Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kuru (Câu-lâu). Kammāsadhamma (Kiềm-ma-sắt-đàm) là thị trấn của dân chúng Kuru. Tại đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
1. THUS HAVE I HEARD.1007 On one occasion the Blessed One was living in the Kuru country where there was a town of the Kurus named Kammāsadhamma. There the Blessed One addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus.” — “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:
-- Này các Tỷ-kheo, các dục là vô thường, trống rỗng, giả dối, thuộc ngu si tánh. Này các Tỷ-kheo, đây là lời chào xáo của kẻ ngu xây dựng trên giả dối. Các dục hiện tại, và các dục tương lai, các dục tưởng hiện tại và các dục tưởng tương lai, cả hai đều thuộc lãnh vực của ma, là cảnh giới của ma, là chỗ dinh dưỡng của ma, là chỗ ăn uống của ma.
2. “Bhikkhus, sensual pleasures1008 are impermanent, hollow, false, deceptive; they are illusory, the prattle of fools. Sensual pleasures here and now and sensual pleasures in lives to come, [262] sensual perceptions here and now and sensual perceptions in lives to come — both alike are Māra’s realm, Māra’s domain, Māra’s bait, Māra’s hunting ground.
On account of them, these evil unwholesome mental states such as covetousness, ill will, and presumption arise, and they constitute an obstruction to a noble disciple in training here.
Bất động
(THE IMPERTURBABLE)
Ở đây, các ác bất thiện ý này dẫn đến tham dục, sân hận, khích động, và chính những pháp ấy tác thành chướng ngại ở đây cho Thánh đệ tử học tập.
3. “Therein, bhikkhus, a noble disciple considers thus: ‘Sensual pleasures here and now and sensual pleasures in lives to come… constitute an obstruction to a noble disciple in training here.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Các dục hiện tại và các dục tương lai... cho Thánh đệ tử học tập. Vậy ta hãy an trú với tâm quảng đại, đại hành, sau khi chiến thắng thế giới, sau khi xác định vị trí của ý. Khi ta an trú với tâm quảng đại, đại hành chiến thắng thế giới, xác định vị trí của ý, các ác bất thiện ý: tham dục, sân hận, khích động sẽ không khởi lên; với các pháp ấy được đoạn trừ, tâm của ta không trở thành hạn hẹp, trái lại thành vô lượng, khéo tu tập".
Suppose I were to abide with a mind abundant and exalted, having transcended the world and made a firm determination with the mind.1009 When I do so, there will be no more evil unwholesome mental states such as covetousness, ill will, and presumption in me, and with the abandoning of them my mind will be unlimited, immeasurable, and well developed.’
Trong khi ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu bất động ngay hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến (saṃvattanikam viññāṇam) có thể tùy theo đây đạt đến Bất động.
When he practises in this way and frequently abides thus, his mind acquires confidence in this base.1010 Once there is full confidence, he either attains to the imperturbable now or else he resolves [upon it] with wisdom. On the dissolution of the body, after death, it is possible that the evolving consciousness may pass on [to rebirth] in the imperturbable.1011
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhất hành đạo về lợi ích Bất động".
This, bhikkhus, is declared to be the first way directed to the imperturbable.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại, và những dục tưởng tương lai, phàm bất cứ sắc pháp gì, là bốn đại chủng và sắc do bốn đại tạo thành".
4. “Again, bhikkhus, a noble disciple considers thus:1012 ‘[There are] sensual pleasures here and now and sensual pleasures in lives to come, sensual perceptions here and now and sensual perceptions in lives to come; whatever material form [there is], all material form is the four great elements and the material form derived from the four great elements.’
Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Bất động ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Bất động.
When he practises in this way and frequently abides thus, his mind acquires confidence in this base. Once there is full confidence, he either attains to the imperturbable now or else he resolves [upon it] with wisdom. On the dissolution of the body, after death, it is possible that the evolving consciousness may pass on [to rebirth] in the imperturbable.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị hành đạo về lợi ích Bất động.
This, bhikkhus, is declared to be the second way directed to the imperturbable. [263]
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những sắc tưởng hiện tại và những sắc tưởng tương lai, cả hai đều vô thường. Cái gì vô thường thời không đáng để được hoan hỷ, không đáng để được hoan nghênh, không đáng để được chấp trước".
5. “Again, bhikkhus, a noble disciple considers thus:1013 ‘Sensual pleasures here and now and sensual pleasures in lives to come, sensual perceptions here and now and sensual perceptions in lives to come, material forms here and now and material forms in lives to come, perceptions of forms here and now and perceptions of forms in lives to come — both alike are impermanent. What is impermanent is not worth delighting in, not worth welcoming, not worth holding to.’
Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Bất động ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Bất động.
When he practises in this way and frequently abides thus, his mind acquires confidence in this base. Once there is full confidence, he either attains to the imperturbable now or else he resolves [upon it] with wisdom. On the dissolution of the body, after death, it is possible that the evolving consciousness may pass on [to rebirth] in the imperturbable.
Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ tam hành đạo về lợi ích Bất động.
This, bhikkhus, is declared to be the third way directed to the imperturbable.
Vô hữu xứ
(THE BASE OF NOTHINGNESS)
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại... và những sắc tưởng tương lai, và những bất động tưởng, tất cả tưởng, chỗ nào các tưởng ấy được đoạn diệt không có dư tàn, như vậy là tịch tịnh, như vậy là thù diệu, tức là vô sở hữu".
6. “Again, bhikkhus, a noble disciple considers thus:1014 ‘Sensual pleasures here and now and sensual pleasures in lives to come, sensual perceptions here and now and sensual perceptions in lives to come, material forms here and now and material forms in lives to come, perceptions of forms here and now and perceptions of forms in lives to come, and perceptions of the imperturbable — all are perceptions. Where these perceptions cease without remainder, that is the peaceful, that is the sublime, namely, the base of nothingness.’
Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ.
When he practises in this way and frequently abides thus, his mind acquires confidence in this base. Once there is full confidence, he either attains to the base of nothingness now or else he resolves [upon it] with wisdom. On the dissolution of the body, after death, it is possible that the evolving consciousness may pass on [to rebirth] in the base of nothingness.
Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ nhất hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.
This, bhikkhus, is declared to be the first way directed to the base of nothingness.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đi đến khu rừng hay đi đến dưới gốc cây và suy nghĩ như sau: "Trống không là tự ngã hay ngã này sở hữu".
7. “Again, bhikkhus, a noble disciple, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, considers thus: ‘This is void of a self or of what belongs to a self.’1015
Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ.
When he practises in this way and frequently abides thus, his mind acquires confidence in this base. Once there is full confidence, he either attains to the base of nothingness now or else he resolves [upon it] with wisdom. On the dissolution of the body, after death, it is possible that the evolving consciousness may pass on [to rebirth] in the base of nothingness.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.
This, bhikkhus, is declared to be the second way directed to the base of nothingness.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Ta không có bất cứ chỗ nào, cho ai và trong hình thức nào, và sở thuộc của ta không có bất cứ chỗ nào, cho ai và trong hình thức nào".
8. “Again, bhikkhus, a noble disciple considers thus: ‘I am not anything belonging to anyone anywhere, [264] nor is there anything belonging to me in anyone anywhere.’1016
Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong trú xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ.
When he practises in this way and frequently abides thus, his mind acquires confidence in this base. Once there is full confidence, he either attains to the base of nothingness now or else he resolves [upon it] with wisdom. On the dissolution of the body, after death, it is possible that the evolving consciousness may pass on [to rebirth] in the base of nothingness.
Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ tam hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.
This, bhikkhus, is declared to be the third way directed to the base of nothingness.
Phi tưởng, phi phi tưởng xứ
(THE BASE OF NEITHER-PERCEPTION-NOR-NON-PERCEPTION)
Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại.. và những sắc tưởng và những Bất động tưởng, và những Vô sở hữu xứ tưởng, tất cả các tưởng, chỗ nào các tưởng ấy được đoạn diệt không có dư tàn, như vậy là tịch tịnh, như vậy là thù diệu, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
9. “Again, bhikkhus, a noble disciple considers thus: ‘Sensual pleasures here and now and sensual pleasures in lives to come, sensual perceptions here and now and sensual perceptions in lives to come, material forms here and now and material forms in lives to come, perceptions of forms here and now and perceptions of forms in lives to come, perceptions of the imperturbable, and perceptions of the base of nothingness — all are perceptions. Where these perceptions cease without remainder, that is the peaceful, that is the sublime, namely, the base of neither-perception-nor-non-perception.’
Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong trú xứ (của nó) . Với tâm an tịnh vị ấy có thể thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ ngay trong hiện tại, hoặc thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
When he practises in this way and frequently abides thus, his mind acquires confidence in this base. Once there is full confidence, he either attains to the base of neither-perception-nor-non-perception now or else he resolves [upon it] with wisdom. On the dissolution of the body, after death, it is possible that the evolving consciousness may pass on [to rebirth] in the base of neither-perception-nor-non-perception.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hành đạo về lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
This, bhikkhus, is declared to be the way directed to the base of neither-perception-nor-non-perception.”
Khi được nói như vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
10. When this was said, the venerable Ānanda said to the Blessed One:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ: "Nếu trước không có như vậy, thời có thể không là của ta; nếu nay không có như vậy thời có thể sẽ không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có".
“Venerable sir, here a bhikkhu is practising thus: ‘It might not be, and it might not be mine; it will not be, and it will not be mine. What exists, what has come to be, that I am abandoning.’
Và như vậy vị ấy được xả. Bạch Thế Tôn, một vị Tỷ-kheo như vậy có chứng được cứu cánh Niết-bàn không?
Thus he obtains equanimity.1017 Venerable sir, does such a bhikkhu attain Nibbāna?”
-- Ở đây, này Ānanda, một số Tỷ-kheo có thể chứng được cứu cánh Niết-bàn, và ở đây, một số Tỷ-kheo có thể không chứng được cứu cánh Niết-bàn.
“One bhikkhu here, Ānanda, might attain Nibbāna, another bhikkhu here might not attain Nibbāna.”
-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, một số Tỷ-kheo có thể chứng được cứu cánh Niết-bàn, và ở đây, một số Tỷ-kheo có thể không chứng được cứu cánh Niết-bàn?
“What is the cause and reason, venerable sir, why one bhikkhu here might attain Nibbāna, while another bhikkhu here might not attain Nibbāna?”
-- Ở đây, này Ānanda, một Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ: "Nếu trước không có như vậy thời có thể không là của ta. Nếu nay không có như vậy, thời có thể sẽ không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có".
“Here, Ānanda, a bhikkhu is practising thus: ‘It might not be, and it might not be mine; it will not be, and it will not be mine. What exists, [265] what has come to be, that I am abandoning.’
Và như vậy vị ấy được xả. Vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp trước xả ấy. Do vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp trước xả ấy, thức lệ thuộc xả ấy và thủ trước xả ấy. Có thủ trước, này Ānanda, vị Tỷ-kheo không chứng cứu cánh Niết-bàn.
Thus he obtains equanimity. He delights in that equanimity, welcomes it, and remains holding to it. As he does so, his consciousness becomes dependent on it and clings to it. A bhikkhu with clinging, Ānanda, does not attain Nibbāna.”1018
-- Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo ấy thủ trước là thủ trước chỗ nào?
11. “But, venerable sir, when that bhikkhu clings, what does he cling to?”
-- Này Ānanda, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
“To the base of neither-perception-nor-non-perception, Ānanda.”
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy thủ trước, thủ trước như vậy là thủ trước tối thượng?
“When that bhikkhu clings, venerable sir, it seems he clings to the best [object of] clinging.”
-- Này Ānanda, Vị Tỷ-kheo ấy thủ trước, thủ trước như vậy là thủ trước tối thượng. Này Ānanda, đây là thủ trước tối thượng, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
“When that bhikkhu clings, Ānanda, he clings to the best [object of] clinging; for this is the best [object of] clinging, namely, the base of neither-perception-nor-non-perception.1019
Ở đây, này Ānanda, vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ: "Nếu (trước) không có như vậy thời có thể không là của ta. Nếu (nay) không có như vậy, thời có thể không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có".
12. “Here, Ānanda, a bhikkhu is practising thus: ‘It might not be, and it might not be mine; it will not be, and it will not be mine. What exists, what has come to be, that I am abandoning.’
Như vậy, vị ấy được xả, vị ấy không hoan hỷ trong xả ấy, không hoan nghênh, không chấp trước xả ấy. Do vị ấy không hoan hỷ trong xả ấy, không hoan nghênh, không thủ trước xả ấy, thức không lệ thuộc xả ấy và không thủ trước xả ấy. Không thủ trước, này Ānanda, vị Tỷ-kheo chứng cứu cánh Niết-bàn.
Thus he obtains equanimity. He does not delight in that equanimity, welcome it, or remain holding to it. Since he does not do so, his consciousness does not become dependent on it and does not cling to it. A bhikkhu without clinging, Ānanda, attains Nibbāna.”
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Chính mười y cứ sự này sự kia, bạch Thế Tôn, sự vượt thoát dòng nước mạnh đã được Thế Tôn nói lên. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Thánh giải thoát?
13. “It is wonderful, venerable sir, it is marvellous! The Blessed One, indeed, has explained to us the crossing of the flood in dependence upon one support or another.1020 But, venerable sir, what is noble liberation?”1021
-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những Bất động tưởng, những Vô sở hữu xứ tưởng, và những Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, cái gì thuộc tự thân, là tự thân.
“Here, Ānanda, a noble disciple considers thus: ‘Sensual pleasures here and now and sensual pleasures in lives to come, sensual perceptions here and now and sensual perceptions in lives to come, material forms here and now and material forms in lives to come, perceptions of forms here and now and perceptions of forms in lives to come, perceptions of the imperturbable, perceptions of the base of nothingness, and perceptions of the base of neither-perception-nor-non-perception — this is identity as far as identity extends.1022
Ðây là bất tử tức là tâm giải thoát không thủ trước".
This is the Deathless, namely, the liberation of the mind through not clinging.’1023
Này Ānanda, đây là đạo lộ về lợi ích Bất động được Ta thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Vô sở hữu xứ được Ta thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ được Ta thuyết giảng, là sự vượt qua dòng nước mạnh do y cứ sự này sự kia được Ta thuyết giảng, Thánh giải thoát được Ta thuyết giảng.
14. “Thus, Ānanda, I have taught the way directed to the imperturbable, I have taught the way directed to the base of nothingness, I have taught the way directed to the base of neither-perception-nor-non-perception, I have taught the crossing of the flood in dependence upon one support or another, I have taught noble liberation.
Những gì, này Ānanda, vị Ðạo sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn mưu tìm hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy đã được Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta đối với Ông. Này Ānanda, đây là những gốc cây, đây là những khoảng trống. Hãy tu Thiền, này Ānanda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Ðây là lời dạy của Ta cho Ông.
15. “What should be done for his disciples out of compassion by a teacher who seeks their welfare and has compassion for them, [266] that I have done for you, Ānanda. There are these roots of trees, these empty huts. Meditate, Ānanda, do not delay, or else you will regret it later. This is our instruction to you.”
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The venerable Ānanda was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.