Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 22. Kinh Ví Dụ Con Rắn - 22. The Simile of the Snake »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 22. Kinh Ví Dụ Con Rắn - 22. The Simile of the Snake

Donate

Alagaddūpama sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

22. Kinh Ví Dụ Con Rắn

22. The Simile of the Snake

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
(SETTING)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
[130] 1. THUS HAVE I HEARD.248 On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì".
2. Now on that occasion a pernicious view had arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, thus: “As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things called obstructions by the Blessed One are not able to obstruct one who engages in them.”249
Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: "Tỷ-kheo tên Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau:
3. Several bhikkhus, having heard about this, went to the bhikkhu Ariṭṭha and asked him:
"Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì". Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng như sau:
-- Này Hiền giả Ariṭṭha, có đúng sự thật rằng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì"?
“Friend Ariṭṭha, is it true that such a pernicious view has arisen in you?”
-- Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu... không có chướng ngại gì.
“Exactly so, friends. As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things called obstructions by the Blessed One are not able to obstruct one who engages in them.”
Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
Then these bhikkhus, desiring to detach him from that pernicious view, pressed and questioned and cross-questioned him thus:
--"Hiền giả Ariṭṭha, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại.
“Friend Ariṭṭha, do not say so. Do not misrepresent the Blessed One; it is not good to misrepresent the Blessed One. The Blessed One would not speak thus. For in many ways the Blessed One has stated how obstructive things are obstructions, and how they are able to obstruct one who engages in them.
Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
The Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and despair, and that the danger in them is still more.
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như một miếng thịt... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như bó đuốc cỏ khô... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như hố than hừng... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như cơn mộng... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như vật dụng cho mượn... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như trái cây... Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như lò thịt... Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như gậy nhọn...
With the simile of the skeleton… with the simile of the piece of meat… with the simile of the grass torch… with the simile of the pit of coals… with the simile of the dream… with the simile of the borrowed goods… with the simile of fruits on a tree… with the simile of the butcher’s knife and block… with the simile of the sword stake… with the simile of the snake’s head,
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều, não nhiều và do vậy, nguy hiểm càng nhiều hơn".
the Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and despair, and that the danger in them is still more.”250
Tỷ-kheo Ariṭṭha xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, chất vấn thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy: "Thật sự là vậy, theo như tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì".
Yet although pressed and questioned and cross-questioned by those bhikkhus in this way, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, still obstinately adhered to that pernicious view and continued to insist upon it.
Vì các Tỷ-kheo không thể làm cho Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên họ đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
4. Since the bhikkhus were unable to detach him [131] from that pernicious view, they went to the Blessed One, and after paying homage to him, they sat down at one side and told him all that had occurred, adding:
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì". Bạch Thế Tôn, chúng con nghe: "Tỷ-kheo tên Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng... không có chướng ngại gì". Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng: --"Này Hiền giả Ariṭṭha, có đúng sự thật chăng? Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì".
Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, nói với chúng con như sau: --"Thật sự là vậy. Chư Hiền, theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì".
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận: --"Hiền giả Ariṭṭha, chớ nói như vậy! Chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy, Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn".
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy: "Thật sự là vậy, theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì".
Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
“Venerable sir, since we could not detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, from this pernicious view, we have reported this matter to the Blessed One.”
Rồi Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo khác:
5. Then the Blessed One addressed a certain bhikkhu thus:
-- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng rằng: "Hiền giả Ariṭṭha, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả".
“Come, bhikkhu, tell the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, in my name that the Teacher calls him.”
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, sau khi đến, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng: -- Hiền giả Ariṭṭha, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả.
— [132] “Yes, venerable sir,” he replied, and he went to the bhikkhu Ariṭṭha and told him: “The Teacher calls you, friend Ariṭṭha.”
-- Thưa vâng, Hiền giả. Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đang ngồi xuống một bên:
“Yes, friend,” he replied, and he went to the Blessed One, and after paying homage to him, sat down at one side. The Blessed One then asked him:
-- Này Ariṭṭha, có thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến như sau:
“Ariṭṭha, is it true that the following pernicious view has arisen in you:
"Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì"?
‘As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things called obstructions by the Blessed One are not able to obstruct one who engages in them’?”
-- Thật sự là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu, thật sự không có chướng ngại gì.
“Exactly so, venerable sir. As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things called obstructions by the Blessed One are not able to obstruct one who engages in them.”
-- Này kẻ ngu si kia, sao Ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy? Này kẻ ngu si kia, có phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại?
6. “Misguided man, to whom have you ever known me to teach the Dhamma in that way? Misguided man, have I not stated in many ways how obstructive things are obstructions, and how they are able to obstruct one who engages in them?
Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
I have stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and despair, and that the danger in them is still more.
Ta đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt... được ví như bó đuốc cỏ khô... được ví như hố than hừng... được ví như cơn mộng... được ví như vật dụng cho mượn... được ví như trái cây... được ví như lò thịt... được ví như gậy nhọn...
With the simile of the skeleton… with the simile of the piece of meat… with the simile of the grass torch… with the simile of the pit of coals… with the simile of the dream… with the simile of the borrowed goods… with the simile of fruits on a tree… with the simile of the butcher’s knife and block… with the simile of the sword stake… with the simile of the snake’s head,
Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
I have stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and despair, and that the danger in them is still more.
Và này kẻ ngu si kia, không những Ông xuyên tạc Ta, vì Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông tự phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông.
But you, misguided man, by your wrong grasp have misrepresented us, injured yourself, and stored up much demerit; for this will lead to your harm and suffering for a long time.”251
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
7. Then the Blessed One addressed the bhikkhus thus:
-- Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này có thể khởi lên tia lửa sáng gì trong Pháp và Luật này không?
“Bhikkhus, what do you think? Has this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, kindled even a spark of wisdom in this Dhamma and Discipline?”
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được! Không thể được, bạch Thế Tôn.
“How could he, venerable sir? No, venerable sir.”
Ðược nói vậy, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng. Rồi Thế Tôn, sau khi biết được Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng đang im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
When this was said, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, sat silent, dismayed, with shoulders drooping and head down, glum, and without response. Then, knowing this, the Blessed One told him:
-- Này kẻ ngu si kia, người ta sẽ được biết Ông qua ác tà kiến của chính Ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.
“Misguided man, you will be recognised by your own pernicious view. I shall question the bhikkhus on this matter.”
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng, giống như Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này, không những đã xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, mà còn tự phá hoại mình và gây nên nhiều tổn đức?
8. Then the Blessed One addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus, [133] do you understand the Dhamma taught by me as this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, does when by his wrong grasp he misrepresents us, injures himself and stores up much demerit?”
-- Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp; và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại.
“No, venerable sir. For in many ways the Blessed One has stated how obstructive things are obstructions, and how they are able to obstruct one who engages in them.
Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
The Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and despair, and that the danger in them is still more.
Thế Tôn đã thuyết các dục ví như khúc xương... (như trên)... Thế Tôn đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
With the simile of the skeleton… with the simile of the snake’s head, the Blessed One has stated… that the danger in them is still more.”
-- Lành thay, chư Tỷ-kheo! Lành thay, chư Tỷ-kheo! Các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp, và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại.
“Good, bhikkhus. It is good that you understand the Dhamma taught by me thus. For in many ways I have stated how obstructive things are obstructions, and how they are able to obstruct one who engages in them.
Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục ví như khúc xương... (như trên)...
I have stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and despair, and that the danger in them is still more.
Ta đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Nhưng Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc mà còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu ngày cho kẻ ngu si ấy.
With the simile of the skeleton… with the simile of the snake’s head, I have stated… that the danger in them is still more. But this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture killers, by his wrong grasp misrepresents us, injures himself, and stores up much demerit; for this will lead to this misguided man’s harm and suffering for a long time.
Thật sự, này các Tỷ-kheo, sự kiện này không xảy ra, người ta có thể thọ dụng các dục ngoài các dục, ngoài các dục tưởng, ngoài các dục tầm.
9. “Bhikkhus, that one can engage in sensual pleasures without sensual desires, without perceptions of sensual desire, without thoughts of sensual desire — that is impossible.252
(Ví dụ con rắn)
(THE SIMILE OF THE SNAKE)
Chư Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp như Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng.
10. “Here, bhikkhus, some misguided men learn the Dhamma — discourses, stanzas, expositions, verses, exclamations, sayings, birth stories, marvels, and answers to questions — but having learned the Dhamma, they do not examine the meaning of those teachings with wisdom. Not examining the meaning of those teachings with wisdom, they do not gain a reflective acceptance of them.
Họ học các pháp chỉ vì lợi ích muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến.
Instead they learn the Dhamma only for the sake of criticising others and for winning in debates, and they do not experience the good for the sake of which they learned the Dhamma.
Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp.
Those teachings, being wrongly grasped by them, conduce to their harm and suffering for a long time.253 Why is that? Because of the wrong grasp of those teachings.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước, đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn, và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi. Con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác của cơ thể, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết.
“Suppose a man needing a snake, seeking a snake, wandering in search of a snake, saw a large snake and grasped its coils or its tail. It would turn back on him and bite his hand or his arm or one of his limbs, [134] and because of that he would come to death or deadly suffering.
Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì nắm bắt con rắn một cách sai lạc. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, ở đây, một số người ngu si học pháp... Chư Tỷ-kheo, vì sự chấp thủ các pháp sai lạc.
Why is that? Because of his wrong grasp of the snake. So too, here some misguided men learn the Dhamma… Why is that? Because of the wrong grasp of those teachings.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một số Thiện nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng.
11. “Here, bhikkhus, some clansmen learn the Dhamma — discourses… answers to questions — and having learned the Dhamma, they examine the meaning of those teachings with wisdom. Examining the meaning of those teachings with wisdom, they gain a reflective acceptance of them.
Họ học pháp không vì lợi ích muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích muốn khoái khẩu biện luận, và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến.
They do not learn the Dhamma for the sake of criticising others and for winning in debates, and they experience the good for the sake of which they learned the Dhamma.
Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp.
Those teachings, being rightly grasped by them, conduce to their welfare and happiness for a long time. Why is that? Because of the right grasp of those teachings.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn. Người đó có thể khéo đè con rắn nước với cây gậy có nạng. Sau khi khéo đè với cây gậy có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ cổ rắn. Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy có thể cuốn thân nó xung quanh tay, hay cánh tay, hay một thân phần nào khác, người đó cũng không vì nhân duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ con rắn nước vậy.
“Suppose a man needing a snake, seeking a snake, wandering in search of a snake, saw a large snake and caught it rightly with a cleft stick, and having done so, grasped it rightly by the neck. Then although the snake might wrap its coils round his hand or his arm or his limbs, still he would not come to death or deadly suffering because of that. Why is that? Because of his right grasp of the snake. So too, here some clansmen learn the Dhamma… Why is that? Because of the right grasp of those teachings.
Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, ở đây, một số Thiện nam tử học pháp... chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp vậy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ trì như vậy. Nếu có ai không hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng thì ở nơi đây, các Ông hãy hỏi Ta hay hỏi những bậc Tỷ-kheo trí thức.
12. “Therefore, bhikkhus, when you understand the meaning of my statements, remember it accordingly; and when you do not understand the meaning of my statements, then ask either me about it or those bhikkhus who are wise.
(Ví dụ chiếc bè)
(THE SIMILE OF THE RAFT)
Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
13. “Bhikkhus, I shall show you how the Dhamma is similar to a raft, being for the purpose of crossing over, not for the purpose of grasping.254 Listen and attend closely to what I shall say.” this:
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
— “Yes, venerable sir,” the bhikkhus replied. The Blessed One said
-- Này các Tỷ-kheo, ví như có người đang đi trên con đường lớn dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia.
“Bhikkhus, suppose a man in the course of a journey saw a great expanse of water, whose near shore was dangerous and fearful and whose further shore was safe and free from fear, but there was no ferryboat or bridge for going to the far shore. [135]
Người đó tự suy nghĩ: "Ðây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn".
Then he thought: ‘There is this great expanse of water, whose near shore is dangerous and fearful and whose further shore is safe and free from fear, but there is no ferryboat or bridge for going to the far shore.
Chư Tỷ-kheo, rồi người đó thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.
Suppose I collect grass, twigs, branches, and leaves and bind them together into a raft, and supported by the raft and making an effort with my hands and feet, I got safely across to the far shore.’ And then the man collected grass, twigs, branches, and leaves and bound them together into a raft, and supported by the raft and making an effort with his hands and feet, he got safely across to the far shore.
Khi qua bờ bên kia rồi, Người đó suy nghĩ: "Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn".
Then, when he had got across and had arrived at the far shore, he might think thus: ‘This raft has been very helpful to me, since supported by it and making an effort with my hands and feet, I got safely across to the far shore. Suppose I were to hoist it on my head or load it on my shoulder, and then go wherever I want.’
Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Chư Tỷ-kheo, nếu người đó làm như vậy, thì có làm đúng với sở dụng của chiếc bè chăng?
Now, bhikkhus, what do you think? By doing so, would that man be doing what should be done with that raft?”
-- Bạch Thế Tôn, không.
“No, venerable sir.”
-- Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: "Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.
“By doing what would that man be doing what should be done with that raft? Here, bhikkhus, when that man got across and had arrived at the far shore, he might think thus: ‘This raft has been very helpful to me, since supported by it and making an effort with my hands and feet, I got safely across to the far shore.
Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn". Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy.
Suppose I were to haul it onto the dry land or set it adrift in the water, and then go wherever I want.’ Now, bhikkhus, it is by so doing that that man would be doing what should be done with that raft. So I have shown you how the Dhamma is similar to a raft, being for the purpose of crossing over, not for the purpose of grasping.
Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.
14. “Bhikkhus, when you know the Dhamma to be similar to a raft, you should abandon even the teachings, how much more so things contrary to the teachings.255
(Các kiến xứ)
(STANDPOINTS FOR VIEWS)
Này các Tỷ-kheo, có sáu kiến xứ. Thế nào là sáu?
15. “Bhikkhus, there are these six standpoints for views.256 What are the six?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đi đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân,
Here, bhikkhus, an untaught ordinary person, who has no regard for noble ones and is unskilled and undisciplined in their Dhamma, who has no regard for true men and is unskilled and undisciplined in their Dhamma,
xem sắc pháp: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi",
regards material form thus: ‘This is mine, this I am, this is my self.’257
xem cảm thọ: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi",
He regards feeling thus: ‘This is mine, this I am, this is my self.’
xem tưởng: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi",
He regards perception thus: ‘This is mine, this I am, this is my self.’
xem các hành: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi",
He regards formations thus: ‘This is mine, this I am, this is my self.’
xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi",
He regards what is seen, heard, sensed, cognized, encountered, sought, mentally pondered thus: ‘This is mine, this I am, this is my self.’258
và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi", xem như vậy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi".
And this standpoint for views, namely, ‘That which is the self is the world; after death I shall be permanent, everlasting, eternal, not subject to change; [136] I shall endure as long as eternity’ — this too he regards thus: ‘This is mine, this I am, this is my self.’259
Và này chư Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân,
16. “Bhikkhus, a well-taught noble disciple who has regard for noble ones and is skilled and disciplined in their Dhamma, who has regard for true men and is skilled and disciplined in their Dhamma,
xem sắc pháp: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi",
regards material form thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
xem cảm thọ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi",
He regards feeling thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
xem tưởng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi",
He regards perception thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
xem các hành: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi",
He regards formations thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi",
He regards what is seen, heard, sensed, cognized, encountered, sought, mentally pondered thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi", xem như vậy là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
And this standpoint for views, namely, ‘That which is the self is the world; after death I shall be permanent, everlasting, eternal, not subject to change; I shall endure as long as eternity’ — this too he regards thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
Vị này do quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có nên không có lo âu, phiền muộn.
17. “Since he regards them thus, he is not agitated about what is non-existent.”260
(Lo âu)
(AGITATION)
Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn: -- Có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu phiền muộn?
18. When this was said, a certain bhikkhu asked the Blessed One: “Venerable sir, can there be agitation about what is non-existent externally?”
Thế Tôn đáp: -- Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người nghĩ như sau: "Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy".
“There can be, bhikkhu,” the Blessed One said. “Here, bhikkhu, someone thinks thus: ‘Alas, I had it! Alas, I have it no longer! Alas, may I have it! Alas, I do not get it!’
Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy, có cái không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu, phiền muộn.
Then he sorrows, grieves, and laments, he weeps beating his breast and becomes distraught. That is how there is agitation about what is non-existent externally.”
-- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể không gây lo âu phiền muộn?
19. “Venerable sir, can there be no agitation about what is non-existent externally?”
Thế Tôn đáp: -- Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người không nghĩ như sau: "Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy".
“There can be, bhikkhu,” the Blessed One said. “Here, bhikkhu, someone does not think thus: ‘Alas I had it! Alas, I have it no longer! Alas, may I have it! Alas, I do not get it!’
Người đó không sầu muộn, than vãn, khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Như vậy, này Tỷ-kheo, có cái không thực có ở ngoài, không gây lo âu phiền muộn.
Then he does not sorrow, grieve, and lament, he does not weep beating his breast and become distraught. That is how there is no agitation about what is non-existent externally.”
-- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn?
20. “Venerable sir, can there be agitation about what is non-existent internally?”
Thế Tôn đáp: -- Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người có (tà) kiến như sau: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú không biến chuyển. Tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi".
“There can be, bhikkhu,” the Blessed One said. “Here, bhikkhu, someone has the view: ‘That which is the self is the world; after death I shall be permanent, everlasting, eternal, not subject to change; I shall endure as long as eternity.’
Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.
He hears the Tathāgata or a disciple of the Tathāgata teaching the Dhamma for the elimination of all standpoints, decisions, obsessions, adherences, and underlying tendencies, for the stilling of all formations, for the relinquishing of all attachments, for the destruction of craving, for dispassion, for cessation, for Nibbāna.
Người đó có thể nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại". Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn.
He [137] thinks thus: ‘So I shall be annihilated! So I shall perish! So I shall be no more!’ Then he sorrows, grieves, and laments, he weeps beating his breast and becomes distraught. That is how there is agitation about what is non-existent internally.”
-- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn?
21. “Venerable sir, can there be no agitation about what is non-existent internally?”
Thế Tôn đáp: -- Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người không có (tà) kiến như sau: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi".
“There can be, bhikkhu,” the Blessed One said. “Here, bhikkhu, someone does not have the view: ‘That which is the self is the world… I shall endure as long as eternity.’
Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chi mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.
He hears the Tathāgata or a disciple of the Tathāgata teaching the Dhamma for the elimination of all standpoints, decisions, obsessions, adherences, and underlying tendencies, for the stilling of all formations, for the relinquishing of all attachments, for the destruction of craving, for dispassion, for cessation, for Nibbāna.
Vị ấy không nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại". Vị ấy không sầu muộn, than vãn, khóc lóc; vị ấy không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn.
He does not think thus: ‘So I shall be annihilated! So I shall perish! So I shall be no more!’ Then he does not sorrow, grieve, and lament, he does not weep beating his breast and become distraught. That is how there is no agitation about what is non-existent internally.
(Vô thường và vô ngã)
(IMPERMANENCE AND NOT SELF)
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nắm giữ một vật sở hữu gì, và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không?
22. “Bhikkhus, you may well acquire that possession that is permanent, everlasting, eternal, not subject to change, and that might endure as long as eternity.261 But do you see any such possession, bhikkhus?”
Chư Tỷ-kheo, các Ông có thể thấy một vật sở hữu nào được nắm giữ và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không?
-- Bạch Thế Tôn, không.
— “No, venerable sir.”
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một vật sở hữu được nắm giữ nào, mà vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi.
— “Good, bhikkhus. I too do not see any possession that is permanent, everlasting, eternal, not subject to change, and that might endure as long as eternity.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể chấp thủ Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
23. “Bhikkhus, you may well cling to that doctrine of self that would not arouse sorrow, lamentation, pain, grief, and despair in one who clings to it.262 But do you see any such doctrine of self, bhikkhus?”
-- Bạch Thế Tôn không.
— “No, venerable sir.”
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
— “Good, bhikkhus. I too do not see any doctrine of self that would not arouse sorrow, lamentation, pain, grief, and despair in one who clings to it.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
24. “Bhikkhus, you may well take as a support that view that would not arouse sorrow, lamentation, pain, grief, and despair in one who takes it as a support.263 But do you see any such support of views, bhikkhus?”
-- Bạch Thế Tôn, không
— “No, venerable sir.”
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy, lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã thời có ngã sở thuộc của tôi không?
— “Good, bhikkhus. I too do not see any support of views [138] that would not arouse sorrow, lamentation, pain, grief, and despair in one who takes it as a support.
-- Bạch Thế Tôn, có. -- Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã sở thuộc, thời có ngã của tôi không?
25. “Bhikkhus, there being a self, would there be for me what belongs to a self?”264
-- Bạch Thế Tôn, có.
— “Yes, venerable sir.”
— “Or, there being what belongs to a self, would there be for me a self?” — “Yes, venerable sir.”
-- Chư Tỷ-kheo, nếu ngã và ngã sở thuộc không thể được chấp nhận là thường còn, thường hằng, thì kiến xứ này: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thành thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi".
— “Bhikkhus, since a self and what belongs to a self are not apprehended as true and established, then this standpoint for views, namely, ‘That which is the self is the world; after death I shall be permanent, everlasting, eternal, not subject to change; I shall endure as long as eternity’
Này các Tỷ-kheo, kiến xứ ấy là hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si không?
— would it not be an utterly and completely foolish teaching?”
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si được!
“What else could it be, venerable sir, but an utterly and completely foolish teaching?”
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường? -- Bạch Thế Tôn, vô thường. -- Cái gì vô thường là khổ hay lạc? -- Bạch Thế Tôn, khổ.
26. “Bhikkhus, what do you think? Is material form permanent or impermanent?” — “Impermanent, venerable sir.” — “Is what is impermanent suffering or happiness?” — “Suffering, venerable sir.”
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"? -- Bạch Thế Tôn, không.
— “Is what is impermanent, suffering, and subject to change, fit to be regarded thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?” — “No, venerable sir.”
-- Chư Tỷ-kheo, cảm thọ là thường hay vô thường? -- Bạch Thế Tôn, là vô thường. -- Cái gì vô thường là khổ hay lạc? -- Bạch Thế Tôn, là khổ. -- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi... tự ngã của tôi"? -- Bạch Thế Tôn, không.
“Bhikkhus, what do you think? Is feeling…
-- Chư Tỷ-kheo, tưởng là thường hay vô thường? -- Bạch Thế Tôn, vô thường. -- Cái gì vô thường...? -- Bạch Thế Tôn, không.
Is perception…
-- Chư Tỷ-kheo, các hành là thường hay vô thường...
Are formations…
chư Tỷ-kheo, thức là thường hay vô thường? -- Bạch Thế Tôn, vô thường. -- Cái gì vô thường là khổ hay lạc? -- Bạch Thế Tôn, khổ. - Cái gì vô thường, khổ thì có hợp lý chăng, khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"? -- Bạch Thế Tôn, không.
Is consciousness permanent or impermanent?” — “Impermanent, venerable sir.”
— “Is what is impermanent suffering or happiness?”
— “Suffering, venerable sir.”
— “Is what is impermanent, suffering, and subject to change, fit to be regarded thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”
— “No, venerable sir.”
-- Do vậy, này các Tỷ-kheo, bất cứ các sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc pháp là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
27. “Therefore, bhikkhus, any kind of material form whatever, whether past, future, or present, internal or external, [139] gross or subtle, inferior or superior, far or near, all material form should be seen as it actually is with proper wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
Bất cứ cảm thọ nào... Bất cứ tưởng nào... Bất cứ hành nào...
Any kind of feeling whatever…
Any kind of perception whatever…
Any kind of formations whatever…
Bất cứ thức nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
Any kind of consciousness whatever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all consciousness should be seen as it actually is with proper wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
Chư Tỷ-kheo, nhờ thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm ly đối với thức,
28. “Seeing thus, bhikkhus, a well-taught noble disciple becomes disenchanted with material form, disenchanted with feeling, disenchanted with perception, disenchanted with formations, disenchanted with consciousness.
do yểm ly nên ly tham, do ly tham, nên được giải thoát, trong sự giải thoát có trí khởi lên, biết được đã giải thoát.
29. “Being disenchanted, he becomes dispassionate. Through dispassion [his mind] is liberated.265 When it is liberated there comes the knowledge: ‘It is liberated.’
Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui tại đây với một đời sống khác".
He understands: ‘Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.’
(Bậc A-la-hán)
(THE ARAHANT)
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã vất bỏ đi các chướng ngại vật, là vị đã lấp đầy các thông hào, là vị đã nhổ lên cột trụ, là vị đã mở tung các lề khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
30. “Bhikkhus, this bhikkhu is called one whose cross-bar has been lifted, whose trench has been filled in, whose pillar has been uprooted, one who has no bolt, a noble one whose banner is lowered, whose burden is lowered, who is unfettered.
Và thế nào là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, là đã đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại.
31. “And how is the bhikkhu one whose cross-bar has been lifted? Here the bhikkhu has abandoned ignorance, has cut it off at the root, made it like a palm stump, done away with it, so that it is no longer subject to future arising. That is how the bhikkhu is one whose cross-bar has been lifted.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp đầy các thông hào? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã lấp đầy thông hào.
32. “And how is the bhikkhu one whose trench has been filled in? Here the bhikkhu has abandoned the round of births that brings renewed being, has cut it off at the root… so that it is no longer subject to future arising. That is how the bhikkhu is one whose trench has been filled in.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ khát ái, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ.
33. “And how is the bhikkhu one whose pillar has been uprooted? Here the bhikkhu has abandoned craving, has cut it off at the root… so that it is no longer subject to future arising. That is how the bhikkhu is one whose pillar has been uprooted.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa.
34. “And how is the bhikkhu one who has no bolt? Here the bhikkhu has abandoned the five lower fetters, has cut them off at the root… so that they are no longer subject to future arising. That is how the bhikkhu is one who has no bolt.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là vị Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
35. “And how is the bhikkhu a noble one whose banner is lowered, whose burden is lowered, who is unfettered? Here a bhikkhu has abandoned the conceit ‘I am,’ has cut it off at the root [140]… so that it is no longer subject to future arising. That is how the bhikkhu is a noble one whose banner is lowered, whose burden is lowered, who is unfettered.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã giải thoát như vậy, thì chư Thiên ở Ðế thích Thiên giới, Phạm thiên giới, Sanh chủ giới sẽ không tìm được dấu vết của Tỷ-kheo ấy, nếu nghĩ rằng: "Y ở đây, có thức của Như Lai". Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, Ta nói ngay ở hiện tại, một Như Lai không thể tìm thấy dấu vết".
36. “Bhikkhus, when the gods with Indra, with Brahmā and with Pajāpati seek a bhikkhu who is thus liberated in mind, they do not find [anything of which they could say]: ‘The consciousness of one thus gone is supported by this.’ Why is that? One thus gone, I say, is untraceable here and now.266
(Xuyên tạc Như Lai)
(MISREPRESENTATION OF THE TATHĀGATA)
Chư Tỷ-kheo, Ta nói như vậy, thuyết như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn xuyên tạc Ta một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thực: "Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình".
37. “So saying, bhikkhus, so proclaiming, I have been baselessly, vainly, falsely, and wrongly misrepresented by some recluses and brahmins thus: ‘The recluse Gotama is one who leads astray; he teaches the annihilation, the destruction, the extermination of an existing being.’267
Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta không là như vậy, Ta không nói như vậy, Ta không như các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã xuyên tạc một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thật: "Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình".
As I am not, as I do not proclaim, so have I been baselessly, vainly, falsely, and wrongly misrepresented by some recluses and brahmins thus: ‘The recluse Gotama is one who leads astray; he teaches the annihilation, the destruction, the extermination of an existing being.’
Chư Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ. Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho Như Lai tức giận, thì này các Tỷ-kheo, ở đây, Như Lai không có sân hận, không có bất mãn, tâm không phẫn nộ.
38. “Bhikkhus, both formerly and now what I teach is suffering and the cessation of suffering.268 If others abuse, revile, scold, and harass the Tathāgata for that, the Tathāgata on that account feels no annoyance, bitterness, or dejection of the heart.
Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây, những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai không có hoan hỷ, sung sướng, Tâm không thích thú. Chư Tỷ-kheo, nếu những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai suy nghĩ: "Ðây là điều xưa kia đã từng biết rõ: ở đây là trách nhiệm Ta phải làm".
And if others honour, respect, revere, and venerate the Tathāgata for that, the Tathāgata on that account feels no delight, joy, or elation of the heart. If others honour, respect, revere, and venerate the Tathāgata for that, the Tathāgata on that account thinks thus: ‘They perform such services as these for me in regard to this which earlier was fully understood.’269
Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho các Ông tức giận, ở đây các Ông chớ có sân hận, bất mãn, tâm chớ khởi phẫn nộ.
39. “Therefore, bhikkhus, if others abuse, revile, scold, and harass you, on that account you should not entertain any annoyance, bitterness, or dejection of the heart.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các Ông, thì ở đây, các Ông chớ có hoan hỷ, sung sướng, tâm sanh thích thú.
And if others honour, respect, revere, and venerate you, on that account you should not entertain any delight, joy, or elation of the heart.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các Ông, thì ở đây, các Ông hãy suy nghĩ: "Ðây là điều xưa kia đã từng biết rõ, đây là những trách nhiệm ta phải làm".
If others honour, respect, revere, and venerate you, on that account you should think thus: ‘They perform such services as these for us in regard to this which earlier was fully understood.’
(Không sở hữu)
(NOT YOURS)
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ. Các Ông từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
40. “Therefore, bhikkhus, whatever is not yours, abandon it; when you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness for a long time.
Chư Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông?
What is it that is not yours?
Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc. Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Material form is not yours. Abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness for a long time.
Chư Tỷ-kheo, thọ không phải của các Ông, hãy từ bỏ thọ. Các Ông từ bỏ thọ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Feeling is not yours. [141] Abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness for a long time.
Chư Tỷ-kheo, tưởng không phải của các Ông, hãy từ bỏ tưởng. Các Ông từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Perception is not yours. Abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness for a long time.
Chư Tỷ-kheo, các hành không phải của các Ông, hãy từ bỏ các hành. Các Ông từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Formations are not yours. Abandon them. When you have abandoned them, that will lead to your welfare and happiness for a long time.
Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức. Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Consciousness is not yours. Abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness for a long time.270
Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Trong rừng Jetavana này, nếu có người thâu lượm cỏ, cây, nhành, lá rồi đốt hay làm với chúng tùy theo ý muốn, các Ông có nghĩ chăng? Người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta hay làm với chúng ta tùy theo ý muốn?
41. “Bhikkhus, what do you think? If people carried off the grass, sticks, branches, and leaves in this Jeta Grove, or burned them, or did what they liked with them, would you think: ‘People are carrying us off or burning us or doing what they like with us’?”
-- Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì nó không phải tự ngã hay không phải sở thuộc của ngã.
— “No, venerable sir. Why not? Because that is neither our self nor what belongs to our self.”
-- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ. Các Ông từ bỏ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, và cái gì không phải của các Ông? Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc. Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thọ... (như trên)... Chư Tỷ-kheo tưởng... (như trên)... Chư Tỷ-kheo, hành... Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức. Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
— “So too, bhikkhus, whatever is not yours, abandon it; when you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness for a long time. What is it that is not yours? Material form is not yours… Feeling is not yours… Perception is not yours… Formations are not yours… Consciousness is not yours. Abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness for a long time.
(Pháp khéo giảng)
(IN THIS DHAMMA)
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, lý tưởng đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được giải thoát nhờ chánh trí, vòng luân chuyển (sanh tử) của những vị này không thể chỉ bày.
42. “Bhikkhus, the Dhamma well proclaimed by me thus is clear, open, evident, and free of patchwork.271 In the Dhamma well proclaimed by me thus, which is clear, open, evident, and free of patchwork, there is no [future] round for manifestation in the case of those bhikkhus who are arahants with taints destroyed, who have lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, reached their own goal, destroyed the fetters of being, and are completely liberated through final knowledge.272
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, thì những vị này thành các vị hóa sanh, nhập diệt tại đây, không còn phải trở lui vào đời này nữa.
43. “Bhikkhus, the Dhamma well proclaimed by me thus is clear… free of patchwork. In the Dhamma well proclaimed by me thus, which is clear… free of patchwork, those bhikkhus who have abandoned the five lower fetters are all due to reappear spontaneously [in the Pure Abodes] and there attain final Nibbāna, without ever returning from that world.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vãi quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham sân si, thì tất cả những vị ấy thành bậc Nhất lai, chỉ đến đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau.
44. “Bhikkhus, the Dhamma well proclaimed by me thus is clear… free of patchwork. In the Dhamma well proclaimed by me thus, which is clear… free of patchwork, those bhikkhus who have abandoned three fetters and attenuated lust, hate, and delusion are all once-returners, returning once to this world to make an end of suffering.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vãi quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đoạn trừ ba kiết sử, thì tất cả những vị ấy trở thành bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc ác thú, quyết định hướng đến chánh giác.
45. “Bhikkhus, the Dhamma well proclaimed by me thus is clear… free of patchwork. In the Dhamma well proclaimed by me thus, which is clear… free of patchwork, those bhikkhus who have abandoned three fetters are all stream-enterers, no longer subject to perdition, [142] bound [for deliverance] and headed for enlightenment.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào là những vị tùy pháp hành, tùy tín hành, thì tất cả những vị này sẽ hướng về chánh giác.
46. “Bhikkhus, the Dhamma well proclaimed by me thus is clear… free of patchwork. In the Dhamma well proclaimed by me thus, which is clear… free of patchwork, those bhikkhus who are Dhamma-followers or faith-followers are all headed for enlightenment.273
Chư Tỷ-kheo, như vậy pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ khỏi các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị nào chỉ đủ lòng tin nơi Ta, chỉ đủ lòng thương mến đối với Ta, thì tất cả những vị ấy được hướng về chư Thiên.
47. “Bhikkhus, the Dhamma well proclaimed by me thus is clear, open, evident, and free of patchwork. In the Dhamma well proclaimed by me thus, which is clear, open, evident, and free of patchwork, those who have sufficient faith in me, sufficient love for me, are all headed for heaven.”274
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Những Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The bhikkhus were satisfied and delighted in the Blessed One’s words.



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hạnh phúc là điều có thật


Chuyện Vãng Sanh - Tập 3


Em Là Vì Sao Sáng


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.223.205.183 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (169 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học