Modakadāyikā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Modakadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Modakadāyikātheriyāpadānaṃ tatiyaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Modakadāyikā là phần thứ ba.
               --ooOoo--
              
              14. 
              Ekāsanadāyikāpadānaṃ 
              14. Ký Sự về Ekāsanadāyikā:[4]
                
              
              166. Nagare haṃsavatiyā ahosiṃ bālikā tadā, 
              mātā ca me pitā ceva kammantaṃ agamaṃsu te. 
              Lúc bấy giờ, tôi đã là cô 
              thiếu nữ ở tại thành phố Haṃsavatī. Mẹ và luôn cả cha của tôi, họ 
              đều đã đi làm công việc. 
               
              
              167. Majjhantikamhi suriye addasaṃ samaṇaṃ 
              ahaṃ, 
              vīthiyaṃ anugacchantaṃ āsanaṃ paññapes’ ahaṃ. 
              Vào lúc mặt trời ở chính 
              ngọ, tôi đã nhìn thấy vị sa-môn đang đi dọc theo đường lộ. Tôi đã 
              xếp đặt chỗ ngồi.
               
              
              168. Goṇakacittakādīhi paññapetvā ’hamāsanaṃ,
              
              pasannacittā sumanā idaṃ vacanamabraviṃ. 
              Sau khi xếp đặt chỗ ngồi 
              bằng nhiều loại lông cừu, v.v... rồi với tâm tịnh tín, với ý hoan 
              hỷ, tôi đã nói lời nói này:
               
              
              169. “Santattā kuthitā bhūmi sūro majjhantike 
              ṭhito, 
              mālutā ca na vāyanti kālo cettha upaṭṭhito. 
              “Mặt 
              đất bị nóng bỏng, bị thiêu đốt, mặt trời đã đứng ở chính ngọ, và 
              các cơn gió ngưng thổi, vậy là lúc ngài hãy nghỉ ở đây.
               
              
              170. Paññattamāsanamidaṃ tavatthāya mahāmuni,
              
              anukampamupādāya nisīda mama āsane.” 
              
              Thưa bậc đại hiền triết, đây là chỗ ngồi đã 
              được sắp xếp dành cho ngài. Vì lòng bi mẫn, xin ngài hãy ngồi 
              xuống chỗ ngồi của con.”
               
              
              171. Nisīdi tattha samaṇo sudanto suddhamānaso,
              
              tassa pattaṃ gahetvāna yathārandhamadāsahaṃ. 
              Với tâm ý thanh tịnh, vị 
              sa-môn được rèn luyện chu đáo đã ngồi xuống ở tại nơi ấy. Tôi đã 
              nhận lãnh bình bát của vị ấy và đã cúng dường không chút sai sót.
               
              
              172. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ. 
              Do việc làm ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ 
              thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              173. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ āsanena 
              sunimmitaṃ, 
              saṭṭhiyojanamubbedhaṃ tiṃsayojanavitthataṃ. 
              Tại nơi ấy, dành cho tôi 
              có cung điện đã khéo được xây dựng, đã khéo được hóa hiện ra với 
              chỗ ngồi, có chiều cao sáu mươi do-tuần, có chiều rộng ba mươi 
              do-tuần. 
               
              
              174. Soṇṇamayā maṇimayā athopi phalikāmayā, 
              lohitaṅkamayā ceva pallaṅkā vividhā mama. 
              Cũng vào khi ấy, thuộc về 
              tôi có các ghế dựa nhiều kiểu làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, 
              làm bằng ngọc pha-lê, và làm bằng hồng ngọc nữa. 
               
              
              175. Tūlikāvikatikāhi kaṭṭhissacittakāhi ca,
              
              udda-ekantalomīhi pallaṅkā me susanthatā. 
              Các ghế dựa của tôi được 
              khéo lót trải với các tấm nệm bằng len dệt, với nhiều loại tấm 
              trải bằng tơ dệt có đính các viên ngọc, và với các tấm trải viền 
              ren ở một bên. 
               
              
              176. Yadā icchāmi gamanaṃ hāsakhiḍḍā 
              samappitaṃ,
              saha pallaṅkaseṭṭhena gacchāmi mama patthitaṃ. 
              Khi nào tôi ước muốn sự ra 
              đi với mục đích giải trí nô đùa, điều ước nguyện của tôi là tôi ra 
              đi bằng chiếc ghế dựa thù thắng của tôi.
               
              
              177. Asītidevarājūnaṃ mahesinnamakārayiṃ, 
              sattaticakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Tôi đã được thiết lập vào 
              ngôi hoàng hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập 
              vào ngôi hoàng hậu của bảy mươi vị Chuyển Luân Vương.
               
              
              178. Bhavābhave saṃsarantī mahābhogaṃ 
              labhāmahaṃ, 
              bhoge me ūnatā natthi ekāsanaphalaṃ idaṃ. 
              Trong khi luân hồi ở cõi 
              này cõi khác, tôi đã đạt được tài sản lớn lao. Đối với tôi, không 
              có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
               
              
              179. Duve bhave saṃsarāmi devatte atha mānuse,
              
              aññe bhave na jānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ. 
              Tôi (đã) luân hồi ở hai 
              cảnh giới, trong bản thể chư thiên và nhân loại. Tôi (đã) không 
              biết đến các cõi khác; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
               
              
              180. Duve kule pajāyāmi khattiye cāpi brāhmaṇe,
              
              uccākulīnā sabbattha ekāsanaphalaṃ idaṃ. 
              Tôi (đã) được sanh ra ở 
              hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và cả Bà-la-môn nữa. Ở mọi nơi, tôi đều 
              thuộc gia đình thượng lưu; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
               
              
              181. Domanassaṃ na jānāmi cittasantāpanaṃ mama,
              
              vevaṇṇiyaṃ na jānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ. 
              Tôi không biết đến tâm bực 
              bội và tôi có sự thỏa mãn ở tâm. Tôi không biết đến việc tàn tạ 
              dung nhan; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
               
              
              182. Dhātiyo 
              maṃ upaṭṭhanti khujjā kheḷāsikā bahū, 
              aṅkena aṅkaṃ gacchāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ. 
              Các nữ tỳ hầu hạ tôi, 
              nhiều người bị gù lưng, bị chảy nước dãi. Tôi đã (được ẳm bồng) di 
              chuyển từ hông này đến hông khác; điều này là quả báu của một chỗ 
              ngồi.
               
              
              183. Aññā nahāpenti bhojenti aññā ramenti maṃ 
              sadā, 
              aññā gandhaṃ vilimpenti ekāsanaphalaṃ idaṃ. 
              Luôn luôn có các cô này 
              tắm (cho tôi), các cô kia chăm lo thức ăn, các cô khác làm cho tôi 
              vui thích, các cô nọ thoa dầu thơm (cho tôi); điều này là quả báu 
              của một chỗ ngồi. 
               
              
              184. Maṇḍape rukkhamūle vā suññāgāre vasantiyā,
              
              mama saṅkappamaññāya pallaṅko upatiṭṭhati. 
              Trong lúc tôi sống ở mái 
              che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, chiếc ghế dựa biết 
              được ý định của tôi đều đến ở kế bên. 
               
              
              185. Ayaṃ pacchimako mayhaṃ carimo vattate 
              bhavo, 
              ajjāpi rajjaṃ chaḍḍetvā pabbajiṃ anagāriyaṃ. 
              Đây là kiếp sống cuối cùng 
              của tôi, là lần hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Hiện nay, 
              tôi đã từ bỏ vương quốc và đã xuất gia vào cuộc sống không gia 
              đình. 
               
              
              186. Satasahasse ito kappe yaṃ dānamadadiṃ 
              tadā, 
              duggatiṃ nābhijānāmi ekāsanaphalaṃ idaṃ. 
              Kể từ khi tôi đã cúng 
              dường vật thí cho đến một trăm ngàn kiếp, tôi (đã) không biết đến 
              cõi khổ; điều này là quả báu của một chỗ ngồi. 
               
              
              187. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              188. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              189. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Ekāsanadāyikā bhikkhunī imā 
              gāthāyo abhāsitthāti. 
              Vị tỳ khưu ni 
              Ekāsanadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Ekāsanadāyikātheriyāpadānaṃ catutthaṃ.
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Ekāsanadāyikā là phần thứ tư.
               --ooOoo--
              
              15. 
              Pañcadīpadāyikāpadānaṃ 
              15. Ký Sự về Pañcadīpadāyikā:[5]
               
              
              190. Nagare haṃsavatiyā cārikā ās’ ahaṃ tadā,
              
              ārāmena ca ārāmaṃ carāmi kusalatthikā. 
              Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ 
              ở thành phố Haṃsavatī. Có sự tầm cầu thiện pháp, tôi (đã) đi từ tu 
              viện này đến tu viện khác.
               
              
              191. Kālapakkhamhi divase addasaṃ 
              bodhimuttamaṃ. 
              tattha cittaṃ pasādetvā bodhimūle nisīdahaṃ. 
              Vào một ngày thuộc hạ 
              huyền, tôi đã nhìn thấy cội cây Bồ Đề tối thượng. Tại đó, tôi đã 
              khởi tâm tịnh tín và đã ngồi xuống ở gốc cây Bồ Đề.
               
              
              192. Garucittaṃ upaṭṭhapetvā sire katvāna 
              añjaliṃ, 
              somanassaṃ pavedetvā evaṃ cintesiṃ tāvade. 
              Sau khi thiết lập tâm cung 
              kỉnh, chắp tay lên ở đầu, và bày tỏ lòng hoan hỷ, tôi đã tức thời 
              suy nghĩ như vầy:
               
              
              193. “Yadi buddho amitayaso asamappaṭipuggalo,
              
              dassetu pāṭihīraṃ me bodhi obhāsatu ayaṃ.” 
              “Nếu 
              đức Phật có đức hạnh vô lượng, không người sánh bằng, xin cội Bồ 
              Đề này hãy thị hiện thần thông, hãy chói sáng cho tôi thấy.”
               
              
              194. Saha āvajjanā mayhaṃ bodhi pajjali tāvade,
              
              sabbasoṇṇamayā āsi disā sabbā virocayi. 
              Với điều suy nghĩ của tôi, 
              cội Bồ Đề ngay lập tức đã phát sáng, đã biến thành vàng toàn bộ, 
              và đã chiếu sáng tất cả các phương.
               
              
              195. Sattarattindivaṃ tattha bodhimūle 
              nisīdahaṃ, 
              sattame divase patte dīpapūjaṃ akāsahaṃ. 
              Tôi đã ngồi xuống tại nơi 
              ấy ở gốc cây Bồ Đề bảy ngày đêm. Khi đã đạt đến ngày thứ bảy, tôi 
              đã thực hiện việc cúng dường các ngọn đèn.
               
              
              196. Āsanaṃ parivāretvā pañcadīpāni pajjaluṃ.
              
              yāva udeti suriyo dīpā me pajjaluṃ tadā. 
              Sau khi được đặt quanh chỗ 
              ngồi, năm ngọn đèn đã phát sáng. Khi ấy, các ngọn đèn của tôi đã 
              phát sáng cho đến khi mặt trời mọc lên.
               
              
              197. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              198. Tattha me sukataṃ vyamhaṃ pañcadīpīti 
              vuccati, 
              saṭṭhiyojanamubbedhaṃ tiṃsayojanavitthataṃ. 
              Tại nơi ấy, cung điện đã 
              được kiến tạo khéo léo dành cho tôi được gọi là “Pañcadīpī,” 
              có chiều cao sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
               
              
              199. Asaṅkhiyāni dīpāni parivāre jalanti me,
              
              yāvatā devabhavanaṃ dīpālokena jotati. 
              Xung quanh tôi có vô số 
              ngọn đèn chiếu sáng. Cho đến cung điện của chư thiên cũng sáng rực 
              bởi ánh sáng của các ngọn đèn.
               
              
              200. Parammukhā nisīditvā yadi icchāmi 
              passituṃ, 
              uddhaṃ adho ca tiriyaṃ sabbaṃ passāmi cakkhunā. 
              Sau khi ngồi xuống mặt 
              quay về hướng khác, nếu tôi muốn nhìn thấy ở bên trên, bên dưới, 
              và chiều ngang, tôi đều nhìn thấy tất cả bằng mắt.
               
              
              201. Yāvatā abhikaṅkhāmi daṭṭhuṃ sugataduggate,
              
              tattha āvaraṇaṃ natthi rukkhesu pabbatesu vā. 
              Ngay cả khi tôi mong muốn 
              nhìn thấy những việc đi đến tốt đẹp hoặc đi đến xấu xa thì không 
              có gì che đậy được việc ấy dầu ở các cây cối hoặc ở các núi non.
               
              
              202. Asīti devarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ, 
              satānaṃ cakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Tôi đã được thiết lập vào 
              ngôi chánh hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập 
              vào ngôi chánh hậu của một trăm vị Chuyển Luân Vương. 
               
              
              203. Yaṃ yaṃ yonupapajjāmi devattaṃ atha 
              mānuse, 
              dīpasatasahassāni parivāre jalanti me. 
              Mỗi khi tôi nhập thai bào 
              dầu là cảnh giới chư thiên hoặc loài người, có một trăm ngàn ngọn 
              đèn chiếu sáng ở xung quanh tôi.
               
              
              204. Devalokā cavitvāna uppajjiṃ mātukucchiyaṃ,
              
              mātukucchigatā santī akkhi me na nimīlati. 
              Sau khi mệnh chung từ thế 
              giới chư thiên, tôi đã tái sanh vào bụng mẹ. Trong khi đi vào bụng 
              mẹ và trụ lại, mắt của tôi không nhắm lại.
               
              
              205. Dīpasatasahassāni puññakammasamaṅgitā, 
              jalanti sūtikāgehe pañcadīpānidaṃ phalaṃ. 
              Một trăm ngàn ngọn đèn là 
              kết quả của nghiệp phước thiện, chúng chiếu sáng ở nhà bảo sanh; 
              điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
               
              
              206. Pacchime bhave sampatte mānasaṃ 
              vinivaṭṭayiṃ, 
              ajarāmaraṃ sītibhūtaṃ nibbānaṃ phassayiṃ ahaṃ. 
              Khi đạt đến cuộc sống cuối 
              cùng, tôi đã gìn giữ tâm ý. Tôi đã chạm đến Niết Bàn là trạng thái 
              mát mẻ, không già, không chết.
               
              
              207. Jātiyā sattavassāhaṃ arahattamapāpuṇiṃ,
              
              upasampādayī buddho guṇamaññāya gotamo. 
              Bảy năm kể từ khi sanh, 
              tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi biết được đức hạnh (của 
              tôi), đức Phật Gotama đã cho tôi tu lên bậc trên.
               
              
              208. Maṇḍape rukkhamūle vā suññāgāre vasantiyā,
              
              sadā pajjalate dīpaṃ pañcadīpānidaṃ phalaṃ. 
              Trong lúc sinh sống ở mái 
              che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, luôn luôn có ngọn đèn 
              chiếu sáng; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
               
              
              209. Dibbacakkhu visuddhaṃ me samādhikusalā 
              ahaṃ, 
              abhiññāpāramippattā pañcadīpānidaṃ phalaṃ. 
              Thiên nhãn của tôi được 
              thanh tịnh, tôi được thiện xảo về định, được thành đạt các thắng 
              trí và các pháp toàn hảo; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
               
              
              210. Sabbavositavosānā katakiccā anāsavā, 
              pañcadīpā mahāvīra pāde vandati cakkhuma. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hùng, bậc Hữu Nhãn, con là Pañcadīpā có toàn bộ nguồn 
              nhiên liệu đã cạn, có các phận sự đã được làm xong, không còn các 
              lậu hoặc, xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
               
              
              211. Satasahasse ito kappe yaṃ dīpamadadiṃ 
              tadā, 
              duggatiṃ nābhijānāmi pañcadīpānidaṃ phalaṃ. 
              Kể từ khi tôi đã cúng 
              dường ngọn đèn cho đến một trăm ngàn kiếp, tôi (đã) không biết đến 
              cõi khổ; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
               
              
              212. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              213. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              214. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Pañcadīpayikā bhikkhunī imā 
              gāthāyo abhāsitthāti. 
              Vị tỳ khưu ni 
              Pañcadīpadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
              
              Pañcadīpayikātheriyāpadānaṃ 
              pañcamaṃ.
               Ký sự về trưởng lão ni 
              Pañcadīpadāyikā là phần thứ năm.
               --ooOoo--
              
              16. 
              Sālamālikāpadānaṃ 
              16. Ký Sự về Sālamālikā:[6]
               
               
              
              215. Candābhāgānadītīre ahosiṃ kinnarī tadā,
              
              addasaṃ virajaṃ buddhaṃ sayambhuṃ aparājitaṃ. 
              Khi ấy, tôi đã là loài 
              kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, 
              bậc Vô Cấu Uế, đấng Tự Chủ, bậc không bị hàng phục.
               
              
              216. Pasannacittā sumanā vedajātā katañjalī,
              
              sālamālaṃ gahetvāna sayambhuṃ abhipūjayiṃ. 
              Với tâm tịnh tín, với ý 
              hoan hỷ, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên cầm lấy 
              tràng hoa Sālā và đã cúng dường 
              đến bậc Tự Chủ.
               
              
              217. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā kinnarīdehaṃ tāvatiṃsamagacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              xác kim-sỉ-điểu, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              218. Chattiṃsa devarājūnaṃ mahesittamakārayiṃ,
              
              manasā patthitaṃ mayhaṃ nibbattati yathicchitaṃ. 
              
              Tôi đã được thiết lập vào 
              ngôi hoàng hậu của ba mươi sáu vị Thiên Vương. Điều ước nguyện 
              trong tâm của tôi là được tái sanh theo ước muốn.
               
              
              219. Dasannaṃ cakkavattīnaṃ mahesittamakārayiṃ,
              
              ocitattāva hutvāna saṃsarāmi bhavesvahaṃ. 
              Tôi đã được thiết lập vào 
              ngôi hoàng hậu của mười vị Chuyển Luân Vương. Sau khi thành tựu 
              kết quả, tôi tự luân hồi ở nhiều cõi. 
               
              
              220. Kusalaṃ vijjate mayhaṃ pabbajiṃ 
              anagāriyaṃ, 
              pūjārahā ahaṃ ajja sakyaputtassa sāsane. 
              Điều tốt lành của tôi đã 
              được tìm thấy, tôi đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình. Hiện 
              nay, tôi là bậc xứng đáng sự cúng dường ở trong Giáo Pháp của 
              người con trai dòng dõi Sakya (Thích Ca).
               
              
              221. Visuddhamanasā ajja apetamanapāpikā, 
              sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo. 
              Hiện nay, với tâm ý đã 
              được thanh tịnh, các ác pháp đã không còn, tất cả các lậu hoặc đã 
              cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
               
              
              222. Catunavute ito kappe yaṃ 
              buddhamabhipūjayiṃ, 
              duggatiṃ nābhijānāmi sālamālāyidaṃ phalaṃ. 
              Kể từ khi tôi đã cúng 
              dường đến đức Phật cho đến chính mươi bốn kiếp, tôi (đã) không 
              biết đến cõi khổ; điều này là quả báu của tràng hoa
              Sālā.
               
              
              223. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              224. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              225. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Sālamālikā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Vị tỳ khưu ni Sālamālikā đã nói 
              lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Sālamālikātheriyāpadānaṃ chaṭṭhaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Sālamālikā là phần thứ sáu.
               --ooOoo--
              
              17. 
              Mahāpāpatigotamī-apadānaṃ 
              17. Ký sự về Mahāpajāpatigotamī:[7]
               
              
              226. Ekadā lokapajjoto vesāliyaṃ mahāvane, 
              kūṭāgāre susālāyaṃ vasate narasārathi. 
              Một thời, bậc Quang Đăng 
              của thế gian, đấng Điều Phục loài người ngự tại thành Vesālī, khu 
              Đại Lâm, ngôi nhà mái nhọn, trong giảng đường xinh xắn.
               
              
              227. Tadā jinassa mātucchā mahāgotami 
              bhikkhunī, 
              tahiṃ kate pure ramme vasī bhikkhunupassaye. 
              Khi ấy, người dì ruột của 
              đấng Chiến Thắng là tỳ khưu ni Mahāgotamī đã cư ngụ tại tu viện 
              của tỳ khưu ni được xây dựng ở tại nơi ấy, trong thành phố đáng 
              yêu.
               
              
              228. Bhikkhunīhi vimuttāhi satehi saha pañcahi,
              
              rahogatāya tassevaṃ cittassāsi vitakkitaṃ. 
              Khi đang ở nơi thanh vắng 
              cùng với năm trăm vị tỳ khưu ni đã được hoàn toàn giải thoát, có 
              điều suy tầm đã khởi đến tâm của vị ni ấy như vầy:
               
              
              229. “Buddhassa parinibbāṇaṃ sāvakaggayugassa 
              vā, 
              rāhulānandanandānaṃ nāhaṃ lacchāmi passituṃ. 
              “Ta 
              sẽ không thể chứng kiến sự viên tịch Niết Bàn của đức Phật, hoặc 
              của hai vị Tối Thượng Thinh Văn, của Rāhula, Ānanda, vā Nanda.
               
              
              230. Paṭigaccāyusaṅkhāre ossajitvāna nibbutiṃ,
              
              gaccheyyaṃ lokanāthena anuññātā mahesinā.” 
              
              Trước khi có thể buông bỏ thọ hành rồi thành 
              tựu Niết Bàn, ta cần được đấng Hộ Trì Thế Gian, bậc Đại Ẩn Sĩ cho 
              phép.”
               
              
              231. Tathā pañcasatānampi bhikkhunīnaṃ 
              vitakkitaṃ, 
              āsi khemādikānampi etadeva vitakkitaṃ. 
              Sự suy tầm của năm trăm vị 
              tỳ khưu ni cũng như thế. Chính điều suy tầm này cũng đã khởi đến 
              các vị như là Khemā, v.v...
               
              
              232. Bhūmicālo tadā āsi nāditā devadundubhi,
              
              upassayādhivatthāyo devatā sokapīḷitā. 
              vipalantā sakaruṇaṃ tathassūni pavattayuṃ. 
              Khi ấy, đã có sự lay động 
              của trái đất, tiếng trống của cõi trời đã vang lên. Các thiên nhân 
              cư ngụ ở ni viện đã bị dày vò bởi sầu muộn. Tại nơi ấy, trong khi 
              than vãn với niềm bi mẫn họ đã tuôn rơi những giọt nước mắt.
               
              
              233. Mittā bhikkhuniyo tāhi upagantvāna 
              gotamiṃ, 
              nipacca sirasā pāde idaṃ vacanamabravuṃ: 
              Cùng với các vị (thiên 
              nhân) ấy, các vị tỳ khưu ni bạn đã đi đến gặp bà Gotamī. Họ đã cúi 
              mình đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:
               
              
              234. “Tattha toyalavāsittā mayamayye rahogatā,
              
              sācalā calitā bhūmi nāditā devadundubhi, 
              paridevā ca sūyanti kimatthaṃ nūna gotamī.” 
              “Thưa 
              ni sư, ở tại nơi ấy chúng tôi đã tưới ướt với những giọt nước rồi 
              đã đi đến nơi thanh vắng.
              Trái đất có sự không lay 
              động đã lay động, tiếng trống của cõi trời đã vang lên, và được 
              nghe những tiếng than khóc. Bà Gotamī, chẳng lẽ là có sự việc gì 
              hay sao?”
               
              
              235. Tadā avoca sā sabbaṃ yathāparivitakkitaṃ,
              
              tāyopi sabbā āhaṃsu yathāparivitakkitaṃ. 
              Khi ấy, bà Gotamī đã kể 
              lại mọi việc theo như đã được suy tầm. Các vị ni ấy cũng đã kể lại 
              mọi việc theo như đã được suy tầm:
               
              
              236. “Yadi te rucitaṃ ayye nibbāṇaṃ paramaṃ 
              sivaṃ, 
              nibbāyissāma sabbāpi buddhānuññāya subbate. 
              “Thưa 
              ni sư, thưa vị có sự hành trì tốt đẹp, nếu Niết Bàn tối thắng thù 
              diệu được ni sư thích thú, thì tất cả chúng tôi cũng sẽ Niết Bàn 
              với sự chấp thuận của đức Phật.
               
              
              237. Mayaṃ sahāva nikkhantā gharāpi ca bhavāpi 
              ca, 
              sahayeva gamissāma nibbāṇapuramuttamaṃ.” 
              
              Chúng tôi sẽ cùng nhau rời khỏi ngôi nhà và rời 
              khỏi luôn cả sự hiện hữu, chúng tôi sẽ cùng nhau đi đến thành phố 
              Niết Bàn tối thượng.”
               
              
              238. Nibbānāya vajantīnaṃ kiṃ vakkhāmī’ti sā 
              vadaṃ, 
              saha sabbāhi niggacchi bhikkhunīnilayā tadā. 
              Bà Gotamī đã nói rằng: “Ta 
              sẽ nói gì đây đến những người đang đi đến Niết Bàn?” Khi 
              ấy, cùng với tất cả các vị ni ấy bà Gotamī đã rời khỏi chỗ cư ngụ 
              của các tỳ khưu ni. 
               
              
              239. Upassaye yādhivatthā devatā tā khamantu 
              me, 
              bhikkhunīnilayassedaṃ pacchimaṃ dassanaṃ mama. 
              “Xin 
              chư thiên đang ngự tại trú xá hãy thông cảm cho ta. Đây là sự nhìn 
              thấy ni viện lần cuối cùng của ta.
               
              
              240. Na jarā maccu vā yattha appiyehi samāgamo,
              
              piyehi vippayogo ’tthi taṃ vajissaṃ asaṅkhataṃ. 
              
              Nơi nào sự già hoặc sự chết, sự gần gũi với 
              những gì không yêu thích, sự xa lìa với những gì yêu thích là 
              không có, thì ta nên đi đến nơi không bị tạo tác ấy.”
              
               
              
              241. Avītarāgā taṃ sutvā vacanaṃ sugatorasā,
              
              sokaṭṭā parideviṃsu “Aho no appapuññatā. 
              Nghe được lời nói ấy, 
              những vị tỳ khưu ni của đấng Thiện Thệ chưa lìa tham ái bị dằn vặt 
              bởi sầu muộn đã than vãn rằng: “Than 
              ôi, chúng tôi có phước báu kém cỏi.
               
              
              242. Bhikkhunīnilayo suñño bhūto tāhi vinā 
              ayaṃ, 
              pabhāte viya tārāyo na dissanti jinorasā.
              
              Trú xứ này của các tỳ khưu ni thiếu vắng các vị 
              ấy trở nên trống không. Các vị tỳ khưu ni của đấng Chiến Thắng 
              không còn được nhìn thấy ví như các vì sao không còn được nhìn 
              thấy vào ban ngày.” 
               
              
              243. Nibbānaṃ gotamī yāti satehi saha pañcahi,
              
              nadīsatehiva saha gaṅgā pañcahi sāgaraṃ.” 
              
              Bà Gotamī đi đến Niết bàn cùng với năm trăm vị 
              tương tợ như sông Gaṅgā cùng với năm trăm dòng sông chảy về biển 
              cả.”
               
              
              244. Rathikāya vajantiṃ taṃ disvā saddhā 
              upāsikā, 
              gharā nikkhamma pādesu nipacca idamabraviṃ: 
              Sau khi nhìn thấy bà 
              Gotamī đang đi ở trên đường, các nữ cư sĩ thành tín đã rời khỏi 
              nhà rồi đã cúi xuống ở hai bàn chân (của bà) và đã nói điều này:
               
              
              245. “Pasīdassu mahābhoge anāthāyo vihāya no,
              
              tayā na yuttaṃ nibbātuṃ” iccaṭṭaṃ vilapiṃsu tā. 
              “Hỡi 
              vị có tài sản vĩ đại, xin người hoan hỷ. Xin chớ lìa bỏ chúng con 
              (trở thành) không người lãnh đạo. Xin người chớ quyết định Niết 
              Bàn,” họ đã than van ầm ĩ như thế.
               
              
              246. Tāsaṃ sokapahāṇatthaṃ avoca madhuraṃ 
              giraṃ, 
              “Ruditena alaṃ puttā hāsakālo ’yamajja vo. 
              Nhằm mục đích xóa đi nỗi 
              sầu muộn của họ, bà Gotamī đã nói với giọng nói ngọt ngào rằng: “Này 
              các con, than khóc đã đủ rồi, hôm nay đây là thời điểm vui cười 
              của các con.
               
              
              247. Pariññātaṃ mayā dukkhaṃ dukkhahetu 
              vivajjito, 
              nirodho me sacchikato maggo cāpi subhāvito. 
              
              Khổ đã được ta biết toàn diện, nhân của Khổ đã 
              được ta dứt bỏ, sự Diệt Tận đã được ta tác chứng, và Đạo cũng đã 
              được ta thực hành khéo léo.
               
               (Bhāṇavāraṃ 
              paṭhamaṃ). 
              Tụng Phẩm thứ nhất.
               
              
              248. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa 
              sāsanaṃ, 
              ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā. 
              
              Bậc Đạo Sư đã được ta phục vụ, lời dạy của đức 
              Phật đã được ta thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối 
              dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
               
              
              249. Yassatthāya pabbajitā agārasmānagāriyaṃ,
              
              so me attho anuppatto sabbasaññojanakkhayo. 
              
              Vì mục đích nào ta đã rời khỏi gia đình xuất 
              gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận 
              tất cả các sự trói buộc đã được ta đạt đến.
              
               
              
              250. Buddho tassa ca saddhammo anūno yāva 
              tiṭṭhati, 
              
              nibbātuṃ tāva kālo me mā maṃ socatha puttikā.
              
              
              Này các con, đức Phật và Chánh Pháp không bị 
              thiếu sót của Ngài vẫn còn tồn tại vào thời điểm Niết Bàn của ta, 
              chớ có khóc than cho ta.
               
              
              251. Koṇḍaññānandanandādī tiṭṭhanti rāhulo 
              jino, 
              sukhito sahito saṅgho hatadappā ca titthiyā. 
              
              Koṇḍañña, Ānanda, Nanda, v.v..., vị Rāhula 
              chiến thắng còn tại tiền, hội chúng là được an lạc, hòa hợp, còn 
              đối với các ngoại đạo thì niềm kiêu hãnh đã bị tiêu tan.
               
              
              252. Okkākavaṃsassa yaso usasito māramaddano,
              
              nanu sampati kālo me nibbānatthāya puttikā. 
              
              Danh tiếng của dòng tộc Okkāka với sự tiêu diệt 
              Ma Vương đã được giương cao. Này các con, chẳng phải chính lúc này 
              là thời điểm cho mục đích Niết Bàn của ta hay sao?
               
              
              253. Cirappabhūti yaṃ mayhaṃ patthitaṃ ajja 
              sijjhate, 
              ānandabherikālo ’yaṃ kiṃ vo assūhi puttikā. 
              
              Điều ước nguyện của ta được nung đúc từ lâu hôm 
              nay được thành tựu. Này các con, giờ đây là thời điểm của những 
              tiếng trống vui mừng, việc gì với những giọt nước mắt của các con?
               
              
              254. Sace mayi dayā atthi yadi catthi 
              kataññutā, 
              saddhammaṭṭhitiyā sabbā karotha viriyaṃ daḷhaṃ. 
              
              Nếu có lòng thương mến đối với ta, và nếu có 
              lòng bi mẫn, tất cả các con hãy thể hiện sự tinh tấn kiên cố cho 
              sự tồn tại của Chánh Pháp.
               
              
              255. Thīnaṃ adāsi pabbajjaṃ sambuddho yācito 
              mayā, 
              tasmā yathāhaṃ nandissaṃ tathā tamanutiṭṭhatha. 
              
              Khi được ta thỉnh cầu, đấng Toàn Giác đã ban 
              cho sự xuất gia một cách lưỡng lự. Do điều đó, ta đã hoan hỷ như 
              thế nào thì các con hãy thuận theo điều ấy như thế.”
               
              
              256. Tā evamanusāsitvā bhikkhunīhi purakkhatā,
              
              upecca buddhaṃ vanditvā idaṃ vacanamabravi: 
              Sau khi dặn dò như thế, bà 
              Gotamī dẫn đầu các vị tỳ khưu ni đã đi đến đảnh lễ đức Phật rồi đã 
              nói lời nói này:
               
              
              257. “Ahaṃ sugata mātā te tvaṃ ca vīra pitā 
              mama, 
              saddhammasukhado nātha tayā jātamhi gotama. 
              “Bạch 
              đấng Thiện Thệ, con là mẹ của Ngài. Và bạch đấng Anh Hùng, Ngài là 
              cha của con. Bạch đấng Lãnh Đạo, Ngài là người ban cho niềm an lạc 
              trong Chánh Pháp. Bạch ngài Gotama, con đã được sanh ra bởi Ngài.
               
              
              258. Saṃvaḍḍhīto ’yaṃ sugata rūpakāyo mayā 
              tava, 
              anindiyo dhammakāyo mama saṃvaḍḍhīto tayā. 
              
              Bạch đấng Thiện Thệ, hình hài và thân xác này 
              của Ngài đã được lớn mạnh là nhờ con. Còn Pháp thân không thể phê 
              phán của con đã được tăng trưởng là nhờ vào Ngài.
               
              
              259. Muhuttataṇhāsamanaṃ khīraṃ tvaṃ pāyito 
              mayā, 
              tayāhaṃ santamaccantaṃ dhammakhīraṃ hi pāyitā. 
              
              Nhờ con, Ngài đã được uống nước sữa làm dịu đi 
              sự khao khát trong chốc lát. Nhờ Ngài, con cũng đã được uống chính 
              dòng sữa Giáo Pháp thanh tịnh vô cùng tận.
               
              
              260. Vaddhanarakkhane mayhaṃ anaṇo tvaṃ 
              mahāmune, 
              puttakāmā thiyo yā tā labhantu tādisaṃ sutaṃ. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, trong việc dưỡng nuôi 
              chăm sóc của con Ngài không có nợ nần. Mong sao cho các phụ nữ có 
              lòng mong mỏi con trai có thể đạt được người con trai như thế này.
              
               
              
              261. Mandhātādinarindānaṃ yā mātā sā 
              bhavaṇṇave, 
              nimuggāhaṃ tayā putta tāritā bhavasāgarā. 
              
              Mẹ của các vị vua như đức vua Mandhātu, v.v... 
              là ở trong biển cả của hiện hữu. Này con trai, ta đã bị chìm đắm, 
              nhờ Ngài ta đã vượt qua khỏi đại dương của hiện hữu.
               
              
              262. Rañño mātā mahesīti sulabhaṃ 
              nāmamitthinaṃ, 
              buddhamātāti yaṃ nāmaṃ etaṃ paramadullabhaṃ. 
              
              Đối với hàng phụ nữ, danh xưng “Hoàng hậu mẹ 
              của đức vua” là dễ dàng đạt được. Còn danh xưng “Người mẹ của đức 
              Phật” là đạt được vô cùng khó khăn.
               
              
              263. Tañca laddhaṃ mayā vīra paṇidhānaṃ mamaṃ 
              tayā, 
              aṇukaṃ vā mahantaṃ vā taṃ sabbaṃ pūritaṃ mayā. 
              
              Và bạch đấng Anh Hùng, nhờ Ngài con đã đạt được 
              điều ước nguyện ấy của con. Với con toàn bộ điều ấy dầu nhỏ bé hay 
              lớn lao đều đã được tròn đủ.
               
              
               264. Parinibbātumicchāmi vihāyemaṃ kalebaraṃ,
              
              anujānāhi me vīra dukkhantakara nāyaka. 
              
              Sau khi từ bỏ xác thân này con muốn viên tịch 
              Niết Bàn. Bạch đấng Anh Hùng, vị Lãnh Đạo, bậc Đoạn Tận Khổ Đau, 
              xin Ngài hãy cho phép con. 
              
               
              
              265. Cakkaṅkusadhajākiṇṇe pāde kamalakomale,
              
              pasārehi paṇāmaṃ te karissaṃ puttapemasā. 
              
              Xin Ngài hãy duỗi ra (hai) bàn chân mềm dịu như 
              hoa sen được điểm tô bằng những cây căm bánh xe và các ngọn cờ, 
              con sẽ thể hiện sự tôn kính đến Ngài với lòng yêu mến đối với 
              người con trai.
               
              
              266. Suvaṇṇarāsisaṃkāsaṃ sarīraṃ kuru pākaṭaṃ,
              
              katvā dehaṃ sudiṭṭhaṃ te santiṃ gacchāmi nāyaka.” 
              
              
              Bạch đấng Lãnh Đạo, xin Ngài hãy thể hiện rõ 
              ràng thân thể tợ như khối vàng, sau khi thực hiện việc chiêm 
              ngưỡng thân thể của Ngài, con sẽ đi về chốn an tịnh.”
               
              
              267. Dvattiṃsalakkhaṇūpetaṃ suppabhālaṅkataṃ 
              tanuṃ, 
              sañjhāghanāva bālakkaṃ mātucchaṃ dassayī jino. 
              Đấng Chiến Thắng đã khiến 
              cho người dì nhìn thấy thân thể được thành tựu ba mươi hai tướng 
              trạng và được điểm tô với những hào quang xinh xắn trông giống như 
              ánh mặt trời non trẻ từ đám mây chiều.
               
              
              268. Phullāravindasaṅkāse taruṇādiccasappabhe,
              
              cakkaṅkite pādatale tato sā sirasā pati. 
              Sau đó, bà Gotamī đã đê 
              đầu ở lòng bàn chân được in dấu hình bánh xe tợ như đóa hoa sen nở 
              rộ, (và) chói sáng như mặt trời buổi bình minh.
               
              
              269. “Paṇamāmi narādiccaṃ ādiccakulaketukaṃ,
              
              pacchime maraṇe mayhaṃ na taṃ ikkhāmahaṃ puno. 
              “Con 
              xin đảnh lễ đấng mặt trời của nhân loại, vị tiêu biểu của dòng dõi 
              mặt trời. Đây là lần tử biệt cuối cùng của con, con không gặp Ngài 
              nữa rồi.
               
              
              270. Itthiyo nāma lokagga sabbadosakarā matā,
              
              yadi ko catthi doso me khamassu karuṇākara. 
              
              Bạch đấng Tối Cao của thế gian, hàng nữ nhân 
              tạo nên mọi điều xấu xa rồi chết đi. Và bạch đấng Thực Hành bi 
              mẫn, nếu con có điều sai trái gì xin Ngài tha thứ.
               
              
              271. Itthikānañca pabbajjaṃ yamahaṃ yāciṃ 
              punappunaṃ, 
              tattha ce atthi doso me taṃ khamassu narāsabha.” 
              
              
              Và bạch đấng Nhân Ngưu, con đã liên tục cầu xin 
              sự xuất gia cho hàng phụ nữ, trong việc này nếu con có điều sai 
              trái, xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.
               
              
              272. Mayā bhikkhuniyo vīra tavānuññāya sāsitā,
              
              tatra ce atthi dunnītaṃ taṃ khamassu khamādhipa. 
              
              
              Bạch đấng Đại Hùng, các tỳ khưu ni đã được con 
              dạy dỗ với sự cho phép của Ngài. Bạch đấng Chúa Tể về kham nhẫn, 
              trong trường hợp này nếu có vấn đề huấn luyện kém cỏi, xin Ngài 
              hãy thứ tha điều ấy.”
               
              
              273. “Akkhante nāma khantabbaṃ kiṃ bhave 
              guṇabhūsane, 
              kimuttaraṃ te vakkhāmi nibbānāya vajantiyā. 
              “Này 
              người có đức hạnh là vật trang điểm, có thể kham nhẫn những điều 
              gọi là không thể kham nhẫn thì còn có việc gì? Ta sẽ nói điều gì 
              hơn nữa về bà là người đang tiến đến Niết Bàn? 
               
              
              274. Suddhe 
              anūne mama bhikkhusaṅghe 
              lokā ito nissarituṃ kamante, 
              pabhātakāle vyasanaṃ gahānaṃ
              disvāna niyyāti va candalekhā. 
              
              Khi hội chúng tỳ khưu của Ta là thanh tịnh 
              không khiếm khuyết đang tiến bước để ra khỏi thế gian này, ví như 
              vầng trăng ra đi vào lúc rạng đông sau khi đã nhìn thấy sự biến 
              mất dần của các vì thiên thể.”
               
              
              275. Tadetarā bhikkhuniyo jinaggaṃ 
              tārāva candānugatā sumeruṃ, 
              padakkhiṇaṃ katva nipacca pāde 
              ṭhitā mukhantaṃ samudikkhamānā. 
              Khi ấy, các vị tỳ khưu ni 
              kia đã hướng vai phải nhiễu quanh đấng Chiến Thắng tối cao, trông 
              giống như các vì sao theo gót mặt trăng di chuyển xung quanh núi 
              Sumeru, sau đó đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (đức Phật) rồi đứng 
              lên chiêm ngưỡng khuôn mặt (của Ngài). 
               
              
              276. “Na tittapubbaṃ tava dassanena 
              cakkhuṃ na sotaṃ tava bhāsitena, 
              cittaṃ mamaṃ kevalamekameva 
              pappuyya taṃ dhammarasena tittiṃ.
              “Mắt 
              chưa có sự thỏa mãn đối với việc nhìn ngắm Ngài, tai chưa có sự 
              thoả mãn đối với việc được (nghe) Ngài thuyết giảng,
              chỉ riêng một mình tâm của con đã đạt 
              được sự thoả mãn ấy nhờ vào hương vị của Giáo Pháp. 
              
               
              
              277. Nadato parisāyaṃ te vādidappāpahārino,
              ye te dakkhanti vadanaṃ dhaññā te narapuṅgava. 
              
              Bạch đấng Cao Quý của loài người, Ngài là vị 
              đánh đổ sự kiêu căng của những người đối chất, khi Ngài đang tuyên 
              thuyết ở hội chúng những người nào nhìn thấy khuôn mặt của Ngài, 
              những người ấy là hữu duyên. 
               
              
              278. Dīghaṅgulī tambanakhe subhe āyatapaṇhike,
              
              ye pāde paṇamissanti tepi dhaññā guṇandhara. 
              
              Bạch đấng có lóng (tay chân) dài, những người 
              nào sẽ khom mình ở bàn chân xinh đẹp có gót chân nhô ra, bạch bậc 
              Thượng Đức, những người ấy cũng là hữu duyên.
               
              
              279. Madhurāni pahaṭṭhāni dosagghāni hitāni ca,
              
              ye te vākyāni sossanti tepi dhaññā naruttama. 
              
              Bạch đấng Thượng Nhân, những người nào sẽ lắng 
              nghe những lời nói ngọt ngào, vui vẻ, tiêu diệt lỗi lầm, và có lợi 
              ích của Ngài, những người ấy cũng là hữu duyên.
               
              
              280. Dhaññāhaṃ te mahāvīra pādapūjanatapparā,
              
              tiṇṇasaṃsārakantārā suvākyena sirīmato.” 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, với sự nhiệt tâm trong việc 
              lễ bái bàn chân (Ngài), con đã vượt qua khu rừng rậm luân hồi nhờ 
              vào lời thiện thuyết của đấng Quang Vinh, con là hữu duyên với 
              Ngài.”
               
              
              281. Tato sā anusāsetvā bhikkhusaṅghampi 
              subbatā, 
              rāhulānandanande ca vanditvā idamabravi: 
              Sau đó, vị ni có hạnh kiểm 
              tốt đẹp ấy cũng đã thông báo đến hội chúng tỳ khưu. Và sau khi 
              đảnh lễ các vị Rāhula, Ānanda, Nanda, bà đã nói điều này:
               
              
              282. “Āsīvisālayasame rogāvāse kalebare, 
              nibbinnā dukkhasaṃghāte jarāmaraṇagocare. 
              “Ta 
              nhờm gớm cái xác thân tợ như chỗ trú của rắn độc, là chỗ ngụ của 
              bệnh tật, bị chồng chất khổ đau, là chốn lai vãng của sự già và sự 
              chết, ...
               
              
              283. Nānākalimalākiṇṇe parāyatte nirīhake, 
              tena nibbātumicchāmi anumaññatha puttakā.” 
              
              ... đầy rẫy nhiễm ô và tội lỗi, lệ thuộc vào 
              người khác, không năng động. Vì thế Mẹ muốn Niết Bàn. Này các con 
              trai, hãy thông cảm (cho Mẹ).”
               
              
              284. Nando rāhulabhaddo ca vītasokā nirāsavā,
              
              ṭhītācalaṭṭhītithīrā dhammataṃ anucintayuṃ. 
              Vị Nanda và bậc hiền thiện 
              Rāhula, có sầu muộn đã lìa, không còn lậu hoặc, bền vững, không bị 
              lay động, chắc chắn, kiên quyết, đã suy xét về lẽ tự nhiên rằng:
               
              
              285. Dhīratthu saṅkhataṃ lolaṃ asāraṃ 
              kadalūpamaṃ, 
              māyāmarīcisadisaṃ ittaraṃ anavaṭṭhitaṃ. 
              “Thật 
              là xấu hổ cho (xác thân) bị tạo tác, chao đảo, không có lõi tương 
              tợ như cây chuối, giống như trò xảo thuật hay ảo ảnh, ngắn ngủi, 
              không bền vững.
               
              
              286. Yattha nāma jinassāyaṃ mātucchā 
              buddhaposikā, 
              gotamī nidhanaṃ yāti aniccaṃ sabbasaṅkhataṃ.” 
              
              Ngay cả bà Gotamī này, đối với đấng Chiến Thắng 
              là người dì, là người nuôi dưỡng Đức Phật, rồi cũng đi đến sự tử 
              vong; tất cả pháp hữu vi là vô thường.”
               
              
              287. Ānando ca tadā sekho sokaṭṭo jinavacchalo,
              
              tatthassūni dharanto so karuṇaṃ paridevati. 
              Và lúc bấy giờ, ngài 
              Ānanda, vị có lòng thương mến đối với đấng Chiến Thắng, là bậc hữu 
              học, đã bị dằn vặt vì sầu muộn. Tại đó, trong khi tuôn trào những 
              giọt lệ, vị ấy rên rĩ nỗi tiếc thương:
               
              
              288. “Hā santiṃ gotamī yāti nūna buddhopi 
              nibbutiṃ, 
              gacchati na cireneva aggiriva nirindhano.” 
              “Hỡi 
              ôi! Bà Gotamī đi đến chốn thanh tịnh. Hiển nhiên, chẳng bao lâu 
              nữa đức Phật cũng đi đến tịch diệt ví như ngọn lửa hết nguồn nhiên 
              liệu.”
               
              
              289. Evaṃ vilapamānaṃ taṃ Ānandaṃ āha gotamī:
              
              “Sutisāgaragambhīra buddhupaṭṭhānatappara. 
              Bà Gotamī đã nói với vị 
              Ānanda đang than vãn ấy như vầy: “Này 
              vị sâu sắc như biển cả về việc nghe (học hỏi). Này vị nhiệt tâm 
              trong việc hầu cận đức Phật ...
              
               
              
              290. Na yuttaṃ socituṃ putta hāsakāle 
              upaṭṭhite, 
              tava me saraṇaṃ putta nibbānaṃ samupāgataṃ. 
              
              Này con trai, chớ miệt mài thương tiếc khi thời 
              điểm cười vui đã đến đối với con. Này con trai, nơi nương nhờ của 
              ta là Niết Bàn đã đến.
               
              
              291. Tayā tāta samajjhiṭṭho pabbajjaṃ anujāni 
              no, 
              mā putta vimano hohi saphalo te parissamo. 
              
              Này con yêu, được cầu khẩn bởi con (đức Phật) 
              đã cho phép sự xuất gia đến chúng tôi. Này con trai, chớ có phiền 
              muộn, sự nỗ lực của con là có kết quả. 
               
              
              292. Yaṃ na diṭṭhaṃ purāṇehi titthikācariyehi 
              pi, 
              taṃ padaṃ sukumārīhi sattavassāhi veditaṃ. 
              
              Đạo lộ ấy thậm chí không được nhìn thấy bởi các 
              vị ngoại đạo sư trước đây lại được biết đến bởi những bé gái hiền 
              thiện bảy tuổi. 
               
              
              293. Buddhasāsanapāletā pacchimaṃ dassanaṃ 
              tava, 
              tattha gacchāmahaṃ putta gato yattha na dissate.” 
              
              
              Này vị hộ trì Giáo Pháp của đức Phật, (giờ là) 
              lần nhìn thấy cuối cùng của con. Này con trai, nơi nào đi đến mà 
              không được nhìn thấy thì ta đi đến nơi ấy.” 
               
              
              294. Kadāci dhammaṃ desento khipi 
              lokagganāyako,
              
              tadāhaṃ āsiṃsavacaṃ avocaṃ anukampikā: 
              
              Có lần nọ đấng Lãnh Đạo 
              tối cao của thế gian bị hắt hơi trong khi đang thuyết giảng Giáo 
              Pháp, khi ấy với lòng từ mẫn tôi đã nói lời mong mỏi rằng:
               
              
              295. “Ciraṃ jīva mahāvīra kappaṃ tiṭṭha 
              mahāmune, 
              sabbalokassa atthāya bhavassu ajarāmaro.” 
              “Bạch 
              đấng Đại Hùng, xin Ngài hãy sống thọ. Bạch bậc Đại Hiền Triết, xin 
              Ngài hãy tồn tại trọn kiếp. Vì lợi ích của tất cả thế gian, xin 
              Ngài hãy là vị thiên thần bất lão.” 
               
              
              296. Taṃ tathāvādiniṃ buddho mamaṃ so 
              etadabravi: 
              “Na hevaṃ vandiyā buddhā yathā vandasi gotamī.” 
              Đối với tôi là người nữ có 
              lời nói như thế về điều ấy, đức Phật ấy đã nói điều này: “Này 
              Gotamī, chư Phật không nên được tôn vinh như thế, giống như cách 
              bà đã tôn vinh.”
               
              
              297. “Kathaṃ carahi sabbaññu vanditabbā 
              tathāgatā, 
              kathaṃ avandiyā buddhā taṃ me akkhāhi pucchito.” 
              
              “Bạch 
              đấng Toàn Tri, vậy thì các đấng Như Lai là nên được tôn vinh như 
              thế nào? Chư Phật là không nên được tôn vinh như thế nào? Được 
              hỏi, xin Ngài hãy giảng cho con về điều ấy.”
               
              
              298. “Āraddhaviriye pahitatte niccaṃ 
              daḷhaparakkame, 
              samagge sāvake passe esā buddhānavandanā.” 
              “Bà 
              hãy nhìn xem các vị đệ tử là có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng 
              quyết, có sự nỗ lực mạnh mẽ một cách bền bĩ, có sự hòa hợp; ấy là 
              sự tôn vinh chư Phật.”
               
              
              299. Tato upassayaṃ gantvā ekikāhaṃ vicintayiṃ,
              
              samaggaṃ parisaṃ nātho roceti tibhavantago. 
              Từ nơi ấy, sau khi đi về 
              ni viện, chỉ có một mình tôi đã suy nghiệm rằng: “Đấng 
              Bảo Hộ, vị đi đến tận cùng Tam Giới hài lòng về tập thể có sự hòa 
              hợp.
               
              
              300. Handāhaṃ parinibbissaṃ mā vipattiṃ 
              tamaddasaṃ,” 
              evāhaṃ cintayitvāna disvāna isisattamaṃ. 
              
              Vậy thì ta sẽ Niết Bàn, ta chớ chứng kiến sự 
              băng hoại ấy.” Sau khi suy nghĩ 
              như thế, tôi đã diện kiến bậc Đệ Nhất Ẩn Sĩ.
               
              
              301. Parinibbānakālaṃ me ārocesiṃ vināyakaṃ,
              
              tato so samanuññāsi “Kālaṃ jānāhi gotamī.” 
              Tôi đã thông báo thời điểm 
              viên tịch Niết Bàn của tôi đến bậc Hướng Đạo. Sau đó, vị ấy đã 
              đồng ý rằng: “Này Gotamī, bà hãy biết 
              lấy thời điểm.”
               
              
              302. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              “Các 
              phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa 
              sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi 
              trói), con sống không còn lậu hoặc. 
               
              
              303. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              
              Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu 
              tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của 
              đức Phật tối thượng.
               
              
              304. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              
              Con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải 
              thoát, và sáu thắng trí; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.”
               
              
              305. Thīnaṃ dhammābhisamaye ye bālā vimatiṃ 
              gatā, 
              tesaṃ diṭṭhipahānatthaṃ iddhiṃ dassehi gotamī. 
              “Này 
              Gotamī, những kẻ ngu đi đến sự không chú tâm và sự trì trệ trong 
              việc lãnh hội Giáo Pháp, bà hãy thị hiện thần thông vì lợi ích cho 
              sự từ bỏ tà kiến của những kẻ ấy.”
               
              
              306. Tadā nipacca sambuddaṃ uppatitvāna 
              ambaraṃ, 
              iddhī anekā dassesi buddhānuññāya gotamī.
              Khi ấy, với sự cho phép 
              của đức Phật, bà Gotamī đã cúi mình (kính lễ) đấng Toàn Giác rồi 
              đã bay lên không trung và đã thị hiện nhiều loại thần thông.
               
              
              307. Ekikā bahudhā āsi bahukā cekikā tathā, 
              āvibhāvaṃ tirobhāvaṃ tirokuḍḍaṃ tironagaṃ. 
              
              308. Asajjamānā agamā bhūmiyampi nimujjatha,
              
              abhijjamāne udake agañchi mahiyā yathā. 
              Là một, bà đã trở thành 
              nhiều, và tương tợ như thế là nhiều trở thành một. Bà đã hiện ra, 
              biến mất, đi xuyên qua vách tường, xuyên qua ngọn núi không bị 
              chướng ngại. Bà cũng đã chìm vào trong trái đất. Bà đã đi ở trên 
              nước mà không làm chao động như là ở trên đất liền.
               
              
              309. Sakuṇīva yathākāse pallaṅkena gamī tadā,
              
              vasaṃ vattesi kāyena yāva brahmanivesanaṃ. 
              Khi ấy, bà đã di chuyển 
              với thế kiết già tương tợ như là loài chim ở trên không trung. 
              Bằng thân bà đã thể hiện sự tác động đến tận chỗ ngụ của đấng Phạm 
              Thiên.
               
              
              310. Sineruṃ daṇḍaṃ katvāna chattaṃ katvā 
              mahāmahiṃ, 
              samūlaṃ parivattetvā dhārentī caṅkamī nabhe. 
              Sau khi đã làm ngọn núi 
              Sineru thành cây cán lọng và đã làm đại địa cầu thành cái lọng 
              che, bà đã xoay ngược lại đến tận gốc rễ. Trong khi che lọng bà đã 
              đi kinh hành ở hư không.
               
              
              311. Chassūrodayakāleva lokañcākāsi dhūmikaṃ,
              
              yugante viya lokaṃ sā jālāmālākulaṃ akā. 
              Và bà đã làm thế gian mù 
              mịt khói đúng vào lúc mọc lên của sáu mặt trời. Bà đã gây rối ren 
              bằng những tràng hoa rực lửa như là thế gian vào lúc hoại kiếp.
              
               
              
              312. Mucalindaṃ mahāselaṃ meru mandāra daddare,
              
              sāsaperiva sabbāni ekenaggahi muṭṭhinā. 
              Về tảng đá khổng lồ 
              Mucalinda, núi Meru, núi Mandāra, và núi Daddara, bà đã nắm lấy 
              toàn bộ bằng một nắm tay như là (nắm lấy) những hạt cải.
               
              
              313. Aṅgulaggena chādesi bhākaraṃ sanisākaraṃ,
              
              candasūrasahassāni āvelamiva dhārayi. 
              Với đầu ngón tay bà đã che 
              khuất mặt trời cùng với mặt trăng. Bà đã nắm giữ một ngàn mặt 
              trăng và mặt trời như là (nắm giữ) tràng hoa đội đầu.
               
              
              314. Catusāgaratoyāni dhārayī ekapāṇinā, 
              yugantajaladākāraṃ mahāvassaṃ pavassayī. 
              Bà đã nắm giữ nước của bốn 
              bể bằng một bàn tay, đã làm đổ mưa trận mưa lớn có hình dáng của 
              đám mây đen vào lúc tận thế.
               
              
              315. Cakkavattiṃ saparisaṃ māpayī sā 
              nabhatthale. 
              garuḷaṃ dviradaṃ sīhaṃ vinadantaṃ ca dassayī. 
              Bà đã biến hóa thành vị 
              Chuyển Luân Vương cùng với tùy tùng ở bề mặt của không trung. Bà 
              đã khiến cho nhìn thấy loài kim-sỉ-điểu, loài voi, và loài sư tử 
              đang gầm rống.
               
              
              316. Ekikā abhinimmitvāppameyyaṃ 
              bhikkhunīgaṇaṃ, 
              puna antaradhāpetvā ekikā munimabravī: 
              Chỉ một mình, bà đã biến 
              hóa thành hội chúng tỳ khưu ni vô số kể sau đó lại làm cho biến 
              mất chỉ còn một mình, rồi đã nói với bậc Hiền Triết rằng: 
              
               
              
              317. “Mātucchā te mahāvīra tavasāsanakārikā,
              
              anuppattā sakaṃ atthaṃ pāde vandati cakkhuma.” 
              “Bạch 
              đấng Đại Hùng, bạch bậc Hữu Nhãn, người dì cùa Ngài, là người nữ 
              thực hành theo lời dạy của Ngài, đã đạt được lợi ích cho bản thân, 
              (xin) đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
               
              
              318. Dassetvā vividhā iddhī orohitvā 
              nabhatthalā, 
              vanditvā lokapajjotaṃ ekamantaṃ nisīdi sā. 
              Sau khi thị hiện nhiều thể 
              loại thần thông, vị ni ấy đã từ bề mặt của không trung đáp xuống 
              đảnh lễ đấng Quang Đăng của thế gian rồi đã ngồi xuống ở một bên.
              
               
              
              319. “Sā vīsaṃvassasatikājātiyāhaṃ mahāmune,
              
              
              alamettāvatā vīra nibbāyissāmi nāyaka.” 
              
              “Bạch 
              đấng Đại Hiền Triết, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính 
              từ lúc sanh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng 
              Lãnh Đạo, con sẽ Niết Bàn.” 
               
              
              320. Tadā ’tivimhitā sabbā parisā sā katañjalī,
              
              avoc’ ayye kathaṃ āsi atuliddhiparakkamā. 
              Khi ấy, toàn thể hội chúng 
              ấy vô cùng sửng sốt đã chắp tay lên nói rằng: “Thưa 
              ni sư, làm thế nào bà đã trở thành vị có thần thông và sự nỗ lực 
              không thể sánh bằng?”
               
              
              321. Padumuttaro nāma jino sabbadhammesu 
              cakkhumā, 
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn 
              về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              322. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātāmaccakule ahuṃ,
              
              sabbūpakārasampanne iddhe phīte mahaddhane. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình vị quan cận thần có đủ mọi thứ 
              tiện nghi, sung túc, thịnh vượng, có đại tài sản.
               
              
              323. Kadāci pitunā saddhiṃ dāsigaṇapurakkhatā,
              
              mahatā parivārena taṃ upecca narāsabhaṃ. 
              Có lần nọ, tôi đã dẫn đầu 
              nhóm nữ tỳ cùng người cha với đoàn tùy tùng đông đảo đi đến đấng 
              Nhân Ngưu ấy. 
               
              
              324. Vāsavaṃ viya vassentaṃ dhammameghaṃ 
              anāsavaṃ, 
              saradādiccasadisaṃ raṃsimālākulaṃ jinaṃ. 
              Tợ như vị (Thiên Vương) 
              Vāsava đang làm mưa, đấng Chiến Thắng, bậc không còn lậu hoặc, rực 
              rỡ với quầng hào quang giống như mặt trời của mùa thu, đang làm đổ 
              xuống cơn mưa Pháp.
               
              
              325. Disvā cittaṃ pasādetvā sutvā cassa 
              subhāsitaṃ, 
              mātucchaṃ bhikkhuniṃ agge ṭhapentaṃ naranāyakaṃ. 
              
              Sau khi nhìn thấy, tôi đã 
              khởi tâm tịnh tín và đã lắng nghe (Pháp) khéo được thuyết giảng 
              của vị đấng Lãnh Đạo nhân loại ấy khi Ngài đang thiết lập vị tỳ 
              khưu ni Mātucchā vào vị thế hàng đầu.
               
              
              326. Sutvā datvā mahādānaṃ sattāhaṃ tassa 
              tādino, 
              sasaṅghassa naraggassa paccayāni bahūni ca. 
              Sau khi lắng nghe và sau 
              khi đã cúng dường đại thí và nhiều vật dụng trong bảy ngày đến bậc 
              Tối Thượng Nhân như thế ấy cùng với hội chúng (của Ngài), ...
               
              
              327. Nipajja pādamūlamhi taṃ ṭhānaṃ 
              abhipatthayiṃ, 
              tato mahāparisatiṃ avoca isisattamo: 
              ... Tôi đã nằm dài xuống ở 
              bàn chân (Ngài) và đã phát nguyện vị thế ấy. Sau đó, vị Đệ Nhất Ẩn 
              Sĩ đã nói với đoàn tùy tùng đông đảo rằng: 
               
              
              328. “Yā sasaṅghaṃ abhojesi sattāhaṃ 
              lokanāyakaṃ, 
              tamahaṃ kittayissāmi suṇātha mama bhāsato. 
              “Người 
              nữ nào đã cúng dường vật thực đến vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với 
              hội chúng trong bảy ngày, Ta sẽ tán dương người nữ ấy. Các người 
              hãy lắng nghe Ta nói.
               
              
              329. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              330. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              gotamī nāma nāmena hessati satthusāvikā. 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ trở 
              thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp, 
              có tên là Gotamī. 
               
              
              331. Tassa buddhassa mātucchā jīvitāpādikā 
              ayaṃ, 
              rattaññūnañca aggattaṃ bhikkhunīnaṃ labhissati.” 
              
              
              Người nữ này sẽ là người dì nuôi dưỡng mạng 
              sống của vị Phật ấy và sẽ đạt được vị thế hạng nhất trong số các 
              tỳ khưu ni kỳ cựu.” 
               
              
              332. Taṃ sutvāna pamuditā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
              
              paccayehi upaṭṭhitvā tato kālakatā ahaṃ. 
              Sau khi nghe điều ấy, được 
              hoan hỷ, khi ấy tôi đã hộ độ đấng Chiến Thắng bằng các vật dụng 
              cho đến hết cuộc đời, sau đó đã từ trần. 
               
              
              333. Tāvatiṃsesu devesu sabbakāmasamiddhisu,
              
              nibbattā dasahaṅgehi aññe abhibhaviṃ ahaṃ. 
              Được sanh lên giữa chư 
              Thiên thuộc cõi Đạo Lợi có các sự dồi dào 
              về mọi dục lạc, tôi đã vượt trội các vị 
              (trời) khác về mười phương diện: 
               
              
              334. Rūpasaddehi gandhehi rasehi phusanehi ca,
              
              āyunāpi ca vaṇṇena sukhena yasasāpi ca. 
              Là các sắc, các thinh, các 
              hương, các vị, và các xúc, luôn cả tuổi thọ và sắc đẹp, sự an lạc 
              và luôn cả danh tiếng nữa.
               
              
              335. Tathevādhipateyyena adhigayha viroc’ ahaṃ,
              
              ahosiṃ amarindassa mahesī dayitā tahiṃ. 
              Với ưu thế như thế ấy, tôi 
              đã nổi bật và sáng chói. Tôi đã là hoàng hậu yêu dấu của vị Trời 
              Đế Thích ở tại nơi ấy.
               
              
              336. Saṃsāre saṃsarantīhaṃ kammavāyusameritā,
              
              kāsissa rañño visaye ajāyiṃ dāsagāmake. 
              Trong khi trôi nổi luân 
              hồi, bị dời chuyển dưới tác động của nghiệp, tôi đã được sanh ra ở 
              trong ngôi làng dân nô lệ thuộc lãnh địa của đức vua Kāsi.
               
              
              337. Pañcadāsasatānūnā nivasanti tahiṃ tadā,
              
              sabbesaṃ tattha yo jeṭṭho tassa jāyā ahos’ ahaṃ. 
              
              Khi ấy, có không dưới năm 
              trăm người nô lệ cư ngụ ở tại nơi ấy. Ở nơi ấy, người nào là đứng 
              đầu của tất cả (nhóm người nô lệ), tôi đã trở thành vợ của người 
              ấy.
               
              
              338. Sayambhuno pañcasatā gāmaṃ piṇḍāya 
              pāvisuṃ, 
              te disvāna ahaṃ tuṭṭhā saha sabbehi ñātihi. 
              Năm trăm bậc Tự Chủ đã đi 
              vào làng để khất thực. Sau khi nhìn thấy những vị ấy, tôi đã vui 
              mừng cùng với tất cả thân quyến.
               
              
              339. Katvā pañcasatakuṭī catumāse upaṭṭhiya,
              
              ticīvarāni datvāna pasannāmha sasāmikā. 
              Sau khi đã xây dựng năm 
              trăm cốc liêu, đã hộ độ trong bốn tháng, đã cúng dường ba y, chúng 
              tôi cùng với những người chồng đã hoan hỷ.
               
              
              340. Tato cutā sapatikā tāvatiṃsagatā mayaṃ,
              
              pacchime ca bhave ’dāni jātā devadahe pure. 
              Từ nơi ấy chết đi, chúng 
              tôi cùng với những người chồng đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Và 
              trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, chúng tôi đã được sanh về 
              thành phố Devadaha.
               
              
              341. Pitā añjanasakko me mātā mama sulakkhaṇā,
              
              tato kapilavatthusmiṃ suddhodanagharaṃ gatā. 
              Cha của tôi là Añjana 
              thuộc dòng Sakya, mẹ của tôi là (hoàng hậu) Sulakkhaṇā. Sau đó, 
              tôi đã đi đến nhà (làm vợ) của (đức vua) Suddhodana ở thành 
              Kapilavatthu. 
               
              
              342. Sesā sakyakule jātā sakyānaṃ gharamāgamuṃ,
              
              ahaṃ visiṭṭhā sabbāsaṃ jinassāpādikā ahuṃ. 
              Những người còn lại đã 
              được sanh vào gia tộc Sakya, đã đi đến nhà (làm vợ) của các vị 
              dòng Sakya. Là ưu việt trong số tất cả, tôi đã là người bảo mẫu 
              của đấng Chiến Thắng. 
               
              
              343. Mama putto ’bhinikkhamma buddho āsi 
              vināyako, 
              pacchāhaṃ pabbajitvāna satehi saha pañcahi. 
              Người con trai của tôi sau 
              khi lìa bỏ ra đi đã trở thành đức Phật, bậc Hướng Đạo. Về sau, tôi 
              đã xuất gia cùng với năm trăm vị (công nương).
               
              
              344. Sākiyānihi dhīrāhi saha santisukhaṃ 
              phusiṃ, 
              ye tadā pubbajātiyaṃ amhākaṃ ahu sāmino. 
              Cùng với các công nương 
              dòng Sakya, tôi đã chạm đến sự an lạc của Niết Bàn. Khi ấy, những 
              người nào đã là chồng của chúng tôi trong cuộc sống trước đây, …
               
              
              345. Saha puññassa kattāro mahāsamayakārakā,
              
              phusiṃsu arahattaṃ te sugatenānukampitā. 
              … những người cùng thực 
              hiện phước báu, những người đã tạo ra thời điểm trọng đại, được 
              đấng Thiện Thệ thương tưởng những người ấy đã chạm đến quả vị 
              A-la-hán.
               
              
              346. Tadetarā bhikkhuniyo āruhiṃsu 
              nabhatthalaṃ, 
              saṅgatā viya tārāyo virociṃsu mahiddhikā. 
              Khi ấy, các vị tỳ khưu ni 
              kia đã ngự lên bề mặt của không trung. Có đại thần lực, các vị ni 
              đã chói sáng như là các vì sao đã được quần tụ lại.
               
              
              347. Iddhī anekā dassesuṃ piḷandhavikatī yathā,
              
              kammāro kanakasseva kammaññassa susikkhito. 
              Các vị ni đã thị hiện 
              nhiều loại thần thong, tương tợ như những thợ vàng khéo được huấn 
              luyện đã làm ra nhiều mẫu mã trang sức đối với kim loại vàng đã 
              được chế biến. 
               
              
              348. Dassetvā pāṭihīrāni vicittāni bahūni ca,
              
              tosetvā vādipavaraṃ muniṃ saparisaṃ tadā. 
              Khi ấy, các vị ni đã thị 
              hiện các phép lạ đa dạng nhiều loại và đã làm hoan hỷ đấng Hiền 
              Triết, vị thuyết giảng hàng đầu, cùng với đồ chúng. 
               
              
              349. Orohitvāna gaganā vanditvā isisattamaṃ,
              
              anuññātā naraggena yathāṭhāne nisīdisuṃ. 
              Sau khi từ không trung đáp 
              xuống, các vị ni đã đảnh lễ bậc Ẩn Sĩ tối thượng. Được sự cho phép 
              của đấng Tối Thượng Nhân, các vị ni đã ngồi xuống đúng theo vị thế 
              (nói rằng): 
               
              
              350. “Aho ’nukampikā amhaṃ sabbāsaṃ vīra 
              gotamī, 
              vāsitā tava puññehi pattā no āsavakkhayaṃ. 
              “Ôi! 
              Bạch đấng Anh Hùng, bà Gotamī là người có lòng từ mẫn đối với tất 
              cả chúng con. Được sống nhờ vào những phước báu của Ngài, chúng 
              con đã đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.
               
              
              351. Kilesā jhāpitā amhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
              
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāma anāsavā. 
              
              Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, 
              tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như 
              là những con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn 
              lậu hoặc. 
               
              
              352. Svāgataṃ vata no āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              
              Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã 
              thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự 
              hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              353. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              
              Chúng con đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám 
              giải thoát, và sáu thắng trí; chúng con đã thực hành lời dạy của 
              đức Phật.
               
              
              354. Iddhīsu ca vasī homa dibbāya sotadhātuyā,
              
              cetopariyañāṇassa vasī homa mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, chúng con đã có năng 
              lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng 
              lực về trí biết tâm của người khác.
               
              
              355. Pubbe nivāsaṃ jānāma dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo. 
              
              Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên 
              nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ 
              đây không còn tái sanh nữa.
               
              
              356. Atthe ca dhamme nerutte paṭibhāne ca 
              vijjati, 
              ñāṇaṃ amhaṃ mahāvīra uppannaṃ tava santike. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý 
              nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và về phép biện giải là được phát 
              hiện, được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
              
               
              
              357. Asmāhi pariciṇṇo ’si mettacittāhi nāyaka,
              
              anujānāhi sabbāsaṃ nibbānāya mahāmune.” 
              
              Bạch đấng Lãnh Đạo, Ngài đã hành sử đối với 
              chúng con bằng các từ tâm. 
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, xin Ngài cho phép về 
              việc Niết Bàn đến tất cả (chúng con).”
               
              
              358. “Nibbāyissāma iccevaṃ kiṃ vakkhāmi 
              vadantiyo, 
              yassadāni ca vo kālaṃ maññāthā’ti jino ’bravi. 
              Đấng Chiến Thắng đã nói 
              rằng: “Khi các nàng nói: ‘Chúng con sẽ 
              Niết Bàn,’ như thế thì Ta còn nói điều gì nữa. Vậy thì giờ đây, 
              các nàng hãy suy nghĩ về thời điểm của các nàng.”
               
              
              359. Gotamī ādikā tāyo tadā bhikkhuniyo jinaṃ,
              
              vanditvā āsanā tamhā vuṭṭhāya agamaṃsu tā. 
              Khi ấy, các vị tỳ khưu ni 
              ấy đứng đầu là Gotamī, v.v... đã đảnh lễ đấng Chiến Thắng rồi đã 
              từ chỗ ngồi ấy đứng dậy và các vị ni ấy đã ra đi.
               
              
              360. Mahatā janakāyena saha lokagganāyako, 
              anusaṃyāyi so vīro mātucchaṃ yāva koṭṭhakaṃ. 
              Bậc Anh Hùng ấy, vị Lãnh 
              Đạo tối cao của thế gian cùng với đại chúng đông đảo đã cùng đi 
              theo người dì cho đến tận cổng.
               
              
              361. Tadā nipati pādesu gotamī lokabandhuno,
              
              sahetarāhi sabbāhi pacchimaṃ pādavandanaṃ. 
              Khi ấy, bà Gotamī đã cúi 
              xuống ở các bàn chân của đấng Quyến Thuộc thế gian, là sự đảnh lễ 
              bàn chân lần cuối cùng với tất cả các vị ni kia. 
               
              
              362. “Idaṃ pacchimakaṃ mayhaṃ lokanāthassa 
              dassanaṃ, 
              na puno amatākaraṃ passissāmi mukhaṃ tava. 
              "Đây 
              là lần nhìn thấy đấng Bảo Hộ Thế Gian lần cuối cùng của con. Con 
              sẽ không còn nhìn thấy lại khuôn mặt của Ngài là nguồn phát sanh 
              lên sự bất tử. 
               
              
              363. Na ca me vandanaṃ vīra tava pāde sukomale,
              
              samphusissāmi lokagga ajja gacchāmi nibbutiṃ. 
              
              Và bạch đấng Anh Hùng, (đây) không phải là sự 
              đảnh lễ của con ở bàn chân vô cùng mềm mại của ngài. Bạch đấng Tối 
              Cao của thế gian, con sẽ sờ nắn (chúng); hôm nay con đi đến nơi an 
              tịnh.
               
              
              364. Rūpena kiṃ tavānena diṭṭhe dhamme 
              yathātathe, 
              sabbaṃ saṅkhatamevetaṃ anassāsitamittaraṃ.” 
              
              Có gì với sắc tướng này của Ngài khi pháp đã 
              được thấy đúng theo bản thể?
              Toàn bộ sắc tướng này chỉ là hữu vi, 
              không được thoải mái, là tạm bợ.” 
               
              
              365. Sā tāhi saha gantvāna bhikkhunupassayaṃ 
              sakaṃ, 
              aḍḍhapallaṅkamābhujja nisīdi paramāsane. 
              Sau khi đi về tu viện tỳ 
              khưu ni của mình cùng với các vị ni ấy, bà Gotamī đã xếp chân bán 
              già ngồi xuống ở trên chỗ ngồi cao nhất. 
               
              
              366. Tadā upāsikā tattha buddhasāsanavacchalā,
              
              tassā pavattiṃ sutvāna upesuṃ pādavandikā. 
              Khi ấy, các nữ cư sĩ mến 
              chuộng Phật Pháp ở tại nơi ấy, sau khi nghe được tin tức về bà ấy 
              đã đi đến đảnh lễ ở bàn chân. 
               
              
              367. Karehi uraṃ pahantvā chinnamūlā yathā 
              latā, 
              rodantā karuṇaṃ rāvaṃ sokaṭṭā bhūmipātikā. 
              Bị dằn vặt vì sầu muộn, họ 
              đã đấm vào ngực bằng những bàn tay. Rồi giống như là các dây leo 
              bị chặt đứt gốc rễ, họ đã ngã xuống ở trên đất trong khi nức nở 
              tiếng khóc lóc thảm thương rằng: 
               
              
              368. “Mā no saraṇade nāthe vihāya gami 
              nibbutiṃ, 
              nipatitvāna yācāma sabbāyo sirasā mayaṃ.” 
              “Hỡi 
              người ban bố sự nương nhờ, hỡi người bảo hộ, xin người đừng từ bỏ 
              chúng con mà đi đến nơi an tịnh. Toàn thể người nữ chúng con quỳ 
              xuống đê đầu thỉnh cầu (người).” 
               
              
              369. Yā padhānatamā tāsaṃ saddhā paññā upāsikā,
              
              tassā sīsaṃ pamajjantī idaṃ vacanamabravi: 
              Trong khi xoa đầu của 
              người nữ cư sĩ có sự nỗ lực cao nhất, có tín tâm, có trí tuệ trong 
              số ấy, bà Gotamī đã nói lời nói này: 
               
              
              370. “Alaṃ puttā visādena mārapāsānuvattinā,
              
              aniccaṃ saṅkhataṃ sabbaṃ viyogantaṃ calācalaṃ.” 
              “Này 
              các con, thôi đủ rồi bởi vì thất vọng là sự xoay vần theo mưu kế 
              của Ma Vương. Tất cả pháp hữu vi là vô thường, sự chia lìa và sự 
              tử vong là không chừng đổi.”
               
              
              371. Tato sā tā vissajjitvā paṭhamaṃ 
              jhānamuttamaṃ, 
              dutiyaṃ tatiyaṃ cāpi samāpajji catutthakaṃ. 
              Sau đó, bà ấy đã giã từ 
              những người nữ ấy rồi đã thể nhập bậc thiền tối thượng thứ nhất, 
              thứ nhì, thứ ba, và luôn cả bậc thứ tư. 
               
              
              372. Ākāsāyatanañceva viññāṇāyatanaṃ tathā, 
              ākiñcaññaṃ nevasaññaṃ samāpajji yathākkamaṃ. 
              Tương tợ như thế, theo 
              tuần tự bà đã thể nhập không gian xứ, thức xứ, vô sở hữu, phi 
              tưởng. 
               
              
              373. Paṭilomena jhānāni samāpajjittha gotamī,
              
              yāvatā paṭhamaṃ jhānaṃ tato yāva catutthakaṃ. 
              Bà Gotamī đã thể nhập các 
              bậc thiền theo chiều nghịch về lại bậc thiền thứ nhất, rồi từ đó 
              tiến đến bậc thứ tư. 
               
              
              374. Tato vuṭṭhāya nibbāyi dīpaccīva nirāsanā,
              
              bhūmicālo mahā āsi nabhasā vijjutā pati. 
              Từ đó bà đã xuất ra và đã 
              Niết Bàn tợ như ngọn lửa của cây đèn cạn dầu. Đã có sự chuyển động 
              của trái đất dữ dội, sét đã giáng xuống từ bầu trời. 
               
              
              375. Panāditā dundubhiyo parideviṃsu devatā,
              
              pupphavuṭṭhi ca gaganā abhivassatha mediniṃ. 
              Các tiếng trống đã được 
              vang lên, chư thiên đã than vãn, và cơn mưa bông hoa từ bầu trời 
              đã đổ xuống trái đất.
               
              
              376. Kampito merurājāpi raṅgamajjhe yathā naṭo,
              
              sokenevātidīno ca viravo āsi sāgaro. 
              Ngọn núi chúa Meru cũng đã 
              rung động tương tợ như người vũ công ở giữa sàn nhảy. Chính vì sầu 
              muộn, biển cả đã có sự gào thét vô cùng thảm thiết.
               
              
              377. Devā nāgāsurā brahmā saṃvigg’ āhaṃsu 
              taṅkhaṇe: 
              “Aniccā vata saṅkhārā yathāyaṃ vilayaṃ gatā. 
              Vào giây phút ấy, chư 
              Thiên, các Long Vương, Atula, và đấng Phạm Thiên bị chấn động đã 
              thốt lên rằng: “Các pháp hữu vi quả 
              thật là vô thường, vị ni này đã đi đến hoại diệt là thế ấy.
              
               
              
              378. Yā c’ emaṃ parivāriṃsu satthusāsanakārikā,
              
              tāyo ’pi anupādānā dīpaccī viya nibbutā.” 
              
              Và các vị ni nào là những người thực hành theo 
              lời dạy của bậc Đạo Sư đã tháp tùng vị ni này, các vị ni ấy cũng 
              không còn chấp thủ, như là ngọn lửa của cây đèn đã bị lụi tàn.”
               
              
              379. “Hā yogā vippayogantā hāniccaṃ 
              sabbasaṅkhataṃ, 
              hā jīvitaṃ vināsantaṃ” iccāsi paridevanā. 
              Và đã có sự than vãn rằng: 
              “Chao ôi! Các sự hội tụ có sự chia lìa 
              là điểm kết thúc. Chao ôi! Tất cả pháp hữu vi là vô thường. Chao 
              ôi! Cuộc sống có sự hoại diệt là điểm kết thúc.”
               
              
              380. Tato devā ca brahmā ca 
              lokadhammānuvattanaṃ,
              kālānurūpaṃ kubbanti upetvā isisattamaṃ. 
              Sau đó, chư Thiên và đấng 
              Phạm Thiên (đã) tiến hành công việc thuận theo pháp thế gian, đúng 
              thời điểm, rồi đã đi đến gần vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ.
               
              
              381. Tadā āmantayī satthā ānandaṃ sutisāgaraṃ,
              
              “Gacchānanda nivedehi bhikkhūnaṃ mātunibbutiṃ.” 
              Khi ấy, bậc Đạo Sư đã bảo 
              ngài Ānanda là vị có sự học ví như biển cả rằng: “Này 
              Ānanda, hãy đi thông báo đến các tỳ khưu về việc Niết Bàn của mẹ.”
               
              
              382. Tad’ ānando nirānando assunā puṇṇalocano,
              
              gaggadena sarenāha “Samāgacchantu bhikkhavo. 
              Khi ấy, ngài Ānanda, không 
              còn nét hân hoan,[8] 
              mắt đẫm lệ, đã nói với giọng nói nghẹn ngào rằng: “Hỡi 
              chư tỳ khưu, hãy cùng nhau đi đến.
               
              
              383. Pubbadakkhiṇapacchāsu uttarāyaṃ vasanti 
              ye, 
              suṇantu bhāsitaṃ mayhaṃ bhikkhavo sugatorasā. 
              
              Hỡi chư tỳ khưu là các đệ tử của đấng Thiện Thệ 
              đang ngụ ở các hướng đông, nam, tây, bắc, xin hãy lắng nghe lời 
              nói của tôi. 
               
              
              384. Yā vaḍḍhayi payattena sarīraṃ pacchimaṃ 
              mune, 
              sā gotamī gatā santiṃ tārāva suriyodaye. 
              
              Bà gotamī ấy, người đã 
              ra sức nuôi dưỡng xác thân cuối 
              cùng của đấng Hiền 
              Triết, 
              đã 
              đi 
              đến nơi 
              an tịnh như
              là vì sao vào lúc ló dạng 
              của mặt 
              trời.
               
              
              385. Buddhamātāti paññattiṃ ṭhapayitvā 
              gatāsamaṃ, 
              na yattha pañcanettopi gataṃ dakkhati nāyako. 
              
              Sau khi đã thiết lập danh xưng cho vị ni đã ngự 
              đến Niết Bàn là “Người Mẹ của đức Phật,” đấng Lãnh Đạo, dầu là bậc 
              Ngũ Nhãn, cũng không nhìn thấy nơi nào là nơi (bà) đã đi đến.
               
              
              386. Yassatthi sugate saddhā yo ca piyo 
              mahāmune, 
              
              buddhamātarī sakkāraṃ karotu sugatoraso.”
              
              
              Vị 
              nào có niềm tin 
              vào đấng Thiện 
              Thệ, và vị
              nào yêu quý bậc
              Đại Hiền 
              Triết, xin vị 
              đệ tử 
              của 
              đấng Thiện 
              Thệ hãy thể 
              hiện sự 
              tôn kính đối với 
              người mẹ của đức Phật.”
               
              
              387. Sudūraṭṭhāpi taṃ sutvā sīghamāgañchu 
              bhikkhavo, 
              keci buddhānubhāvena keci iddhisu kovidā. 
              Sau nghe được điều ấy, các vị 
              tỳ khưu thậm chí từ quốc độ vô cùng xa xôi đã nhanh chóng đi đến, 
              một số vị là nhờ vào năng lực của đức Phật, một số vị là được 
              thuần thục về các thần thông. 
               
              
              388. Kūṭāgāravare ramme sabbasoṇṇamaye subhe,
              
              mañcakaṃ samaropesuṃ yattha suttāsi gotamī. 
              Ở trong ngôi nhà mái nhọn 
              cao quý đáng yêu toàn bộ làm bằng vàng sáng chói, các vị đã cùng 
              nhau sắp đặt chiếc giường nhỏ là nơi bà Gotamī an nghỉ.
               
              
              389. Cattāro lokapālā te aṃsehi samadhārayuṃ,
              
              sesā sakkādayo devā kūṭāgāre samaggahuṃ. 
              Bốn vị (Trời) hộ trì thế 
              gian ấy đã cùng nhau gánh vác bằng những bả vai. Chư Thiên còn lại 
              như là (vua trời) Sakka, v.v... đã cùng nhau khiêng các ngôi nhà 
              mái nhọn.
               
              
              390. Kūṭāgārāni sabbāni āsuṃ pañcasatānipi, 
              saradādiccavaṇṇāni vissakammakatāni hi. 
              Toàn bộ đã có đến năm trăm 
              ngôi nhà mái nhọn có màu sắc như ánh mặt trời vào mùa thu đều đã 
              được tạo nên bởi vị trời Vissakamma.
               
              
              391. Sabbāpi tā bhikkhuniyo āsuṃ mañcesu 
              sāyitā, 
              devānaṃ khandhamāruḷhā niyyanti anupubbaso. 
              Toàn thể các vị tỳ khưu ni 
              ấy đã được đặt nằm trên những chiếc giường được nâng lên đặt ở vai 
              của chư Thiên rồi được tuần tự rước đi. 
               
              
              392. Sabbaso chāditaṃ āsi vitānena 
              nabhatthalaṃ, 
              satārā candasuriyā lañchitā kanakāmayā. 
              Bề mặt không trung đã được 
              che phủ toàn bộ bằng mái che. Mặt trăng, mặt trời, cùng các vì sao 
              đã được ghi dấu hiệu bằng vàng.
               
              
              393. Patākā ussitā nekā vitatā pupphakañcukā,
              
              ogatākāsapadumā mahiyā pupphamuggataṃ. 
              Vô số ngọn cờ đã được dựng 
              lên, các tấm màn hoa đã được trải rộng, từ trên không trung những 
              đóa hoa sen đã rơi xuống, ở trên mặt đất là bông hoa đã được vun 
              cao.
               
              
              394. Dissanti candasuriyā pajjalanti ca tārakā,
              
              majjhaṃgatopi cādicco na tāpeti sasī yathā. 
              Mặt trăng và mặt trời được 
              nhìn thấy và các vì sao lấp lánh. Và mặt trời dầu đã đi đến chính 
              ngọ nhưng không làm cho nóng bức, tợ như là mặt trăng vậy.
               
              
              395. Devā dibbehi gandhehi mālehi surabhīhi ca,
              
              vāditehi ca naccehi saṅgītīhi ca pūjayuṃ. 
              Chư Thiên đã cúng dường 
              bằng các hương thơm ở cõi trời, những tràng hoa thơm ngát, các 
              khúc nhạc, những điệu vũ, và các bản đồng ca. 
               
              
              396. Nāgā surā ca brahmāno yathāsatti 
              yathābalaṃ, 
              pūjāyiṃsu ca nīyantiṃ nibbutaṃ buddhamātaraṃ. 
              Và các vị Long Vương, chư 
              Thiên, và các Phạm Thiên tùy theo khả năng, tùy theo sức lực đã 
              cúng dường người mẹ của đức Phật đã Niết Bàn đang được rước đi.
              
               
              
              397. Sabbāyo purato nītā nibbutā sugatorasā,
              
              gotamī nīyate pacchā sakkatā buddhapositā. 
              Toàn bộ các vị ni đệ tử 
              của đấng Thiện Thệ đã tịch diệt là được rước đi ở phía trước, bà 
              Gotamī, người đã nuôi dưỡng đức Phật, được kính trọng, đã được 
              rước đi phía sau.
               
              
              398. Purato devamanujā sanāgāsurabrahmakā, 
              pacchā sasāvako buddho pūjatthaṃ yāti mātuyā. 
              Chư Thiên và nhân loại 
              cùng với các Long Vương, A-tu-la, Phạm Thiên là ở phía trước, đức 
              Phật cùng các vị Thinh Văn đi ở phía sau nhằm mục đích tôn vinh 
              người mẹ. 
               
              
              399. Buddhassa parinibbānaṃ nedisaṃ āsi 
              yādisaṃ, 
              gotamī parinibbānaṃ atīvacchariyaṃ ahu. 
              Lễ viên tịch Niết Bàn của 
              đức Phật đã là như thế nào chứ không được như thế này, lễ viên 
              tịch Niết Bàn của bà Gotamī đã là vô cùng phi thường. 
               
              
              400. Buddho buddhassa nibbāne nopadissati 
              bhikkhavo, 
              buddho gotaminibbāne sāriputtādikā tathā. 
              Ở lễ Niết Bàn của đức 
              Phật, đức Phật không hiện diện (chỉ có) các vị tỳ khưu. Ở lễ Niết 
              Bàn của bà Gotamī có đức Phật cũng như có các vị Sāriputta, v.v...
               
              
              401. Citakāni karitvāna sabbagandhamayāni te,
              
              gandhacuṇṇāvakiṇṇāni jhāpayiṃsu ca tā tahiṃ. 
              Các vị ấy đã thực hiện các 
              giàn hỏa thiêu được làm bằng tất cả các loại vật thơm, được rải 
              rắc các loại bột phấn thơm, rồi đã hỏa thiêu bà ở nơi đó.
               
              
              402. Sesabhāgāni ḍayhiṃsu aṭṭhisesāni sabbaso,
              
              ānando ca tadāvoca saṃvegajananaṃ vaco: 
              Các phần còn sót lại đã 
              được đốt cháy toàn bộ, toàn bộ phần còn lại là các hạt xương. Và 
              khi ấy, ngài Ānanda đã nói lời nói khơi dậy nỗi chấn động:
               
              
              403. “Gotamī nidhanaṃ yātā daḍḍhaṃ cassā 
              sarīrakaṃ, 
              saṅke ’haṃ buddhanibbānaṃ na cirena bhavissati.” 
              
              “Bà 
              Gotamī đã đi đến sự yên nghỉ, và thi thể của bà ấy đã được thiêu 
              đốt. Tôi e rằng sự Niết Bàn của đức Phật sẽ là không lâu.”
               
              
              404. Tato gotamidhātūni tassā pattagatāni so,
              
              upanāmesi nāthassa ānando buddhacodito. 
              Sau đó, được đức Phật 
              khuyên bảo vị Ānanda ấy đã dâng lên đấng 
              Bảo Hộ các xá-lợi của bà Gotamī đã được đặt vào trong bình bát của 
              bà ấy.  
               
              
              405. Pāṇinā tāni paggayha avoca isisattamo: 
              “Mahato sāravantassa yathā rukkhassa tiṭṭhato. 
              Sau khi đã nhận lấy các 
              xá-lợi bằng bàn tay, vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói rằng: “So 
              sánh với thân cây to lớn có lõi đang đứng thẳng, ...
               
              
              406. Yo so mahattaro khandho palujjeyya 
              aniccatā, 
              tathā bhikkhunīsaṅghassa gotamī parinibbutā. 
              ...
              giống cây nào dầu có thân lớn hơn vẫn 
              bị ngã xuống bởi vì tính chất vô thường, tương tợ như thế bà 
              Gotamī của hội chúng tỳ khưu ni đã viên tịch Niết Bàn.
               
              
              407. Aho acchariyaṃ mayhaṃ nibbutāyapi mātuyā,
              
              sarīramattasesāya natthi sokapariddavo. 
              
              Ôi! Quả là ngạc nhiên đối với Ta ngay cả trong 
              sự Niết Bàn của người mẹ chỉ còn lại phần nhỏ về xá-lợi, không có 
              gì sầu muộn hay than vãn.
               
              
              408. Na sociyā paresaṃ sā tiṇṇasaṃsārasāgarā,
              
              parivajjitasantāpā sītibhūtā sunibbutā. 
              
              Những người khác không có gì phải sầu khổ, bà 
              ấy có biển cả luân hồi đã được vượt qua, sự bực bội đã lìa, được 
              trạng thái mát mẻ, đã Niết Bàn tốt đẹp.
               
              
              409. Paṇḍitāsi mahāpaññā puthupaññā tatheva ca,
              
              rattaññū bhikkhunīnaṃ sā evaṃ dhāretha bhikkhavo. 
              
              
              Bà đã là vị thông thái có tuệ vĩ đại, và tương 
              tợ như thế ấy bà là vị có tuệ bao quát, là vị kỳ cựu trong số các 
              tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, các ngươi hãy ghi nhận như thế ấy.
               
              
              410. Iddhiyā ca vasī āsi dibbāya sotadhātuyā,
              
              cetopariyañāṇassa vasī āsi ca gotamī. 
              
              Bà Gotamī đã có năng lực về thần thông, về 
              thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
              
              
               
              
              411. Pubbe nivāsaṃ aññāsi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              sabbāsavaparikkhīṇā natthi tassā punabbhavo. 
              
              Bà đã biết được đời sống trước đây, thiên nhãn 
              đã được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đối với 
              bà ấy không còn tái sanh nữa.
              
               
              
              412. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
              
              parisuddhaṃ ahu ñāṇaṃ tasmā socaniyā na sā. 
              
              Bà ấy đã có được trí hoàn toàn thanh tịnh về ý 
              nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện 
              giải; vì thế không nên sầu muộn.
               
              
              413. Ayoghanahatasseva jalato jātavedaso, 
              anupubbūpasantassa yathā na ñāyate gati. 
              
              Giống như đối với ngọn lửa cháy sáng hủy hoại 
              luôn cả chiếc búa sắt (nhưng khi) đã được dập tắt theo tuần tự thì 
              nơi đi đến cũng không được biết.
               
              
              414. Evaṃ sammā vimuttānaṃ 
              kāmabandhoghatārinaṃ, 
              paññāpetuṃ gati natthi pattānaṃ acalaṃ padaṃ. 
              
              Tương tợ như vậy, đối với những người đã được 
              giải thoát đúng đắn, có sự vượt qua dòng lũ ràng buộc của các dục 
              lạc, đã đạt được vị thế bất động thì không còn cảnh giới tái sanh 
              nào đế nhận biết nữa. 
               
              
              415. Attadīpā tato hotha satipaṭṭhānagocarā,
              
              bhāvetvā sattabojjhaṅge dukkhassantaṃ karissathā’ti. 
              
              
              Do đó, các ngươi hãy là hòn đảo của chính bản 
              thân, có hành xứ là các sự thiết lập niệm. Sau khi tu tập bảy chi 
              phần giác ngộ, các ngươi sẽ làm chấm dứt sự khổ đau.”
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Mahāpajāpatigotamī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Vị tỳ khưu ni Mahāpajāpatigotamī đã nói lên những lời kệ này như 
              thế ấy.
               
              
              Mahāpajāpatigotamītheriyāpadānaṃ sattamaṃ.
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Mahāpajāpatigotamī là phần thứ bảy.
              --ooOoo--
              
              18. 
              Khemāpadānaṃ 
              18. Ký Sự về Khemā:
                
              
              416. Padumuttaranāmajino sabbadhammesu 
              cakkhumā, 
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn 
              về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              417. Tadā ’haṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule 
              ahuṃ, 
              nānāratanapajjote mahāsukhasamappitā. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô 
              số châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.
               
              
              418. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ 
              dhammadesanaṃ, 
              tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ. 
              Tôi đã đi đến đấng Đại 
              Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín 
              sanh khởi, tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.
               
              
              419. Mātaraṃ pitaraṃ cāpi āyācitvā vināyakaṃ,
              
              nimantayitvā sattāhaṃ bhojayiṃ sahasāvakaṃ. 
              Và tôi cũng đã yêu cầu mẹ 
              cha rồi đã thỉnh mời đấng Hướng Đạo cùng với các vị Thinh Văn và 
              đã cung ứng vật thực trong bảy ngày. 
               
              
              420. Atikkante ca sattāhe mahāpaññānamuttamaṃ,
              
              bhikkhuniṃ etadaggamhi ṭhapesi narasārathi. 
              Và khi bảy ngày đã trôi 
              qua, đấng Điều Ngự Trượng Phu đã thiết lập vị tỳ khưu ni đứng đầu 
              trong số các vị ni có đại trí tuệ vào vị thế tối thắng. 
              
               
              
              421. Taṃ sutvā muditā hutvā puno tassa 
              mahesino, 
              kāraṃ katvāna taṃ ṭhānaṃ paṇipacca paṇidahiṃ. 
              Sau khi được nghe điều ấy, 
              trở nên hoan hỷ, tôi đã thể hiện sự tôn kính đến bậc Đại Ẩn Sĩ ấy 
              lần nữa rồi đã nằm dài xuống và đã phát nguyện vị thế ấy. 
              
               
              
              422. Tato maṃ sa jino āha “Sijjhataṃ paṇidhi 
              tava, 
              
              sasaṅghe me kataṃ kāraṃ appameyyaphalaṃ tayā.
              
              Do đó, đấng Chiến Thắng ấy 
              đã nói với tôi rằng: “Điều phát nguyện 
              của nàng (sẽ) được thành tựu. Sự tôn kính đã được nàng thực hiện ở 
              nơi Ta cùng với hội chúng là có quả báu vô lượng.
               
              
              423. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              424. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              ekadaggaṃ anuppattā khemā nāma bhavissasi.” 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ có tên 
              là Khemā, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh 
              thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, được đạt đến vị trí hạng nhất.
              
               
              
              425. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsūpagā ahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              426. Tato cutā yāmamagaṃ tato ’haṃ tusitaṃ 
              gatā, 
              tato ca nimmāṇaratiṃ vasavattipuraṃ tato. 
              Từ nơi ấy chết đi, tôi đã 
              đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó 
              đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
               
              
              427. Yattha yatthūppajjāmi tassa kammassa 
              vāhasā, 
              tattha tattheva rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Do tác động của nghiệp ấy, 
              ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi 
              chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
               
              
              428. Tato cutā manussatte rājūnaṃ 
              cakkavattīnaṃ, 
              maṇḍalīnañca rājūnaṃ mahesittamakārayiṃ. 
              Từ nơi ấy chết đi (sanh) 
              vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của 
              các vị Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.
              
               
              
              429. Sampattiṃ anubhotvāna dese manujesu ca,
              
              sabbattha sukhitā hutvā nekakappesu saṃsiriṃ. 
              Tôi đã thọ hưởng sự thành 
              đạt ở giữa chư thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các 
              nơi, và đã luân hồi trong nhiều kiếp.
               
              
              430. Ekanavute ito kappe vipassī lokanāyako,
              
              uppajji cārunayano sabbadhammavipassako. 
              Trước đây chín mươi mốt 
              kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, vị 
              thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi. 
               
              
              431. Tamahaṃ lokanāyakaṃ upetvā narasārathiṃ,
              
              dhammaṃ paṇītaṃ sutvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ. 
              Tôi đã đi đến gặp vị Lãnh Đạo 
              thế gian, đấng Điều Ngự Trượng Phu ấy. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp 
              cao quý, tôi đã xuất gia vào cuộc sống 
              không gia đình. 
               
              
              432. Dasavassasahassāni tassa vīrassa sāsane,
              
              brahmacariyaṃ caritvāna yuttayogā bahussutā. 
              Sau khi thực hành Phạm hạnh 
              trong Giáo Pháp của đấng Anh Hùng ấy mười ngàn năm, tôi đã gắn bó 
              vào thiền tập, có sự nghe nhiều (học rộng).
               
              
              433. Paccayākārakusalā catusaccavisāradā, 
              nipuṇā cittakathikā satthusāsanakārikā. 
              Là vị thiện xảo về các 
              biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), có niềm tự tín ở bốn Sự 
              Thật, khôn khéo là vị thuyết giảng hay, là người thực hành theo 
              lời dạy của bậc Đạo Sư.
               
              
              434. Tato cutāhaṃ tusitaṃ upapannā yasassinī,
              
              
              abhibhosiṃ tahiṃ aññe brahmacariyaphalen’ ahaṃ.
              
              Từ nơi ấy chết đi, tôi đã 
              đạt đến cõi trời Đẩu Suất, là tiên nữ có danh tiếng. Tại nơi ấy, 
              tôi đã vượt trội những người khác nhờ vào quả báu của việc hành 
              Phạm hạnh.
               
              
              435. Yattha yatthūpapannāhaṃ mahābhogā 
              mahaddhanā, 
              medhāvinī rūpavatī vinītaparisā’pi ca. 
              Ở bất cứ nơi nào tôi được 
              sanh ra, tôi đều có nhiều của cải, nhiều tài sản, là người có sự 
              thông minh, có sắc đẹp, và có luôn cả hội chúng đã được rèn luyện 
              nữa.
               
              
              436. Bhavāmi 
              tena kammena yogena jinasāsane, 
              sabbā sampattiyo mayhaṃ sulabhā manaso piyā. 
              Do nghiệp ấy có sự gắn bó 
              với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, tất cả các sự thành tựu của 
              tôi đều đạt được dễ dàng và tôi có sự thích thú ở trong tâm.
               
              
              437. Yopi me 
              bhavate bhattā yattha yattha gatāyapi, 
              vimāneti na maṃ koci paṭipattiphalena me. 
              Thậm chí ở bất cứ nơi đâu 
              tôi sanh đến, tôi cũng đều có chồng (và) không có người nào khinh 
              miệt tôi nhờ vào quả báu tu tập của tôi. 
               
              
              438. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu 
              mahāyaso, 
              nāmena koṇāgamano uppajji vadataṃ varo. 
              Ở vào kiếp Bhadda này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Koṇāgamana, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm 
              Thiên.
               
              
              439. Tadāhaṃ bārāṇasiyaṃ susamiddhakulappajā,
              
              dhanañjāni sumedhā ca ahampi ca tayo janā. 
              Khi ấy, tôi là hậu duệ của 
              một gia đình vô cùng giàu có ở tại Bārāṇasī. Dhanañjāni, Sumedhā, 
              và tôi nữa là ba người. 
               
              
              440. Saṅghārāmamadāsimha dānasahāyikā pure, 
              saṅghassa ca vihārampi uddissa kārikā mayaṃ. 
              Là những người cộng sự 
              trong việc bố thí trước đây và là những người tạo lập, chúng tôi 
              đã xác định trú xá là của hội chúng rồi đã cúng dường tu viện đến 
              hội chúng . 
               
              
              441. Tato cutā mayaṃ sabbā tāvatiṃsūpagā ahuṃ,
              
              yasasā aggataṃ pattā manussesu tatheva ca. 
              Từ nơi ấy chết đi, tất cả 
              chúng tôi đã đi đến cõi Đạo Lợi, đã đạt được tư cách cao tột về 
              danh vọng, và tương tợ y như thế ở giữa loài người. 
               
              
              442. Imasmiṃ yeva kappamhi brahmabandhu 
              mahāyaso, 
              kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo. 
              Chính ở vào kiếp này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của 
              đấng Phạm Thiên.
               
              
              443. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
              
              kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame. 
              Khi ấy, có vị quân vương 
              là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ 
              độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
               
              
              444. Tass’ āsiṃ jeṭṭhikā dhītā samaṇī iti 
              vissutā, 
              dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ. 
              Tôi đã là người con gái 
              lớn nhất của vị ấy được nổi danh là Samaṇī. Sau khi lắng nghe Giáo 
              Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia. 
               
              
              445. Anujāni na 
              no tāto akāreva tadā mayaṃ, 
              vīsavassasahassāni vicarimha atanditā. 
              Cha đã không cho phép 
              chúng tôi. Khi ấy, chúng tôi chẳng có việc gì làm, đã đi đây đó 
              trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi. 
               
              
              446. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
              
              buddhūpaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro. 
              Là những người con gái của 
              đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của 
              người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong 
              việc hộ độ đức Phật.
               
              
              447. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī 
              bhikkhudāsikā, 
              dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā. 
              Samaṇī, Samaṇaguttā, 
              Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và 
              Saṅghadāsikā là thứ bảy.
               
              
              448. Ahaṃ uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca kuṇḍalā,
              
              kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī. 
              Tôi, Uppalavaṇṇā, 
              Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy 
              (vào thời hiện tại). 
               
              
              449. Kadāci so narādicco dhammaṃ deseti 
              abbhutaṃ, 
              mahānidānasuttantaṃ sutvā taṃ pariyāpuṇiṃ. 
              Có lần nọ đấng Mặt Trời 
              của nhân loại ấy thuyết giảng Giáo Pháp tuyệt vời. Sau khi lắng 
              nghe bài Kinh Đại Duyên tôi đã học thuộc lòng bài Kinh ấy. 
              
               
              
              450. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do các nghiệp ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ 
              thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              451. Pacchime ca bhave dāni sāgalāyaṃ 
              puruttame, 
              rañño maddassa dhītāmhi manāpā dayitā piyā. 
              Và trong kiếp cuối cùng 
              hiện nay, tôi là người con gái vui tính, được mến, đáng yêu của 
              đức vua Madda ở tại kinh thành Sāgalā.
               
              
              452. Saha me jātamattamhi khemaṃ tamhi pure 
              ahu, 
              tato khemāti nāmaṃ me guṇato upapajjatha. 
              Cùng với tôi trong việc đã 
              được sanh ra là trong kinh thành ấy đã có sự thái bình. Vì thế, 
              tên “Khemā” đã được sanh lên cho 
              tôi xuất phát từ công đức (ấy).
               
              
              453. Yadāhaṃ yobbanaṃ pattā rūpalāvaññabhūsitā,
              
              tadā adāsi maṃ tāto bimbisārassa rājino. 
              Khi tôi đạt đến tuổi 
              trưởng thành, được tô điểm bởi của sắc đẹp và sự mặn mà, khi ấy 
              người cha đã dâng tôi cho đức vua Bimbisāra.
               
              
               454. Tassāhaṃ suppiyā āsiṃ rūpakelāyane ratā,
              
              rūpānaṃ dosavādīti na upesiṃ mahādayaṃ. 
              Tôi đã là người nữ vô cùng 
              yêu quý của vị (vua) ấy. Thích thú trong việc trau chuốt xác thân, 
              tôi đã không tỏ ra rộng lượng đối với những lời nói về khuyết điểm 
              của các sắc đẹp.
               
              
              455. Bimbisāro tadā rājā mamānuggahabuddhiyā,
              
              vaṇṇayitvā veḷuvanaṃ gāyake gāpayī mamaṃ. 
              Khi ấy, với sáng kiến nhằm 
              giúp đỡ cho tôi, đức vua Bimbisāra đã ngợi khen về Veḷuvana
              (Trúc Lâm) và đã bảo các ca sĩ ca hát cho tôi nghe rằng:
               
              
              456. “Rammaṃ veḷuvanaṃ yena na diṭṭhaṃ 
              sugatālayaṃ, 
              na tena nandanaṃ diṭṭhaṃ iti maññāmase mayaṃ. 
              “Chúng 
              tôi quan niệm rằng: ‘Người nào 
              chưa nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu, chốn ngụ cư của đấng Thiện Thệ, 
              thì người ấy chưa nhìn thấy (vườn hoa) Nandana (của cõi trời).
               
              
              457. Yena veḷuvanaṃ diṭṭhaṃ 
              naranandananandanaṃ, 
              sudiṭṭhaṃ nandinaṃ tena amarindasunandanaṃ. 
              
              Người nào đã nhìn thấy Veḷuvana là (vườn hoa) 
              hoan lạc Nandana của nhân loại, người ấy đã nhìn thấy (vườn hoa) 
              Nandana vô cùng hoan lạc của vị Thiên Vương.
               
              
              458. Vihāya nandanaṃ devā otaritvā mahītalaṃ,
              rammaṃ veḷuvanaṃ disvā na tappanti suvimhitā. 
              
              Chư Thiên sau khi rời (vườn hoa) Nandana ngự 
              xuống mặt đất và đã nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu thì vô cùng sửng 
              sốt và không còn ân hận nữa.
              
               
              
              459. Rājapuññena nibbattaṃ buddhapuññena 
              bhūsitaṃ, 
              ko vattā tassa nissesaṃ vanassa guṇasañcayaṃ.” 
              
              (Veḷuvana) đã được sanh lên do phước báu của 
              đức vua, được làm đẹp nhờ vào phước báu của đức Phật, có ai là 
              người thuật lại một cách trọn vẹn về tổng thể các đức tính tốt đẹp 
              của khu vườn ấy?” 
               
              
              460. Taṃ sutvā vanasamiddhiṃ mama 
              sotamanoharaṃ, 
              daṭṭhukāmā tamuyyānaṃ rañño ārocayiṃ tadā. 
              Sau khi nghe được sự thành 
              công của khu rừng ấy, đối với tôi là có sự quyến rũ ở tai, vào khi 
              ấy có lòng mong muốn nhìn thấy khu vườn ấy tôi đã trình lên đức 
              vua. 
               
              
              461. Mahatā parivārena tadā ca so mahīpati, 
              maṃ pesesi tamuyyānaṃ dassanāya samussukaṃ. 
              Và khi ấy, vị lãnh chúa ấy 
              đã phái đoàn tùy tùng đông đảo đưa tôi đi để nhìn xem khu vườn ấy 
              một cách sốt sắng:
               
              
              462. “Gaccha passa mahābhoge vanaṃ 
              nettarasāyanaṃ, 
              yaṃ sadā bhāti siriyā sugatābhānurañjitaṃ.” 
              “Hỡi 
              nàng là của cải vĩ đại, nàng hãy đi, hãy nhìn xem khu rừng đem lại 
              sự bổ ích cho cặp mắt, là nơi luôn luôn chói sáng với sự vinh 
              quanh, được rực rỡ với hào quang của đấng Thiện Thệ.”
               
              
              463. Yadā ca piṇḍāya muni giribbajapuruttame,
              
              paviṭṭho ’haṃ tadāyeva vanaṃ daṭṭhumupāgamiṃ. 
              Và vào lúc đấng Hiền Triết 
              đã đi vào kinh thành Giribbaja để khất thực, đúng vào lúc ấy tôi 
              đã đi đến để nhìn thấy khu rừng.
               
              
              464. Tadā ’haṃ phullavipinaṃ 
              nānābhamarakūjitaṃ, 
              kokilāgītasahitaṃ mayūragaṇanaccitaṃ. 
              Khi ấy, khu rừng cây trải 
              dài ấy[9] 
              được rì rào tiếng vo ve của ong vò vẽ các loại, được phối hợp với 
              tiếng rù rù của loài chim cu, được nhảy múa bởi đám chim công.
               
              
              465. Appasaddamanākiṇṇaṃ nānācaṅkamabhūsitaṃ,
              
              kuṭimaṇḍapasaṅkiṇṇaṃ yogīvaravirājitaṃ. 
              (Khu rừng cây) có ít tiếng 
              động, không bị phân tán, được điểm tô bằng các đường kinh hành 
              khác nhau, được rải rác với các cụm liêu cốc, được nổi bậc với các 
              hành giả cao quý. 
               
              
              466. Vicarantī amaññissaṃ “saphalaṃ nayanaṃ 
              mama,” 
              tatthāpi taruṇaṃ bhikkhuṃ yuttaṃ disvā vicintayiṃ. 
              
              Trong khi dạo quanh, tôi 
              đã suy nghĩ rằng: “Mắt ta có được thành 
              quả.” Cũng tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu trẻ gắn 
              bó (thiền tập) và đã suy gẫm rằng:
               
              
              467. Īdise ’pi vane ramme ṭhito ’yaṃ 
              navayobbane, 
              vasantamiva kantena rūpena ca samanvito. 
              “Vị 
              này ở vào độ tuổi rất trẻ và được phú cho dáng vóc dễ thương như 
              là mùa xuân lại tồn tại ở trong khu rừng thậm chí đáng yêu như vầy.
               
              
              468. Nisinno rukkhamūlamhi muṇḍo 
              saṅghāṭipāruto, 
              jhāyate vat’ ayaṃ bhikkhu hitvā visayajaṃ ratiṃ. 
              
              
              Ngồi ở gốc cây, đầu cạo, đắp y hai lớp, tham 
              thiền, quả nhiên vị tỳ khưu này đã từ bỏ khoái lạc sanh lên từ đối 
              tượng (bên ngoài).
               
              
              469. Nanu nāma gahaṭṭhena kāmaṃ bhutvā 
              yathāsukhaṃ, 
              pacchā jiṇṇena dhammo ’yaṃ caritabbo subhaddako. 
              
              
              Phải chăng con người vô cùng hiền thiện này nên 
              thọ hưởng (ngũ) dục cho thoải mái với cuộc đời tại gia, sau này về 
              già mới nên thực hành Giáo Pháp?”
               
              
              470. Suññakanti viditvāna gandhagehaṃ 
              jinālayaṃ, 
              upetvā jinamaddakkhiṃ udayantaṃva bhākaraṃ. 
              Sau khi biết được rằng “Sunññaka” 
              là hương thất, là chỗ ngụ của đấng Chiến Thắng, tôi đã đi đến gần 
              và đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng tương tợ như là mặt trời đang mọc 
              lên.
               
              
              471. Ekakaṃ sukhamāsīnaṃ vījamānā varitthiyā,
              
              disvānevaṃ vicintesiṃ “nāyaṃ lūkho narāsabho.” 
              (Tôi đã nhìn thấy đấng 
              Chiến Thắng) ngồi mỗi một mình một cách an lạc đang được quạt bởi 
              người nữ quý phái. Sau khi nhìn thấy tôi đã suy gẫm như vầy: “Bậc 
              Nhân Ngưu này không có thô lỗ.”
               
              
              472. Sā kaññā kanakābhāsā padumānanalocanā, 
              bimboṭṭhī kundadasanā manonettarasāyanā. 
              Người thiếu nữ ấy có diện 
              mạo (sáng) như vàng, có khuôn mặt và đôi mắt như đóa sen, có môi 
              đỏ, có răng màu hoa nhài, có sự thu hút con tim và ánh mắt.
               
              
              473. Hemadolābhasavanā kalasākārasutthanī, 
              tanumajjhā ca sussoṇī rambhoru cārubhūsanā. 
              Có đôi tai lấp lánh khuyên 
              vàng, có ngực dạng bầu bầu, có eo thon, có mông đẹp, có đùi thân 
              chuối, và có đồ trang sức xinh xắn.
               
              
              474. Rattaṃsukūpasabyānā nīlamaṭṭhanivāsanā,
              
              atappaneyyarūpena hāvabhāvasamanvitā. 
              Với chiếc áo khoác ngoài 
              lên đôi vai gợi tình, với y phục tinh khiết màu xanh, được sở hữu 
              tính chất phụ nữ với hình dáng (nhìn) không thể nào thỏa mãn.
               
              
              475. Disvā tamevaṃ cintesiṃ “Aho ’yaṃ 
              abhirūpinī, 
              na mayā ’nena nettena diṭṭhapubbā kudācanaṃ.” 
              Sau khi nhìn thấy nàng ấy, 
              tôi đã suy nghĩ như vầy: “Ôi, nàng này 
              tuyệt đẹp. Ta chưa từng nhìn thấy trước đây bằng (cặp) mắt này.”
               
              
              476. Tato jarābhibhūtā sā vivaṇṇā vitatānanā,
              
              bhinnadantā setasirā salālavadanāsuci. 
              Kế đó, bị chế ngự bởi sự 
              già, nàng ấy (trở nên) có dung nhan tàn tạ, khuôn mặt chảy dài, 
              răng sứt mẻ, đầu bạc, miệng có nước dãi, dơ dáy, ...
               
              
              477. Saṅkhittakaṇṇā setakkhī 
              lambāsubhapayodharā, 
              valivitatasabbaṅgī sirāvitatadehinī. 
              ... có tai bị co rút, mắt 
              trắng (đục), bộ ngực xấu xí đong đưa, tất cả các bộ phận cơ thể bị 
              nhăn nheo chảy xệ, thân thể nổi đầy gân.
               
              
              478. Nataṅgā daṇḍadutiyā uppaṇḍuppaṇḍukā kisā,
              
              pavedhamānā patitā nissasantī muhuṃ muhuṃ. 
              ... có lưng bị còng, có 
              gậy là bạn, vô cùng nhợt nhạt, gầy còm, trong lúc run rẩy bị té 
              nhào, chốc chốc lại bị hụt hơi.
               
              
              479. Tato me āsi saṃvego abbhuto lomahaṃsano,
              
              dhiratthu rūpaṃ asuciṃ ramante yattha bālisā. 
              Do đó, tôi đã có sự chấn 
              động, kinh ngạc, lông dựng đứng: “Thật 
              là xấu hổ cho xác thân bất tịnh là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!”
               
              
              480. Tadā mahākāruṇiko disvā saṃviggamānasaṃ,
              
              udaggacitto sugato imā gāthā abhāsatha: 
              Khi ấy, sau khi nhìn thấy 
              (tôi có) tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Thiện Thệ với tâm phấn 
              khởi, đã nói lên những lời kệ này:
               
              
              481. “Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ passa kheme 
              samussayaṃ, 
              uggharantaṃ paggharantaṃ bālānaṃ abhinanditaṃ. 
              “Này 
              Khemā, hãy nhìn xem thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối đang 
              tiết ra, đang rò rỉ lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
              
               
              
              482. Asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ 
              susamāhitaṃ, 
              sati kāyagatā tyatthu nibbidābahulā bhava. 
              
              Nàng hãy tu tập tâm được chuyên nhất khéo tập 
              trung về đề mục bất mỹ, niệm hãy được hướng đến thân, nàng hãy có 
              nhiều sự nhàm chán. 
               
              
              483. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā 
              idaṃ, 
              ajjhattañca bahiddhā ca kāye chandaṃ virājaya. 
              
              Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác 
              kia như thế nào thì thân này như vậy. Nàng hãy lìa bỏ sự mong muốn 
              về thân ở bên trong lẫn bên ngoài.
               
              
              484. Animittañca bhāvetha mānānusayamujjaha,
              
              tato mānābhisamayā upasantā carissasi. 
              
              Và nàng hãy tu tập về vô tướng, hãy dứt bỏ ngã 
              mạn ngũ ngầm, từ đó có được sự lãnh hội về ngã mạn nàng sẽ sống 
              thanh tịnh. 
               
              
              485. Ye rāgarattānupatanti sotaṃ 
              sayaṃ kataṃ makkaṭakova jālaṃ, 
              etampi chetvāna paribbajanti 
              anapekkhino kāmasukhaṃ pahāya.” 
              
              Những người bị đắm nhiễm ái dục rơi vào dòng 
              chảy tương tợ như con nhện sa vào mạng lưới được chính nó tạo nên, 
              sau khi cắt đứt luôn cả điều ấy xuất gia từ bỏ dục lạc trở thành 
              những người vô tư lự.”
               
              
              486. Tato kallitacittaṃ maṃ ñatvāna 
              narasārathi, 
              mahānidānaṃ desesi suttantaṃ vinayāya me. 
              Kế đó, sau khi biết được 
              tôi có tâm đã được sẵn sàng, đấng Điều Ngự Trượng Phu đã thuyết 
              giảng bài Kinh Mahānidāna[10] 
              nhằm hướng dẫn cho tôi. 
               
              
              487. Sutvā suttantaseṭṭhaṃ taṃ 
              pubbasaññamanussariṃ, 
              tattha ṭhitāv’ ahaṃ santī dhammacakkhuṃ visodhayiṃ. 
              
              Sau khi lắng nghe bài kinh 
              tuyệt vời ấy, tôi đã tưởng nhớ về quá khứ. Tại nơi ấy, tôi được an 
              tịnh khi đang đứng; tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh.
               
              
              488. Nipatitvā mahesissa pādamūlamhi tāvade,
              
              accayaṃ desanatthāya idaṃ vacanamabraviṃ: 
              Ngay lập tức, tôi đã cúi 
              xuống ở dưới bàn chân của bậc Đại Hiền Triết nhằm mục đích bày tỏ 
              tội lỗi, và đã nói lời nói này:
               
              
              489. “Namo te sabbadassāvi namo te karuṇākara,
              
              namo te tiṇṇasaṃsāra namo te amataṃdada. 
              “Hỡi 
              đấng Toàn Tri, con kính lễ Ngài. Hỡi đấng hành bi mẫn, con kính lễ 
              Ngài. Hỡi đấng đã vượt qua luân hồi, con kính lễ Ngài. Hỡi đấng 
              ban cho sự bất tử, con kính lễ Ngài. 
               
              
              490. Diṭṭhigahanapakkhantā kāmarāgavimohitā,
              
              tayā sammā upāyena vinītā vinaye ratā. 
              
              Con đã lao theo sự nắm bắt tà kiến, bị lầm lạc 
              trong ái dục, nhờ Ngài với phương pháp đúng đắn con đã được dẫn 
              dắt, được thỏa thích trong sự rèn luyện.
               
              
              491. Adassanena vibbhogā tādisānaṃ mahesinaṃ,
              
              anubhonti mahādukkhaṃ sattā saṃsārasāgare. 
              
              Là không có phước phần đối với việc không nhìn 
              thấy các bậc Đại Hiền Triết như thế ấy, chúng sanh chịu đựng khổ 
              đau lớn lao trong biển cả luân hồi.
               
              
              492. Yadā ’haṃ lokasaraṇaṃ araṇaṃ maraṇantaguṃ,
              
              nāddasāsimadūraṭṭhaṃ desayāmi tamaccayaṃ. 
              
              Khi con đã không nhìn thấy được sự lợi ích cận 
              kề, nơi nương nhờ của thế gian, bậc không dục vọng, đã đạt đến tận 
              cùng của sự chết, con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.
               
              
              493. Mahāhitaṃ varadadaṃ ahitoti visaṅkitaṃ,
              
              nopesiṃ rūpaniratā desayāmi tamaccayaṃ.” 
              
              Bị đắm say xác thân, con đã không đến gần bậc 
              có lợi ích lớn, vị có sự bố thí cao quý, hoài nghi là: ‘Không có 
              lợi ích,’ con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.”
               
              
              494. Tadā madhuraniggoso mahākāruṇiko jino, 
              avoca “tiṭṭha kheme”ti siñcanto amatena maṃ. 
              Khi ấy, trong lúc rưới rắc 
              sự bất tử đến tôi, bậc Đại Bi, đấng Chiến Thắng, vị có giọng nói 
              vang ngọt ngào, đã nói rằng: “Này 
              Khemā, hãy đứng lại.”
               
              
              495. Tadā paṇamya sirasā katvā ca naṃ 
              padakkhiṇaṃ, 
              gantvā disvā narapatiṃ idaṃ vacanamabraviṃ. 
              Khi ấy, sau khi đã đê đầu 
              đảnh lễ và đã thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tôi đã ra đi. Sau 
              khi nhìn thấy đấng quân vương, tôi đã nói lời nói này:
               
              
              496. “Aho sammā-upāyo te cintito ’yamarindama,
              
              vanadassanakāmāya diṭṭho nibbānado muni. 
              “Ôi 
              vị khuất phục kẻ thù, phương pháp đúng đắn này đã được suy tính 
              bởi bệ hạ. Do ước muốn nhìn thấy khu rừng, bậc Hiền Triết vị ban 
              phát Niết Bàn đã được nhìn thấy.
               
              
              497. Yadi te ruccate rāja sāsane tassa tādino,
              
              pabbajissāmi rūpe ’haṃ nibbinnā munivāṇinā. 
              
              Tâu bệ hạ, nếu ngài vui thích thiếp sẽ xuất gia 
              trong Giáo Pháp của vị như thế ấy. Nhờ vào lời nói của bậc Hiền 
              Triết, thiếp đã nhàm chán sắc thân.”
              
              
              Bhāṇavāraṃ dutiyaṃ. 
              
              Tụng phẩm thứ nhì.
               
              
              498. Añjaliṃ paggahetvāna tadāha sa mahīpati,
              
              “Anujānāmi te bhadde pabbajjā tava sijjhatu.” 
              Khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã 
              chắp tay lên và nói rằng: “Này hiền 
              thê, trẫm cho phép nàng. Cầu chúc sự xuất gia được thành tựu đến 
              nàng.”
               
              
              499. Pabbajitvā tadā cāhaṃ addhamāse upaṭṭhite,
              
              dīpodayañca bhedañca disvā saṃviggamānasā. 
              Và sau khi xuất gia, khi 
              ấy đã được nửa tháng, sau khi nhìn thấy sự sáng lên của ngọn đèn 
              và sự diệt tắt tôi có tâm bị chấn động.
               
              
              500. Nibbinnā sabbasaṅkhāre paccayākārakovidā,
              
              caturoghe atikkamma arahattamapāpuṇiṃ. 
              Nhàm chán tất cả các hành, 
              được rành rẽ về biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), sau khi 
              đã vượt qua bốn dòng nước lũ (bộc lưu), tôi đã đạt được quả vị 
              A-la-hán. 
               
              
              501. Iddhiyā ca vasī āsiṃ dibbāya sotadhātuyā,
              
              cetopariyañāṇassa vasī cāpi bhavāmahaṃ. 
              Tôi đã có năng lực về thần 
              thông, về thiên nhĩ giới, và tôi cũng đã có năng lực về trí biết 
              tâm của người khác. 
               
              
              502. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo. 
              Tôi biết được đời sống 
              trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được 
              cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa. 
               
              
              503. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
              
              parisuddhaṃ mama ñāṇaṃ uppannaṃ buddhasāsane. 
              Trí tuệ hoàn toàn thanh 
              tịnh của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như 
              thế về phép biện giải là được thành tựu trong Giáo Pháp của đức 
              Phật.
               
              
              504. Kusalā ’haṃ visuddhīsu kathāvatthu 
              visāradā, 
              abhidhammanayaññū ca vasippattā ’mhi sāsane. 
              Tôi là thiện xảo về các 
              (pháp) thanh tịnh, là tự tin trong vấn đề tranh luận, biết về 
              phương thức của các pháp thù thắng, và đã đạt được năng lực ở Giáo 
              Pháp.
               
              
              505. Tato bhojanavatthusmiṃ raññā kosalasāminā,
              
              pucchitā nipuṇe pañhe vyākarontī yathātathaṃ. 
              Sau đó, được đức vua 
              (Pasenadi) chủ quản xứ Kosala hỏi các câu hỏi khôn khéo về vấn đề 
              vật thực, tôi đã giải thích đúng theo bản thể. 
               
              
              506. Tadā sa rājā sugataṃ upasaṅkamma 
              pucchatha, 
              tatheva buddho vyākāsi yathā te vyākatā mayā. 
              Sau đó, vị vua ấy đã đi 
              đến gặp đấng Thiện Thệ và đã hỏi lại. Các điều ấy đã được tôi giải 
              thích như thế nào thì đức Phật đã giải thích y như thế ấy. 
              
               
              
              507. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi 
              maṃ, 
              mahāpaññānamaggāti bhikkhunīnaṃ naruttamo. 
              Đấng Chiến Thắng, bậc Tối 
              Thượng Nhân hoan hỷ về đức hạnh ấy đã thiết lập tôi vào vị thế tối 
              thắng là “Vị đứng đầu các vị có đại tuệ” 
              trong số các vị tỳ khưu ni.
               
              
              508. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              509. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              510. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Khemā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Khemā đã nói 
              lên những lời kệ này như thế ấy.
              
              Khemātheriyāpadānaṃ aṭṭhamaṃ.
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Khemā là phần thứ tám.
               --ooOoo--
              
              19. Uppalavaṇṇāpadānaṃ
              
              19. Ký Sự về Uppalavaṇṇā:
                
              
              511. Bhikkhunī uppalavaṇṇā iddhiyā pāramiṅgatā,
              
              vanditvā satthuno pāde idaṃ vacanamabravi. 
              Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā, 
              đạt đến sự toàn hảo về thần thông, đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc 
              Đạo Sư rồi đã nói lời nói này: 
               
              
              512. Nittiṇṇā jātisaṃsāraṃ pattā ’haṃ acalaṃ 
              padaṃ, 
              sabbadukkhaṃ mayā khīṇaṃ ārocemi mahāmuni. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hiền Triết, con xin trình rằng con đã vượt qua khỏi sự 
              tái sanh luân hồi, đã đạt được vị thế bất động, con đã cạn kiệt 
              tất cả khổ đau.
               
              
              513. Yāvatā parisā atthi pasannā jinasāsane,
              
              yesañca me ’parādho ’tthi khamantu jinasammukhā. 
              
              
              Cho đến nhóm người có lòng tịnh tín vào Giáo 
              Pháp của đấng Chiến Thắng, và đối với những ai con có lỗi lầm, 
              mong rằng họ hãy tha thứ ở trước mặt đấng Chiến Thắng.
               
              
              514. Saṃsāre saṃsarantāya khalitaṃ me sace 
              bhave, 
              ārocemi mahāvīra aparādhaṃ khamassu taṃ. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, con xin trình rằng trong 
              khi luân chuyển ở vòng luân hồi nếu con có điều lầm lỗi, xin Ngài 
              tha thứ cho điều sai trái ấy.”
              
               
              
              515. “Iddhiṃ cāpi nidassehi mama sāsanakārike,
              
              catasso parisā ajja kaṅkhaṃ chindāhi yāvatā.” 
              “Nàng 
              cũng nên phô bày thần thông cho những người hành theo Giáo Pháp 
              của Ta được thấy. Hôm nay nàng hãy cắt đứt sự hoài nghi cho cả tứ 
              chúng.”
               
              
              516. “Dhītu tuyhaṃ mahāvīra paññāvanta 
              jutindhara, 
              bahuṃ ca dukkaraṃ kammaṃ kataṃ me atidukkaraṃ. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hùng, bậc Trí Tuệ, đấng Quang Minh, là con gái của Ngài, 
              con đã làm được nhiều công việc khó làm và vô cùng khó làm.
              
               
              
              517. Uppalasseva me vaṇṇo nāmenuppalanāmikā,
              
              sāvikā te mahāvīra pāde vandati cakkhuma. 
              
              Màu da của con chính là màu của hoa sen, tên 
              gọi Uppala là theo tên gọi của hoa sen. Bạch đấng Đại Hùng, con là 
              nữ Thinh Văn của Ngài. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn 
              chân (của Ngài).
               
              
              518. Rāhulo ca ahañceva nekajātisate bahū, 
              ekasmiṃ sambhave jātā samānacchandamānasā. 
              
              Trong nhiều trăm lần tái sanh, Rāhula và luôn 
              cả con nữa đã được sanh ra trong cùng một kiếp sống do ý muốn 
              tương tợ nhau.
               
              
              519. Nibbatti 
              ekato hoti jātīsu bahuso mama, 
              pacchimabhave sampatte ubhopi nānāsambhavā. 
              
              Có sự sanh ra cùng nhau trong nhiều lần tái 
              sanh của con. Trong kiếp sống cuối cùng được thành tựu, cả hai còn 
              có nhiều nguyên nhân khác nữa.
               
              
              520. Putto ca rāhulo nāma dhītā uppalasavhayā,
              
              passa vīra mamaṃ iddhiṃ balaṃ dassemi satthuno.” 
              
              
              Và người con trai tên là Rāhula, người con gái 
              tên gọi Uppala. Bạch đấng Anh Hùng, xin hãy nhìn xem thần thông 
              của con, con sẽ thị hiện năng lực đến bậc Đạo Sư.”
               
              
              521. Mahāsamudde caturo pakkhipi hatthapātiyaṃ,
              
              telaṃ hatthagataṃ ceva vejjo komārako yathā. 
              Vị ni đã đặt bốn đại dương 
              ở trong lòng bàn tay tương tợ như vị y sĩ Jīvaka Komārabhacca đã 
              đổ dầu vào bàn tay.
               
              
              522. Ubbattayitvā paṭhaviṃ pakkhipi 
              hatthapātiyaṃ, 
              cittamuñjaṃ yathā nāma luñci komārako yuvā. 
              Vị ni đã bứng trái đất lên 
              rồi đặt ở trong lòng bàn tay tương tợ như người thiếu niên trẻ 
              tuổi đã nhổ lên cọng cỏ muñja 
              nhiều màu sắc. 
               
              
              523. Cakkavāḷasamaṃ pāṇiṃ chādayitvāna 
              matthake, 
              vassāpetvāna phusitaṃ nānāvaṇṇaṃ punappunaṃ. 
              Vị ni đã đưa bàn tay tợ 
              như vũ trụ che ở đầu và đã làm đổ xuống giọt mưa nhiều màu sắc 
              thành nhiều lượt. 
               
              
              524. Bhūmiṃ udukkhalaṃ katvā dhaññaṃ katvāna 
              sakkharaṃ, 
              sineruṃ musalaṃ katvā maddi komārikā yathā. 
              Vị ni đã biến mặt đất 
              thành cái cối giã, đã biến hạt cát thành thóc lúa, đã biến ngọn 
              núi Sineru thành cái chày, rồi đã giã nát tương tợ như cô thiếu nữ 
              (giã lúa gạo).
               
              
              525. “Dhītā ’haṃ buddhaseṭṭhassa 
              nāmenuppalasavhayā, 
              abhiññāsu vasībhūtā tava sāsanakārikā. 
              “Con 
              là con gái của đức Phật tối thượng có tên gọi là Uppala, đã có 
              được năng lực về các thắng trí, là người thực hành theo lời dạy 
              của Ngài.
               
              
              526. Nānā vikubbaṇaṃ katvā dassetvā 
              lokanāyakaṃ, 
              nāmagottañca sāvetvā pāde vandāmi cakkhuma. 
              
              Bạch đấng Hữu Nhãn, sau khi đã thực hiện và đã 
              phô bày vô số phép biến hóa đến vị Lãnh Đạo Thế Gian, sau khi công 
              bố tên và dòng họ, con xin đảnh lễ ở bàn chân (của Ngài).
               
              
              527. Iddhiyā ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
              
              cetopariyañāṇassa vasī homi mahāmune. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã có năng lực về 
              thần thông, về thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm 
              của người khác. 
               
              
              528. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              sabbāsavā parikkhīṇā natthidāni punabbhavo. 
              
              Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn 
              được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc được cạn kiệt, giờ đây không 
              còn tái sanh nữa. 
               
              
              529. Atthadhammaniruttīsu paṭibhāne tatheva ca,
              
              ñāṇaṃ me vimalaṃ suddhaṃ pabhāvena mahesino. 
              
              Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn 
              từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được trong sạch, 
              không bợn nhơ nhờ vào quyền năng của bậc Đại Ẩn Sĩ. 
              
               
              
              530. Purimānaṃ jinaggānaṃ sammukhā ca 
              parammukhā, 
              adhikāraṃ bahuṃ mayhaṃ tuyhatthāya mahāmuni. 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, nhiều việc làm hướng 
              thượng của con đến các đấng Chiến Thắng cao cả trong quá khứ một 
              cách trực tiếp hoặc gián tiếp là nhằm mục đích về Ngài.
              
               
              
              531. Yaṃ mayā pūritaṃ kammaṃ kusalaṃ sara me 
              muni, 
              tavatthāya mahāvīra puññaṃ upacitaṃ mayā. 
              
              Bạch đấng Hiền Triết, thiện nghiệp nào đã được 
              con làm tròn đủ, xin Ngài hãy nhớ lại cho con. Bạch đấng Đại Hùng, 
              phước báu đã được tích lũy bởi con là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              532. Abhabbaṭṭhāne vajjetvā parivajjentī 
              anācāraṃ, 
              tavatthāya mahāvīra cattaṃ jīvitamuttamaṃ. 
              
              Bạch đấng Đại Hùng, sau khi tránh xa những nơi 
              không xứng đáng, trong khi từ bỏ tánh hạnh xấu, mạng sống quý cao 
              đã được từ bỏ là nhằm mục đích về Ngài.
               
              
              533. Dasakoṭisahassāni adāsiṃ mama jīvitaṃ, 
              pariccattaṃ ca me hoti tavatthāya mahāmuni.” 
              
              Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đã bố thí mười 
              ngàn koṭi, và mạng sống của con đã được con dứt bỏ là nhằm mục 
              đích về Ngài.”
               
              
              534. Tadātivimhitā sabbā sirasāva katañjalī,
              
              avoc’ ayye kathaṃ āsi atuliddhiparakkamā. 
              Khi ấy, vô cùng sửng sốt, 
              tất cả đã chắp tay lên ngay ở đầu và đã nói rằng: “Thưa 
              ni sư, làm thế nào ni sư có được sự nỗ lực về thần thông không thể 
              sánh bằng?”
               
              
              535. Satasahasse ito kappe nāgakaññā ahuṃ tadā,
              
              vimalā namā nāmena kaññānaṃ sādhusammatā. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, khi ấy tôi đã là con gái của Long Vương, có tên Vimalā, được 
              công nhận là đức hạnh trong số những người con gái.
               
              
              536. Mahorago mahānāgo pasanno jinasāsane, 
              padumuttaraṃ mahātejaṃ nimantesi sasāvakaṃ. 
              Có con rắn lớn là vị Đại 
              Long, tịnh tín với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, đã thỉnh mời 
              đấng Đại Quyền Lực Padumuttara cùng với các vị Thinh Văn.
               
              
              537. Ratanāmayaṃ maṇḍapañca pallaṅkaṃ 
              ratanāmayaṃ, 
              ratanavālukākiṇṇaṃ upabhogaṃ ratanāmayaṃ. 
              (Vị ấy đã cho chuẩn bị) 
              mái che làm bằng châu báu, ghế dựa làm bằng châu báu, và vật dụng 
              làm bằng châu báu được rắc rải các hạt cát châu báu. 
               
              
              538. Maggaṃ ca paṭiyādesi ratanaddhajabhūsitaṃ,
              
              paccuggantvāna sambuddhaṃ vajjanto turiyehi so. 
              Và vị ấy đã cho chuẩn bị 
              đường đi được trang hoàng với các ngọn cờ bằng châu báu. Trong khi 
              được vang lên bởi các nhạc cụ, vị ấy đã đi ra đón rước bậc Toàn 
              Giác. 
               
              
              539. Parisāhi catūhi sahito lokanāyako, 
              mahoragassa bhavane nisīdi paramāsane. 
              Được tháp tùng bởi tứ 
              chúng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã ngồi xuống ở chỗ ngồi cao nhất 
              trong tòa nhà của vị Đại Long.
               
              
              540. Annaṃ pānaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ 
              mahārahaṃ, 
              varaṃ varañca pādāsi nāgarājā mahāyaso. 
              Vị Long Vương có danh 
              tiếng vĩ đại đã dâng lên thức ăn nước uống vật thực cứng, vật thực 
              mềm có giá trị lớn lao vô cùng quý báu.
               
              
              541. Bhuñjitvāna sambuddho pattaṃ dhoviya 
              yoniso, 
              anumodanīyaṃ ’kāsi nāgarañño mahiddhino. 
              Sau khi thọ thực, đấng 
              Toàn Giác đã rửa bình bát theo khuôn phép rồi đã nói lời tùy hỷ 
              đến vị Long Vương có đại thần lực.
               
              
              542. Sabbaññuṃ phullitaṃ disvā nāgakaññā 
              mahāyasā, 
              pasannā satthuno cittaṃ sunibaddhañca mānasaṃ. 
              Sau khi nhìn thấy đấng 
              Toàn Tri một cách trọn vẹn, người con gái có danh vọng lớn lao của 
              vị Long Vương đã được tịnh tín đối với bậc Đạo Sư, và tâm đã được 
              gắn liền chặt chẽ với ý.
               
              
              543. Mamañca cittamaññāya jalajuttamanāyako,
              
              tasmiṃ khaṇe mahāvīro bhikkhuniṃ dassayiddhiyā. 
              Và sau khi biết được tâm 
              của tôi, bậc Đại Hùng, đấng Lãnh Đạo Padumuttara vào giây phút ấy 
              đã bảo vị tỳ khưu ni thị hiện thần thông.
               
              
              544. Iddhī anekā dassesi bhikkhunī sā visāradā,
              
              pamoditā vedajātā satthāraṃ idamabraviṃ:
              Được tự tin, vị tỳ khưu ni 
              ấy đã thị hiện nhiều loại thần thông. Được hoan hỷ, tràn đầy niềm 
              phấn khởi, tôi đã nói với bậc Đạo Sư điều này:
               
              
              545. “Addasāhaṃ imaṃ iddhiṃ sumanāyitarāyapi,
              Kathaṃ ahosi sā vīra iddhiyā suvisāradā?”
              “Bạch 
              đấng Anh Hùng, con đã nhìn thấy loại thần thông này thậm chí với 
              tâm vui mừng khác. Làm thế nào nàng ấy đã được vô cùng tự tin về 
              thần thông?”
               
              
              546. “Orasā mukhato jātā dhītā mama mahiddhikā,
              
              mamānusāsanikarā iddhiyā suvisāradā.” 
              “Người 
              con gái có đại thần lực của Ta là chánh thống, được sanh ra từ 
              miệng, là người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, vô cùng tự tin về 
              thần thông.”
               
              
              547. Buddhassa vacanaṃ sutvā evaṃ patthesahaṃ 
              tadā, 
              “Ahampi tādisā homi iddhiyā suvisāradā.” 
              Sau khi lắng nghe lời nói 
              của đức Phật, khi ấy tôi đã ước nguyện như vầy: “Mong 
              sao cho ta cũng được vô cùng tự tin về thần thông như thế ấy.”
               
              
              548. Pamoditā ’haṃ sumanā patta-uttamamānasā,
              
              anāgatamhi addhāne īdisā homi nāyaka. 
              Được hoan hỷ, với tâm vui 
              mừng, tôi đã đạt đến ý nghĩ cao quý rằng: “Bạch 
              đấng Lãnh Đạo, mong sao trong tương lai xa vời con sẽ là như thế 
              ấy.”
               
              
              549. Maṇimayamhi pallaṅke maṇḍapasmiṃ 
              pabhaṅkare, 
              annapānena tappetvā sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ. 
              Ở chiếc ghế dựa làm bằng 
              ngọc ma-ni tại mái che sáng ngời, tôi đã làm hài lòng đấng Lãnh 
              Đạo Thế Gian cùng với hội chúng bằng cơm ăn và nước uống.
               
              
              550. Nāgānaṃ pavaraṃ pupphaṃ aruṇaṃ nāma 
              uppalaṃ, 
              “Vaṇṇaṃ me īdisaṃ hotu” pūjesiṃ lokanāyakaṃ. 
              Tôi đã cúng dường đấng 
              Lãnh Đạo Thế Gian đóa hoa sen xanh cao quý của loài rồng tên là 
              Aruṇa (nguyện rằng): “Mong sao cho tôi 
              có được màu da như thế này.” 
               
              
              551. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacch’ ahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              552. Tato cutā ’haṃ manuje upapannā sayambhuno,
              
              uppalehi paṭicchannaṃ piṇḍapātamadāsahaṃ. 
              Từ nơi ấy chết đi, được 
              sanh vào loài người, tôi đã dâng vật thực được đậy lại bằng những 
              đóa sen xanh đến đấng Tự Chủ.
               
              
              553. Ekanavute ito kappe vipassī nāma nāyako,
              
              uppajji cārunayano sabbadhammesu cakkhumā. 
              Trước đây chín mươi mốt 
              kiếp, đã hiện khởi đấng Lãnh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu 
              hút, là bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp. 
               
              
              554. Seṭṭhidhītā tadā hutvā bārāṇasipuruttame,
              
              nimantetvāna sambuddhaṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ. 
              Khi ấy, là con gái của 
              người triệu phú ở kinh thành Bārāṇasī, tôi đã thỉnh mời đấng Toàn 
              Giác vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng. 
               
              
              555. Mahādānaṃ daditvāna uppalehi vināyakaṃ,
              
              pūjayitvā cetasāva vaṇṇasobhaṃ apatthayiṃ. 
              Sau khi cúng dường đại thí 
              và đã dâng những đóa sen xanh đến đấng Hướng Đạo, tôi đã ước 
              nguyện về sự xinh đẹp của làn da chỉ bằng tâm ý. 
               
              
              556. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu 
              mahāyaso, 
              kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo. 
              Ở vào kiếp Bhadda này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của 
              đấng Phạm Thiên.
               
              
              557. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
              
              kāsirājā kikī nāma bārāṇasipuruttame. 
              Khi ấy, có vị quân vương 
              là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ 
              độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
               
              
              558. Tass’ āsiṃ dutiyā dhītā 
              samaṇaguttasavhayā, 
              dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ. 
              Tôi đã là người con gái 
              thứ hai của vị (vua) ấy có tên là Samaṇagutta. Sau khi lắng nghe 
              Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia. 
              
               
              
              559. Anujāni na 
              no tāto agāreva tadā mayaṃ, 
              vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā. 
              Cha đã không cho phép 
              chúng tôi về việc không gia đình. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia 
              chúng tôi đã đi đó đây trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi.
              
               
              
              560. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
              
              buddhupaṭṭhānaniratā muditā sattadhītaro. 
              Là những người con gái của 
              đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của 
              người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong 
              việc hộ độ đức Phật.
               
              
              561. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī 
              bhikkhudāsikā, 
              dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā. 
              Samaṇī, Samaṇaguttā, 
              Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và 
              Saṅghadāsikā là thứ bảy.
               
              
              562. Ahaṃ khemā ca sappaññā paṭācārā ca 
              kuṇḍalā, 
              kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī. 
              Tôi, Khemā có trí tuệ, 
              Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy 
              (vào thời hiện tại). 
               
              
              563. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do các nghiệp ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ 
              thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              564. Tato cutā manussesu upapannā mahākule, 
              pītamaṭṭhaṃ varaṃ dussaṃ adaṃ arahato ahaṃ. 
              Từ nơi ấy chết đi, được 
              sanh vào giữa loài người, trong đại gia tộc, tôi đã dâng đến vị 
              A-la-hán tấm vải màu vàng mịn màng quý giá.
               
              
              565. Tato cut’ āriṭṭhapure jātā vippakule ahaṃ,
              
              dhītā tiriṭavacchassa ummādantī manoharā. 
              Từ nơi ấy chết đi, tôi đã 
              được sanh vào gia tộc dòng Bà-la-môn ở trong thành Ariṭṭha, là con 
              gái của Tiriṭavaccha, có nét quyến rũ, tên là 
              Ummādantī.
               
              
              566. Tato cutā janapade kule aññatare ahaṃ, 
              pasutā nātiphītamhi sāliṃ gopemahaṃ tadā. 
              Từ nơi ấy chết đi, được 
              sanh ra vào gia tộc khác không được giàu có lắm ở trong quốc độ, 
              khi ấy tôi đã chăm sóc lúa sāli.
               
              
              567. Disvā paccekasambuddhaṃ pañcalājāsatān’ 
              ahaṃ, 
              datvā padumachannāni pañcaputtasatānipi. 
              Sau khi nhìn thấy vị Độc Giác 
              Phật, tôi đã dâng năm trăm hạt cốm được 
              che đậy bởi những đóa hoa sen (và đã ước nguyện) năm trăm người 
              con trai.
               
              
              568. Patthesiṃ tepi patthesuṃ madhuṃ datvā 
              sayambhuno, 
              tato cutā araññe ’haṃ ajāyiṃ padumodare. 
              Sau khi dâng cúng mật ong 
              đến đấng Tự Chủ, tôi đã ước nguyện về những người con trai ấy.[11] 
              Từ nơi ấy chết đi, tôi đã được sanh ra ở trong lòng đóa hoa sen ở 
              trong rừng.
               
              
              569. Kāsirañño mahesī ’haṃ hutvā sakkatapūjitā,
              
              ajaniṃ rājaputtānaṃ anūnaṃ satapañcakaṃ. 
              Tôi đã trở thành chánh hậu 
              của đức vua xứ Kāsi, được tôn vinh kính trọng. Tôi đã sanh ra năm 
              trăm vị hoàng tử không thiếu (một vị).
               
              
              570. Yadā te yobbanappattā kīḷantā jalakīḷitaṃ,
              
              disvā opattapadumaṃ āsuṃ paccekanāyakā. 
              Khi các người con trai ấy đạt 
              được tuổi thanh niên, trong lúc chơi giỡn cuộc vui ở trong nước, 
              sau khi nhìn thấy đóa hoa sen bị rụng cánh, họ đã trở thành các vị 
              Lãnh Đạo Độc Giác.
               
              
              571. Sāhaṃ tehi vinābhūtā sutavarehi sokinī,
              
              cutā isigilipasse gāmakamhi ajāyisaṃ. 
              Tôi đây, không có những người 
              con trai cao quý ấy, có sự sầu muộn, chết đi, tôi đã được sanh ra 
              ở ngôi làng nhỏ tại sườn núi Isigili.
               
              
              572. Yadā cuddhā sutamatī sutānaṃ bhattunopi 
              ca, 
              yāgumādāya gacchantī aṭṭhapaccekanāyake. 
              
              573. Bhikkhāya gāmaṃ gacchante disvā putte 
              anussariṃ, 
              khīradhārā viniggacchi tadā me puttapemasā. 
              Khi ấy, tôi đã lớn lên, có 
              con cái. Và tôi đã mang món cháo cho những người con trai và cả 
              người chồng nữa. Trong khi đi tôi đã nhìn thấy tám vị Lãnh Đạo Độc 
              Giác đang đi vào làng để khất thực, và đã tưởng nhớ lại những 
              người con trai. Khi ấy, bầu sữa tôi đã tiết ra ngoài bởi lòng 
              thương yêu những người con trai của tôi.
               
              
              574. Tato tesaṃ adaṃ yāguṃ pasannā sehi pāṇihi,
              
              tato cutā ’haṃ tidase nandanaṃ upapajjahaṃ. 
              Sau đó, được tịnh tín tôi 
              đã dâng món cháo đến các vị ấy bằng hai bàn tay của mình. Từ nơi 
              ấy chết đi, tôi đã đạt đến vườn hoa Nandana ở cõi Tam Thập. 
              
               
              
              575. Anubhotvā sukhaṃ dukkhaṃ saṃsaritvā 
              bhavābhave, 
              tavatthāya mahāvīra pariccattañca jīvitaṃ. 
              “Bạch 
              đấng Đại Hùng, con đã trải qua an lạc khổ đau, đã luân hồi cõi này 
              cõi khác, và mạng sống đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.”
               
              
              576. Evaṃ bahuvidhaṃ dukkhaṃ sampatti ca 
              bahubbidhā, 
              pacchime bhave sampatte jātā sāvatthiyaṃ pure. 
              Như vậy là đã có khổ đau 
              nhiều loại và đã có sự thành đạt nhiều cách. Khi đạt đến cuộc sống 
              cuối cùng, tôi đã được sanh ra ở thành Sāvatthī.
               
              
              577. Mahādhane seṭṭhikule sukhite sajjite 
              tathā, 
              nānāratanapajjote sabbakāmasamiddhinī. 
              Tôi đã có được sự thành tựu 
              về tất cả các dục lạc ở trong gia đình triệu phú có đại tài sản, 
              được rực rỡ bởi nhiều loại châu báu khác nhau, được an vui, được 
              chu cấp như thế ấy.
               
              
              578. Sakkatā pūjitā āsiṃ mānitā ’pacitā tathā,
              
              rūpasobhaggasampannā kulesu abhisammatā. 
              Tôi đã được kính trọng, được 
              tôn vinh, được nể vì, được cung kỉnh như thế ấy, được phú cho vẻ 
              xinh đẹp của dáng vóc, được trọng vọng ở các gia đình.
               
              
              579. Atīva patthitā c’ āsiṃ rūpabhogasirīhi ca,
              
              patthitā seṭṭhiputtehi anekehi satehi ca. 
              Và tôi đã được ao ước vô cùng 
              mãnh liệt bởi những người có sắc tướng, giàu có, sang trọng, và 
              được ao ước bởi hàng trăm người con trai triệu phú.
               
              
              580. Agāraṃ pajahitvāna pabbajiṃ anagāriyaṃ,
              
              aḍḍhamāse asampatte arahattamapāpuṇiṃ. 
              Sau khi từ bỏ gia đình, tôi 
              đã xuất gia vào cuộc sống không gia đình, không đầy nửa tháng tôi 
              đã đạt được quả vị A-la-hán. 
               
              
              581. Iddhiyā abhinimmitvā caturassarathaṃ ahaṃ,
              
              buddhassa pāde vandissaṃ lokanāthassa sirīmato. 
              Sau khi đã hóa hiện bằng thần 
              thông thành chiếc xe bốn ngựa, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của đức 
              Phật, bậc Bảo Hộ Thế Gian, đấng Quang 
              Vinh.
               
              
              582. Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhunī 
              
              
               ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle, 
              na c’ atthi te dutiyā vaṇṇadhātu 
              
              bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakānaṃ. 
              
              “Hỡi 
              vị tỳ khưu ni, sau khi đi đến tột đỉnh của việc đã được phát triển 
              toàn diện, nàng một mình đứng ở gốc cây Sāla. Và này người có phẩm 
              chất về sắc đẹp, nàng không có người thứ nhì, nàng không hãi
              sợ lũ ngu dốt trong số những kẻ tồi 
              bại hay sao?”[12]
               
              
              583. Sataṃ sahassānapi dhuttakānaṃ idhāgatā 
              tādisakā bhaveyyuṃ, 
              lomaṃ na iñjāmi na santasāmi na māra bhāyāmi tamekikāpi. 
              
              “Cho 
              dầu là trăm ngàn kẻ tồi bại như ngươi có đi đến nơi đây, ta cũng 
              không chao động sợi lông, ta cũng không bối rối. Này Ma Vương, 
              ngươi chỉ một mình, ta không hãi sợ ngươi.” 
               
              
              584. Esā antaradhāyāmi kucchiṃ vā pavisāmi te,
              
              pakhumantarikāyampi tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi. 
              “Hỡi 
              nàng, ta sẽ biến mất hoặc ta sẽ đi vào trong bụng của nàng. Dẫu ta 
              đang đứng ở ngay giữa lông mày, nàng vẫn không nhìn thấy ta.”
               
              
              585. Cittasmiṃ vasībhūtamhi iddhipādā 
              subhāvitā, 
              sabbabandhanamuttāmhi na taṃ bhāyāmi āvuso. 
              “Các 
              nền tảng của thần thông đã được khéo tu tập ở trong tâm có được 
              năng lực. Này ông bạn, ta đã được thoát khỏi mọi sự trói buộc, ta 
              không sợ hãi ngươi.”
               
              
              586. Sattisūlūpamā kāmā khandhā’saṃ 
              adhikuṭṭanā, 
              yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi aratī ’dāni sā mama. 
              “Các 
              dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt. Điều ngươi đã gọi 
              là sự thích thú trong các dục, sự không thích thú ấy giờ đây ta đã 
              có được.”
               
              
              587. Sabbattha vihatā nandi tamokhandho 
              padāḷito, 
              evaṃ jānāhi pāpima nihato tvamasi antaka. 
              “Sự 
              vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống mê mờ đã 
              được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, 
              người đã bị bại trận.” 
               
              
              588. Jino tamhi guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi 
              maṃ, 
              aggā iddhimatīnan’ti parisāsu vināyako. 
              Hoan hỷ về đức hạnh ấy, 
              đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập tôi 
              vào vị thế tối thắng là “Vị đứng đầu 
              trong số các vị ni có thần thông.” 
               
              
              589. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa 
              sāsanaṃ, 
              ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā. 
              Bậc Đạo Sư đã được tôi 
              phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng 
              nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
               
              
              590. Yassatthāya pabbajitā agārasmā ’nagāriyaṃ,
              
              so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo. 
              Vì mục đích nào tôi đã rời 
              khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy 
              tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
               
              
              591. Cīvaraṃ piṇḍapātaṃ ca paccayaṃ 
              sayanāsanaṃ, 
              khaṇena upanāmenti sahassāni samantato. 
              Trong phút chốc, hàng ngàn 
              người từ các nơi dâng lên y phục, đồ ăn khất thực, thuốc men, và 
              chỗ nằm ngồi. 
               
              
              592. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              593. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              594. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Uppalavaṇṇā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã 
              nói lên những lời kệ này như thế ấy.
              
              Uppalavaṇṇātheriyāpadānaṃ navamaṃ.
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Uppalavaṇṇā là phần thứ chín.
               --ooOoo--
              
              20. Paṭācārāpadānaṃ
              
              20. Ký Sự về Paṭācārā:
               
              
              595. Padumuttaro nāma jino sabbadhammānapāragū,
              
              ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako. 
              Trước đây một trăm ngàn 
              kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông 
              suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
               
              
              596. Tadāhaṃ haṃsavatiyaṃ jātā seṭṭhikule ahuṃ,
              
              nānāratanapajjote mahāsukhasamappitā. 
              Khi ấy, tôi đã được sanh 
              ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô 
              số loại châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.
               
              
              597. Upetvā taṃ mahāvīraṃ assosiṃ 
              dhammadesanaṃ, 
              tato jātappasādā ’haṃ upesiṃ saraṇaṃ jinaṃ. 
              Tôi đã đi đến bậc Đại Hùng 
              ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín sanh 
              khởi, tôi đã đến nương nhờ vào đấng Chiến Thắng.
               
              
              598. Tato vinayadhārīnaṃ aggaṃ vaṇṇesi nāyako,
              
              bhikkhuniṃ lajjiniṃ tādiṃ kappākappavisāradaṃ. 
              Sau đó, đấng Lãnh Đạo đã 
              tán dương vị tỳ khưu ni khiêm tốn như thế ấy, được tự tin về các 
              điều được phép và không được phép, là đứng đầu trong số các vị ni 
              thông suốt về Luật.
               
              
              599. Tadā muditacittā ’haṃ taṃ 
              ṭhānamabhikaṅkhinī, 
              nimantetvā dasabalaṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ. 
              Khi ấy, có tâm được hân 
              hoan, có sự mong muốn về vị thế ấy, tôi đã thỉnh mời đấng Thập Lực 
              vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng. 
               
              
              600. Bhojayitvāna sattāhaṃ daditvā ca 
              ticīvaraṃ, 
              nipacca sirasā pade idaṃ vacanamabraviṃ: 
              Sau khi đã dâng vật thực 
              trong bảy ngày, tôi đã cúng dường ba y, rồi đã quỳ xuống đê đầu ở 
              bàn chân và đã nói lời nói này:
               
              
              601. “Yā tayā vaṇṇitā vīra ito aṭṭhamake ’hani,
              
              tādisā ’haṃ bhavissāmi yadi sijjhati nāyaka.” 
              “Bạch 
              đấng Anh Hùng, vị ni đã được Ngài tán dương vào tám ngày trước 
              đây. Bạch đấng Lãnh Đạo, nếu được thành tựu con sẽ trở thành như 
              vị ni ấy.”
               
              
              602. Tadā avoca maṃ satthā “Bhadde mā bhāyi 
              assasa, 
              anāgatamhi addhāne lacchase taṃ manorathaṃ. 
              Khi ấy, bậc Đạo Sư đã nói 
              với tôi rằng: “Này cô gái hiền thục, 
              chớ lo ngại, hãy yên tâm. Trong thời vị lai xa xôi, con sẽ đạt 
              được điều mong ước ấy.
               
              
              603. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
              
              gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati. 
              
              Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư 
              tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện 
              ở thế gian. 
               
              
              604. Tassa dhammesu dāyādā orasā dhammanimmitā,
              
              paṭācārāti nāmena hessasi satthusāvikā.” 
              
              (Người 
              nữ này) sẽ trở 
              thành nữ thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa 
              tự Giáo Pháp của 
              vị (Phật)
              ấy, là chánh thống,
              được tạo 
              ra từ Giáo Pháp, 
              có tên là Paṭācārā.”
               
              
              605. Tadā ’haṃ muditā hutvā yāvajīvaṃ tato 
              jinaṃ, 
              mettacittā paricariṃ sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ. 
              Khi ấy, tôi đã được hoan 
              hỷ. Với tâm từ mẫn tôi đã phục vụ đấng Chiến Thắng bậc Lãnh Đạo 
              Thế Gian cùng với hội chúng từ đó cho đến hết cuộc đời.
               
              
              606. Tena kammena sukatena cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do nghiệp ấy đã được thực 
              hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân 
              nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              607. Imasmiṃ bhaddake kappe brahmabandhu 
              mahāyaso, 
              kassapo nāma gottena uppajji vadataṃ varo. 
              Ở vào kiếp Bhadda này, 
              trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên 
              Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của 
              đấng Phạm Thiên.
               
              
              608. Upaṭṭhāko mahesissa tadā āsi narissaro,
              
              kāsirājā kikī nāma bārāṇasisuparuttame. 
              Khi ấy, có vị quân vương 
              là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ 
              độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
               
              
              609. Tass’ āsiṃ tatiyā dhītā bhikkhunī iti 
              vissutā, 
              dhammaṃ sutvā jinaggassa pabbajjaṃ samarocayiṃ. 
              Tôi đã là người con gái 
              thứ ba của vị (vua) ấy được nổi danh là Bhikkhunī. Sau khi lắng 
              nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
              
               
              
              610. Anujāni na no tāto agāreva tadā mayaṃ, 
              vīsaṃ vassasahassāni vicarimha atanditā. 
              Cha đã không cho phép 
              chúng tôi. Khi ấy, dầu chỉ là người tại gia chúng tôi đã đi đây đó 
              trong hai chục ngàn năm, không mệt mỏi. 
               
              
              611. Komāribrahmacariyaṃ rājakaññā sukhedhitā,
              
              buddhupaṭṭhānaniratā muditā satta dhītaro. 
              Là những người con gái của 
              đức vua được nuôi dưỡng sung sướng về tư cách nghiêm trang của 
              người thiếu nữ. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong 
              việc hộ độ đức Phật.
               
              
              612. Samaṇī samaṇaguttā ca bhikkhunī 
              bhikkhudāsikā, 
              dhammā ceva sudhammā ca sattamī saṅghadāsikā. 
              Samaṇī, Samaṇaguttā, 
              Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và 
              Saṅghadāsikā là thứ bảy.
               
              
              613. Ahaṃ uppalavaṇṇā ca khemā bhaddā ca 
              bhikkhunī, 
              kisāgotamī dhammadinnā visākhā hoti sattamī. 
              Tôi, Uppalavaṇṇā, Khemā, 
              Bhikkhunī hiền thục, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ 
              bảy (vào thời hiện tại). 
               
              
              614. Tehi kammehi sukatehi cetanāpaṇidhīhi ca,
              
              jahitvā mānusaṃ dehaṃ tāvatiṃsaṃ agacchahaṃ. 
              Do các nghiệp ấy đã được 
              thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ 
              thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
               
              
              615. Pacchime ca bhavedāni jātā seṭṭhikule 
              ahaṃ, 
              sāvatthiyaṃ puravare iddhe phīte mahaddhane. 
              Và trong kiếp sống cuối 
              cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc, 
              thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.
               
              
              616. Yadā ca yobbanūpetā vitakkavasagā ahaṃ,
              
              naraṃ jānapadaṃ disvā tena saddhiṃ agacch’ ahaṃ. 
              
              Và khi đã đạt đến tuổi 
              trưởng thành, bị tác động của sự suy tầm, sau khi gặp người đàn 
              ông quê mùa tôi đã bỏ đi cùng với người ấy.
              
              617. Ekaputtappasūtā ’haṃ dutiyo kucchiyaṃ 
              mama, 
              tadā ’haṃ mātāpitaro dakkhāmīti sunicchitā. 
              Tôi đã sanh ra một người 
              con trai, đứa thứ nhì còn ở trong bụng của tôi. Khi ấy, tôi đã ước 
              muốn mãnh liệt rằng: “Tôi sẽ gặp lại 
              cha mẹ.”
               
              
              618. Na rocesi pati mayhaṃ tadā tamhi pavāsite,
              
              ekikā niggatā gehā gantuṃ sāvatthimuttamaṃ. 
              Người chồng của tôi đã 
              không bằng lòng. Khi ấy, trong lúc người ấy đi vắng, mỗi một mình 
              tôi đã rời khỏi ngôi nhà để đi đến kinh thành Sāvatthī.
               
              
              619. Tato me sāmi āgantvā sambhāvesi pathe 
              mamaṃ, 
              tadā me kammajā vātā uppannā atidāruṇā. 
              Sau đó, người chồng của 
              tôi đã đi đến và đã gặp tôi ở trên đường lộ. Khi ấy, có cơn gió vô 
              cùng khủng khiếp sanh lên do nghiệp của tôi đã ào tới. 
               
              
              620. Uṭṭhito ca mahāmegho pasūtisamaye mama,
              
              dabbatthāya tadā gantvā sāmi sappena mārito. 
              Và có trận mưa lớn đã xuất 
              hiện vào lúc lâm bồn của tôi. Khi ấy, người chồng đã đi vì mục 
              đích củi gỗ (để sưởi ấm) và đã bị chết bởi con rắn. 
               
              
              621. Tadā vijātadukkhena anāthā kapaṇā ahaṃ,
              
              kunnadiṃ pūritaṃ disvā gacchantī sakulālayaṃ. 
              Khi ấy, do đau đớn vì đã 
              sanh đẻ, không người bảo hộ, tôi đã trở nên khốn khổ. Trong khi đi 
              đến chỗ trú ngụ của gia đình, tôi đã nhìn thấy con sông cạn bị 
              tràn ngập.
               
              
              622. Bālaṃ ādāya atariṃ parakūle ca ekakaṃ, 
              sāyetvā bālakaṃ puttaṃ itaraṃ tāraṇāy’ ahaṃ. 
              Sau khi ẳm lấy đứa bé tôi 
              đã lội qua, và có mỗi một đứa ở bờ bên kia. Tôi đã đặt đứa con 
              trai thơ dại nằm xuống vì việc mang đứa kia sang. 
               
              
              623. Nivattā ukkuso ’hāsi taruṇaṃ vilapantakaṃ,
              
              itarañca vahī soto sāhaṃ sokasamappitā. 
              Tôi đã quay trở lại. Có 
              con chim ưng đã tha đi đứa nhỏ đang kêu khóc và dòng nước đã cuốn 
              trôi đứa kia; tôi đây đã bị xâm chiếm bởi sầu muộn.
               
              
              624. Sāvathīnagaraṃ gantvā assosiṃ sajane mate,
              
              tadā avocaṃ sokaṭṭā mahāsokasamappitā. 
              Sau khi đi đến thành 
              Sāvatthī, tôi đã nghe rằng những người thân đã chết. Khi ấy, bị 
              dằn vặt bởi sầu muộn, bị xâm chiếm bởi nỗi sầu muộn lớn lao, tôi 
              đã nói rằng:
               
              
              625. “Ubho puttā kālakatā panthe mayhaṃ pati 
              mato, 
              mātā pitā ca bhātā ca ekacitakasmiṃ ḍayhare.” 
              “Cả 
              hai người con trai đã lìa đời, chồng của tôi đã bị chết ở trên 
              đường, mẹ cha và người em trai đã được thiêu chung ở một giàn hỏa 
              táng.”
               
              
              626. Tadā kisā ca paṇḍu ca anāthā dīnamānasā,
              
              ito tato bhamantīhaṃ addasaṃ narasārathiṃ. 
              Khi ấy, trở nên ốm yếu, 
              vàng vọt, không người bảo hộ, tâm ý thê lương, trong lúc đi quanh 
              quẩn đó đây tôi đã nhìn thấy đấng Điều Ngự Trượng Phu.
               
              
              627. Tato avoca maṃ satthā “putte mā soci 
              assasa, 
              attānaṃ tvaṃ gavesassu kiṃ niratthaṃ vihaññasi. 
              Sau đó, bậc Đạo Sư đã nói 
              với tôi rằng: “Này con gái, chớ khóc 
              than, hãy bình tâm. Con hãy tìm kiếm lại chính mình. Sao con lại 
              buồn đau một cách vô ích?
               
              
              628. Na santi puttā tāṇāya na pitā napi 
              bandhavā, 
              antakenādhipannassa natthi ñātīsu tāṇatā.” 
              
              Không có những người con trai, không có người 
              cha, cũng không có những người thân trong việc bảo vệ. Đối với 
              người đã bị khuất phục bởi sự chết, sự bảo vệ ở những người thân 
              là không có.”[13]
               
              
              629. Taṃ sutvā munino vākyaṃ paṭhamaṃ 
              phalamajjhagaṃ, 
              pabbajitvāna na ciraṃ arahattamapāpuṇiṃ. 
              Sau khi lắng nghe lời nói 
              ấy của bậc Hiền Triết, tôi đã chứng đạt quả vị thứ nhất. Sau khi 
              xuất gia không lâu, tôi đã thành tựu quả vị A-la-hán.
               
              
              630. Iddhīsu ca vasī homi dibbāya sotadhātuyā,
              
              paracittāni jānāmi satthusāsanakārikā. 
              Là người thực hành theo 
              lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về 
              thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác. 
               
              
              631. Pubbe nivāsaṃ jānāmi dibbacakkhu 
              visodhitaṃ, 
              khepetvā āsave sabbe visuddhāmhi sanimmalā. 
              Tôi biết được đời sống 
              trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, sau khi quăng bỏ tất cả các 
              lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, với sự không uế nhiễm. 
               
              
              632. Tato ’haṃ vinayaṃ sabbaṃ santike 
              sabbadassino, 
              uggaṇhiṃ sabbavitthāraṃ vyāhariṃ ca yathātathaṃ. 
              
              Sau đó, trong sự hiện diện 
              của đấng Toàn Tri, tôi đã học toàn bộ về Luật cùng tất cả phần chi 
              tiết và đã trình bày đúng theo như thế.
               
              
              633. Jino tasmiṃ guṇe tuṭṭho etadagge ṭhapesi 
              maṃ, 
              “Aggā vinayadhārīnaṃ paṭācārāva ekikā.” 
              Hoan hỷ về đức hạnh ấy, 
              đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng rằng: “Chỉ 
              mỗi một mình Paṭācārā là đứng đầu trong số các vị ni thông suốt về 
              Luật.”
               
              
              634. Pariciṇṇo mayā satthā kataṃ buddhassa 
              sāsanaṃ, 
              ohito garuko bhāro bhavanetti samūhatā. 
              Bậc Đạo Sư đã được tôi 
              phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng 
              nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
               
              
              635. Yassatthāya pabbajitā agārasmā ’nagāriyaṃ,
              
              so me attho anuppatto sabbasaṃyojanakkhayo. 
              Vì mục đích nào tôi đã rời 
              khỏi gia đình xuất gia vào cuộc sống không gia đình, mục đích ấy 
              tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
               
              
              636. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe 
              samūhatā, 
              nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā. 
              Các phiền não của tôi đã 
              được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt 
              sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không 
              còn lậu hoặc. 
               
              
              637. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa 
              santike, 
              tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Quả vậy, tôi đã thành công 
              mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật 
              trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
               
              
              638. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca 
              aṭṭhime, 
              chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 
              Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) 
              phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời 
              dạy của đức Phật.
               
              
              Itthaṃ sudaṃ Paṭācārā bhikkhunī imā gāthāyo 
              abhāsitthāti. 
              Tỳ khưu ni Paṭācārā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
               
              
              Paṭācārātheriyāpadānaṃ dasamaṃ. 
              
              Ký sự về trưởng lão ni 
              Paṭācārā là phần thứ mười.
              --ooOoo--
              
              Ekuposathikavaggo dutiyo.
              Phẩm Một Lần Trai Giới 
              là phẩm thứ nhì.
              
              Tassuddānaṃ:
              
              Tóm lược của 
              phẩm này:[14]
               
              
              Ekuposathikā ceva saḷalā cātha modakā, 
              ekāsanā pañcadīpā naḷamālī ca gotamī. 
              Khemā uppalavaṇṇā ca paṭācārā ca bhikkhunī,
              gāthā satāni pañceva nava cāpi taduttari.
              
              
              Vị ni Ekuposathikā, luôn 
              cả Saḷalā, rồi Modakā, Ekāsanā, Pañcadīpā, Naḷamālī, và Gotamī, 
              Khemā, Uppalavaṇṇā, và tỳ khưu ni Paṭācārā. Các câu kệ là năm trăm 
              và luôn cả chín câu thêm vào đó nữa.
              --ooOoo--
            
              
              
                
                
                
                [1]
                Ekuposathikā nghĩa là “người nữ có một lần thực hành 
                Bát quan trai giới.”
 
              
                
                
                
                [2]
                Salalapupphikā nghĩa là “người 
                nữ có bông hoa salala.”
 
              
                
                
                
                [3]
                Modakadāyikā nghĩa là “người nữ bố thí thịt vò viên.”
 
              
                
                
                
                [4]
                Ekāsanadāyikā nghĩa là “người nữ dâng một chỗ ngồi.”
 
              
                
                
                
                [5]
                Pañcadīpadāyikā nghĩa là “người nữ cúng dường năm ngọn 
                đèn.” Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 9 của 
                Pañcadīpikā (người nữ có năm ngọn đèn).
 
              
                
                
                
                [6]
                Sālamālikā nghĩa là “người nữ có tràng hoa Sālā.” 
                Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 5 của vị trưởng lão ni có 
                tên Naḷamālikā.
 
              
                
                
                
                [7]
                Mahāpajāpatigotamī nghĩa là “người nữ lãnh tụ vĩ đại 
                thuộc dòng họ Gotama.” 
              
 
              
                
                
                
                [8] 
                “ānando nir-ānando” là phép 
                chơi chữ , không thể diễn tả bằng tiếng Việt. 
              
 
              
                
                
                
                [9] 
                Dịch theo các bản Pāḷi của 
                Thái, Miến, Anh: tadā taṃ 
                phullapivinaṃ ...
 
              
                
                
                
                [10] 
                Xem Mahānidānasuttaṃ - Kinh 
                Đại Duyên, Trường Bộ II.
 
              
                
                
                
                [11]
                tepi patthesuṃ = các vị ấy 
                cũng đã ước nguyện (?), vì thế đã dịch theo Tam Tạng Thái Lan:
                patthesiṃ tesu puttesu.
 
              
                
                
                
                [12] 
                Các câu kệ từ 581 đến 587 được thấy ở Trưởng Lão Ni Kệ, Phẩm 
                Mười Một - Tập Mười Hai Kệ miêu tả cuộc đối thoại giữa Ma Vương 
                và vị trưởng lão ni.
 
              
                
                
                
                [13] 
                Kinh Pháp Cú, câu 288.
 
              
                
                
                
                [14] 
                Không thấy phần tóm lược này ở Tam Tạng của Sri Lanka. Được thêm 
                vào từ Tạng Miến.