Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 57. Kinh Hạnh Con Chó - 57. The Dog-Duty Ascetic »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 57. Kinh Hạnh Con Chó - 57. The Dog-Duty Ascetic

Donate

Kukkuravatika sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

57. Kinh Hạnh Con Chó

57. The Dog-Duty Ascetic

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Koliya Haliddavasana là tên một thị trấn của dân chúng Koliya.
1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living in the Koliyan country where there was a town of the Koliyans named Haliddavasana.
Rồi Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chõ hỏ như con chó. Sau khi ngồi một bên, Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:
2. Then Puṇṇa, son of the Koliyans, an ox-duty ascetic, and also Seniya, a naked dog-duty ascetic, went to the Blessed One.600 Puṇṇa, the ox-duty ascetic, paid homage to the Blessed One and sat down at one side, while Seniya, the naked dog-duty ascetic, exchanged greetings with the Blessed One, and when this courteous and amiable talk was finished, he too sat down at one side curled up like a dog. Puṇṇa, the ox-duty ascetic, said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng xuống đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
“Venerable sir, this Seniya is a naked dog-duty ascetic who does what is hard to do: he eats his food when it is thrown to the ground. He has long taken up and practised that dog-duty. What will be his destination? What will be his future course?”
-- Thôi vừa rồi Puṇṇa, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.
“Enough, Puṇṇa, let that be. Do not ask me that.”
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:
A second time… And a third time Puṇṇa, the ox-duty ascetic, said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng dưới đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
“Venerable sir, this Seniya is a naked dog-duty ascetic who does what is hard to do: he eats his food when it is thrown to the ground. He has long taken up and practised that dog-duty. What will be his destination? What will be his future course?”
-- Này Puṇṇa, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Puṇṇa, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa". Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông.
“Well, Puṇṇa, since I certainly cannot persuade you when I say: ‘Enough, Puṇṇa, let that be. Do not ask me that,’ I shall therefore answer you.
Ở đây, này Puṇṇa, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó.
3. “Here, Puṇṇa, someone develops the dog-duty fully and uninterruptedly; he develops the dog-habit fully and uninterruptedly; he develops the dog-mind fully [388] and uninterruptedly; he develops dog-behaviour fully and uninterruptedly. Having done so, on the dissolution of the body, after death, he reappears in the company of dogs.
Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: "Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác", thời này Puṇṇa, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Puṇṇa, nếu hạnh con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
But if he has such a view as this: ‘By this virtue or observance or asceticism or holy life I shall become a [great] god or some [lesser] god,’ that is wrong view in his case. Now there are two destinations for one with wrong view, I say: hell or the animal realm.601 So, Puṇṇa, if his dog-duty succeeds, it will lead him to the company of dogs; if it fails, it will lead him to hell.”
Khi được nói vậy, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, khóc than chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn nói với Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò:
4. When this was said, Seniya the naked dog-duty ascetic cried out and burst into tears. Then the Blessed One told Puṇṇa, son of the Koliyans, the ox-duty ascetic:
-- Này Puṇṇa, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Puṇṇa, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa".
“Puṇṇa, I could not persuade you when I said: ‘Enough, Puṇṇa, let that be. Do not ask me that.’”
-- Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con chó này trong một thời gian dài. Bạch Thế Tôn, Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò này, đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này, trong một thời gian dài, vậy sanh thú của ông ấy thế nào, vận mạng của ông ấy thế nào?
[Then Seniya the naked dog-duty ascetic said:] “Venerable sir, I am not crying because the Blessed One has said this about me, but because I have long taken up and practised this dog-duty. Venerable sir, this Puṇṇa, son of the Koliyans, is an ox-duty ascetic. He has long taken up and practised that ox-duty. What will be his destination? What will be his future course?”
-- Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.
“Enough, Seniya, let that be. Do not ask me that.”
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, bạch Thế Tôn:
A second time… And a third time Seniya the naked dog-duty ascetic asked the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, Puṇṇa Koliyaputta này đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài, vậy sanh thú của ông ấy thế nào, vận mạng của ông ấy thế nào?
“Venerable sir, this Puṇṇa, son of the Koliyans, is an ox-duty ascetic. He has long taken up and practised that ox-duty. What will be his destination? What will be his future course?”
-- Này Seniya, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa". Tuy vậy ta sẽ trả lời cho Ông.
“Well, Seniya, since I certainly cannot persuade you when I say: ‘Enough, Seniya, let that be. Do not ask me that,’ I shall therefore answer you.
Ở đây, này Seniya, người nào hạnh trì hạnh con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con bò một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh thân hữu cùng với các loài bò.
5. “Here, Seniya, someone develops the ox-duty fully and uninterruptedly; he develops the ox-habit fully and uninterruptedly; he develops the ox-mind fully and uninterruptedly; he develops ox-behaviour fully and uninterruptedly. Having done so, on the dissolution of the body, after death, he reappears in the company of oxen. [389]
Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: "Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này hay chư Thiên khác", thời này Seniya, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Seniya, nếu hạnh con bò được thành tựu, thời được sanh trong loài bò, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
But if he has such a view as this: ‘By this virtue or observance or asceticism or holy life I shall become a [great] god or some [lesser] god,’ that is wrong view in his case. Now there are two destinations for one with wrong view, I say: hell or the animal realm. So, Seniya, if his ox-duty succeeds, it will lead him to the company of oxen; if it fails, it will lead him to hell.”
Khi được nói vậy, Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, khóc than, chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn nói với lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó:
6. When this was said, Puṇṇa, son of the Koliyans, the ox-duty ascetic cried out and burst into tears. Then the Blessed One told Seniya the naked dog-duty ascetic:
-- Này Seniya, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thồi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa".
“Seniya, I could not persuade you when I said: ‘Enough, Seniya, let that be. Do not ask me that.’”
-- Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì, bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài. Bạch Thế Tôn, con có lòng tin tưởng đối với Thế Tôn: Thế Tôn có thể thuyết pháp cho con để con có thể từ bỏ hạnh con bò này và để lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, có thể bỏ hạnh con chó này.
[Then Puṇṇa the ox-duty ascetic said:] “Venerable sir, I am not crying because the Blessed One has said this about me, but because I have long taken up and practised this ox-duty. Venerable sir, I have confidence in the Blessed One thus: ‘The Blessed One is capable of teaching me the Dhamma in such a way that I can abandon this ox-duty and that this Seniya the naked dog-duty ascetic can abandon that dog-duty.’”
-- Này Puṇṇa, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
“Then, Puṇṇa, listen and attend closely to what I shall say.”
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Puṇṇa Koliyaputta vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
— “Yes, venerable sir,” he replied. The Blessed One said this:
-- Này Puṇṇa có bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là bốn? Này Puṇṇa, có nghiệp đen đưa đến quả báo đen, này Puṇṇa, có nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, này Puṇṇa, có nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng, này Puṇṇa, có nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.
7. “Puṇṇa, there are four kinds of action proclaimed by me after realising them for myself with direct knowledge. What are the four? There is dark action with dark result; there is bright action with bright result; there is dark-and-bright action with dark-and-bright result; and there is action that is neither dark nor bright with neither-dark-nor-bright result, action that leads to the destruction of action.
Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen?
8. “And what, Puṇṇa, is dark action with dark result?
Ở đây, này Puṇṇa có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại.
Here someone generates an afflictive bodily formation, an afflictive verbal formation, an afflictive mental formation.602 Having generated an afflictive bodily formation, an afflictive verbal formation, an afflictive mental formation, he reappears in an afflictive world.603
Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ thọ, như các chúng sanh trong địa ngục.
When he has reappeared in an afflictive world, afflictive contacts touch him. Being touched by afflictive contacts, he feels afflictive feelings, exclusively painful, as in the case of the beings in [390] hell.
Như vậy, này Puṇṇa, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình, và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích mình. Do vậy, này Puṇṇa, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy, này Puṇṇa, được gọi là nghiệp đen đưa đến quả báo đen.
Thus a being’s reappearance is due to a being:604 one reappears through the actions one has performed. When one has reappeared, contacts touch one. Thus I say beings are the heirs of their actions. This is called dark action with dark result.
Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng?
9. “And what, Puṇṇa, is bright action with bright result?
Ở đây, này Puṇṇa, có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không có tổn hại, khẩu hành không có tổn hại, ý hành không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không có tổn hại.
Here someone generates an unafflictive bodily formation, an unafflictive verbal formation, an unafflictive mental formation.605 Having generated an unafflictive bodily formation, an unafflictive verbal formation, an unafflictive mental formation, he reappears in an unafflictive world.606
Vì phải sanh vào thế giới không có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc không có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc không có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ không có tổn hại, thuần nhất lạc thọ, như chư Thiên Subhakinha (Biến Tịnh thiên).
When he has reappeared in an unafflictive world, unafflictive contacts touch him. Being touched by unafflictive contacts, he feels unafflictive feelings, exclusively pleasant, as in the case of the gods of Refulgent Glory.
Như vậy này Puṇṇa là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy.
Thus a being’s reappearance is due to a being; one reappears through the actions one has performed. When one has reappeared, contacts touch one.
Do vậy, này Puṇṇa, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy, này Puṇṇa, được gọi là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng.
Thus I say beings are the heirs of their actions. This is called bright action with bright result.
Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng?
10. “And what, Puṇṇa, is dark-and-bright action with dark-and-bright result?
Ở đây, này Puṇṇa, có người làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, các khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, các ý hành có tổn hại và không tổn hại. Sau khi làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, ý hành có tổn hại và không tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại.
Here someone generates a bodily formation that is both afflictive and unafflictive, a verbal formation that is both afflictive and unafflictive, a mental formation that is both afflictive and unafflictive.607 Having generated a bodily formation, a verbal formation, a mental formation that is both afflictive and unafflictive, he reappears in a world that is both afflictive and unafflictive.
Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, có lạc thọ khổ thọ xen lẫn, như một số loài Người, một số chư Thiên và một số chúng sanh trong đọa xứ.
When he has reappeared in a world that is both afflictive and unafflictive, both afflictive and unafflictive contacts touch him. Being touched by both afflictive and unafflictive contacts, he feels both afflictive and unafflictive feelings, mingled pleasure and pain, as in the case of human beings and some gods and some beings in the lower worlds.
Như vậy, này Puṇṇa là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Puṇṇa, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy này Puṇṇa, được gọi là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
Thus a being’s reappearance is due to a being: one reappears through the actions one has performed. When one has reappeared, contacts touch one. Thus I say beings are the heirs to their actions. This is called dark-and-bright action with dark-and-bright result. [391]
Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp?
11. “And what, Puṇṇa, is action that is neither dark nor bright with neither-dark-nor-bright result, action that leads to the destruction of action?
Ở đây, này Puṇṇa chỗ nào có ý chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
Therein, the volition for abandoning the kind of action that is dark with dark result, and the volition for abandoning the kind of action that is bright with bright result,
Ở đây, này Puṇṇa, chỗ nào có ý chí như vậy, này Puṇṇa, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.
and the volition for abandoning the kind of action that is dark and bright with dark-and-bright result: this is called action that is neither dark nor bright with neither-dark-nor-bright result, action that leads to the destruction of action.608
Này Puṇṇa, bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết.
These are the four kinds of action proclaimed by me after realising them for myself with direct knowledge.”
Khi được nói vậy, Puṇṇa Koliyaputta, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
12. When this was said, Puṇṇa, son of the Koliyans, the ox-duty ascetic said to the Blessed One:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.
“Magnificent, venerable sir! Magnificent, venerable sir! The Blessed One has made the Dhamma clear in many ways…
Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
From today let the Blessed One remember me as a lay follower who has gone to him for refuge for life.”
Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, bạch Thế Tôn:
13. But Seniya the naked dog-duty ascetic said to the Blessed One:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích.
“Magnificent, venerable sir! Magnificent, venerable sir! The Blessed One has made the Dhamma clear in many ways, as though he were turning upright what had been overthrown, revealing what was hidden, showing the way to one who was lost, or holding up a lamp in the dark for those with eyesight to see forms.
Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại giới.
I go to the Blessed One for refuge and to the Dhamma and to the Sangha of bhikkhus. I would receive the going forth under the Blessed One, I would receive the full admission.”
-- Này Seniya, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú.
14. “Seniya, one who formerly belonged to another sect and desires the going forth and the full admission in this Dhamma and Discipline lives on probation for four months.609
Sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy ở đây là tánh con người sai biệt nhau.
At the end of four months, if the bhikkhus are satisfied with him, they give him the going forth and the full admission to the bhikkhus’ state. But I recognise individual differences in this matter.”610
-- Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật này, phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, để thành vị Tỷ-kheo, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm.
“Venerable sir, if those who formerly belonged to another sect and desire the going forth and the full admission in this Dhamma and Discipline live on probation for four months, and if at the end of the four months the bhikkhus being satisfied with them give them the going forth and the full admission to the bhikkhus’ state, then I will live on probation for four years.
Sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu chư Tỷ-kheo đồng ý, mong chư Tỷ-kheo hãy xuất gia cho con, thọ đại giới cho con để thành vị Tỷ-kheo.
At the end of the four years if the bhikkhus are satisfied with me, let them give me the going forth and the full admission to the bhikkhus’ state.”
Và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Seniya sống một mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Và không bao lâu vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự mình chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
15. Then Seniya the naked dog-duty ascetic received the going forth under the Blessed One, and he received the full admission. And soon, not long after his full admission, dwelling alone, withdrawn, [392] diligent, ardent, and resolute, the venerable Seniya, by realising for himself with direct knowledge, here and now entered upon and abided in that supreme goal of the holy life for the sake of which clansmen rightly go forth from the home life into homelessness.
Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa". Và Tôn giả Seniya trở thành một vị A-la-hán nữa.
He directly knew: “Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.” And the venerable Seniya became one of the arahants.





_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.143.237.203 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học