Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 121. Kinh Tiểu Không - 121. The Shorter Discourse on Voidness »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 121. Kinh Tiểu Không - 121. The Shorter Discourse on Voidness

Donate

Cūlasunnata sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

121. Kinh Tiểu Không

121. The Shorter Discourse on Voidness

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Pubbarama (Ðông Viên), lâu đài của Migāramatu (Lộc Mẫu).
[104] 1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in the Eastern Park, in the Palace of Migāra’s Mother.
Rồi Tôn giả Ānanda, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
2. Then, when it was evening, the venerable Ānanda rose from meditation, went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and said to the Blessed One:
-- Một thời, bạch Thế Tôn, Thế Tôn trú giữa các Sakka (Thích-ca). Nagaraka là tên một thị trấn của các Sakka. Tại đấy, bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt Thế Tôn như sau: "Này Ānanda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch Thế Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng?
3. “Venerable sir, on one occasion the Blessed One was living in the Sakyan country where there is a town of the Sakyans named Nagaraka. There, venerable sir, I heard and learned this from the Blessed One’s own lips: ‘Now, Ānanda, I often abide in voidness.’1137 Did I hear that correctly, venerable sir, did I learn that correctly, attend to that correctly, remember that correctly?”
-- Thật vậy, này Ānanda, điều Ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ānanda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều.
“Certainly, Ānanda, you heard that correctly, learned that correctly, attended to that correctly, remembered that correctly. As formerly, Ānanda, so now too I often abide in voidness.
Ví như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo;
4. “Ānanda, just as this Palace of Migāra’s Mother is void of elephants, cattle, horses, and mares, void of gold and silver, void of the assembly of men and women, and there is present only this non-voidness, namely, the singleness dependent on the Sangha of bhikkhus;
cũng vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng.
so too, a bhikkhu — not attending to the perception of village, not attending to the perception of people — attends to the singleness dependent on the perception of forest.1138 His mind enters into that perception of forest and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng".
He understands thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the perception of village, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the perception of people, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, the singleness dependent on the perception of forest.’1139
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng".
He understands: ‘This field of perception is void of the perception of village; this field of perception is void of the perception of people. There is present only this non-voidness, namely, the singleness dependent on the perception of forest.’
Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có".
Thus he regards it as void of what is not there, but as to what [105] remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Như vậy, này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Thus, Ānanda, this is his genuine, undistorted, pure descent into voidness.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tác ý nhân tưởng, không tác ý lâm tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến địa tưởng.
5. “Again, Ānanda, a bhikkhu — not attending to the perception of people, not attending to the perception of forest — attends to the singleness dependent on the perception of earth.1140 His mind enters into that perception of earth and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Ví như, này Ānanda, tấm da con bò đực được căng thẳng trên một trăm cọc gỗ, đặc tánh tấm da được đoạn trừ (vigatavasika); cũng vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo, không tác ý đối với tất cả vật gì trên đất này: đất khô và vùng lầy, sông và vùng lầy, các cây có thân và có gai, núi và đất bằng, vị ấy tác ý sự nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến địa tưởng.
Just as a bull’s hide becomes free from folds when fully stretched with a hundred pegs; so too, a bhikkhu — not attending to any of the ridges and hollows of this earth, to the rivers and ravines, the tracts of stumps and thorns, the mountains and uneven places — attends to the singleness dependent on the perception of earth. His mind enters into that perception of earth and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, sự nhất trí do duyên địa tưởng".
He understands thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the perception of people, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the perception of forest, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, the singleness dependent on the perception of earth.’
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhơn tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có lâm tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có".
He understands: ‘This field of perception is void of the perception of people; this field of perception is void of the perception of forest. There is present only this non-voidness, namely, the singleness dependent on the perception of earth.’ Thus he regards it as void of what is not there, but as to what remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Thus, Ānanda, this too is his genuine, undistorted, pure descent into voidness.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý lâm tưởng, không tác ý địa tưởng, tác ý sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Không vô biên xứ.
6. “Again, Ānanda, a bhikkhu — not attending to the perception of forest, not attending to the perception of earth — attends to the singleness dependent on the perception of the base of infinite space.1141 His mind enters into that perception of the base of infinite space and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền, do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ tưởng".
He understands thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the perception of forest, those are not present here; whatever disturbances there might be [106] dependent on the perception of earth, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, the singleness dependent on the perception of the base of infinite space.’
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có địa tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có".
He understands: ‘This field of perception is void of the perception of forest; this field of perception is void of the perception of earth. There is present only this non-voidness, namely, the singleness dependent on the perception of the base of infinite space.’ Thus he regards it as void of what is not there, but as to what remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Thus, Ānanda, this too is his genuine, undistorted, pure descent into voidness.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý địa tưởng, không tác ý Không vô biên xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Thức vô biên xứ.
7. “Again, Ānanda, a bhikkhu — not attending to the perception of earth, not attending to the perception of the base of infinite space — attends to the singleness dependent on the perception of the base of infinite consciousness. His mind enters into that perception of the base of infinite consciousness and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có địa tưởng".
He understands thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the perception of earth, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the perception of the base of infinite space, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, the singleness dependent on the perception of the base of infinite consciousness.’
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có".
He understands: ‘This field of perception is void of the perception of earth; this field of perception is void of the perception of the base of infinite space. There is present only this non-voidness, namely, the singleness dependent on the perception of the base of infinite consciousness.’ Thus he regards it as void of what is not there, but as to what remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Thus, Ānanda, this too is his genuine, undistorted, pure descent into voidness.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý Không vô biên xứ tưởng, không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô sở hữu xứ.
8. “Again, Ānanda, a bhikkhu — not attending to the perception of the base of infinite space, not attending to the perception of the base of infinite consciousness — attends to the singleness dependent on the perception of the base of nothingness. His mind enters into that perception of the base of nothingness and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng".
He understands thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the perception of the base of infinite space, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the perception of the base of infinite consciousness, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, the singleness dependent on the perception of the base of nothingness.’
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có".
He understands: ‘This field of perception is void of the perception of the base of infinite space; [107] this field of perception is void of the perception of the base of infinite consciousness. There is present only this non-voidness, namely, the singleness dependent on the perception of the base of nothingness.’ Thus he regards it as void of what is not there, but as to what remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Thus, Ānanda, this too is his genuine, undistorted, pure descent into voidness.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
9. “Again, Ānanda, a bhikkhu — not attending to the perception of the base of infinite consciousness, not attending to the perception of the base of nothingness — attends to the singleness dependent on the perception of the base of neither-perception-nor-non-perception. His mind enters into that perception of the base of neither-perception-nor-non-perception and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy biết như sau: "Các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng.
He understands thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the perception of the base of infinite consciousness, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the perception of the base of nothingness, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, the singleness dependent on the perception of the base of neither-perception-nor-non-perception.’
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có".
He understands: ‘This field of perception is void of the perception of the base of infinite consciousness; this field of perception is void of the perception of the base of nothingness. There is present only this non-voidness, namely, the singleness dependent on the perception of the base of neither-perception-nor-non-perception.’ Thus he regards it as void of what is not there, but as to what remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Thus, Ānanda, this too is his genuine, undistorted, pure descent into voidness.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhất trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định.
10. “Again, Ānanda, a bhikkhu — not attending to the perception of the base of nothingness, not attending to the perception of the base of neither-perception-nor-non-perception — attends to the singleness dependent on the signless concentration of mind.1142 His mind enters into that signless concentration of mind and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".
He understand thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the perception of the base of nothingness, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the perception of the base of neither-perception-nor-non-perception, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, that connected with the six bases that are dependent on this body and [108] conditioned by life.’
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có".
He understands: ‘This field of perception is void of the perception of the base of nothingness; this field of perception is void of the perception of the base of neither-perception-nor-non-perception. There is present only this non-voidness, namely, that connected with the six bases that are dependent on this body and conditioned by life.’ Thus he regards it as void of what is not there, but as to what remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Thus, Ānanda, this too is his genuine, undistorted, pure descent into voidness.
Lại nữa, này Ānanda, vị Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định.
11. “Again, Ānanda, a bhikkhu — not attending to the perception of the base of nothingness, not attending to the perception of the base of neither-perception-nor-non-perception — attends to the singleness dependent on the signless concentration of mind. His mind enters into that signless concentration of mind and acquires confidence, steadiness, and resolution.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy. Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu.
He understands thus: ‘This signless concentration of mind is conditioned and volitionally produced. But whatever is conditioned and volitionally produced is impermanent, subject to cessation.’1143 When he knows and sees thus, his mind is liberated from the taint of sensual desire, from the taint of being, and from the taint of ignorance.
Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana) rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa".
When it is liberated there comes the knowledge: ‘It is liberated.’ He understands: ‘Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.’
Vị ấy tuệ tri: "Các ưu phiền do duyên dục lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt có ở đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở đây. Và chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".
12. “He understands thus: ‘Whatever disturbances there might be dependent on the taint of sensual desire, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the taint of being, those are not present here; whatever disturbances there might be dependent on the taint of ignorance, those are not present here. There is present only this amount of disturbance, namely, that connected with the six bases that are dependent on this body and conditioned by life.’
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có dục lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có hữu lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có vô minh lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có".
He understands: ‘This field of perception is void of the taint of sensual desire; this field of perception is void of the taint of being; this field of perception is void of the taint of ignorance. There is present only this non-voidness, namely, that connected with the six bases that are dependent on this body and conditioned by life.’ Thus he regards it as void of what is not there, but as to what remains there he understands that which is present thus: ‘This is present.’
Này Ānanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh.
Thus, Ānanda, this is his genuine, [109] undistorted, pure descent into voidness, supreme and unsurpassed.1144
Này Ānanda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh (Sunnatam), tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này.
13. “Ānanda, whatever recluses and brahmins in the past entered upon and abided in pure, supreme, unsurpassed voidness, all entered upon and abided in this same pure, supreme, unsurpassed voidness.
Này Ānanda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai, sau khi chứng đạt sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này.
Whatever recluses and brahmins in the future will enter upon and abide in pure, supreme, unsurpassed voidness, all will enter upon and abide in this same pure, supreme, unsurpassed voidness.
Này Ānanda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại, sau khi chứng đạt và an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt nếu an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này.
Whatever recluses and brahmins in the present enter upon and abide in pure, supreme, unsurpassed voidness, all enter upon and abide in this same pure, supreme, unsurpassed voidness.
Do vậy, này Ānanda, sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh. Như vậy, này Ānanda, các Ông cần phải học tập.
Therefore, Ānanda, you should train thus: ‘We will enter upon and abide in pure, supreme, unsurpassed voidness.’”
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The venerable Ānanda was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.





_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vì sao tôi khổ


Kinh Phổ Môn


Tư tưởng xã hội trong Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.119.116.77 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học