Trang web BuddhaSasana |
VU Times font |
|
GƯƠNG
BẬC XUẤT GIA
Dhammarakkhita Bhikkhu
[1.2] Sơ Lược Tích Tiền Thân Ðại Ðức Raṭṭhapāla Trong bộ Chú giải Theragāthā, phần kệ của Ðại Ðức Raṭṭhapāla dạy rằng:Trước thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ðại Ðức Ra ṭṭhapāla sanh trong một gia đình giàu sang phú quý trong thành Haṃsavatī. Khi Ngài trưởng thành, cha mẹ của Ngài đã qua đời, Ngài trở thành người thừa kế tất mọi tài sản của cải lớn lao của dòng họ không sao kể được. Những người quản gia chỉ cho Ngài thấy những kho của cải, và thưa rằng:- Ðây là phần của cải của tổ tiên để lại. - Ðây là phần của cải của ông bà, cha mẹ để lại. Ngài suy xét rằng: "Những tài sản của cải to lớn này từ nhiều đời để lại, không một ai đem theo được món nào. Ðến đời ta, ta nên sử dụng tất cả tài sản của cải này đem lại sự lợi ích, sự an lạc thật sự". Do đó, Ngài đem tất cả tài sản của cải bố thí đến những người nghèo khổ thiếu thốn, người khách qua đường.... Ngài hộ độ một vị đạo sĩ chứng đắc thiền và thần thông. Suốt cuộc đời, Ngài làm mọi phước thiện cho đến hết tuổi thọ. Sau khi chết, do thiện nghiệp ấy cho quả, Ngài được tái sanh làm chư thiên cõi trời dục giới. Ngài thọ hưởng sự an lạc cõi trời cho đến hết tuổi thọ. Vào thời kỳ Ðức Phật Padumuttara [1] xuất hiện trên thế gian, thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100.000 năm. Ðức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh, giải thoát cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Thời ấy, tiền thân của Ngài Raṭṭhapāla từ cõi trời tái sanh làm công tử duy nhất, trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc giàu sang. Khi trưởng thành, một hôm công tử cùng nhóm cận sự nam, cận sự nữ đến chùa nghe Ðức Phật Padumuttara thuyết pháp, công tử phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng. Lúc ấy, Ðức Phật Padumuttara tuyên dương một vị Tỳ khưu có phẩm hạnh cao quý nhất trong hàng Thanh văn đệ tử về đức hạnh xuất gia bằng đức tin trong sạch nơi Tam bảo. Công tử nhìn thấy vị Tỳ khưu ấy liền phát sanh đức tin trong sạch, có ước nguyện sẽ trở thành vị Tỳ khưu xuất gia bằng đức tin trong sạch, như vị Tỳ khưu ấy. Do ước nguyện ấy, công tử kính thỉnh Ðức Phật Padumuttara cùng 100 ngàn chư Tỳ khưu Tăng làm phước đại thí suốt 7 ngày. Ðến ngày thứ 7, công tử làm đại lễ cúng dường đến Ðức Phật Padumuttara cùng 100 ngàn chư Tỳ khưu Tăng, và phát nguyện muốn trở thành địa vị Tỳ khưu cao quý nhất trong hàng Thanh văn đệ tử của Ðức Phật trong vị lai, về đức hạnh xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng đức tin trong sạch nơi Tam bảo, như vị Tỳ khưu, bậc Thánh Thanh văn đệ tử của Ðức Phật Padumuttara. Ðức Phật Padumuttara dùng Phật nhãn thấy rõ, biết rõ ước nguyện của người cận sự nam ấy không có gì trở ngại, nên đã thọ ký rằng: - Trong vị lai, người cận sự nam này sẽ đạt được địa vị Tỳ khưu cao quý nhất trong hàng Thanh văn đệ tử của Ðức Phật Gotama, về đức hạnh xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng đức tin trong sạch nơi Tam bảo. Khi công tử nghe Ðức Phật Padumuttara thọ ký như vậy, vô cùng hoan hỉ, đảnh lễ Ðức Phật Padumuttara cùng chư Tỳ khưu Tăng, rồi từ đó tinh tấn kiên trì tạo mọi thiện pháp cho đến hết tuổi thọ. Do phước thiện ấy, Ngài tái sanh làm người và làm chư thiên cõi trời dục giới, (không hề sa vào 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) mãi cho đến kiếp trái đất thứ 92 trong quá khứ, cách kiếp trái đất hiện tại, mà chúng ta đang sống này. Vào thời kỳ Ðức Phật Phussa [2] xuất hiện trên thế gian, thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90.000 năm, tiền thân Ngài Ðại Ðức Raṭṭhapāla là một cận sự nam có đức tinh trong sạch nơi Tam bảo, lo hộ độ Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu cho đến trọn đời. Do phước thiện ấy, Ngài chỉ có tái sanh nơi cõi thiện giới, không hề sa vào 4 cõi ác giới. Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân Ngài sanh trưởng trong gia đình phú hộ tại tỉnh Thullakoṭṭhita thuộc xứ Kuru. Ngài mang tên của dòng họ là Raṭṭhapāla. Công tử Raṭṭhapāla là đứa con duy nhất, được sanh ra và trưởng thành trong cảnh giàu sang phú quý, đời sống của công tử hưởng mọi sự an lạc trong đời. Một thuở nọ, Ðức Phật cùng số đông chư Tỳ khưu Tăng du hành đến xứ Kuru, công tử Raṭṭhapāla nghe Ðức Phật thuyết pháp phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam bảo, quyết chí xuất gia trở thành Tỳ khưu. Ban đầu, song thân từ chối không cho phép công tử xuất gia, nhưng về sau thấy thái độ cương quyết của con mình, và nghe theo lời khuyên của những người bạn công tử, nên song thân ưng thuận cho phép. Công tử Raṭṭhapāla được xuất gia trở thành Tỳ khưu nơi Ðức Thế Tôn, không lâu sau, Tỳ khưu Raṭṭhapāla tinh tấn tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng cùng với Tứ tuệ phân tích và Lục thông, trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama. Một hôm, chư Tỳ khưu Tăng hội họp, Ðức Thế Tôn tuyên dương địa vị của Ðại Ðức Raṭṭhapāla rằng: - Etadaggaṃ bhikkhave mama Sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ saddhā pabbajitānaṃ yadidaṃ Raṭṭhapāla. "Này chư Tỳ khưu, trong hàng Tỳ khưu Thanh văn đệ tử của Như Lai, Raṭṭhapāla là Tỳ khưu cao quý nhất về đức hạnh xuất gia bằng đức tin trong sạch nơi Tam bảo".
Phần Raṭṭhapālattheragāthā Kệ Ðại Ðức Raṭṭhapāla có đoạn Ngài dạy rằng:
Tiền Thân Của Ðại Ðức Raṭṭhapāla Trong Bộ Therāpadāna, phần Raṭṭhapālatherā-pādāna, Ðại Ðức Raṭṭhapāla cho biết về những tiền thân của Ngài đã từng tạo phước thiện có đoạn dạy rằng:
- Ðại Ðức Raṭṭhapāla thuật lại rằng: thông. Bần đạo đã hoàn thành, phận sự bậc Sa môn. Hoàn thành lời giáo huấn, tối thượng của Ðức Phật. Bần đạo biết rõ rằng, kiếp nấy là kiếp chót. Khi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tái sanh, Trong ba giới bốn loài, thật an lạc tuyệt đối. Ngài Ðại Ðức Raṭṭhapāla, là một bậc Thánh A-ra-hán xuất sắc nhất về đức hạnh xuất gia bằng đức tin trong sạch nơi Tam bảo, đó là quả của thiện nghiệp mà Ngài đã tạo từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại. Những tiền thân của Ngài từ sự tư duy đúng đắn về cuộc đời con người, Ngài đã sử dụng của cải đem ra làm phước bố thí, có duyên lành gặp Ðức Phật Padumuttara, được nhìn thấy vị Thánh A-ra-hán xuất sắc nhất về đức hạnh xuất gia bằng đức tin trong sạch nơi Tam bảo, trong giáo pháp Ðức Phật Padumuttara, nên mới ước nguyện trở thành vị Thánh A-ra-hán như vị Thánh ấy trong thời vị lai. Ngài thỉnh Ðức Phật cùng trăm ngàn chư Ðại Ðức Tăng làm phước cúng dường suốt bảy ngày rồi phát nguyện ra bằng lời, được Ðức Phật Padumuttara thọ ký trong vị lai chắc chắn sẽ thành tựu điều ước nguyện ấy. Cuộc đời của Ngài có mục đích cứu cánh cuối cùng, cho nên kiếp nào Ngài cũng cố gắng bồi bổ pháp hạnh ba la mật cho đầy đủ chỉ vì mục đích cao cả ấy; đến kiếp hiện tại, Ngài hạ sanh trong gia đình giàu sang phú quý, hưởng mọi sự an lạc ngũ trần, song Ngài vẫn bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu, chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán xuất sắc nhất về đức hạnh xuất gia bằng đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có địa vị cao cả đúng như lời thọ ký của Ðức Phật Padumuttara trong quá khứ. Sự tích cuộc đời Ngài là gương mẫu cho các hàng Phật tử chúng ta học tập noi theo. II-TÍCH ÐẠI ÐỨC TỲ KHƯU NI SUMEDHĀ Ðại Ðức Tỳ khưu ni Sumedhā, kiếp hiện tại là Công chúa Sumedhā, con bà chánh cung hoàng hậu của đức vua Koñca, trị vì kinh thành Mantavatī. Sơ Lược Tiền Thân Tỳ Khưu Ni Sumedhā Trong bộ Chú giải Therīgāthā, Ðại Ðức Tỳ khưu ni Sumedhā dạy rằng: Những tiền thân của Ngài đã từng tạo pháp hạnh ba la mật, với ý nguyện mong giải thoát khỏi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. - Trong kiếp trái đất này, vào thời kỳ tuổi thọ con người khoảng 30.000 năm, Ðức Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ðại Ðức Tỳ khưu ni Sumedhā, sanh làm con trong một gia đình phú hộ có nhiều của cải. Cô là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, cùng với hai người bạn gái tên là Dhanañjānī và Khemā xây cất một ngôi chùa lớn, nguy nga tráng lệ, dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng có Ðức Phật Koṇāgamana chủ trì, và hộ độ bốn thứ vật dụng đến Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng cho đến trọn đời. Do phước thiện ấy cho quả, cô được tái sanh làm chư thiên cõi trời dục giới và làm người suốt nhiều kiếp, không hề sa vào 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh). Cô tái sanh cõi trời nào, cũng là một thiên nữ cao quý nhất, là Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua trời cõi ấy, và được hưởng sự an lạc cao quý trong cõi trời ấy. Nếu cô sanh làm người vào thời đại có Ðức Chuyển luân thánh vương, cô sẽ là Chánh cung Hoàng hậu của Ðức Chuyển luân thánh vương, và vào thời đại không có Ðức Chuyển luân thánh vương, cô sẽ là Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua một nước lớn. - Vào thời kỳ tuổi thọ con người khoảng 20.000, có Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian. Cô tái sanh trong một gia đình quý phái, là bạn thân với 6 công chúa của đức vua Kīkī trị vì kinh thành Baraṇasī, họ đều là cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Tam bảo, hoan hỉ trong sự bố thí cúng dường, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ cho đến trọn đời. - Cô tái sanh làm thiên nữ cõi Tam thập tam thiên, hưởng sự an lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 1.000 năm. (So với cõi người là 36 triệu năm, bởi 1 ngày 1 đêm của cõi trời này bằng 100 năm cõi người). - Cô tái sanh làm thiên nữ cõi trời cao hơn 1 bậc là cõi Dạ ma thiên, hưởng sự an lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 2.000 năm. (So với cõi người là 144 triệu năm, bởi 1 ngày 1 đêm của cõi trời này bằng 200 năm cõi người). - Cô tái sanh làm thiên nữ cõi trời cao hơn 1 bậc là cõi Ðâu suất đà thiên, hưởng sự an lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 4.000 năm. (So với cõi người là 576 triệu năm, bởi 1 ngày 1 đêm của cõi trời này bằng 400 năm cõi người). - Cô tái sanh làm thiên nữ cõi trời cao hơn 1 bậc là cõi Hóa lạc thiên, hưởng sự an lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 8.000 năm. (So với cõi người là 2.304 triệu năm, bởi 1 ngày 1 đêm của cõi trời này bằng 800 năm cõi người). - Cô tái sanh làm thiên nữ cõi trời cao hơn 1 bậc là cõi Tha hóa tự tại thiên, hưởng sự an lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 16.000 năm. (So với cõi người là 9.216 triệu năm, bởi 1 ngày 1 đêm của cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người). Do năng lực phước thiện, cô sanh làm thiên nữ cõi trời nào, cũng đều làm Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua trời cõi ấy và hưởng sự an lạc cao quý trong cõi trời ấy. Kiếp Hiện Tại Của Ðại Ðức Tỳ Khưu Ni Sumedhā Vào thời kỳ tuổi thọ con người 100 năm, Ðức Phật Gotama hiện tại xuất hiện trên thế gian. Cô từ cõi Tha hoá tự tại thiên, tái sanh làm người, là Công chúa Sumedhā của Ðức vua Koñcā trị vì kinh thành Mantavatī. Do năng lực phước thiện ba la mật đã tạo nhiều kiếp trong quá khứ, đến kiếp này là kiếp chót của cô. Vì vậy, dầu khi còn nhỏ, công chúa thường đến chùa Tỳ khưu ni để nghe pháp. Công chúa thường phát sanh động tâm (saṃvega), kinh sợ cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, phát sanh tâm nhàm chán sắc thân ô trược này; trí tuệ thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, phát sanh tâm nhàm chán ngũ trần, không muốn đời sống người tại gia, có chí hướng bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Khi Công chúa Sumedhā trưởng thành, Ðức vua và Hoàng hậu có ý định tác hợp Công chúa kết hôn cùng với đức vua Anikaratta trị vì kinh thành Vāraṇavati. Ðức vua và Hoàng hậu khuyên bảo Công chúa không nên xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, nên thành hôn với đức vua Anikaratta, sẽ trở thành Chánh cung Hoàng hậu của đức vua Anikaratta, có nhiều quyền thế, có đầy đủ sự an lạc trong ngũ trần không một ai sánh được. Song công chúa Sumedhā nhất quyết không ưng thuận, quyết chí từ bỏ cung điện xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Trong bộ Therīgāthā, phần Sumedhāgāthā, Ðại Ðức Tỳ khưu ni Sumedhā dạy rằng:
Công chúa Sumedhā đến gặp Ðức vua và Hoàng hậu tâu rằng:
Tuy nghe Công chúa tâu xin như vậy, nhưng Ðức vua và Hoàng hậu vẫn không bằng lòng cho phép công chúa xuất gia. Biết phụ hoàng và mẫu hậu chưa bằng lòng cho phép, công chúa Sumedhā nói quả quyết rằng: "Ngày nào con còn sống tại gia, ngày ấy, con sẽ không dùng vật thực, thà chịu chết mà thôi", rồi nằm lăn xuống nền lâu đài tại nơi ấy than khóc. Hoàng hậu thương con cũng khóc theo, còn Ðức vua thấy vậy cũng sầu não. Ðức vua và Hoàng hậu khuyên bảo công chúa Sumedhā rằng: - Sumedhā con yêu quý, hãy dậy đi con! Con nên sống để tận hưởng sự an lạc trong đời. Con làm như vậy có ích lợi gì đâu? Phụ hoàng đã tác hợp con với đức vua Anikaratta, người có uy danh lừng lẫy, đang trị vì kinh thành Vāraṇavati, con sẽ trở thành Chánh cung Hoàng hậu của đức vua Anikaratta. Sumedhā con yêu quý, xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, giữ gìn Tứ thanh tịnh giới, hành phạm hạnh khó lắm con à! Còn địa vị cao quý, quyền lực, giang sơn sự nghiệp của đức vua Anikaratta tất cả sẽ thuộc về con dễ dàng. Tuổi còn trẻ, con nên thụ hưởng ngũ trần. Vì vậy, phụ hoàng, mẫu hậu khuyên con nên thành hôn với đức vua Anikaratta. Công chúa Sumedhā vẫn cương quyết tâu với phụ hoàng và mẫu hậu rằng: Ô trược đáng nhờm gớm, của sắc thân này được! Dầu chính mình cũng thấy, sắc thân ô trược này, Quả thật đáng nhàm chán, đáng ghê tởm dường nào! Huống chi bậc Thiện trí, có trí tuệ thiền tuệ, Thấy rõ biết rõ rằng: sắc thân này chỉ là: Sắc uẩn hoặc thân xứ, thân giới hoặc sắc thân, Do 4 nhân duyên là: nghiệp, tâm, với thời tiết, Và Vật thực tạo nên, sắc thân ô trược này. Chỉ thuộc về khổ đế, do tham ái là nhân. Con cũng thường quán xét, thấy đúng sự thật này, Thì làm sao có thể, thành hôn với Ðức vua, A-ni-ka-rat-ta, thành Chánh cung Hoàng hậu! Tâu phụ hoàng, mẫu hậu: Con có thể chấp nhận, mỗi ngày dầu có đến, Ba trăm mũi giáo bén, đâm vào sắc thân con, Con phải chịu đựng suốt, một trăm năm như vậy, Nếu con được giải thoát, khổ tử sanh luân hồi, Sự chịu đựng như thế, cao thượng biết dường nào! Người nào khi đã hiểu, lời dạy của Ðức Phật, Vòng tử sanh luân hồi, vô thủy không biết được, Người ấy phải chịu đựng, ba trăm mũi giáo đâm; Nếu họ được giải thoát, khổ tử sanh luân hồi, Sự chịu đựng thống khổ, bởi những mũi giáo ấy, Cũng vẫn xứng đáng hơn, người si mê phải chịu, Khổ sanh-lão-bệnh-tử, luân hồi không cùng tận. Khổ trong 4 ác giới, không sao kể xiết được! Chúng sinh đọa địa ngục, chịu hành hạ cực hình, Như đâm chém, đánh đập, chết đi rồi sống lại. Chư thiên ở cõi trời, cũng còn phải chịu khổ, Bởi tham ái, vô minh, lửa phiền não thiêu đốt. Cả tam giới đều khổ, không có nơi an toàn, Không có an lạc nào, hơn an lạc Niết Bàn. Chư bậc Thiện trí nào, thường có sự tinh tấn, Hành theo Ðức Phật dạy, mà tiến hành thiền tuệ. Tinh tấn không ngừng nghĩ, thì bậc Thiện trí ấy, Có thể chứng ngộ được, chân lý Tứ thánh đế, Chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, Niết Bàn. Ðó là pháp diệt tận, khổ sanh-lão-bệnh-tử. Tâu phụ hoàng, mẫu hậu. Ngay hôm nay con nguyện, tha thiết chỉ một điều, Nhất định sẽ xuất gia, trở thành Tỳ khưu ni. Chẳng có lợi ích gì, ngôi Chánh cung Hoàng hậu. Những của cải tài sản, ngũ trần vô dụng ấy. Con thật sự nhàm chán, không còn chút tham muốn, Ngũ trần đáng ghê tởm, nên tránh xa mà thôi! Con sẽ làm như cây, thốt nốt đã đứt ngọn, Không bao giờ có thể, đâm chồi lên được nữa. Nghe Công chúa tâu trình những sự thật, và cho biết ý nguyện tha thiết cùng với sự quyết tâm của mình; Ðức vua và Hoàng hậu đang phân vân, vì hai Người chỉ muốn Công chúa thành hôn cùng đức vua Anikaratta, để trở thành Chánh cung Hoàng hậu, thì được tin báo đức vua Anikaratta dẫn đầu một đoàn tùy tùng sắp đến để cử hành hôn lễ với công chúa Sumedhā. Khi nghe tin ấy, Công chúa biết rằng không thể dùng lời nói khẩn khoản để năn nỉ suông được, nên tỏ ý chí cương quyết bằng hành động. Nghĩ xong, cô vội vã đứng dậy, chạy lên lâu đài, vào phòng đóng cửa cẩn thận, lấy thanh gươm cắt ngang mái tóc đen nhánh mềm mại, rồi ngồi yên tịnh tiến hành thiền định, với đề mục niệm thân bất tịnh, chẳng bao lâu, Công chúa chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, nhập định đệ nhất thiền. Trong lúc ấy, Ðức vua Anikaratta với oai phong lẫm liệt, trang phục bằng những viên ngọ mani quý giá, ngự vào đến kinh thành Mantavatī, hay tin Công chúa cự tuyệt việc kết hôn, nên vội vã đến tận lâu đài nơi Công chúa đang ở, đứng bên ngoài nói vọng vào, khẩn khoản năn nỉ nàng rằng:
Nghe Ðức vua Anikaratta khuyên như vậy, Công chúa Sumedhā tâu lại rằng:
Công chúa Sumedhā mở cánh cửa, nhìn thấy đức vua Anikaratta và phụ hoàng, mẫu hậu ngồi phía dưới sầu não khóc than, nàng tâu với lời lẽ rằng: Ỵ, của mỗi chúng sinh lại, Nhiều hơn số lượng nước, trong bốn biển đại dương. Và cũng y như vậy, số lượng máu đã chảy, Số lượng sữa [6] đã bú, của mỗi một chúng sinh, Nếu gom cả lại được, nhiều hơn nước bốn biển. Số xương [6] nơi nghĩa địa, bộ xương chồng bộ xương, Của mỗi một chúng sinh, chỉ trong một đại kiếp, Nếu chồng chất lại được, cao bằng (núi) Vi-pu-la. Ðức Phật dùng trái đất, để so sánh như vầy: Lấy đất trên địa cầu, viên thành từng viên nhỏ, Chỉ bằng đầu ngón tay, đếm rằng: viên này mẹ, Viên kia mẹ của mẹ [6], viên khác mẹ của bà,.... Và cứ đếm như vậy, suốt trong vòng luân hồi, Sự sanh tử, tử sanh, từ vô thủy đến nay, Ðất địa cầu đã hết, mẹ của mẹ chưa cùng. Ðức Phật dùng cây cối, để so sánh như vầy: Lấy cây trên địa cầu, chặt thành lóng ngăn ngắn, Dài bằng bốn lóng tay, đếm: đoạn này là cha, Ðoạn kia cha của cha [6], đoạn khác cha của ông,.... Và cứ đếm như vậy, suốt trong vòng luân hồi, Sự sanh tử, tử sanh, từ vô thủy đến nay, Cây trên địa cầu hết, cha của cha chưa cùng. Ðức Phật dạy: sự khó, được tái sanh làm người. Ðức Phật lấy ví dụ, như một tấm ván nhỏ, Có lỗ vừa đầu rùa, thả trôi trong đại dương. Tấm ván trôi theo gió, Ðông, Tây, Nam và Bắc.... Có một con rùa mù [6], ở dưới đáy đại dương, Cứ trăm năm một lần, nổi lên trên mặt nước, Chui đầu lọt vào lỗ, của tấm ván nhỏ kia, Còn dễ hơn chúng sinh, trong bốn cõi ác giới, Ðược tái sanh làm người, thật vô cùng khó hơn! Ðức Phật thường dạy bảo: sắc thân ô trược này, Sanh diệt như bóng nước, không có gì bền vững. Nếu có trí thiền tuệ, thấy ngũ uẩn sanh diệt, Có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, vô ngã. Cũng nên hiểu biết rõ, tám hầm cõi địa ngục, Chỉ có sự thống khổ, rất cùng cực mà thôi. Chúng sinh vì sự sống, nên phải tranh giành nhau, Từ miếng ăn, miếng uống, đã tạo bao ác nghiệp. Sau khi bỏ sanh mạng, sa vào cõi ác giới, Ðức Phật có tâm bi, quảng đại và vô lượng, Thuyết pháp độ chúng sinh, giải thoát khổ tử sanh. Khi Ðức Phật thuyết dạy, chỉ rõ pháp Niết Bàn, Có vị giải thoát khổ [7], vòng tử sanh luân hồi. Nào có lợi ích gì! Ngũ trần của Hoàng thượng, Chỉ có vị đắng cay [8], làm khổ thân, khổ tâm. Khi Ðức Phật thuyết dạy, chỉ rõ pháp Niết Bàn, Pháp diệt đoạn tuyệt được, những phiền não nóng nảy. Nào có lợi ích gì! Ngũ trần của Hoàng thượng, Nơi phiền não phát sanh, gây nên bao nóng nảy. Kiếp hiện tại, vị lai, người say mê ngũ trần, Như rơi vào hầm lửa, bị thiêu đốt nóng nảy, Có mười một loại lửa, luôn thiêu đốt ngày đêm. Theo con đường xuất gia, tránh khỏi năm kẻ thù. Nào có lợi ích gì! Ngũ trần của Hoàng thượng, Cận kề năm kẻ thù, rất nguy hiểm không ngờ. Người say mê ngũ trần, hẳn phải liên quan đến, Năm kẻ thù nguy hiểm: là vua chúa, trộm cướp, Cùng lửa cháy, nước cuốn, và người ghét chiếm đoạt. Khi Ðức Phật thuyết dạy, A-ra-hán Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn, là pháp giải thoát khổ. Nào có lợi ích gì! Ngũ trần của Hoàng thượng, Chỉ là nơi giam hãm, sát hại và chém giết, Do tranh giành lẫn nhau, gây bao nỗi khổ đau. Người say mê ngũ trần, muốn chiếm đoạt cho được, Là nhân giết lẫn nhau, cảnh tù đày giam hảm.... Ngũ trần là tệ hại, nguy hiểm nhất trên đời! Vậy chớ nên say đắm! Ngũ trần độc dược ấy. Ðuốc cỏ khô cháy đỏ, có thể thiêu hủy người. Ngũ trần chẳng khác nào, ngọn đuốc cháy đỏ ấy, Người không chịu từ bỏ, sẽ bị nó thiêu hủy, Nóng nảy kiếp hiện tại, và nhiều kiếp vị lai. Xin Hoàng thượng đừng bỏ, sự an lạc Niết Bàn, Chỉ vì sự an lạc, của ngũ trần chút ít. Như con cá tham ăn, thấy mồi ngon không bỏ, Mà nuốt phải lưỡi câu, chịu khổ đau đến chết. Hoàng thượng bị ràng buộc, bởi tham ái ngũ trần. Như súc vật bị cột, bằng sợi dây vào cọc, Chỉ quanh quẩn, quẩn quanh, không sao thoát khỏi được. Hoàng thượng bị ràng buộc, trong ngũ trần cũng vậy, Ngũ trần sẽ đem lại, tai hại cho Hoàng thượng. Sẽ chịu cảnh khổ thân, khổ tâm không cùng tận. Xin Hoàng thượng thấy rõ, tội lỗi của ngũ trần, Nên từ bỏ chúng đi, để thoát khỏi cảnh khổ. Tất cả mọi kiếp sống, cao quý hay thấp hèn, Sự già và sự chết, gắn liền với kiếp sanh, Sự già, sự chết ấy, không sao tránh khỏi được. Nên Ðức Phật đã dạy: "Niết Bàn, pháp giải thoát, khỏi tử sanh hiện có". Nào có lợi ích gì! Ngũ trần của Hoàng thượng, Không tránh khỏi tử sanh, chịu đau khổ triền miên. Niết Bàn pháp giải thoát, khổ sanh, lão, bệnh, tử. Là pháp diệt đoạn tuyệt, được tất cả phiền não. Là pháp thật an toàn, không hề có tai họa. Là pháp diệt đoạn tuyệt, hoàn toàn mọi cảnh khổ. Niết Bàn, pháp diệt khổ, pháp an lạc tuyệt đối. Ðức Phật đã chứng ngộ, Niết Bàn, giải thoát khổ. Ðức Phật đã thuyết dạy, pháp hành Bát chánh đạo, Con đường để chứng ngộ, Niết Bàn, giải thoát khổ. Những hành giả tiến hành, đúng theo Bát chánh đạo, Chứng ngộ được Niết Bàn, ngay kiếp hiện tại này. Những người không tiến hành, đúng theo Bát chánh đạo, Thì không thể chứng ngộ, được Niết Bàn bất tử. Công chúa Sumedhā giảng pháp bằng nhiều cách vô cùng phong phú như vậy, khiến cho đức vua Anikaratta đổi ý, vì nghe và hiểu rõ tâm trạng của Công chúa không còn tham muốn những gì trong thế gian này nữa. Khi ấy, công chúa Sumedhā từ trên lâu đài ném nắm tóc huyền xuống mặt nền trước lâu đài, thấy vậy, đức vua Anikaratta đứng dậy chắp tay tâu với đức vua Koñca, phụ hoàng của Công chúa rằng: - Tâu Ðại vương và Hoàng hậu, xin hai Người cho phép công chúa Sumedhā xuất gia; khi Công chúa xuất gia trở thành Tỳ khưu ni rồi, nàng sẽ chứng ngộ Niết Bàn như ý nguyện. Ðức vua Anikaratta tâu xin như vậy, nên phụ hoàng và mẫu hậu của Công chúa chấp thuận cho phép nàng xuất gia trở thành Tỳ khưu ni theo ý nguyện. Ðược song thân chấp nhận theo ý nguyện của mình, công chúa Sumedhā vô cùng hoan hỉ, bởi do kinh sợ cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, nên nàng vội lạy từ giả phụ hoàng và mẫu hậu, cùng thân quyến trong hoàng tộc, rời bỏ cung điện lên đường đi thẳng đến ngôi chùa Tỳ khưu ni xin làm lễ thọ giới Sikkhamānā (trước khi thọ Tỳ khưu ni). Nàng tiến hành thiền tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, và Niết Bàn, cùng với Lục thông, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cao thượng trong giáo pháp của Ðức Phật. Trong kiếp hiện tại, Ðại Ðức Tỳ khưu ni Sumedhā trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đó là quả của những pháp hạnh ba la mật đã từng tạo nhiều kiếp trong quá khứ. Nguyên nhân như thế nào? Trong bộ Apādāna, phần Sumedhātherī apādāna, Ðại Ðức Tỳ khưu ni Sumedhā cho biết rằng: Trong quá khứ, thời kỳ Ðức Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế gian, thời ấy có 3 người bạn gái là: cô Dhanañjānī, cô Khemā và tiền thân của bần đạo (Sumedhā), cả ba người cùng chung nhau xây cất một ngôi chùa lớn nguy nga. Sau khi hoàn thành xong, cả ba người cùng làm lễ dâng cúng ngôi chùa ấy đến chư Tỳ khưu Tăng có Ðức Phật Koṇāgamana chủ trì. Do năng lực phước thiện bố thí ngôi chùa ấy, cho quả tái sanh lên cõi trời hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp,..., tái sanh làm thiên nữ cõi trời nào, tiền thân của bần đạo cũng là thiên nữ ở địa vị cao cả nhất, Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua cõi trời ấy, có nhiều oai lực, hưởng sự an lạc cao quý. Hoặc tái sanh làm người, tiền thân của bần đạo cũng là người nữ ở địa vị cao cả nhất, Chánh cung Hoàng hậu của Ðức Chuyển luân thánh vương, hoặc của Ðức vua một xứ lớn (thời kỳ không có Ðức Chuyển luân thánh vương). Phước thiện dâng cúng ngôi chùa ấy, đến chư Tỳ khưu Tăng có Ðức Phật Koṇāgamana chủ trì, đó là nguyên nhân đầu tiên, là thiện nghiệp cho quả được thành tựu cõi người (manussasampatti), được thành tựu cõi trời (devasampatti), và cuối cùng được thành tựu Niết Bàn (Nibbānasampatti). Do nhờ phước thiện dâng cúng ngôi chùa ấy làm nhân duyên hỗ trợ cho tiền thân của bần đạo hoan hỉ trong mọi thiện pháp, đặc biệt kiếp hiện tại của bần đạo nguyên là công chúa Sumedhā, từ khi còn nhỏ đã có tâm hoan hỉ gần gũi thân cận với bậc Thiện trí, bậc Thánh Tăng, được lắng nghe lời giáo huấn của Ðức Phật, đã phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam bảo, đã thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, nhàm chán sắc thân ô trược, kinh sợ cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài; đến khi trưởng thành, bần đạo không thích sống trong cung điện, mà chỉ có ý nguyện xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Bần đạo đã xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama là điều cao thượng thật sự. Bởi vì, bần đạo đã chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo, A-ra-hán Thánh Quả cùng Tam minh, Tứ tuệ phân tích, Lục thông. Bần đạo là một bậc Thánh A-ra-hán, đã hoàn thành xong phạm hạnh, đã thực hành xong lời giáo huấn của Ðức Phật, trí tuệ thấy rõ biết rõ kiếp này là kiếp chót, sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Qua hai sự tích, Ðại Ðức Raṭṭhapāla và Ðại Ðức Tỳ khưu ni Sumedhā, là hai tấm gương tiêu biểu cho các hàng Phật tử học hỏi nghiên cứu kỷ rồi cố gắng noi gương theo quý Ngài, chắc chắn sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài ngay trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai. BẬC THÁNH THANH VĂN (Ariyasāvaka) Trong Phật giáo, bậc Thánh Thanh văn là bậc được nghe lời giáo huấn của Ðức Phật, thực hành theo pháp hành thiền tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân, gọi là bậc Thánh Thanh văn đệ tử của Ðức Phật. - Nếu kể đôi Thánh Ðạo – Thánh Quả chung, thì có 4 bậc như sau: 1- Bậc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả. - Nếu kể đơn Thánh Ðạo – Thánh Quả riêng, thì có 8 bậc như sau: 1- Bậc Nhập Lưu Thánh Ðạo. Những bậc Thánh Thanh văn này được chứng đắc tùy theo khả năng ba la mật đã tạo nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại, gặp được Ðức Phật hoặc giáo pháp của Ngài. Bậc Thánh Nam Thanh Văn Trong Phật giáo, bậc Thánh nam Thanh văn đệ tử của Ðức Phật, có 3 bậc như sau: 1- Aggasāvaka: bậc Thánh tối thượng Thanh văn. Ba bậc Thánh Thanh văn này được thành tựu do ba la mật và lời phát nguyện của mình. 1- Bậc Thánh tối thượng Thanh văn như thế nào? Bậc Thánh tối thượng Thanh văn là bậc Thánh A-ra-hán cao cả nhất trong hàng Thánh Thanh văn đệ tử của Ðức Phật, do phát nguyện ra lời và đã được Ðức Phật trong quá khứ thọ ký rõ ràng. Ðối với vị Bồ Tát tối thượng Thanh văn (Aggasāvaka-bodhisatta) ấy, sau khi đã được Ðức Phật trong quá khứ thọ ký xong, cần phải tạo 10 pháp ba la mật: - Bố thí ba la mật (Dānapāramī). Trong suốt thời gian 1 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Khi vị Bồ Tát tối thượng Thanh văn đã tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba la mật rồi, trong kiếp hiện tại chắc chắn phải gặp Ðức Phật, đúng theo lời thọ ký của Ðức Phật trong quá khứ. Vị Bồ Tát ấy đến hầu Ðức Phật, xin thọ Tỳ khưu, và được Ðức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách gọi "Ehi Bhikkhu". Sau khi trở thành Tỳ khưu, vị Tỳ khưu ấy, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán có Tứ tuệ phân tích, Lục thông.... Trong cuộc lễ đại hội Thánh Tăng, Ðức Phật tuyên dương bậc Thánh A-ra-hán ấy, là bậc Thánh tối thượng Thanh văn cao cả nhất trong hàng Thanh văn đệ tử của Ðức Phật. Ðức Phật Gotama có 2 vị Thánh tối thượng Thanh văn đệ tử là: - Ngài Ðại Ðức Sāriputta, là bậc Thánh tối thượng Thanh văn cao cả nhất, xuất sắc nhất về trí tuệ, trong hàng Thánh Thanh văn đệ tử. - Ngài Ðại Ðức Moggallāna, là bậc Thánh tối thượng Thanh văn cao cả nhất, xuất sắc nhất về thần thông, trong hàng ThánhThanh văn đệ tử. 2- Bậc Thánh đại Thanh văn như thế nào? Bậc Thánh đại Thanh văn là bậc Thánh A-ra-hán do phát nguyện, và đã được Ðức Phật trong quá khứ thọ ký chắc chắn rồi. Ðối với vị Bồ Tát đại Thanh văn (Mahāsāvaka-bodhisatta) ấy, sau khi đã được Ðức Phật trong quá khứ thọ ký, cần phải tạo 10 pháp hạnh ba la mật thêm thời gian suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất. Khi vị Bồ Tát đại Thanh văn đã tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba la mật xong, chắc chắn trong kiếp hiện tại phải gặp Ðức Phật, đúng theo lời thọ ký của Ðức Phật trong quá khứ. Vị Bồ Tát ấy đến hầu Ðức Phật, xin thọ Tỳ khưu, và được Ðức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách gọi "Ehi Bhikkhu". Sau khi trở thành Tỳ khưu, vị Tỳ khưu ấy, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán có Tứ tuệ phân tích, Lục thông.... Trong số các bậc Thánh đại Thanh văn ấy, có số vị đặc biệt xuất sắc nhất về một hay nhiều đức hạnh nào đó, trong hàng Thanh văn đệ tử của Ðức Phật. Nhân dịp chư Tăng hội họp, Ðức Phật tuyên dương bậc Thánh đại Thanh văn về đức hạnh ấy. Ðức Phật Gotama có 80 vị Thánh đại Thanh văn, trong số ấy có 41 vị etadagga, mỗi vị có một đức hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thanh văn đệ tử của Ðức Phật. 3- Bậc Thánh Thanh văn hạng thường như thế nào? Bậc Thánh Thanh văn hạng thường là bậc Thánh Thanh văn đệ tử của Ðức Phật không có đức tính xuất sắc đặc biệt nào, và cũng không có sự thọ ký của Ðức Phật quá khứ. Ðối với vị Bồ Tát Thanh văn hạng thường (Pakati-sāvakabodhisatta), có ý nguyện mong giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, không có Ðức Phật nào thọ ký, vị này cần phải tạo 10 pháp hạnh ba la mật, suốt thời gian không nhất định rõ ràng, khoảng dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất. Trong kiếp hiện tại, vị Bồ Tát Thanh văn hạng thường này gặp Ðức Phật hoặc gặp giáo pháp của Ngài còn đang lưu truyền trên thế gian. Vị Bồ Tát này, thọ Tỳ khưu hoặc tại gia cư sĩ là cận sự nam, tiến hành thiền tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả, hoặc Nhất Lai Thánh Ðạo, Nhất Lai Thánh Quả, hoặc Bất Lai Thánh Ðạo, Bất Lai Thánh Quả, hoặc A-ra-hán Thánh Ðạo, A-ra-hán Thánh Quả, tùy theo năng lực ba la mật, nhất là trí tuệ ba la mật của mình đã tạo trong kiếp quá khứ và kiếp hiện tại này. Ðức Phật Gotama có vô số bậc Thánh Thanh văn hạng thường. Bậc Thánh Nữ Thanh Văn Trong Phật giáo, bậc Thánh nữ Thanh văn đệ tử của Ðức Phật, cũng có 3 bậc như sau: 1- Aggasāvikā: bậc Thánh nữ tối thượng Thanh văn. Người cận sự nữ phát nguyện trở thành một trong ba bậc Thánh nữ Thanh văn này, cách tạo 10 pháp hạnh ba la mật, và sự phát nguyện cũng giống như bậc Thánh nam Thanh văn. Ðức Phật Gotama có 2 bậc Thánh nữ tối thượng Thanh văn là: - Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu ni Khemā, là bậc Thánh nữ A-ra-hán tối thượng Thanh văn đặc biệt xuất sắc về trí tuệ, trong hàng Thánh nữ Thanh văn. - Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā, là bậc Thánh nữ A-ra-hán tối thượng Thanh văn đặc biệt xuất sắc về thần thông, trong hàng Thánh nữ Thanh văn. Ðức Phật Gotama có số bậc Thánh nữ A-ra-hán đại Thanh văn không rõ [9], nhưng điều chắc chắn là trong số chư bậc Thánh nữ A-ra-hán đại Thanh văn ấy có 13 vị etadagga, mỗi vị có một đức hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh văn đệ tử của Ðức Phật. Ðức Phật Gotama có vô số bậc Thánh nữ Thanh văn hạng thường. Chú thích:
-ooOoo- Ðầu trang | Mục lục | 1.1 | 1.2 | 2.1 | 2.2 | 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 3.6 | 4.1 | 4.2 | 4.3 | 4.4 | 4.5 | 5.0 |
|
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Hộ Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2003).
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 10-06-2003