Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 98. Kinh Vāseṭṭha - 98. To Vāseṭṭha »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 98. Kinh Vāseṭṭha - 98. To Vāseṭṭha

Donate

Vāsettha sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

98. Kinh Vāseṭṭha

98. To Vāseṭṭha

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Icchānankala (Y-xa-năng-già-la), tại khu rừng Icchānankala.
[115] 1. THUS HAVE I HEARD.900 On one occasion the Blessed One was living at Icchānangala, in the wood near Icchānangala.
Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú tại Icchānankala như Bà-la-môn Cankī, Bà-la-môn Tārukkha, Bà-la-môn Pokkharasāti, Bà-la-môn Jāṇussoṇi, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác.
2. Now on that occasion a number of well-known, well-to-do brahmins were staying at Icchānangala, that is, the brahmin Cankī, the brahmin Tārukkha, the brahmin Pokkharasāti, the brahmin Jāṇussoṇi, the brahmin Todeyya, and other well-known, well-to-do brahmins.
Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"
Thanh niên Bhāradvāja nói như sau:
3. Then, while the brahmin students Vāseṭṭha and Bhāradvāja were walking and wandering for exercise, this discussion arose between them: “How is one a brahmin?” The brahmin student Bhāradvāja said:
-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn.
“When one is well born on both sides, of pure maternal and paternal descent seven generations back, unassailable and impeccable in respect of birth, then one is a brahmin.”
Thanh niên Vāseṭṭha nói như sau:
-- Nếu ai có giới hạnh và thành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn.
The brahmin student Vāseṭṭha said: “When one is virtuous and fulfils the observances, then one is a brahmin.”
Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha, và thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha không thể thuyết phục thanh niên Bhāradvāja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha nói với thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja:
4. But the brahmin student Bhāradvāja could not [116] convince the brahmin student Vāseṭṭha, nor could the brahmin student Vāseṭṭha convince the brahmin student Bhāradvāja.
-- Này Bhāradvāja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchānankala, tại khu rừng Icchānankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn".
5. Then the brahmin student Vāseṭṭha addressed the brahmin student Bhāradvāja: “Sir, the recluse Gotama, the son of the Sakyans who went forth from a Sakyan clan, is living at Icchānangala, in the wood near Icchānangala. Now a good report of Master Gotama has been spread to this effect: ‘That Blessed One is accomplished, fully enlightened, perfect in true knowledge and conduct, sublime, knower of worlds, incomparable leader of persons to be tamed, teacher of gods and humans, enlightened, blessed.’

Này Tôn giả Bhāradvāja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
-- Thưa vâng.
Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja vâng đáp thanh niên Vāseṭṭha.
Come, Bhāradvāja, let us go to the recluse Gotama and ask him about this matter. As he answers, so we will remember it.” — “Yes, sir,” the brahmin student Bhāradvāja replied.
Rồi thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn:
6. Then the two brahmin students, Vāseṭṭha and Bhāradvāja, went to the Blessed One and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, they sat down at one side and the brahmin student Vāseṭṭha addressed the Blessed One in stanzas thus:
7. Vāseṭṭha
Chúng con cả hai người,
Ðược tôn xưng, tự nhận,
Là những bậc thông thái
Cả ba tập Vệ-đà.
Con là đệ tử Ngài,
Pokkharasati,
Còn vị thanh niên này,
Ðệ tử Tarukkha.
1. “We are both acknowledged to possess
The knowledge we claim of the Triple Veda,
For I am Pokkharasāti’s pupil
And he a pupil of Tārukkha.

Ba Vệ-đà nói gì,
Chúng con đều thông đạt,
Văn cú và văn phạm,
Chúng con đều thấu hiểu,
Thuyết giảng và giải thích,
Thật giống bậc Ðạo sư.
2. We have attained full mastery
Over all that the Vedic experts teach;
Skilled in philology and grammar
We match our teachers in recitation. [117]
Tôn giả Gotama,
Giữa hai người chúng con
Có sự tranh luận này,
Về huyết thống thọ sanh.
Bhāradvāja nói:
"Chính do sự thọ sanh".
Con nói: "Do hành động,
Mới thành Bà-la-môn".
Mong bậc có Pháp nhãn,
Hiểu cho là như vậy.
3. A dispute has arisen between us, Gotama,
Concerning the question of birth and class:
Bhāradvāja says one is a brahmin by birth,
While I hold one is a brahmin by action.901
Know this, O Seer, as our debate.
Cả hai người chúng con,
Không thể thuyết phục nhau.
Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Chánh Giác tôn xưng.
4. Since neither of us could convince the other,
Or make him see his point of view,
We have come to ask you, sir,
Widely famed to be a Buddha.
Như trăng được tròn đầy,
Quần chúng đến chấp tay,
Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng.
Cũng vậy, ở trong đời,
Quần chúng đến đảnh lễ,
Gotama Tôn giả.
5. As people turn with palms upraised
Towards the moon when it starts to wax,
So in the world do they venerate you
And pay homage to you, Gotama.
Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Pháp nhãn thế gian,
Bà-la-môn do sanh,
Hay chính do hành động?
Chúng con không được biết,
Hãy nói chúng con biết.
6. So now we ask of you, Gotama,
The eye uprisen in the world:
Is one a brahmin by birth or action?
Explain to us who do not know
How we should recognise a brahmin.”
Ðức Thế Tôn bèn nói:
8. Buddha
Này Ông Vāseṭṭha,
Ta trả lời cho Ông,
Thuận thứ và như thật,
Sự phân loại do sanh,
Của các loại hữu tình,
Chính do sự sanh đẻ,
Do sanh, có dị loại.
7. “I teach you in order as they really are,
Vāseṭṭha,” said the Blessed One,
“The generic divisions of living beings;
For many are the kinds of birth.
Hãy xem cỏ và cây,
Dầu chúng không nhận thức,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
8. Know first the grass and trees:
Though they lack self-awareness,
Their birth is their distinctive mark;
For many are the kinds of birth. [118]
Hãy xem loại côn trùng,
Bướm đêm, các loại kiến,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
9. Next come the moths and butterflies
And so on through to ants and termites:
Their birth is their distinctive mark;
For many are the kinds of birth.
Hãy xem loại bốn chân,
Loại nhỏ và loại lớn,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
10. Then know the kinds of quadrupeds
[Of varied sorts] both small and large:
Their birth is their distinctive mark;
For many are the kinds of birth.
Hãy xem loài bò sát,
Loại rắn, loại lưng dài,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
11. Know those whose bellies are their feet,
To wit, the long-backed class of snakes:
Their birth is their distinctive mark;
For many are the kinds of birth.
Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
12. Know too the water-dwelling fish
That pasture in the liquid world:
Their birth is their distinctive mark;
For many are the kinds of birth.
Hãy xem các loại chim,
Loại có cánh trên trời,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
13. Next know the birds that wing their way
As they range in open skies:
Their birth is their distinctive mark;
For many are the kinds of birth.
9
Tùy theo sự thọ sanh,
Chúng có tướng tùy sanh.
Trong thế giới loài Người,
Tướng sanh không có nhiều.
14. “While in these births the differences
Of birth make their distinctive mark,
With humans no differences of birth
Make a distinctive mark in them.
Không ở đầu mái tóc,
Không ở tai, ở mắt,
Không ở miệng, ở mũi,
Không ở môi, ở mày,
15. Nor in the hairs nor in the head
Nor in the ears nor in the eyes
Nor in the mouth nor in the nose
Nor in the lips nor in the brows;
Không ở cổ, ở nách,
Không ở bụng, ở lưng,
Không ở ngực, ở vú,
Không âm hộ, hành dâm.
16. Nor in the shoulders or the neck
Nor in the belly or the back
Nor in the buttocks or the breast
Nor in the genitals or ways of mating;
Không ở tay, ở chân,
Không ở ngón, ở móng,
Không ở cổ chân, vế,
Không ở sắc, ở tiếng.
Không tướng, do tùy sanh,
Tùy sanh, loại sai khác.
17. Nor in the hands nor in the feet
Nor in the fingers or the nails
Nor in the knees nor in the thighs
Nor in their colour or in voice:
Here birth makes no distinctive mark
As with the other kinds of birth. [119]
Trên tự thân con người,
Không có gì đặc biệt.
Chỉ tùy theo danh xưng,
18. In human bodies in themselves
Nothing distinctive can be found.
Distinction among human beings
Is purely verbal designation.902
10

Loài Người được kêu gọi.
Ðối người tự sinh sống.
Chăn bò, lo ruộng đất,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là nông phu,
Không phải Bà-la-môn.
19. “Who makes his living among men903
By agriculture, you should know
Is called a farmer, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
Ai sống theo nghề nghiệp,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là công thợ,
Không phải Bà-la-môn.
20. Who makes his living among men
By varied crafts, you should know
Is called a craftsman, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
Ai sống nghề buôn bán,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là thương nhân,
Không phải Bà-la-môn.
21. Who makes his living among men
By merchandise, you should know
Is called a merchant, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
Ai sống hầu hạ người,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là nô bộc,
Không phải Bà-la-môn.
22. Who makes his living among men
By serving others, you should know
Is called a servant, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
Ai sống lấy của người,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là kẻ trộm,
Không phải Bà-la-môn.
23. Who makes his living among men
By stealing, you should know
Is called a robber, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
Ai sống nghề cung tên,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là nhà binh,
Không phải Bà-la-môn.
24. Who makes his living among men
By archery, you should know
Is called a soldier, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
Ai sống nghề tế tự,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là tế quan,
Không phải Bà-la-môn.
25. Who makes his living among men
By priestly craft, you should know
Is called a chaplain, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
Ai sống giữa loài Người,
Thọ hưởng làng, quốc độ,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là vua chúa,
Không phải Bà-la-môn.
26. Whoever governs among men
The town and realm, you should know
Is called a ruler, Vāseṭṭha;
He is not a brahmin.
11
Và Ta không có gọi,
Kẻ ấy Bà-la-môn.
Chỉ vì do thọ sanh,
Dầu vị ấy cao sang,
Dầu vị ấy giàu có,
Nhưng còn ham thế lợi.
Không tham lam thế lợi,
Không chấp thủ sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
27. “I call him not a brahmin
Because of his origin and lineage.
If impediments still lurk in him,
He is just one who says ‘Sir.’904
Who is unimpeded and clings no more:
He is the one I call a brahmin.
Vị đoạn tận kiết sử,
Không ai không sợ hãi,
Siêu việt mọi chấp trước,
Thoát ly các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
28. Who has cut off all fetters
And is no more by anguish shaken,
Who has overcome all ties, detached:
He is the one I call a brahmin. [120]
Cắt dây thừng, dây ách,
Dây cương, cùng dây trói,
Quăng đi cây chắn ngang,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Bậc sáng suốt, giác ngộ,
Chánh danh Bà-la-môn.
29. Who has cut each strap and thong,
The reins and bridle-band as well,
Whose cross-bar is lifted, the awakened one:
He is the one I call a brahmin.
Ai không lỗi, chịu đựng,
Nhiếc mắng cùng đánh trói,
Trang bị với nhẫn lực,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
30. Who endures without a trace of hate
Abuse, violence, and bondage too,
With strength of patience well arrayed:
He is the one I call a brahmin.
Không phẫn nộ, giữ luật,
Có giới hạnh không kiêu,
Nhiếp phục, thân tối hậu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
31. Who does not flare up with anger,
Dutiful, virtuous, and humble,
Subdued, bearing his final body:
He is the one I call a brahmin.
Như nước trên lá sen,
Hột cải trên đỉnh nhọn,
Không tham luyến dục vọng,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
32. Who, like the rain on lotus leaves,
Or mustard seed on the point of an awl,
Clings not at all to sensual pleasures:
He is the one I call a brahmin.
Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận,
Gánh nặng được đặt xuống,
Xa lìa các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
33. Who knows right here within himself
The destruction of all suffering,
With burden lowered, and detached:
He is the one I call a brahmin.
Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo,
Ðích tối thượng đạt được,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
34. Who with deep understanding, wise,
Can tell the path from the not-path
And has attained the goal supreme:
He is the one I call a brahmin.
Ai không còn liên hệ,
Cả tại gia, xuất gia,
Không nhà trú, thiểu dục,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
35. Aloof alike from householders
And those gone into homelessness,
Who wanders without home or wish:
He is the one I call a brahmin.
Bỏ gậy đối chúng sanh,
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh,
Không giết, không hại ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
36. Who has laid aside the rod
Against all beings frail or bold,
Who does not kill or have them killed:
He is the one I call a brahmin.
Giữa kẻ thù, không thù,
Giữa hung bạo, an tịnh,
Giữa chấp thủ, không chấp,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
37. Who is unopposed among opponents,
Peaceful among those given to violence,
Who does not cling among those who cling:
He is the one I call a brahmin.
Dối, tham, sân, mạn, phú,
Ai bỏ rơi được chúng,
Như hột cải rơi khỏi.
Ðầu nhọn của mũi kim,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
38. Who has dropped all lust and hate,
Dropped conceit and contempt,
Like mustard seed on the point of an awl:
He is the one I call a brahmin. [121]
Ai dạy thật nhỏ nhẹ,
Nói lên lời chơn thực,
Không xúc chạm một ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
39. Who utters speech free from harshness,
Full of meaning, ever truthful,
Which does not offend anyone:
He is the one I call a brahmin.
Dài ngắn hay lớn nhỏ,
Thanh tịnh hay bất tịnh,
Ở đời vật dài ngắn,
Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh,
Không lấy vật không cho,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
40. Who in the world will never take
What is not given, long or short,
Small or big or fair or foul:
He is the one I call a brahmin.
Với ai không tham cầu,
Ðời này và đời sau,
Từ bỏ mọi tham cầu,
Ðoạn rời mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
41. Who has no more inner yearnings
Regarding this world and the next,
Who lives unyearning and detached:
He is the one I call a brahmin.
Ai không có chấp tàng,
Với trí đoạn nghi hoặc,
Ðạt nhập đáy bất tử.
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
42. Who has no more indulgences
No more perplexity since he knows;
Who has gained firm footing in the Deathless:
He is the one I call a brahmin.
Ở đời ai vượt khỏi,
Mọi buộc ràng thiện ác,
Không sầu, không bụi uế,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
43. Who has transcended all ties here
Of both merit and evil deeds,
Is sorrowless, stainless, and pure:
He is the one I call a brahmin.
Ai không uế, thanh tịnh,
Không gợn, sáng như trăng,
Hỷ, hữu được đoạn trừ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
44. Who, pure as the spotless moon,
Is clear and limpid, and in whom
Delight and being have been destroyed:
He is the one I call a brahmin.
Ai vượt qua hiểm lộ,
Ác lộ, luân hồi, si,
Vượt khỏi, đến bờ kia,
Thiền tư, không dao động,
Ðoạn trừ mọi nghi hoặc,
An tịnh, không chấp trước,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
45. Who has passed beyond the swamp,
The mire, saṁsāra, all delusion,
Who has crossed to the further shore
And meditates within the jhānas,
Is unperturbed and unperplexed,
Attained Nibbāna through no clinging:
He is the one I call a brahmin.
Ở đời, bỏ dục vọng,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ dục và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
46. Who has abandoned sensual pleasures
And wanders here in homelessness
With sense desires and being destroyed:
He is the one I call a brahmin.
Ở đời, bỏ tham ác,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ ác và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
47. Who has abandoned craving too,
And wanders here in homelessness,
With craving and being both destroyed:
He is the one I call a brahmin.
Ai từ bỏ nhân ách,
Vượt qua cả thiên ách,
Ðoạn trừ mọi ách nạn,
Thoát ly mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
48. Who leaves behind all human bonds
And has cast off the bonds of heaven,
Detached from all bonds everywhere:
He is the one I call a brahmin.
Từ bỏ lạc, bất lạc,
Thanh lương, không y trú,
Chiến thắng mọi thế giới,
Bậc anh hùng dũng mãnh,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
49. Who leaves behind delight and discontent,
Who is cool and acquisitionless,
The hero who has transcended the whole world:
He is the one I call a brahmin. [122]
Ai biết thật hoàn toàn,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ, đạt chánh giác,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
50. Who knows how beings pass away
To reappear in many a mode,
Unclutching he, sublime, awake:
He is the one I call a brahmin.
Không biết chỗ sở thủ,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-Hán,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
51. Whose destination is unknown
To gods, to spirits, and to men,
An arahant with taints destroyed:
He is the one I call a brahmin.
Ai không có chấp trước,
Ðời trước, sau, đời này,
Không chấp, không sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
52. Who has no impediments at all,
Before, behind, or in the middle,
Who is unimpeded and clings no more:
He is the one I call a brahmin.
Ngưu vương, bậc Tối thắng,
Anh hùng, bậc Ðại sĩ,
Bậc Chinh phục, Bất động,
Tắm sạch, bậc Giác Ngộ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
53. The herd’s leader, perfected hero,
The great seer whose victory is won,
Unperturbed, cleansed, awakened:
He is the one I call a brahmin.
Ai biết được đời trước,
Thấy được thiện, ác thú,
Ðạt được sanh diệt đoạn,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
54. Who knows his manifold past lives
And sees the heavens and states of woe,
Who has reached the destruction of birth:
He is the one I call a brahmin.
12
Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc",
Chỉ tục danh, thông danh,
Danh từ khởi nhiều chỗ.
Ðã lâu đời chấp trước,
55. “For name and clan are assigned
As mere designations in the world;
Originating in conventions,
They are assigned here and there.
Tà kiến của kẻ ngu,
Kẻ ngu tự tuyên bố,
Bà-la-môn do sanh.
Không phải do sanh đẻ,
Ðược gọi Bà-la-môn,
56. For those who do not know this fact,
Wrong views have long underlain their hearts;
Not knowing, they declare to us:
‘One is a brahmin by birth.’
Không phải do sanh đẻ,
Gọi phi Bà-la-môn.
Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn,
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà-la-môn.
57. One is not a brahmin by birth,
Nor by birth a non-brahmin.
By action is one a brahmin,
By action is one a non-brahmin.
Hành động làm nông phu,
Hành động làm công thợ,
Hành động làm lái buôn,
Hành động làm nô bộc.
58. For men are farmers by their acts,905
And by their acts are craftsmen too;
And men are merchants by their acts,
And by their acts are servants too.
Hành động làm ăn trộm,
Hành động làm nhà binh.
Hành động làm tế quan,
Hành động làm vua chúa.
59. And men are robbers by their acts,
And by their acts are soldiers too;
And men are chaplains by their acts,
And by their acts are rulers too. [123]
13
Kẻ trí thấy hành động,
Như thật là như vậy.
Thấy rõ lý duyên khởi,
Biết rõ nghiệp dị thục.
60. “So that is how the truly wise
See action as it really is,
Seers of dependent origination,
Skilled in action and its results.906
Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi.
Nghiệp trói buộc chúng sanh,
Như trục xe quay bánh.
61. Action makes the world go round,
Action makes this generation turn.
Living beings are bound by action
Like the chariot wheel by the linchpin.
Do khổ hạnh, Phạm hạnh,
Tiết chế và chế ngự,
Tác thành Bà-la-môn.
Bà-la-môn như vậy,
Mới thật là tối thượng,
62. Asceticism, the holy life,
Self-control and inner training —
By this one becomes a brahmin,
In this supreme brahminhood lies.907
Ba Vệ-đà thành tựu,
An tịnh, tái sanh đoạn,
Vesettha nên biết,
Kẻ ấy được Phạm thiên,
Ðược Thiên chủ Sakka,
Biết đến thật tường tận.
63. One possessing the triple knowledge,
Peaceful, with being all destroyed:
Know him thus, O Vāseṭṭha,
As Brahmā and Sakka for those who understand.”
Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja bạch Thế Tôn:
14. When this was said, the brahmin students Vāseṭṭha and Bhāradvāja said to the Blessed One:
-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
“Magnificent, Master Gotama! Magnificent, Master Gotama!…
Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.
From today let Master Gotama remember us as lay followers who have gone to him for refuge for life.”




_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Rộng mở tâm hồn và phát triển trí tuệ


Cảm tạ xứ Đức


Các tông phái đạo Phật


Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.119.235.99 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (169 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học